Bạn đang xem trang 8 / 9 trang

Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Hai T2 26, 2007 12:28 am
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ

CHƯƠNG 66

GIANG HỒ QUEN THÓI









Họ Hosokawa thiên đến Edo, ở một tòa lâu đài đồ sộ, lũy cao hào sâu, xứng đáng là tư dinh của sứ quân một thời đã làm cho họ Tokugawa phải kính nể.
Nhưng Hosokawa Tadaoki, vị trưởng tộc, không ngụ tại lâu đài. Sau nhiều năm chinh chiến, ông muốn hưởng cuộc sống an nhàn tại cổ thành Osaka, nơi sinh quán, để uống trà làm thơ và chơi cây cảnh. Mọi quyền hành giao cho con trai trưởng, Tadatoshi nắm giữ. Hosokawa Tadatoshi tuổi mới ngoài hai mươi, đã chứng tỏ có tài cai trị khôn khéo và thích nghi với chính tình mới có phần hơn cả các bậc trưởng thượng từ xưa chỉ quen quy luật chiến tranh. Những chính sách khôn ngoan làm thay đổi bộ mặt lãnh địa, sở dĩ thực hiện được là nhờ sự cương quyết và nhìn xa của tân chủ soái, nhưng tất nhiên cũng phải kể đến công của các phụ tá kinh nghiệm và sáng suốt khuyến nghị.
Nagaoka Sado chính là một trong số các phụ tá tin cẩn ấy mà Tadaoki đã đích thân chọn lọc và chỉ định đến Edo làm tham vấn cho Tadatoshi.
Sáng hôm ấy, như thường lệ, ông sửa soạn đến tư dinh, bỗng gia nhân vào báo có kẻ muốn xin tham kiến. Thì ra là một tùy viên tên gọi Iwama Kakubei.
- Ngươi có việc gì ?
- Tiểu nhân muốn cầu một ân huệ, xin đại nhân giúp cho.
Sado nhướng mày ra ý hỏi.
- Đại nhân vẫn thường đàm đạo với thiếu gia. Nếu có dịp nào tiện, xin đề bạt cho một người.
Sado mỉm cười. Ở nhiệm vụ tham kiểm ông giữ, những kẻ thuộc quyền và thân hữu hay nhờ cậy ông giới thiệu kẻ này người nọ vào những chức vụ còn trống.
Nhưng thường ông rất ngại. Có người ông chưa biết rõ khả năng và đức độ, có người ông biết nhưng lại không thích hợp.
- Ai thế ? Ngươi biết rõ không hay lại chỉ là một gã phiêu lưu lo tìm công danh thì nhiều mà tinh thần phục vụ thì ít đấy ?
- Không. Gã này còn trẻ, bà con bên tiện nội, sinh quán ở Iwakuni tỉnh Suo, đến tá túc tại tệ xá đã hơn hai năm nay.
- Iwakuni ? Trước khi xảy ra trân Sekigahara, tỉnh Suo thuộc gia tộc Mitsuhiro cai trị.
Phải gã là kiếm sĩ của tộc đó chăng ?
- Bẩm không phải. Gã tên gọi Kojiro, cùng với Ito Yagoro là hai môn đồ nổi tiếng của danh kiếm Kanemaki Jisai. Gã có tài đặc biệt rút gươm nhanh cực kỳ, chém đứt cánh nhạn đang bay ...
Sado lắng tai. Viên cận vệ đem hết sở trường của người hắn nhờ đề bạt ra khoa trương:
nào chiêu trảm nhạn Kojiro thi triển ra sao, chiêu chiết liễu gã khổ công luyện tập thế nào, thao thao như người đích thân sử dụng những đường kiếm ấy vậy.
Tuy lắng tai, nhưng Sado không khỏi không liên tưởng đến một việc xảy ra trước đây hai năm tại một làng nhỏ vùng Hotengahara khi ông công du qua đấy.
Một nông dân đã một mình một kiếm giết hết bọn cướp từ trên núi đổ xuống vơ vét, sau đó lại tổ chức dân làng tự vệ chống cướp, hữu hiệu đến độ không một tên thảo khấu nào dám lai vãng quấy phá nữa. Kẻ thuật lại bảo người đó là một nông dân đần độn nhưng Sado không tin. Cho người đó phải là kẻ có tài, không muốn phô trương mà lại có óc thực tế, ông bèn đem chuyện thuật lại với Tadatoshi, nhưng không thấy chủ soái có lệnh gì đặc biệt nên sau đó cũng quên đi. Nay nghe Kakubei tán dương người bà con của hắn, ông hỏi thêm cho rõ:
- Kojiro có làm ruộng ở vùng Hotengahara bao giờ không ?
- Không. Tiểu nhân không nghe nói.
- Được rồi, để coi. Nếu có dịp, ta sẽ giúp.
oo Ở thao trường, Tadatoshi đang tranh tài với một số tùy tướng cùng lứa tuổi về môn bắn cung thì Sado bước vào. Nhìn tư thế và phong cách của thiếu chủ, ông không thể không khen thầm. Phong cách trang nghiêm, tư thế vững chãi, tay áo bào lụa đen vén cao để lộ những bắp thịt cuồn cuộn, mắt nhìn thẳng hồng tâm, chẳng trách tên bắn đi mười lần trúng cả mười. Có người bảo Tadatoshi quá chú trọng đến môn bắn cung là một môn không mấy thích hợp với thời đại của hỏa khí và trường thương thì Tadatoshi chỉ đáp vắn tắt:
“Tên của ta nhắm mục tiêu tinh thần”. Nhìn Tadatoshi luyện tập, Sado tiếc đã hứa giúp đề bạt người của Kakubei. Một lãnh tụ như Tadatoshi không dễ gì chấp nhận sự tầm thường.
Thấy Sado, vị tiểu lãnh chúa niềm nở:
- Kìa Sado tiên sinh ! Đến sớm thế ? Hay tiên sinh muốn thử tài với vãn sinh đấy ?
- Đâu dám ! Vả lão phu đã tự hứa chỉ so tài với những người đồng tuế.
- Tiên sinh hẳn chê vãn sinh còn con nít ?
- Không phải vậy. Sado nói chữa. Thiếu gia hiểu lầm rồi ! Lão phu đã già, lâu nay ít luyện tập, tranh tài với một trang thanh niên dũng nhuệ có kỹ thuật điêu luyện như thiếu gia thì sao gọi là công bằng được ?
Mọi người trong sảnh cười ha hả. Tadatoshi cũng cười, đoạn rửa tay chỉnh y phục, cùng Sado sánh bước vào hậu đình.
- Tiên sinh cần gặp vãn sinh có việc gì ?
- Cũng chẳng có việc gì quan trọng.
Đoạn, sau khi trình bày vài việc thông thường, Sado nói:
- Có người nhờ lão phu đề bạt lên thiếu gia một kiếm sĩ.
- Ai thế ?
- Hắn còn trẻ, tên Kojiro, người tỉnh Suo. Nghe nói có tài về kiếm thuật.
Đang lơ đãng nhìn ra xa, Tadatoshi quay lại chú ý:
- Kojiro ? Tên nghe quen quen. Tiên sinh biết gã không ?
- Lão phu không rõ lắm, nhưng là học trò của Kanemaki Jisai.
- Ý tiên sinh thế nào ? Sao không gọi đến thử ?
- Thiếu gia chọn người đã biết chúng ta không những chú trọng về võ thuật mà còn phải có đạo đức và kiến thức nữa.
- Đúng vậy, nhưng đừng bỏ lỡ dịp. Theo thiển ý, tiên sinh cứ cho triệu cả hai đến khảo sát xem sao.
- Cả hai ? Sao lại cả hai ? Còn ai nữa ?
- Thế tiên sinh quên rồi chăng ? Năm ngoái, vãn sinh có nghe kể câu chuyện một nông dân đuổi cướp ở vùng Hotengahara. Người đó xem ra cũng có tài đấy. Tên hắn là gì nhỉ ? Musashi Điền ...Miyamoto Musashi thì phải !
- Ồ, thế ra thiếu gia vẫn nhớ chuyện ấy !
- Nhớ chứ ! Chẳng biết bây giờ hắn còn ở Hotengahara không ?
- Lão phu cũng không rõ. Thấy thiếu gia không hỏi gì đến, tưởng ngài không quan tâm.
- Để một nhân vật như vậy lọt vào tay kẻ khác mà không xét thì uổng lắm.
- Lỗi tại lão phu. Nhiều người cầu cạnh quá, lão phu chẳng muốn làm thiếu gia bận lòng.
- Đa tạ tiên sinh. Vãn sinh bận thật nhưng bỏ qua là bỏ qua những chuyện khác kia chứ người nào tiên sinh đã để mắt tới, sao vãn sinh lại không lưu ý được. Xin xét việc này ngay cho.
oo Tảng sáng hôm sau, Sado lên đường cùng với một tùy viên nhắm hướng Hotengahara thẳng tiến.
Ngày đi đêm nghỉ, đến nơi, chiều đã xế. Đồng Hotengahara bây giờ khác lạ. Trước kia đìu hiu hoang vắng là thế, nay xanh ngắt những ruộng kê non thoai thoải xếp thành bậc trên sườn đồi. Lại có chỗ giồng đậu, giồng bắp. Con suối sau khu rừng thưa đã được be lại, chia thành nhiều nhánh chảy vào các chỗ trũng tạo nên các hồ nhỏ điều hòa mực nước để từ đó dẫn vào tưới các ruộng kê.
Một con chim sơn ca thấy động vụt lên cao, tiếng hót lảnh lót. Cảnh thanh bình, sung túc như hiện ra trước mắt. Sado ngạc nhiên nói với người tùy tùng:
- Hotengahara là đây đấy ư ? Hơn hai năm trước, vùng này còn là hoang địa, ta đi qua chỉ thấy lau sậy, có đâu được như thế này !
Theo đường mòn dẫn đến chân núi Hitachi, cả hai vừa cho ngựa đi bước một vừa ngắm cảnh. Tuy một đôi chỗ chưa khai phá hết, cây mục còn rải rác trên nền cỏ dại, nhưng nói chung toàn vùng hiển nhiên đang trên đà phát triển. Xa xa, một đám nông phu vác cào, cuốc đứng tụ tập trước một căn lều.
Người tùy viên bỗng thốt lên như để lưu ý Sado:
- Đại nhân ! Ngài có thấy gì không ?
Sado nheo mắt, lấy tay che ánh nắng chiều chênh chếch:
- Hình như có toán nông phu đang hành lễ trước một căn miếu thì phải ...
- Dạ đúng. Tiểu nhân cũng thấy thế.
- Mình lại coi, nhân thể hỏi thăm tin tức. Ta biết gần đây có ngôi đền, tới tạm trú qua đêm được.
Bèn lỏng cương cho ngựa thong dong bước. Đến nơi, thấy khoảng hai chục nông dân vừa lễ xong, đứng trước một ngôi miếu nhỏ bằng gỗ mới dựng trên một cái gò cao.
Sau miếu là căn lều cũ đã được sửa sang lại. Miếu nhỏ quá, cửa miếu chỉ rộng bằng mặt chiếc bàn con, một người chui không lọt. Bên trong có pho tượng Bồ tát Quán Thế Âm đặt trên một cái kỷ với những đồ tế tự.
Toán nông phu dường như vừa thăm ruộng về, nông cụ đã được rửa sạch sẽ và đang sửa soạn lục tục rời khỏi nơi hành lễ.
Sado sai tùy viên gọi một gã nông phu còn trẻ lại hỏi. Anh ta ngần ngại bước tới.
- Miếu này thờ ai vậy ?
- Musashi đại hiệp.
- Ủa ! Phải Miyamoto Musashi chăng ?
- Phải. Musashi đại hiệp là đại ân nhân của chúng tôi. Các ngài là ai ?
- Chúng ta là những người trong dinh Hosokawa muốn gặp đại hiệp. Phải chăng...
phải chăng đại hiệp đã ... quy tiên ?
- Không biết. Musashi đại hiệp trước ở căn nhà này nhưng nay không còn ở đây nữa.
Thấy có khách lạ hỏi thăm, những nông dân khác xúm đến vây quanh, ồn ào mỗi người một câu nghe không rõ gì cả. Một nông phu phải bước ra, đỡ lời cả toán:
- Musashi đại hiệp trước ở đây với một đồ đệ. Ngài là thiên sứ giúp chúng tôi đánh đuổi bọn sơn quỷ, lại còn chỉ bảo chúng tôi cách ngăn nước, lấy nước vào ruộng.
Khi thành công, chúng tôi đến tạ Ơn thì ngài đã về trời, nên lập miếu này thờ ngài và nhớ ơn ngài chỉ dạy.
Sado bước xuống ngựa, tần ngần nhìn gian lều cỏ cùng ngôi miếu con.
Ông hối tiếc đã chậm trễ, để lỡ cơ hội chiêu dụ một người tài đức về cho soái chủ. Ông quay bảo tùy viên:
- Musashi là một Ronin. Ta không biết mặt và cũng không rõ thân thế, nhưng ta tin đấy là một người mà tài năng và kiến thức ít ai bì kịp. Lại không ham danh lợi. Uổng quá !
Nhưng ông vẫn còn chút hy vọng. Quay sang người nông phu già, ông hỏi:
- Từ đây đến thiền viện Toku đi đường nào tiện ?
- Ngài cứ theo đường mòn này, qua suối rẽ trái một thôi thì đến.
- Cư sĩ Tuệ Tĩnh còn trụ trì ở viện không ?
- Dạ còn. Ngài bây giờ là chỉ đạo của cả khu này. Phải rồi, nếu các vị cần biết rõ thêm điều gì nữa thì cứ đến đấy mà hỏi.
- Cảm ơn lão trượng.
Nói xong, Sado và tùy viên lên ngựa. Toán nông dân cũng dần dần giải tán.
oo Nghe tin khách quý từ Edo đến, viện chủ Tuệ Tĩnh lật đật bước ra nghênh tiếp.
Hàn huyên xong, hỏi về lý do cuộc thăm viếng bất ngờ, Sado đáp:
- Đệ muốn thăm tin tức của Miyamoto Musashi trước làm ruộng ở vùng này. Hỏi nông dân quanh đây, họ cho biết chỉ lão huynh mới rõ.
Tuệ Tĩnh buồn bã gật đầu:
- Musashi bỏ đi đã non nửa năm nay, ngay sau khi thu hoạch vụ kê thứ hai. Thật là một vị anh hùng, kiên trì và cương quyết. Không nhờ Musashi đại hiệp thì xóm tiều đã tan nát rồi mà cả vùng cũng không được thịnh vượng như thế này.
Rồi vị cư sĩ tóm tắt công trình của Musashi kể cho Sado nghe.
Sau khi đánh tan bọn sơn quỷ, Musashi tổ chức dân lành thành đoàn đội, đào hào, đắp lũy để tự vệ. Ngay năm ấy, dân làng còn phải chống chọi với hai bọn cướp khác nữa. Chết mất hai thanh niên, bị thương sáu người nhưng từ bấy giờ không tên cường khấu nào dám bén mảng tới xóm nữa. Nhưng đấy không phải là thành quả chính.
Điều quan trọng là Musashi đã gây cho dân làng lòng tự tin ở sức mình để tự cường và tự túc. Chính Musashi đã hô hào mọi người kết đoàn gom sức đắp bờ, be suối để phòng lụt và dẫn nước vào ruộng cho nên mới được như ngày nay. Năm đầu thu hoạch được một số kê, bắp khá; măn sau số thu hoạch tăng gấp đôi. Dân xóm mừng rỡ mở hội, mang đến tặng Musashi mười hũ rượu, ngũ cốc và dê, gà nhưng Musashi không nhận, tặng lại dân làng để dùng vào bữa tiệc. Chưa bao giờ xóm tiều lại có những ngày vui như thế.
- Họ cử lão tới tạ Ơn Musashi đại hiệp. Đại hiệp có nói sự thành công này do tinh thần kết đoàn và lòng quyết tâm của dân xóm chứ ông không có công gì, lại tặng lại dân xóm pho tượng Quan Thế Âm do ông điêu khắc những khi nhàn rỗi.
Mấy hôm sau, lão lại đến cùng với một số chức sắc, chủ ý rước đại hiệp tới ở hẳn trong xóm tại một căn nhà đã được thu xếp tươm tất trước, nhưng đến nơi thì Musashi đại hiệp đã đi rồi. Căn lều bỏ trống.
Mất mấy hôm dân chúng buồn rầu chẳng thiết làm ăn gì cả. Lão phải giải thích, khuyên họ chớ nên sao nhãng công việc thường nhật vì như thế trái với lời dặn của Musashi đại hiệp. Họ có lập căn miếu nhỏ, đặt pho tượng Quan Thế Âm trong đó và ngày hai lần, lúc đi làm cũng như lúc trở về, đến khấu đầu làm lễ tỏ lòng nhớ ơn ân nhân.
Nghe xong, Sado mơ màng nhìn ra xa. Ông mường tượng bóng người hiệp sĩ chưa hề quen biết, lòng ngẩn ngơ hối tiếc:
“Ta đã không tròn bổn phận với chủ soái. Biết bao giờ mới lại gặp được một người như thế ?” oo Hữu ngạn sông Sumida, trên ngã ba đường liên tỉnh dẫn đến Edo, người ta mới dựng một trạm canh thật lớn. Cổng cao, hai cánh bằng gỗ kiên cố chắn ngang đường, lính biên phòng ngày đêm thay nhau canh giữ và tuần tiễu suốt từ bờ sông đến chân núi.
Musashi cùng đồ đệ đứng trong hàng chờ lính tuần kiểm soát. Ba năm trước, hắn cũng đã ghé qua đây, không gặp điều gì khó khăn nhưng tình thế mỗi ngày một tồi tệ hơn. Nhà cửa dựng thêm nhiều nhưng cái không khí thanh bình bây giờ không còn nữa.
- Anh kia ! Đến lượt anh ! Bước lại đây !
Musashi tiến lại, giơ cao hai tay cho hai người lính tuần lực lưỡng, mặc quần da đi dép cỏ, lục soát.
- Vào thành làm gì ?
- Chẳng có chủ đích gì nhất định.
- Không có chủ đích gì ? Ngươi định nói đùa chăng ?
- Ô hay ! Thì ta là kẻ Giang hồ nay đây mai đó, đến hay đi làm gì có chủ đích !
- Nói láo. Ai làm gì mà không có chủ đích. Hay là kẻ gian đấy ?
- Nếu vậy cứ cho là ta vào thành để cầu học cũng được.
Người lính lặng thinh, giở một quyển sổ lớn ra rồi vừa hỏi vừa ghi chép:
- Tên gì ? Bao nhiêu tuổi ? Sinh quán ở đâu ?
- Musashi, hăm chín tuổi, sinh quán làng Miyamoto, tỉnh Mimasaka.
- Sư phụ là ai ?
- Không có sư phụ.
- Ai cho tiền ngươi đi đây đó ?
- Ta ăn nhờ ngủ đậu tại các đền chùa, đôi khi bạn bè giúp đỡ chút đỉnh. Cũng có lúc trồng trọt sinh nhai.
Ngẫm nghĩ một lát, người lính lại hỏi:
- Đến thành ở nhà ai ?
- Chưa biết. Chưa có địa chỉ nhất định.
- Vào thành phải khai chỗ trú ngụ. Không chỗ trú ngụ không được vào.
Musashi nghĩ nếu cứ khai thật thì không bao giờ xong cuộc tra vấn cù nhầy này. Bèn nói đại:
- Ta ngụ Ở dinh Yagyu đại nhân, trong phủ.
Yagyu đại nhân chẳng ai khác, chính là Yagyu Munenori, trưởng nam Yagyu Muneyoshi. Ngưỡng mộ tài học và kiếm thuật nhà Yagyu, lãnh chúa Tokugawa Ieyasu cử Yagyu Munenori vào giữ chức trung quân tham vấn trưởng và khi đặt bản doanh mới tại Edo, lại dành riêng một khu để làm tư dinh cho nhà Yagyu.
Để tránh một cuộc tra xét kéo dài, bất đắc dĩ Musashi phải quyền biến nhắc đến tên Yagyu Munenori, hy vọng vị này biết đến hắn qua sự giới thiệu của thiền sư Takuan.
Quả nhiên khi nghe danh Yagyu, người lính há hốc mồm. Tính danh đó hầu như có ma lực làm người lính sợ hãi. Gã đổi giọng lễ phép:
- Sao đại hiệp không nói trước ? Nếu biết đại hiệp có liên hệ với Yagyu đại nhân, kẻ nô tài này đâu dám xét hỏi.
Người lính kia cũng đỡ lời:
- Bây giờ gian tế trà trộn trong dân chúng nhiều không kể xiết. Lệnh trên ban xuống là phải xét hỏi kỹ những kẻ Giang hồ, xin đại hiệp bỏ qua cho.
Musashi mỉm cười gật đầu cám ơn rồi ung dung dắt tay đồ đệ qua cổng hướng về phía bến đò. Sannosuke hỏi:
- Sao họ đặc biệt khám xét kỹ những kiếm khách như chúng ta vậy thầy ?
- Họ sợ gian tế.
- Ngốc quá ! Gian tế dại gì ăn mặc như kiếm khách. Cứ mặc như nông phu hay thường dân khác, ai biết !
- Nói khẽ chứ ! Phải giữ mồm miệng. Chỗ này chẳng phải vùng Hotengahara đâu.
- Làm ta lỡ chuyến đò.
- Lỡ đò thì đợi chuyến sau, càng có thì giờ ngoạn cảnh núi Phú Sĩ.
- Ở Hotengahara cũng ngắm được núi Phú Sĩ, cứ gì ở đây !
- Ở đây khác. Núi Phú Sĩ thay đổi theo giờ, theo mùa, theo thời tiết, lại theo chỗ người đứng ngắm nữa. Nó còn đổi khác theo tâm trạng người đứng ngắm.
Sannosuke lơ đãng nghe. Nó đâu có lưu tâm gì đến núi Phú Sĩ nên chẳng hỏi tại sao. Nó chỉ mong chóng vào thành, đến ở nhà Yagyu đại nhân như lời thầy nó nói với người lính.
- Tối nay ta đến nhà Yagyu đại nhân thật hả thầy ?
- Để ta xem đã.
- Nãy thầy nói vậy mà ?
- Ừ, nhưng không phải giản dị như thế. Yagyu đại nhân giữ chức vụ rất lớn cạnh lãnh chúa đương nhiệm, gần như một vị đại thần trong cung, phải có giới thiệu mới được.
- Chắc ông ấy uy nghi, oai vệ lắm ! Lớn lên con cũng muốn được như thế !
- Uy nghi, oai vệ ?
- Dạ, uy nghi như ông ấy.
- Sao con nhắm thấp thế ?
Sannosuke nhíu mày ngước nhìn thầy:
- Con không hiểu.
- Con hãy trông núi Phú Sĩ. Núi Phú Sĩ có uy nghi không ?
- Người ta so sánh với núi sao được ?
- Núi Phú Sĩ tuy uy nghi, oai hùng, bất di bất dịch nhưng vẫn giữ yên lặng. Con muốn trở nên một người phi thường sau này, tốt lắm. Nhưng hãy giữ yên lặng như núi.
Con làm nên việc phi thường, tự nhiên sẽ được nể trọng thật sự, không phải giữ chức vụ cao mới được nể trọng.
Những lời Musashi chưa kịp thấm vào bộ Óc non nớt của thằng bé, thì tiếng ồn ào của chuyến đò ngang đã tới. Sannosuke vui mừng chạy xuống bến.
Sông Sumida ở khúc này có nhiều điểm trái ngược:
chỉ trong một quãng ngắn, chỗ rộng chỗ hẹp, chỗ sâu chỗ nông. Khi nước lên, sóng đục ngầu dào dạt vỗ vào bờ. Khi nước xuống, dòng sông trong leo lẻo. Bến đò ở đầu một cái vụng nhỏ đá chờm ra ngoài.
Trời xanh, nước trong vắt. Ngồi bên mạn thuyền, Sannosuke nhìn đáy sông thấy lờ mờ hình chiếc mũ sắt đã han rỉ. Tiếng khách quá giang ồn ào nó chẳng để ý, mải nhìn đàn cá nhỏ lội tung tăng vẩy trắng óng ánh như bạc.
Musashi đảo mắt nhìn quanh. Con đò hầu mang đủ hạng người của đủ thành phần trong xã hội:
một người thợ mộc, bàn tay với những đốt to lớn giữ khư khư túi đồ nghề trong bọc; hai mã phu quần áo nhớp nhúa, nét mặt nhăn nhúm như trái táo phơi khô; ba ả kỹ nữ phấn son loè loẹt; một du tăng nón tu lờ che kín mặt, nhắm mắt ngồi tham thiền trong góc; một kiếm khách lang thang cũng như hắn, quần áo bạc phếch và bốn năm gã trai tráng có vẻ phu khuân vác, ngồi đứng hỗn độn, trò chuyện, chửi thề oang oang.
Đò cập bến, bọn họ tranh nhau lên, xô đẩy đám phụ nữ kêu om sòm. Chờ cho khách quá giang đi đã vãn, thầy trò Musashi mới bỏ thuyền lên bờ. Được mấy bước, bỗng có tiếng người gọi giật:
- Tráng sĩ ! Tráng sĩ quên cái này !
Quay lại, thấy người kiếm khách đồng hành cầm một cái túi gấm đưa cho. Cái túi cũ đã rách miệng và những đường chỉ thêu viền bạc đã sờn nhiều chỗ. Musashi lắc đầu:
- Không phải của tại hạ. Chắc của người nào bỏ quên.
Bỗng Sannosuke chạy đến, giật ngay cái túi từ tay người khách lạ, nhét vào bọc rồi nói:
- Của tôi !
Khách nhìn thằng bé, trừng mắt:
- Tiểu tử này thật vô lễ. Muốn sống đưa nó lại cho ta rồi khấu đầu xin lỗi ba lần, ta sẽ trả.
Sannosuke trề môi thè lưỡi chế nhạo. Khách nắm áo nó định làm dữ, nhưng Musashi vội giơ tay ngăn lại, xin lỗi về sự lỗ mãng ấy của nó, lấy cớ con trẻ còn dại, xin khách bỏ qua cho.
Người kia quay nhìn hắn khinh bỉ:
- Ngươi tên gì ? Liên hệ gì với thằng bé này ? Chú hay anh nó ?
- Tại hạ là Miyamoto Musashi, sư phụ thằng bé này.
Người kia nhíu lông mày, nhìn Musashi một chặp, đoạn bảo Sannosuke:
- Liệu hồn ! Lần sau đừng trách.
Rồi lập tức quay gót bỏ đi.
- Khoan ! Musashi gọi. Xin cho tại hạ hỏi một điều.
Lời lẽ ôn hoà cùng dáng điềm tĩnh của hắn khiến người kia đứng sững, e ngại, tay để vào đốc kiếm.
- Ngươi muốn gì ?
- Các hạ cho biết quý danh.
- Can dự gì đến ngươi ?
- Tại hạ đã nói tên khi các hạ hỏi đến. Dĩ nhiên tại hạ cũng phải được quyền biết danh tính người đã hỏi.
Người kia lại trừng mắt nhìn Musashi từ đầu đến chân, rồi không biết nghĩ sao, đáp:
- Ta là Juro Yajibei.
Musashi gật đầu:
- Tốt lắm. Giờ các hạ đi được rồi !
- Ta sẽ không quên cuộc gặp gỡ này.
Nói xong khách bỏ đi không quay lại.
Sannosuke thở phào. Nó nhìn sư phụ với ánh mắt thán phục. Musashi bảo:
- Sannosuke ! Sống ở thành phố khác với sống ở thôn quê. Ở thôn quê, ta làm bạn với cầy cáo; ở đây, xung quanh ta có nhiều người. Con phải để ý cách cư xử cho có lễ độ.
- Thưa thầy vâng.
- Nếu mọi người biết sống hoà hợp với nhau thì mặt đất này là tiên cảnh. Người ta ai cũng có phần xấu phần tốt, không biết kềm chế để phần xấu lộ ra làm hại kẻ khác thì mặt đất này là địa ngục. Lễ độ không phải là giả dối đâu, nó giúp ta loại bỏ những hành động xấu, không hợp với xã hội, để mọi người sống hòa đồng với nhau. Con hiểu rõ chưa?
Sannosuke gật. Musashi lại tiếp:
- Xã hội nào cũng được tổ chức nhằm mục đích duy trì sự hòa đồng ấy. Hành động của con vừa rồi thật đáng trách. Chuyện nhỏ, nhưng suýt nữa thành lớn. Chúng ta chưa biết rồi đây sẽ đi đâu, nhưng bất kỳ đi đâu, con cũng phải tỏ ra có lễ độ và tôn trọng người xung quanh.
Sannosuke lí nhí một lời xin lỗi. Nó rút cái túi gấm ra đưa cho Musashi:
- Thầy giữ hộ con. Con giữ sợ mất.
- Túi này cha con để lại phải không ?
- Vâng.
Musashi nhớ đến công đồ đệ. Nhờ những kỷ vật trong túi này mà hắn đã qua được mùa mưa lụt đầu tiên tại đồng hoang Hotengahara. Những năm sau, trồng cấy có kết quả hơn, Sannosuke đã chuộc lại được cái túi. Hắn chắc tiền bán con ngựa trước khi ra đi, thằng bé cũng đã gom cả vào đây. Giao cái túi cho hắn giữ, Musashi biết đồ đệ tin mình lắm. Hắn chỉ phiền không có khả năng giữ tiền, nhưng vẫn mỉm cười bảo thằng bé:
- Cũng được, để ta giữ cho. Nhưng khi nào tiêu việc gì, con tự quyết định lấy. Tối nay con thích ngủ ở đâu ?
- Nếu không đến nhà Yagyu đại nhân được thì ta tìm cái quán nào trọ tạm chứ !
Sannosuke nhìn cảnh vật xung quanh thấy cái gì cũng khác lạ. Khu này thuộc về phía bắc ngoại thành Edo. Một cái chợ ngựa quy tụ hàng trăm con đủ giống và màu sắc thường xuyên họp ở đây. Lái buôn, mã phu tấp nập ra vào, ngựa hí vang rần. Kẻ mua người bán điều đình giá cả trong những quán trà, quán rượu hoặc quán ăn dựng la liệt xung quanh chợ. Họ đập tay vào nhau, dùng những tiếng lóng và thổ ngữ nếu không phải tay nghề thì khó mà hiểu.
Một người tuổi trạc trung niên cao lớn, dáng mạnh mẽ, râu quai nón rậm tới mang tai, mặc trang phục kiếm sĩ, cùng đi với hai gia nhân, len lỏi, xem xét hàng chục con ngựa. Gã chỉ trỏ, vạch khuyết điểm của từng con rồi kết luận:
- Về thôi. Hôm nay chẳng có con nào khá. Họ bán lừa chứ ngựa gì mà tồi thế. Mua loại này về để tập luyện sao được !
Ra đến cổng chợ, kiếm sĩ mua ngựa vô ý suýt đụng phải thầy trò Musashi.
Vừa định ngỏ lời xin lỗi, bỗng gã khựng lại, ngạc nhiên lùi mấy bước:
- Ủa, Miyamoto Musashi ! Phải Miyamoto Musashi đó không ?
Musashi cũng nhìn gã, rồi kêu lớn:
- Kimura !
Quả người đó là Kimura Sukekuro. Mặc dầu hắn và Kimura đã trực tiếp so gươm ở đại lâu viên trong Nhà Yagyu sáu bảy năm trước nhưng Kimura tỏ ra không mang một chút hiềm thù gì. Lại còn có vẻ thân thiện nữa.
- Không ngờ gặp đại hiệp ở đây. Đại hiệp tới Edo lâu chưa ?
- Tại hạ mới từ Shimosa đến. Lão nhân gia vẫn được bình yên chứ ?
- Bình yên. Nhưng ở tuổi đó cũng chưa biết thế nào. Xấp xỉ cửu tuần rồi còn gì !
Đại hiệp đã định trọ đâu chưa ?
- Chưa. Tại hạ cũng còn đang tìm ...
- Còn tại hạ thì ở ngay trong dinh Yagyu đại nhân. Nếu có dịp, xin mời đại hiệp đến thăm, tại hạ rất hân hạnh được giới thiệu đại hiệp.
Rồi ghé tai Musashi, Kimura nói nhỏ:
- Còn chuyện nữa. Một bảo vật rất quý thuộc quyền đại hiệp đấy.
Gã mỉm cười bí mật:
- Đừng quên đến, càng sớm càng tốt.
Nói đoạn, cùng với gia nhân nhảy lên ngựa phóng đi mất.





Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Hai T2 26, 2007 12:29 am
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ

CHƯƠNG 67

MA TÂM PHÁP











Lữ quán Mã Đề thật xứng với tên gọi, vì có một dãy chuồng ngựa lớp xếp theo hình vòng cung, dựng lên để mã phu mang ngựa đến. Quán chia làm hai tầng ngăn thành nhiều phòng nhỏ, mỗi phòng trải được hai chiếu. So với dãy chuồng ngựa lớn vây quanh, nơi để khách trọ Ở chẳng khác gì một căn nhà phụ, nhưng được cái rẻ tiền.
Thày trò Musashi chọn lữ quán này để trọ cũng vì lý do ấy. Vả lại, nếu đem so sánh với căn lều cỏ tại Hotengahara, quán này cũng còn sang chán ! Sau ba năm ở đồng hoang, quán nào đối với thầy trò hắn cũng tốt, dù đó chỉ là một lữ quán rẻ tiền, dành cho bọn mã phu và dân thợ.
Một người làm công dáng thô kệch chỉ Musashi tới một căn phòng cuối dãy. Căn phòng trông ra hướng tây năm, nắng chiều gay gắt rọi qua khung cửa sổ trần mở rộng khiến không khí trong phòng oi bức khó chịu. Thấy có người vào, đàn ruồi trâu đồng loạt cất cánh bay lên, vo ve, đan đi đan lại loang loáng dưới tia nắng.
Musashi cau mặt. Vài ngày trước, có lẽ hắn không thấy khó chịu như thế, vì nắng ấm khiến kê, lúa chóng chín. Ở ngoài ruộng rộng rãi, sau mỗi cơn gió nhẹ, nắng có vẻ ấm ấp hơn. Ngay cả những con ruồi cũng vậy. Khi hắn cuốc đất khó nhọc, mồ hôi đổ đầy mình, nếu có con ruồi nào đậu lên đầu lên cổ, hắn cũng chỉ nhẹ nhàng xua đi, coi như là những sinh vật làm công việc kiếm ăn hàng ngày mà thôi. Như hắn. Thế mà chỉ cách một vài ngày đường, qua mấy khúc sông vào trong sự náo nhiệt của đô thị, lòng con người đã đổi khác. Musashi ngồi xuống chiếu, bên chiếc bàn thấp thô sơ, quên những điều bực dọc nhỏ nhặt để giữ lòng bình thản.
Đồ đệ hắn xếp gọn hành trang rồi ra đóng cửa sổ. Nhưng xem chừng cũng không kết quả. Không khí trong phòng càng ngột ngạt hơn.
- Hay để con gọi chủ đổi cho phòng khác ?
Musashi gật đầu. Sannosuke đi ra, lát sau dẫn vào một phụ nữ trạc trung niên, ăn mặc chải chuốt, dáng chững chạc có vẻ như là quản lý. Mụ đảo mắt nhìn quanh rồi bảo:
- Nếu không bằng lòng phòng này thì khách quan lên lầu hai, mát và đỡ ruồi hơn.
Lầu hai không đỡ ruồi nhưng quả có mát hơn đôi chút. Sau khi xếp dọn xong hành lý, Sannosuke cảm thấy đói bụng. Mùi thức ăn từ phòng bên bay sang càng khiến ruột nó cồn cào. Nó hít hà:
- Hình như bên kia đang ăn mì nấu. Hay ta cũng gọi mì ăn hả thầy ?
Musashi mỉm cười gật đầu. Sannosuke vui mừng chạy ngay xuống lầu. Ở thôn quê, muốn ăn mì người ta gieo hạt ngay từ đầu xuân. Khi hạt nảy mầm, phải cào cỏ, tưới nước, bón xới để mùa hạ trổ bông, mùa khô gặt về phơi khô đập lấy hạt, xay thành bột rồi mới làm ra sợi mì. Ở đây dễ quá, chỉ việc vỗ tay gọi người hầu đến là có mì ăn. Thành ra dân kẻ chợ nhiều người chẳng biết cây lúa mì nó thế nào và chắc cũng chẳng mấy ai lưu tâm đến công khó nhọc của người nông dân trồng ra nó.
Musashi đưa tay lên chiếc kỷ thấp, ngồi ngó mông lung. Tiếng ồn ào của phiên chợ đã vãn. Bên kia đường, người đi lại cũng bớt tấp nập. Bỗng một bảng gỗ mộc, trên viết hàng chữ đen nhánh:
“Ma tâm pháp – Zushino Kosuke đảm trách mài giũa theo phương pháp chân truyền của nhà Honami”, làm hắn chú ý. Phương pháp của nhà Honami là phương pháp gì ? Người họ Honami độc nhất hắn biết là Honami Koetsu. Nghĩ đến Koetsu, hắn nhớ ngay tới nhà luyện kiếm kiêm nghệ sĩ tài hoa này với bà lão mẫu tại ngõ Honami hắn đã tá túc khi còn ở Cổ thành.
Sannosuke cũng vừa trở lại, đến ngồi bên sư phụ. Trông sang bên kia đường, thấy tấm bảng, nó tỏ vẻ không hiểu:
- Họ quảng cáo bán gì thế hả thầy ?
- Ta không rõ, nhưng đoán có lẽ họ mài kiếm theo một phương pháp riêng do họ Honami truyền lại. Ma tâm là mài giũa tinh thần. Nếu coi kiếm là tinh hoa của võ thuật thì mài kiếm cho sắc cũng như luyện cho tinh thần linh mẫn. Chắc họ quảng cáo mài kiếm đấy thôi. Để xem, có dịp ta sẽ sang đấy. Nếu quả đúng, ta đưa họ chuốt lại lưỡi kiếm của ta luôn thể.
Món mì nấu chờ mãi chưa thấy mang lên. May nhờ có gió nhẹ, trời cũng đỡ nóng.
Musashi thiu thiu ngủ, nhưng những tiếng cười nói ồn ào ở phòng bên đột nhiên làm hắn tỉnh giấc. Hắn bảo tiểu đồ:
- Sannosuke ! Sang bảo họ bớt làm ồn để ta ngủ một chút.
Sannosuke vừa kéo cửa bước vào, tiếng cười nói bỗng im bặt. Bốn người đang quây quần bên khay rượu quay mặt ra nhìn thằng bé, người nào cũng râu ria xồm xoàm, dáng dấp thô lỗ.
- Các bác hãy nói nho nhỏ, để thầy tôi ngủ.
- Cái gì ? Mày nói cái gì, thằng tiểu quỷ ?
Bị gọi một cách xấc xược là tiểu quỷ, Sannosuke tức giận:
- Ai là tiểu quỷ ? Chúng tôi thuê phòng để được yên tĩnh, các bác làm rộn như vậy, không để ai nghỉ ngơi gì hay sao ?
- Mày nói vậy hay thầy mày bảo mày sang đây nói vậy ?
- Thầy tôi bảo.
Cả bọn cười hô hố. Một gã to lớn cất giọng khinh bỉ:
- Thế hả ! Vậy mày về bảo với thầy mày đợi đấy, ta là Kumagoro đại ca sẽ trả lời sau. Hay muốn ăn roi ngựa thì bảo ! (Kumagoro là cái roi ngựa)
Nhìn dáng điệu dữ dằn của cả bọn, Sannosuke ngại không dám đứng lâu, lùi ra ngoài, lủi thủi về phòng. Bài học lễ độ Musashi dạy nó trên bến sông Sumida xem chừng không phải người nào cũng biết. Phòng thầy trò Musashi và phòng của bốn gã kia chỉ được phân cách bằng một bức vách mỏng. Tiếng cười nhạo báng và những lời khích bác tục tằn vang đến Musashi nghe rõ mồn một.
- Thằng ấy tên gì, tao quên không hỏi, nhưng ai thì cũng phải nể mặt chúng ông chứ ! Nó làm như quán này là nhà nó vậy !
- Phải cho nó biết tay.
- Dẫn nó ra sau nhà, đổ vào mồm nó vài gáo nước đái ngựa cho nó chừa thói hỗn láo đi.
- Ha ha ! Phải đấy ! Cho nó uống nước đái !
- Để tao. Tao sang trói nó lại bắt làm giấy xin lỗi rồi mang ra sau nhà. Thằng này !
Kiếm cái gì đựng nước đái trước đi nghe không !
Sannosuke cau mặt nhìn thầy như hỏi ý. Ba năm theo Musashi, nó đã được sư phụ dạy cho cách vận khí, luyện công, sử dụng quyền cước và kiếm thuật. Thủ pháp của nó đã tiến bộ nhiều, những chiêu kiếm phóng ra cũng chính xác hơn trước, nhưng vì tuổi còn nhỏ nên không đủ bình tĩnh. Vả lại chưa dịp nào so tài với một địch thủ thật sự nên nó e ngại. Sannosuke nhìn thầy chờ lệnh; Musashi chỉ đưa mắt mỉm cười không nói năng gì.
Hai bát mì với một hũ rượu nhỏ mới được mang tới đặt trên mặt kỷ còn nóng hổi.
Musashi khẽ bảo học trò:
- Ăn đi con. Ta thấy đói bụng lắm rồi !
Chưa kịp hết câu, cánh cửa đã xịch mở. Gã to lớn có tên là Kumagoro ở phòng bên khệnh khạng bước vào. Sannosuke nói khẽ:
- Nó đấy ...
Gã to lớn cười khềnh khệch.
- Chú kia ! Khoan ăn đã. Chú có biết ta là ai không ?
Musashi điềm tĩnh lấy đũa khều những sợi mì trong bát, làm như không để ý đến kẻ mới vào.
Kumagoro lại nói:
- Khoan hãy ăn. Đừng tưởng làm thế mà giấu được sự sợ hãi của ngươi, không qua mắt ta được đâu !
- Hả ? - Musashi vờ không hiểu, ngước lên - Ngươi là ai, đến có việc gì ?
- Chỉ những thằng ngu, hoặc vừa đui vừa điếc mới không nghe đại danh của ta mà thôi. Cả vùng này không ai không rõ ...
- Ta có hơi lãng tai. Ngươi hãy nói to chút nữa. Tên gì ? Ở đâu đến ?
- Hừ ! Thằng này muốn chết ! Đã thế thì trước khi chết, ta cũng cho ngươi biết tên để khỏi hối tiếc. Ta là Kumagoro đại ca, chuyên môi giới lừa ngựa. Khắp vùng Chichibu này ai cũng kiêng nể. Con nít thấy ta không dám hó hé.
Musashi cười khẩy:
- Vậy là lái ngựa rồi !
- Lại nói cho ngươi hay, ta cung cấp ngựa cho tướng phủ đó. Liệu hồn mỗi khi tiếp xúc với ta ...
- Tiếp xúc ? Tiếp xúc cái gì ?
- Sao ? Phải ngươi sai thằng nhỏ này sang quấy rầy chúng ta không ? Quán này đâu phải khách sạn. Muốn yên tĩnh thì ở nhà, chúng ta lái ngựa thích nói to, được không ?
Giọng Kumagoro hằn học, mặt gã đỏ gay, bóng loáng. Mấy giọt mồ hôi từ trên trán chảy ngoằn ngoèo xuống tận chân mày, gã giơ tay quệt rồi nghĩ sao, rút ngay dao găm cài bên sườn ra cầm lăm lẳm.
- Ngươi phải lập tức xin lỗi.
Musashi ngừng đũa, ngẩng nhìn Kumagoro, mặt đanh lại:
- Xin lỗi cái gì ?
- Xin lỗi đã làm rộn cuộc vui của anh em chúng ta !
- À ra thế ! Kumagoro, phải tên ngươi là Kumagoro không ? Hãy trông đây rồi cho biết ngươi làm được như thế này chăng.
Vừa hết câu, bỗng xoét một tiếng, Musashi thình lình rút đoản kiếm. Ánh thép loáng lên dưới tia nắng, ba vật đen lả tả rơi xuống chiếu. Chưa ai biết rõ là gì, Musashi đã tra kiếm vào vỏ nhanh trong chớp mắt. Trông kỹ những vật đen trên chiếu thì ra ba con ruồi trâu. Hắn thản nhiên bảo đồ đệ:
- Sannosuke ! Nhặt mấy con ruồi vất ra ngoài rồi lau chiếu cho sạch !
Kumagoro há hốc mồm. Chưa bao giờ gã thấy ai xuất thủ thần tốc như vậy. Kinh hãi cực kỳ, gã lui dần ra cửa.
Khi Sannosuke trở lại, phòng bên chỉ còn nghe vài tiếng thì thào khe khẽ. Lát sau yên lặng như tờ, có lẽ bọn lái ngựa đã rút đi cả. Hai thầy trò cười thỏa mãn, ăn xong mì thì trời vừa tối. Trăng thượng tuần lấp ló sau những mái nhà mới lợp đơn sơ. Đâu đây vài tiếng ngựa dậm chân đuổi muỗi và hí nho nhỏ.
Musashi nói:
- Ta sang nhà bên kia xem có đúng là xưởng mài kiếm không, ở nhà đóng cửa lại, kẻ tiểu tâm hay thù vặt, nên cẩn thận đề phòng.
Đoạn, xốc áo xách kiếm ra đi. Nửa thang gác, gặp mụ quản lý hối hả bước lên:
- Khách quan phải là Miyamoto Musashi ở Miyamoto chăng ?
- Chính thị !
- Vậy có thư đây !
Cầm cuốn thư, định bật niêm, hắn bỗng sực nhớ, hỏi:
- Người mang thư còn đấy không ?
- Không, đi rồi.
Ngạc nhiên không hiểu ai đã biết chỗ trọ của mình sớm thế, Musashi muốn hỏi thêm nhưng nghĩ chẳng ích gì, lại thôi. Hẳn cảm ơn mụ quản lý rồi trở lại phòng mở thư ra đọc. Thì ra của Kimura. “Yagyu tướng công rất vui mừng khi được tin các hạ đến Edo. Ngài ủy cho tại hạ viết thư này ân cần mời các hạ vào dinh hội kiến. Xin chớ để ngài thất vọng”.
Không do dự, Musashi gọi lấy giấy bút phúc đáp ngay, đại ý nỏi rất cảm kích vì sự lân ái của Yagyu và sẽ đến bái kiến nếu được nhà danh kiếm này đích thân chỉ dẫn cho một vài tuyệt kỹ. Để tránh ngộ nhận, hắn giải thích:
“Tại hạ bôn tẩu Giang hồ cốt cầu học. Nếu không được mở đường chỉ lối cho, thì đâu dám bận đến các vị tiền bối”.
Viết xong, gọi Sannosuke đến:
- Ta nhờ con đưa thư này cho một người tên Kimura ở phủ Yagyu. Đường đi ta không rõ lắm, nhưng hẳn không xa. Con là đứa trẻ tháo vát, chắc làm được. Phủ Yagyu tất nhiều người biết.
Được sư phụ giao phó trách nhiệm, Sannosuke hãnh diện:
- Con làm được. Thầy cứ tin ở con.
Đoạn mặc áo, xỏ dép, hăng hái theo Musashi ra ngoài.
oo Căn nhà gỗ của Zushino Kosuke không có vẻ gì là một xưởng mài kiếm. Mặt tiền cũng không phải là một cửa hàng nữa, vì ngoài cái bảng gỗ quảng cáo ra, không thấy có chỗ nào trưng bày bất cứ cái gì cả. Mà cái bảng quảng cáo đề chữ “Ma tâm pháp” càng bí hiểm nữa, khiến ai muốn đoán và hiểu thế nào cũng được.
Musashi bước vào. Căn nhà vắng teo. Một cái bình phong che sơ sài gian ngoài cho thấy bên trong là một phòng hẹp, hơi tối. Bên trái có hành lang chạy hun hút sâu đến đâu không rõ. Trong phòng kê một chiếc tủ thấp, trên sàn trải chiếu và trên chiếu một người nửa ngồi nửa nằm, mặt hơi nghiêng ra phía ngoài, đầu gối lên một cái tráp.
Musashi nhìn người đó, không đoán được bao nhiêu tuổi và cũng không biết được là gã đang làm gì, ngủ hay tĩnh tọa. Ngọn đèn leo lét để trên tủ chiếu ánh sáng lờ mờ trên khuôn mặt vàng bủng khiến sắc diện gã bềnh bệch như đất sét. Trông gã, Musashi liên tưởng đến hình một đạo sĩ vẽ trong những bức cổ họa.
Hắn hắng giọng. Người kia dường ngủ say, chẳng có phản ứng gì. Hắn gọi to hơn:
- Chủ nhân ! Chủ nhân !
Bấy giờ mới thấy người kia từ từ quay đầu ra, như có vẻ cố gắng lắm mới thoát khỏi giấc mộng dài hàng thế kỷ. Gã lấy tay chùi nước dãi bên mép, đoạn thong thả ngồi dậy ngước nhìn Musashi:
- Khách muốn điều gì ?
- Phải chủ nhân quý danh là Zushino Kosuke, chuyên mài kiếm chăng ?
- Phải, mài kiếm và tâm con người.
Musashi có cảm tưởng gã Kosuke này, nếu quả thật là tay chuyên môn mài kiếm thì chỉ làm cho kiếm nhụt đi mà thôi. Nghĩ vậy hắn cười thầm, nhưng cũng cứ nói rõ mục đích của mình.
- Xin cho xem kiếm.
Kiếm vừa đưa ra, Kosuke chồm hẳn người lên, hai tay đỡ lấy, trân trọng, vui mừng như gặp bạn quý.
“Kỳ thật ! Gã này thấy người thì lạnh nhạt mà thấy kiếm thì trọng vọng !”. Musashi nghĩ, “Cũng lạ !”.
Kosuke đến bên đèn, khêu cho sáng, rồi tay trái cầm bao kiếm, tay phải nhè nhẹ rút lưỡi kiếm ra. Cầm kiếm thẳng đứng trước mặt, gã chăm chú quan sát kỹ càng từ chuôi kiếm đến mũi kiếm. Musashi thấy mắt gã sáng rực như đôi mắt thủy tinh của pho tượng Di Lặc trên chùa. Bỗng “cắc” một tiếng khô khan, lưỡi kiếm được tra ngay vào bao, nhanh và mạnh khiến Musashi giật mình. Kosuke quay sang nhìn hắn:
- Mời khách vào trong này !
Musashi tháo dép, bước lên chiếu. Kosuke lùi lại nhường chỗ rồi đẩy một cái gối tới mời ngồi.
- Kiếm này thuộc gia đình khách đã mấy đời ?
- Tại hạ không biết. Đó không phải là đồ gia bảo mà cũng chẳng phải danh kiếm gì.
- Khách đã mang nó ra trận hay chỉ dùng thường ngày ?
- Dùng thường ngày. Nó chẳng có gì đặc biệt, nhưng có cũng còn hơn không.
- Hừ ...
Rồi nhìn thẳng mắt Musashi, gã hỏi:
- Qúy khách muốn mài nó thế nào ?
Musashi ngạc nhiên:
- Muốn mài thế nào ? Chủ nhân hỏi vậy là có ý gì ?
- Chắc quý khách muốn mài thật sắc ?
Musashi cười:
- Dĩ nhiên rồi. Kiếm thì càng sắc càng tốt, còn mong gì hơn nữa !
Kosuke thở dài:
- Quả vậy ! Qúy khách cũng như mọi người, ai cũng nghĩ thế ...
- Vì đó là lẽ thường. Vả lại chủ nhân chẳng phải là kẻ chuyên môn mài kiếm ư ?
Hà tất ...
Không để Musashi nói dứt câu, Kosuke đã lặng lẽ cầm ngược thanh kiếm trao trả lại hắn:
- Rất tiếc ! Kẻ này chẳng giúp gì được cho quý khách. Xin mang đi chỗ khác.
Musashi lặng thinh, giơ tay đón thanh kiếm, cố giữ để không lộ vẻ phật ý.
Ngay lúc đó, một người mở cửa thò đầu vào:
- Zushino huynh, đệ định đi câu mà cần lại gãy. Huynh có cần câu cho đệ mượn một buổi.
Kosuke cau mặt:
- Không có ! Ta chẳng giữ những đồ sát sinh ấy trong nhà làm gì ! Đi chỗ khác mà mượn !
Điệu bộ và giọng nói của gã rõ ra vẻ khó chịu. Người khách thì đã bỏ đi, nhưng Musashi nổi tính tò mò. Có lẽ gã này là một kỳ nhân thật, thiếu thông minh tế nhị, ghét nhân quần xã hội, nhưng lại quan thiết đến những vật vô tri. Bèn hỏi thẳng:
- Sao chủ nhân không muốn mài kiếm này ? Kiếm này xấu qua không đáng được sửa hay sao ?
Kosuke lắc đầu:
- Hiển nhiên là không ? Khách đã dùng nó nhiều lần, tất biết đó là một thanh bảo kiếm. Khách muốn mài nó cho thật sắc để giết người cho ngọt chứ gì ?
- Dĩ nhiên ! Như thế có gì là xấu ?
- Phải rồi ! Mang kiếm sắc để giết cho ngọt thì có gì là xấu ! Kẻ mang kiếm tất nhiên phải thích thú chứ ...
- Ai mang kiếm cũng muốn kiếm mình sắc. Chủ nhân là kẻ mài kiếm ...
Kosuke vội giơ tay ngăn lại, chỉ ra ngoài cửa:
- Khoan ! Kẻ này đâu có chủ ý mài kiếm. Xin đọc kỹ lại bảng cho:
“Ma tâm pháp” chứ không phải “Ma kiếm pháp”. Chữ rành rành ra đó, sao khách lại lầm ? Đa số những người mang kiếm lại đây cần được mài cái tâm trước khi mài kiếm. Họ không hiểu tại sao phải như thế, nhưng đó là điều căn bản kẻ này được giáo huấn trước khi học kỹ thuật mài kiếm.
Musashi gật gù, nhìn gã chờ giải thích thêm.
- Cho nên, thấy người nào cầm kiếm mà không có cái tâm trung trực, khoan thứ thì kẻ này không mài kiếm cho.
- Hay lắm ! Vậy dám hỏi lệnh sư là ai ?
- Thì bảng ngoài kia cũng đã ghi rõ:
“Theo phương pháp nhà Honami”. Phương pháp nhà Honami là phương pháp của Honami Koetsu tiên sinh, chắc quý khách có nghe danh ?
Musashi thầm nghĩ:
“Quả không lầm ! Gã này thuyết chẳng khác gì ông già Koetsu”, bèn đáp:
- Không những nghe danh mà còn hân hạnh được biết đích thân Honami tiên sinh cùng Honami lão bá nữa. Tại hạ có tá túc tại ngõ Honami một thời gian ...
Kosuke ngạc nhiên tròn xoe mắt, lui lại một bước, nhìn Musashi kỹ hơn:
- Xin thứ cho tội đường đột. Phải chăng quý khách chính là ...là ...người đã gây chấn động Cổ thành năm năm trước đây khi một mình cự với cả Phái Yoshioka, và quý danh là Shinmen Miyamoto Musashi ?
Musashi hơi đỏ mặt:
- Quả vậy. Không ngờ tiện danh lại được chủ nhân lưu ý.
Kosuke bối rối cúi đầu:
- Kẻ này thật có mắt cũng như không. Đáng lẽ chẳng được phép nói những lời vô ý thức như thế trước mặt một đại kiếm sĩ.
- Chủ nhân quá khen. Những điều tại hạ vừa nghe thật quý báu.
Phần thấy Musashi tâm đầu ý hợp, phần nghe sư phụ đã nói nhiều đến vị kiếm sĩ anh hùng này, Kosuke không ngần ngại đem những quan niệm về tâm và kiếm của mình ra luận. Gã thao thao:
- Đối với kiếm sĩ, kiếm với tâm là một. Nếu đi tìm cái tinh hoa của kiếm thuật thì lưỡi kiếm là cứu cánh, thể hiện sở học và tài năng của mình. Nhưng nếu vào đời hành đạo thì, cũng như vị chân tu nhập thế, kiếm là phương tiện bất tuyệt gìn giữ và khích lệ cái tâm. Tâm kiếm dựa nhau quan trọng là thế, cho nến kiếm sắc mà tâm nhụt thì chẳng làm được gì. Có người nói mục đích tối hậu của kẻ cầm kiếm là không dùng kiếm. Tại hạ cho là phải, nhưng muốn thế, phải giữ cái tâm cho ngay thẳng, độ lượng. Nêu chủ trương mài tâm trước khi mài kiếm.
Musashi nhìn Kosuke. Trong cơn nhiệt thành trình bày những suy tư của mình với người đồng điệu, mắt gã sáng như sao, hai gò má ửng hồng, vẻ ủ rũ và sắc diện vàng bệch không còn nữa. Hắn so sánh gã mài gươm này với một hũ rượu sa-kê bằng sành, tuy bên ngoài thô kệch nhưng rượu bên trong thơm ngon, làm lòng người ấm áp.
- Cổ tiên sinh có nói thấy thanh kiếm báu như được thấy ánh chân quang bảo vệ sự an hòa cho xã hội. Người không nói rõ nhưng hiển nhiên đã ẩn dụ cái tâm của kẻ cầm kiếm trong đó.
Musashi gật đầu:
- Như vậy chắc khi thấy lưỡi kiếm của tại hạ, chủ nhân ghê sợ lắm nhỉ !
Kosuke cười xòa:
- Cũng một phần nào. Quả thật khi quan sát lưỡi kiếm của khách quan, kẻ này thấy có khích động. Từ khi đến Edo mở xưởng này, nhiều người đã mang kiếm đến nhờ sửa, nhưng phần lớn chỉ quan tâm làm sao cho kiếm thật sắc bén để giết người cho nhiều, cho ngọt. Giết ai ? Lúc nào ? Làm sao phải giết ? Hình như họ chẳng bao giờ để ý!
Đến khi xem lưỡi kiếm của khách quan, lại thấy có nhiều chỗ gợn mẻ chứng tỏ nhiều lần kiếm đã va chạm vào xương thịt người, nên cho rằng chẳng qua đây cũng chỉ là một kẻ cầm kiếm tầm thường như ngàn kẻ khác, lấy sự giết người làm thích thú mà thôi ...
- Đa tạ chủ nhân cho biết. Tại hạ đã suy nghĩ nhiều mỗi khi xuất thủ nhưng đôi lúc vẫn còn hối tiếc. Xin bái lĩnh những lời vàng ngọc.
Kosuke nhìn thẳng mắt Musashi:
- Xin đừng khách sáo nữa. Khách quan cứ để kiếm đây, kẻ này sẽ vì tri kỷ mà mài kiếm.
Đêm dường đã khuya. Musashi đứng dậy cáo từ.
- Hãy khoan ! Khách quan còn thanh kiếm nào để ở nhà trọ không ?
- Không. Tại hạ chỉ có thanh trường kiếm đó.
- Vậy lấy gì dùng ? Mời khách quan vào trong này xem có thanh nào được thì dùng tạm, thay thế.
Chủ khách theo nhau qua dãy hành lang tối đến một căn phòng nhỏ trải chiếu, sát tường kê nhiều kệ gỗ lớn. Kosuke đến bên một cái rương đặt trên kệ gỗ, mở nắp lấy ra sáu bảy thanh trường kiếm đặt lên chiếu, rồi bảo:
- Hiện nay trong nhà không có thanh kiếm nào đặc biệt. Chỉ có mấy thứ này, tùy khách quan lựa chọn.
Musashi cầm từng thanh lên ngắm nghía, thấy chủ nhân quả có khiêm nhượng. Tất cả đều là kiếm có giá trị, nhưng có một cây không thể nào hắn dời mắt ra được. Bao đen bóng, chạm trổ tinh vi, dáng hơi cong, thật cân đối. Hắn rút kiếm ra khỏi bao, lượng định sắc nhụt, nhấc trên tay thấy vừa vặn quá. Ánh thép xanh biếc, những nét chạm đường khắc trên chuôi nhất nhất đều trau chuốt, hoàn hảo. Ghé sát vào đèn, quan sát kỹ, càng trông càng thích, không chỗ nào chê trách. Sợ kiếm ấy đối với mình quá sang, hắn bỏ xuống định chọn cây khác mộc mạc hơn, nhưng không sao rứt ra được.
Bèn ngẩng đầu lên nhìn Kosuke:
- Tại hạ lấy thanh này được chăng ?
Hắn không nói “mượn” vì thấy thanh kiếm thật vừa ý nên muốn mua đứt.
- Khách quan thật có mắt tinh đời. Nó là một danh phẩm của thế kỷ trước đấy !
- Chắc chủ nhân không bán ?
Kosuke mỉm cười:
- Sao lại không ? Gặp người xứng đáng thì bán chứ !
- Bao nhiêu ?
- Xin để lại với giá vốn thôi.
- Nghĩa là bao nhiêu ?
- Hai chục lạng vàng !
Số tiền quá lớn, Musashi không thể nào có nổi. Hắn ngần ngừ:
- Vậy tại hạ chẳng dám mượn đâu.
- Sao vậy ? Khách quan cứ dùng, bao lâu cũng được !
Musashi lắc đầu:
- Kiếm tốt quá, dùng quen rồi khi trả lại như phải vĩnh biệt một người thân, tại hạ chịu không nổi.
- Khách quan thích nó đến thế kia à ? Kosuke nhìn kiếm rồi lại nhìn Musashi. Vậy xin biếu ...để làm duyên, nhưng cũng xin khách quan cho lại một cái gì...
Musashi gãi cằm bối rối. Hắn chẳng có cái gì để cho lại.
- Nghe Honami tiên sinh nói khách quan tạc tượng đẹp lắm. Một bức tượng nhỏ cũng đáng quý.
Musashi đỏ mặt, càng bối rối hơn. Bức tượng Quan Âm mới đây hắn đã tặng cho dân xóm tiều rồi, trong đẫy hiện nay chẳng còn gì để trao đổi.
- Hay thế này. Chủ nhân cứ giữ lấy kiếm, tại hạ bây giờ cũng nhàn rỗi, sẽ tạc một pho tượng bằng gỗ bạch đàn nhỏ, khi nào xong đem tới đổi lấy kiếm.
- Hà tất phải câu nệ như vậy. Khách quan mang kiếm về dùng và cứ coi như là của khách quan. Còn bức tượng, lúc nào trao cũng được.
Cả hai cùng cười vui vẻ, đập tay vào nhau để thắt chặt điều vừa thỏa hiệp. Kosuke thêm:
- Mà tại sao khách quan không sang ở hẳn tệ xá ? Việc cơm nước, tiện nội có thể chu tất được. Khách quan chỉ có một mình ...
- Không ! Tại hạ còn một tiểu đồ.
- Không sao, càng có người sai bảo.
- Như vậy sợ phiền chủ nhân chăng ?
- Có gì mà phiền ! Xin đừng từ chối, phụ lòng người ngưỡng mộ.
Dứt lời, Kosuke gọi vợ ra bảo hâm rượu đãi khách. Hai người, một kẻ mài kiếm, một kẻ xử kiếm, ngồi đối ẩm với nhau thoải mái không còn câu nệ gì nữa, luận bàn vô cùng hứng thú. Câu chuyện dĩ nhiên không ngoài đề tài liên quan đến kỹ thuật rèn kiếm khiến Musashi cũng biết thêm được nhiều điều bổ ích.
Kosuke chủ nhân nói:
- Tạo nên một thanh kiếm giá trị, người thợ phải mất nhiều công phu và kinh nghiệm. Trước hết phải chọn thép tốt, chấn than phải dưới một phần trăm thì mới đủ mềm để rèn, nhưng cũng không được mềm quá, lưỡi kiếm sẽ yếu. Nhiệt độ nung phải cao. Những bậc thầy trong nghề, nhìn ánh thép phát ra khi nung biết là đã rèn được hay chưa. Thép nung đúng độ rồi thì rút ra để trên đe để thợ phụ đập cho dẹp theo chiều dài.
Lúc thép đã khá mỏng, phải nhanh tay xoay trở gấp lại cũng theo chiều dài lưỡi kiếm.
Nếu nguội, cho vào lò nung rồi lấy ra đập nữa. Rèn như thế hàng nghìn lần, lớp nọ chồng lớp kia, thép kiếm mới đủ cứng, đồng thời lại khá dẻo không dễ gãy. Sau đó đem tôi. Tôi thép nghĩa là làm cho thép nguội nhanh để giữ những đặc tính của nó. Nói thì dễ, nhưng khi thực hiện mới thấy khó. Nếu không kinh nghiệm, ở một giai đoạn nào đó trong lúc rèn, người thợ làm sai tiêu chuẩn thì lưỡi kiếm coi như hỏng. Bây giờ chỉ còn rất ít những tay lành nghề rèn được kiếm tốt mà thôi, và dường như họ tụ lại ở cả Nara thì phải.
Musashi ngồi nghe không dám lạm bàn, đôi lúc cũng hỏi vài câu hoặc xin dẫn giải thêm những điều chưa rõ. Thấy khách chú ý, Kosuke hết sức sốt sắng, mắt long lanh, lấy từ tráp ra nhiều tập sách cổ, chỉ cho Musashi xem những thanh kiếm quý được ghi chép và mô tả trong đó.
- Những năm gần đây, tại hạ có đi các nơi, nhất là đến những đền miếu, được biết có lưu trữ nhiều cổ kiếm. Như ở Suwa, tỉnh Shinano, một vị thiền sư đã cho tại hạ xem bộ sưu tập kiếm quý. Có đến hàng trăm chứ không ít, phần nhiều là kiếm gia bảo do chủ nhân không muốn giữ, đem tặng đền. Kiếm cổ thật, nhưng rất tiếc bị han rỉ gần hết. Ở Omishima, trong hàng ngàn kiếm đã xem, tại hạ chỉ chọn được chừng một chục là còn sửa được.
Nhấp ngụm rượu, ngồi thừ ra một lúc, Kosuke thở dài:
- Điều trớ trêu là kiếm càng cổ bao nhiêu thì dường như chủ nhân nó càng cất kỹ bấy nhiêu, có khi còn chôn đi cho khỏi lộ nên rỉ sét hư hỏng cả. Những người đó chẳng khác gì các bậc làm cha mẹ, che chở bảo vệ con mình quá đáng, để chúng không được tôi luyện trên trường đời nên sau này trở thành ngu xuẩn, đần độn.
Nói đến đây, mắt Kosuke bỗng sáng lên, rồi như sực nhớ ra điều gì, xin lỗi chạy vào trong nhà. Lúc ra mang theo một cây kiếm dài một cách khác thường, để lên chiếu.
Musashi giật mình, tim như ngừng đập. Không lầm được, đây chính là “cây sào phơi” của Sasaki Kojiro.
Nhìn khách, Kosuke ngạc nhiên:
- Sao ? Khách quan cũng biết thanh kiếm này à ?
- Biết. Của một kiếm sĩ tên Kojiro.
- Phải rồi. Nhân có việc đến dinh Hosokawa, một tùy viên trong dinh là Kakubei đã nhờ tại hạ sửa lại cho thanh kiếm này. Hắn nói kiếm của người bà con hắn tên Kojiro.
Kosuke rút thanh kiếm ra, kiếm quang sáng lòa:
- Đây là một thanh kiếm lạ, dài quá mức bình thường. Kẻ nào dùng nó phải là người khổng lồ, tay như tay vượn, hoặc nếu không thì cũng phải thành thuộc lắm.
Musashi cầm kiếm lên ngắm:
- Sao không thấy khắc tên người đã tạo ra nó ?
- Không khắc tên nhưng đúng là kiếm Nagamitsu đấy ! Nagamitsu là một nhà luyện kiếm danh tiếng ở tỉnh Suo, qua đời vào thế kỷ trước. Tạo phẩm của ông để lại không nhiều và có một số không đề tên nhưng quan sát kỹ tất biết.
- Kiếm này dùng xung trận ...
- Đúng vậy, và phải đeo trên lưng. Nhưng chủ nó bây giờ muốn sửa lại đeo ngang hông. Cũng mất công lắm. Khách quan có thấy vài chỗ rỉ sét trên mặt không ? May là kiếm tốt có thể mài mất đi được, chứ kiếm bây giờ mà như thế là rỉ ăn xuyên sang bên kia rồi, coi như bỏ.
Chuyện vãn hồi lâu, thấy không tiện lưu lại thêm nữa, Musashi xin cáo thoái.
Đêm khuya, lá cây phong bên cửa sổ sương đã bắt đầu động giọt. Trở lại phòng trọ, vẫn chưa thấy Sannosuke đâu, Musashi lo lắng đứng nhìn ra ngoài cửa sổ.



Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Sáu T4 06, 2007 2:54 pm
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ


CHƯƠNG 68

CON CÁO







Đêm càng lúc càng khuya. Trên mặt con rạch nước đen, sương đã phủ lờ mờ, có chỗ che khuất cả những lùm cây dại và chân cầu gỗ.
“Chẳng biết đây có phải là khu Kobikicho không ?”. Sannosuke đi đã mỏi và mặc dầu đã hỏi thăm nhiều người, ai cũng bảo đúng, nó vẫn phân vân nghi hoặc. Cảnh trí đìu hiu. Chỉ còn vài ngôi nhà gỗ tận đàng xa le lói ánh đèn. Gió về khuya chớm lạnh thoảng đưa đến tai nó lúc xa lúc gần những tiếng rì rào của sóng vỗ ngoài vịnh. Gần bờ rạch, nhiều đống gỗ đá ngổn ngang, trong bóng đêm tạo thành các hình thù kỳ dị. Ở thành đô bây giờ chỗ nào nhà cửa cũng đua nhau mọc lên như nấm gặp trời mưa, nhưng Sannosuke khó có thể tin được Yagyu đại nhân lại ở một khu nghèo nàn như khu này.
Nó hoang mang chẳng biết tính thế nào:
đi thì đêm khuya khó gặp người để hỏi thăm đường, mà về thì quyết không được rồi ! Một lời hứa với sư phụ không thể coi thường. Sư phụ chẳng phạt nó đâu nhưng lần đầu tiên ông sai làm một việc nó cho là quan trọng, việc chẳng thành, nó cảm thấy hổ thẹn.
Mấy ngón chân hơi nhức, Sannosuke tìm một tảng đá ngồi xuống cởi dép ra, để chân trần lên đám cỏ ướt sương, thấy mát dễ chịu. “Tất cả đều do mụ quản lý ở quán Mã Đề mà ra cả. Hỏi mụ, mụ bảo đến khu Kobikicho mà tìm. Khu nghèo nàn vắng vẻ thế này, làm gì có phủ Yagyu !”. Sannosuke nhặt hòn đá ném mạnh xuống đất cho đỡ bực bội. Nó không ngờ rằng Kobikicho là một khu rộng lớn bao gồm rất đông dân ở ngoại ô, chạy dài mãi ra tận bờ vịnh. Chỗ này chỉ là một xóm nghèo thuộc khu ấy, tập trung toàn dân vô gia cư, thợ thuyền tay làm hàm nhai và những kẻ gần như cùng đinh trong xã hội.
Có tiếng động sau đống gỗ làm Sannosuke giật mình. Xỏ dép đứng lên vòng ra phía sau, nó ngạc nhiên thấy một căn nhà, không, một túp lều mới đúng, với ánh đèn hắt qua khe cửa sổ nhỏ xíu dán giấy. Túp lều đã nhỏ lại ẩn sau đống gỗ cao, thảo nào nó không để ý.
Rón rén đến gần, Sannosuke thấy dưới ánh đèn lờ mờ, một người đàn bà đầu quấn vuông chiếu cói thay khăn đang dọn dẹp. Ánh sáng yếu ớt không cho nó đoán được mụ chừng bao nhiêu tuổi. Tuy vậy nó vẫn đánh bạo gõ cửa và gọi bừa, hy vọng được tiếp nhận:
- Thái thái ! Mở cửa cho cháu.
Người đàn bà mở cửa nhìn ra, cất giọng the thé:
- Lại mày nữa ! Phải hồi chiều mày ném đá vào tao rồi chạy không ?
- Dạ không, không phải. Sannosuke vội vã cải chính. Cháu mới gặp thái thái lần này là lần đầu mà !
Người đàn bà bỏ vuông chiếu cói ra nhìn nó một lúc:
- Ờ ờ không phải. Thằng kia nhỏ hơn.
Đoạn phá lên cười:
- Hà hà ! Thế tối tăm thế này mày đến đây làm gì ?
Bấy giờ Sannosuke mới chú ý đến cách phục sức diêm dúa không hợp với khung cảnh của người đàn bà trung niên trước mặt. Tóc mụ chải cẩn thận, thoa dầu bóng, mặt trát phấn trắng như bôi vôi, môi son đỏ chót, áo kimono đã cũ nhưng bằng hàng lụa thêu hoa.
Hơi sợ, nó lùi lại một bước. Mụ kéo tay nó vào trong nhà:
- Tối tăm thế này em đến đây làm gì ? Cần gì ta giúp.
Sannosuke ngây thơ đáp:
- Cháu muốn gặp Yagyu đại nhân.
Người đàn bà trố mắt nhìn nó:
- Mày nói giỡn đấy à ?
- Thật mà ! Cháu muốn vào phủ Yagyu.
Người đàn bà ré lên cười, lát sau mới bảo:
- Yagyu tướng công là bậc quyền quý, mày tưởng ngài mở cửa tiếp mày sao ?
- Cháu mang thư cho một người trong phủ.
Sannosuke vừa nói vừa rút ra một cuộn giấy gắn niêm và chỉ cho người đàn bà xem tên người nhận.
- Người đó là Kimura ở phủ Yagyu đại nhân.
Người đàn bà gật đầu ra vẻ thông cảm:
- Phải rồi, chắc là một kẻ trong đám lính hầu. Thế mà mày nói cứ như là thân thuộc với ngài lắm. Thật tức cười !
- Vậy thái thái biết phủ Yagyu Ở đâu chỉ cho cháu.
- Biết chứ ! Qua cầu gỗ sang bên kia rạch, đi một quãng đến trại Ninh Cát của tướng công Y Lâm, qua trại Lan Châu, trại Lâm Phố, trại Hồ An ...
Vừa nói mụ vừa đếm ngón tay kể tên từng trại một. Có đến bảy tám trại như thế, sau cùng mới bảo:
- Ta chắc thế nào mày cũng tìm ra. Trại Yagyu lớn nhất ở cuối đường không chú ý cũng thấy.
- Thế qua cầu sang bên kia còn thuộc khu Kobikicho không ?
- Còn chứ.
- Trời đất ! Thế mà chúa cứ tưởng ...Khu này sao mà rắc rối quá !
Người đàn bà mỉm cười. Thấy thằng bé hiền lành, lễ phép lại tỏ ý lo ngại chẳng tìm ra đường, mụ ngần ngừ một lúc rồi nói:
- Mày ngớ ngẩn lắm, thôi để ta dẫn đi.
Nói đoạn đẩy nó ra, đóng cửa, xăm xăm đi trước, bảo Sannosuke theo sau. Trong đêm tối, tà áo mụ phất phơ tựa cánh con thiêu thân lớn bay trong sương mù lãng đãng.
Gần đến giữa cầu, bỗng có gã đàn ông đi ngược chiều sát vào người mụ, huýt sáo.
Nhưng gã không dừng bước, cứ tiếp tục qua mặt cả hai người. Mùi rượu sa-kê bốc lên nồng nặc.
Mụ dẫn đường dừng chân lại nhìn theo rồi gọi với:
- Ai như Quản Bạc Nhất ?
Gã đàn ông khựng lại một chút, rồi tiếp tục đi chẳng nói chẳng rằng. Mụ chạy theo nắm vai áo:
- Quản Bạc Nhất ! Ngươi biết ta mà ! Sao hờ hững với nhau quá thế ?
- Bỏ ra ! Gã kia đáp.
- Không ! Lâu nay không gặp, không muốn đi với ta chăng ?
- Hết tiền rồi !
- Can gì ! Lúc khác trả cũng được !
Rồi ôm cứng lấy gã đàn ông có tên Quản Bạc Nhất ấy, mụ quay bảo Sannosuke:
- Đi đi ! Ta cần nói chuyện với ông này.
Kinh ngạc chẳng hiểu đầu đuôi gì, Sannosuke đứng sững nhìn hai người giằng co nhau cho đến khi mụ kia kéo gã đàn ông xuống chân cầu và mất hút trong bóng tối dưới đó.
Lát sau hoàn hồn, nó bước ra thành cầu vịn vào lan can gỗ, tò mò nhìn dòng nước đen bẩn, lờ đờ chảy bên dưới. Thình lình, giọng người đàn bà rít lên the thé, nhọn hoắt như đâm vào tai nó cùng với tiếng gió rít của hòn đá ném về phía nó đứng.
- Súc sinh ! Mày nhìn cái gì thế ?
Sannosuke né tránh, bỏ ra giữa cầu rồi cúi đầu lầm lũi bước. Suốt thời kỳ ở Hotengahara cho đến nay, chưa bao giờ nó thấy một bộ mặt nào ghê sợ hơn bộ mặt trắng bệch như vôi của người đàn bà ấy lúc đó.
Qua khỏi cây cầu gỗ, Sannosuke theo con đường trải đá xanh độc nhất đến trước một kho hàng rồi tới một tường rào ngăn kho hàng ấy với một kho hàng khác. Kho nào cũng tường cao, cổng kín kiên cố. Qua vài kho hàng như thế, nó bỗng hiểu ra đấy là những trại mà mụ đàn bà lúc nãy đã chỉ cho nó. Có lẽ mụ gọi là trại vì có quân canh giữ vật dụng và lừa ngựa cho các chủ tướng.
Đến trại sau cùng ở cuối đường, Sannosuke tin chắc đã tìm ra được phủ Yagyu khi thấy trên cánh cổng có vẽ hình đầu một thiếu phụ búi tóc hai tầng. Mà hình này qua những bài hát dân giả, ai cũng biết là huy hiệu của dòng họ Yagyu.
Sannosuke mạnh dạn gõ cổng. Nhưng cổng vừa cao vừa dày, gõ mãi chẳng ai thưa. Tức mình, nó nhặt đá đập thình thình. Lúc sau mới thấy người lính tuần mở hé một khe cửa sổ nhỏ phía trên cổng nhìn xuống:
- Thằng bé kia, hỏi gì ?
- Có thư tới.
Người lính bèn mở một khung cửa nhỏ đặt lẩn trong cánh cổng lớn để tiện việc ra vào mà không cần mở cổng, bước ra cầm cuộn thư trong tay Sannosuke, soi đèn mà đọc.
- Thư này gửi cho một kiếm sĩ tên Kimura phải không ?
- Phải. Cháu đợi lời phúc đáp để mang về. Ông làm ơn chuyển thư cho cháu.
- Nhưng Kimura không có ở đây.
- Thế ông ấy ở đâu ?
- Ở Higakubo.
- Sao ? Ai cũng bảo phủ Yagyu Ở Kobikicho mà !
- Ờ ! Người ta bảo thế nhưng đây là trại quân, chỉ có gạo và các vật dụng nuôi quân mà thôi. Tướng phủ ở Higakubo kia !
- Higakubo có xa đây không ?
- Xa, xa lắm.
- Ở tận chỗ nào ?
- Trên núi, phía đông Edo này đến hàng chục dặm.
Sannosuke buồn bã lắc đầu. Nó không ngờ khó khăn đến thế ! Nhưng vốn tính bướng bỉnh và có tinh thần trách nhiệm từ khi còn thơ ấu, phải đương đầu với bao nhiêu cam go của cuộc sống để mưu sinh và giúp đỡ cha già, nó không chịu khuất phục.
- Thưa ông, thế ông có thể vẽ cho cháu đường nào đi đến Higakubo được không ?
- Thằng này điên ! Dù ta có vẽ cho mày thì mày cũng phải đi hết đêm mới đến được.
- Không sao, cháu sẽ đi cả đêm.
Người lính lẳng lặng không nói gì, nhưng trong lòng thầm phục thằng bé.
- Ở chân núi, cầy cáo vô số. Mày sợ cáo nó hớp hồn không ?
- Không, cháu không sợ.
- Mày quen với hiệp sĩ Kimura hả ?
- Không, nhưng thầy cháu quen.
Người lính không hỏi thêm gì nữa, nhưng sau nghĩ thế nào, bảo với Sannosuke:
- Ta khuyên như thế này. Bây giờ khuya rồi mà mày lại không biết đường, sợ lạc.
Ta cho ngủ ở đây, sáng mai hãy đi, mày nghĩ sao ?
Ngần ngừ một lát, có lẽ cho là phải, Sannosuke gật đầu.
- Có rơm trong chuồng ngựa ấy. Mang vào vựa thóc trải ra mà ngủ.
Hôm sau gần trưa, Sannosuke mới giật mình thức giấc. Trong vựa thóc vừa tối vừa ấm, nó ngủ quên, không ngờ trời sáng lúc nào. Bước ra cửa, ánh nắng chan hòa khiến mắt nó hấp háy phải lấy tay che. Sực nhớ đến nhiệm vụ phải làm, Sannosuke rảo bước ra điếm canh. Người lính đêm qua còn đó, thấy nó, nhe răng cười chế nhạo:
- Sao không ngủ thêm giấc nữa ?
Nó cũng cười xòa:
- Cháu ngủ quên ! Thế ông đã vẽ đường cho cháu chưa ?
- Rồi. Hôm qua mày nói cần gấp mà !
- Vâng, cảm ơn ông, cháu đi ngay giờ đây.
- Khoan, ở lại ăn chút gì lót lòng đã. Đủ cơm cho hai người đấy, ăn đi !
Thấy người lính tử tế với mình, Sannosuke cúi đầu cảm tạ.
Ăn xong, cầm mảnh giấy vẽ sơ sài những đường chính dẫn đến Higakubo, Sannosuke cáo từ người lính, lên đường.
Trời xanh và trong. Những cụm mây trắng nhẹ như bông trôi lờ lững. Nắng không gay gắt. Sannosuke thấy lòng lâng lâng vui thích. Nó không ngờ thấy nó ở quán Mã Đề đang bồn chồn lo lắng vì nó.
Qua quãng đường lát đá xanh, dọc theo những lộ chính tấp nập trên bờ các kênh đào ngang dọc ven đô, Sannosuke thỉnh thoảng lại dừng bước xem thợ nề, thợ mộc bận tíu tít dựng sườn nhà, xây tường, xẻ gỗ. Tiếng đục tiếng búa chan chát không làm nó khó chịu, trái lại khiến nó vui vẻ thích thú. Không khí sinh động, rộn rịp khác hẳn với những ngày ở Hotengahara. Những người phu lực lưỡng, cởi trần hè nhau kéo nhiều tảng đá lớn, hò những câu hò lạ tai. Đằng xa, trên lưng chừng giàn tre cao ngất ngưởng dựng sát tường một tòa lầu đang xây, thợ thuyền hành động chẳng khác gì những con ong bò vẽ bu trên giàn hoa bìm bìm sặc sỡ về mùa xuân.
Mải mê theo dõi các sinh hoạt muôn màu muôn vẻ diễn ra trước mắt, Sannosuke quên hẳn mục đích của mình. Đến khi mặt nước hắt ráng chiều đỏ hồng và đàn quạ bay ngang, buông những tiếng khô khan trên nền trời bắt đầu nhạt nắng, nó mới giật mình:
“Ờ, thế mà đã chiều rồi ! Chóng quá !”. Và ba chân bốn cẳng, nó vội vã tìm đường đi về phía đông.
Sannosuke rảo bước nhanh như chạy, mong sao tới được Higakubo trước khi trời tối mịt. Chẳng bao lâu đã đến chân đồi Azabu, con đường cây cao bóng rợp đan xít nhau, tuy thỉnh thoảng có ánh nắng xiên khoai chiếu qua tàn lá loang loáng, nhưng đường vẫn ẩm ướt và trơn trượt. Gốc cây, rêu mọc đầy. Có nhiều chỗ âm u, tưởng như đêm đã xuống từ lâu. Sannosuke càng bước vội, mấy lần suýt ngã, phải nhặt một cành cây làm gậy chống. Cho đến khi trèo lên đỉnh đồi, nhìn về phương tây, thấy mặt trời đỏ khé còn cách chân trời đến non con sào, nó mới yên lòng.
Đồi hoang vụ lạ lùng. Không cả tiếng chim vỗ cánh bay ngang. Đứng giữa rừng cỏ tranh cao ngang ngực, trông xung quanh trùng trùng điệp điệp những tàng cây nối tiếp nhau từ sườn đồi trải dài đến tận thung lũng phía dưới, tiếng suối nước róc rách đâu đây càng làm tăng vẻ hoang vắng, Sannosuke bỗng có cảm giác kỳ lạ, vừa bâng khuâng vừa sợ hãi như đứng trong một ngôi chùa cổ, giữa những pho tượng trang nghiêm. Âm vang của một hồi chuông, không, của tiếng cồng thúc quân hay của hồi trống trận, ầm ì trong gió khiến nó rùng mình. Sannosuke không ngờ nó đang đứng giữa vùng linh địa của ngôi đại điện thờ thần Thái Dương giờ đây đã hoang phế. Sương chiều xám đục quanh quất bên những ngọn cây thấp và những lùm bụi ven đường mòn. Sannosuke bỗng thấy những gốc cây như sáng hơn lên. Đã có lần nó có cảm giác như thế khi đứng trong gian phòng bên khung cửa sổ dán giấy lúc chập choạng tối. Gian phòng dường như sáng hẳn trong khi bên ngoài trời chiều mỗi lúc một tối. Thầy nó bảo đó là ảo giác. Nhưng lần này cảm giác ấy mạnh lắm. Nó không cho là ảo giác, lấy tay dụi mắt, và bỗng chú ý đến đôi mắt tròn xoe, đỏ như hổ phách đang trừng trừng nhìn nó từ trong hốc một gốc cây mục.
- Con cáo !
Sannosuke vùng lên, vung gậy đập mạnh một cái. Soạt ! Con vật nhảy qua đống lá khô. Nhanh không kém, Sannosuke chạy theo. Cây gậy vung lên giáng xuống hết bên tả lại bên hữu, kêu bồm bộp ! Một tiếng chít ! Hình như con vật trúng thương bật lên cao.
Bộ lông màu lá úa xẹt trong bóng tối tựa tia nắng quái loé lên rồi vụt tắt lúc chiều tà. Rồi mất hút. Sannosuke đuổi theo, cầm gậy hất tung những đám lá khô, cành gẫy. Không vết tích gì của con vật. Nó cau mặt, lo lắng đảo mắt nhìn quanh. Ngay từ khi còn dưới gối mẹ, Sannosuke đã được nghe kể rất nhiều chuyện cổ tích về con cáo. Đó là một giống vật ghê gớm, rất xảo quyệt, có biệt tài thay hình đổi dạng và mê hoặc những kẻ nào ở gần. Bản tính Sannosuke ưa loài vật, kể cả lợn rừng và chồn hôi, nhưng nó ghét cáo vô kể. Ghét và sợ nữa. Nó tin chắc nếu gặp con cáo này, nó sẽ bị dẫn đi lạc đường cũng như hôm qua cáo đã dẫn nó đi lạc tại khu Kobikicho. Hơn nữa, con cáo này vừa bị nó đánh có thương tích, tất sẽ tìm cách trả thù. Vừa tức, vừa buồn, Sannosuke ngồi xuống bên thân cây đổ trong đám cỏ cao. Nó cảm thấy đói và khát, nhất là khát.
Hoàng hôn xuống nhanh. Những vạt ánh sáng sau cùng của một ngày quý xuân như rút vội vàng khỏi đỉnh các ngọn đồi ở đằng xa. Sannosuke thè lưỡi liếm những lá trà dại đọng sương cho đỡ khát. Mồ hôi trên mép chảy vào miệng hơi mặn, nó giơ tay áo quẹt ngang. “Con cáo đó chết thì may, nếu không thể nào cũng trở lại bắt hồn mình !” Bỗng có tiếng nhạc ngựa văng vẳng. Sannosuke lắng tai, thầm nhủ:
“Rồi, rồi !
Chắc nó trở lại. Không biết lần này nó đội lốt gì !”. Bèn lấy nước bọt bôi lên hai bên lông mày để giải trừ ảnh hưởng của loài yêu quái. Cảm thấy lòng yên ổn và bình tĩnh hơn, Sannosuke đến nấp sau bụi gai, tay lăm lăm cây gậy.
Từ xa, nhạt nhoà trong sương chiều, bóng một thiếu nữ cưỡi ngựa dần dần hiện ra.
Nàng đội nón nan to, choàng mạng che nửa mặt và ngồi lệch một bên trên lưng ngựa, buông lỏng tay cương cho con vật thong thả đi bước một. Sự xuất hiện lạ lùng, nếu chẳng phải thần tiên thì cũng quỷ mị ấy, khiến Sannosuke không còn nghi ngờ gì nữa:
“Con cáo này quả đáng sợ ! Nó đã thành tinh, đội lốt người đến dụ dỗ mình đây ! Nhưng ta đã đề phòng, đừng hòng mê hoặc ...”.
- Otsu ...ử ...ử ...
Tiếng gọi kéo dài từ lưng chừng đồi vang dội cả vùng theo gió đưa đến tai Sannosuke nghe rõ mồn một. “Chắc bạn bè con cáo ấy gọi ! Cáo thành tinh phải có chín đuôi và nhiều kẻ hầu hạ !”. Bèn vất gậy đi, rút cây kiếm ngắn gia bảo vẫn giắt theo bên mình, sẵn sàng đối phó với mọi bất trắc.
Đến gần đỉnh đồi, như thuộc đường lối, ngựa đột nhiên rẽ sang một đường khác về hướng nam. Màu son nạm bạc của yên ngựa loé sáng dưới tia nắng hồng cuối cùng của mặt trời vừa lặn.
Sannosuke nắm chặt tay kiếm, tự trấn an và khích lệ:
“May mà nó không biết mình ở đây !”.
Theo sự hiểu biết của thằng bé, hồn những con cáo thành tinh đội lốt người bao giờ cũng theo sau lưng nó chừng vài bước. Sannosuke nuốt nước bọt, định chờ cho nó quay hẳn đi mới ra tay. Nhưng con cáo khôn ngoan dường như đoán được ý thằng bé, dừng lại và xuống ngựa.
- O ...tsu ...
Lần này tiếng gọi gần lắm.
- Ở đây ! Tiểu nữ ở trên này !
Chỉ một loáng đã nghe tiếng chân người bước rào rạo. Một tráng sĩ hiện ra, y phục giản dị đến thô sơ, hông đeo trường kiếm nhưng đi hơi thọt.
Sannosuke đứng sững, chân tay run lẩy bẩy. “Trời ơi ! Đây mới là con cáo ấy.
Đúng nó rồi. Vết thương ở chân thế kia không thể nào lầm được. Nó không đội lốt thiếu nữ mà đội lốt đàn ông ! Trời ! Con cáo này ghê thật !”. Sannosuke sợ. Người đàn ông còn trẻ, dáng cao lớn. Thằng bé tự xét mình không làm gì được, đành đứng yên không dám thở mạnh, chỉ trố mắt ra nhìn.
- Cô nương lên ngựa đi để ta dẫn cho. Chúng ta phải về mau kẻo tướng công áy náy ...
Otsu e lệ đáp:
- Tiểu nữ đâu dám. Xin thiếu gia đi trước, tiểu nữ theo sau.
Nhưng tráng sĩ kia không nghe, cứ giằng lấy dây cương mà dẫn ngựa.
Một cành khô gãy rơi cạnh Sannosuke. Tiếng động làm tráng sĩ đảo mắt nhìn quanh, nhãn tuyến dừng ngay chỗ thằng bé đứng. Sannosuke hết hồn định vùng lên chạy nhưng chân cứng đơ như bị dính chặt xuống đất. Nó chưa bao giờ khiếp hãi đến thế, tay run run tưởng chừng đánh rơi cây kiếm ngắn.
May sao tráng sĩ kia không nói gì, nhìn một lúc rồi quay đi dường như không quan tâm đến nó, theo sau là Otsu. Cả hai trò chuyện vui vẻ với nhau những gì, trong cơn thảng thốt, Sannosuke cũng không biết nữa.
Bầu trời tối dần. Vài đốm sao mọc sớm đã hiện lên lác đác.
Tại vùng Higakubo này, vào những thế kỷ trước, có dựng một đền thờ Thái Dương thần nữ. Đền hướng ra biển, phía đông, rất được nhiều người sùng mộ đến lễ bái. Nhưng trong cuộc tranh chấp giữa các sứ quân, không may đền đã bị tàn phá, phần vì chiến tranh, phần vì cường đạo, cướp bóc. Di tích không được trùng tu, dần dần theo thời gian mà đổ nát, nhưng địa linh, nhân kiệt, khí thiêng vẫn còn phảng phất. Yagyu Munenori, người được lãnh chúa đương thời vời vào giảng huấn cho trưởng nam vì ngưỡng mộ sở học và kiếm thuật nhà Yagyu, đã xin được lập tư dinh tại đây. Cũng như cha là Yagyu Muneyoshi, Yagyu Munenori tuy giữ địa vị cao và tư dinh được tôn danh là tướng phủ, bản tính lại không thích khoa trương nên dân giã ít người biết đến nơi ẩn dật này.
Yagyu Munenori có người cháu gọi bằng bác, hơi có tật nơi chân, cũng là tay anh hùng trẻ tuổi, tính tình hào phóng, đã giữ chức vụ cao cho một lãnh chúa, nay được gọi về phụ tá ông quản trị gia nhân. Người đó là Yagyu Hyogo, chính là tráng sĩ vừa đi đón Otsu.
Hyogo gặp Otsu trong một trường hợp ngẫu nhiên lúc mới đến, giúp bá phụ tại tướng phủ. Trước đó, trong ba năm, Otsu đã sống cuộc đời hết sức bấp bênh dưới sự kềm toa? của Matahachi. Đi đâu hắn cũng tìm cách cho mọi người biết Otsu là vợ hắn.
Với sức khoẻ của Matahachi, tìm việc làm như vác đá, thợ hồ, thợ mộc có lẽ cũng dễ, nhưng hắn không muốn. Hắn muốn một công việc nhàn nhã hơn. Otsu xin vào làm nữ tỳ cho một gia đình kia, số tiền công dành dụm cũng cưu mang hắn được một thời gian, nhưng chứng nào tật nấy, Matahachi chẳng bỏ được rượu chè, có khi bạo hành nàng, khiến chủ nhà phải can thiệp.
Bữa kia, trên đường phố Edo, cả hai đang đi bỗng gặp một đám rước với nghi trượng của lãnh chúa Tokugawa. Theo mọi người quỳ rạp hai bên lề đường, Otsu trông thấy, sau kiệu của lãnh chúa, cả nghi vệ và huy hiệu nhà Yagyu.
Kỷ niệm xưa dâng lên dào dạt trong lòng, nàng không cầm được nước mắt, vừa thương thân tủi phận vừa nhớ tiếc những ngày đã qua, Otsu gục xuống lề đường, bên cạnh người chồng hờ Matahachi.
Bỗng có tiếng gọi đích danh khiến nàng giật mình ngửng lên.
- Otsu ! Phải Otsu cô nương không ?
Người gọi chẳng ai xa lạ, chính là Kimura, một trong ba hiệp sĩ của Nhà Yagyu, nơi nàng tá túc khi xưa dưới sự yêu mến độ lượng của Muneyoshi cư sĩ. Chẳng biết bây giờ lão nhân gia ra sao ? Nghĩ đến đấy, nàng lại hối hận trước khi ra đi, chẳng vào từ biệt cốc chủ.
- Otsu cô nương ! Cô nương còn nhớ tại hạ chăng ?
Nước mắt chan hoà, Otsu chỉ gật đầu không đáp. Kimura giơ tay đỡ luôn nàng lên ngựa, trước sự ngạc nhiên sửng sốt của Matahachi và những kẻ xung quanh. Vừa mở miệng phản đối, hắn đã bị đoàn lính tùy tùng vây lại:
- Muốn khiếu nại gì thì làm đơn nộp lên tướng phủ.
Đám rước cứ đi. Kèn, trống, thanh la, não bạt vang vang, át cả tiếng kêu nghẹn ngào tức tối của Matahachi.
oo Về trước đại sảnh, Hyogo quỳ tại hiên ngoài, chưa dám lên tiếng, chờ lệnh bá phụ gọi.
Yagyu nhìn ra, khẽ gọi:
- Đã về đấy ư ? Vào trong này !
Đại sảnh thật rộng và uy nghi. Hai hàng cột lớn, vân gỗ nổi như mây, ngả bóng dài trên sàn gỗ trắc đen bóng lộn. Nhưng chỗ Yagyu Munenori ngồi làm việc, cách trần thiết lại đơn giản. Trên chiếc kỷ thấp, cây đèn lồng nhỏ hắt ánh sáng mờ dịu lên một tập sách để gần. Góc phòng, một lọ sứ men rạn cắm ba bông cúc long trảo và trên tường treo một thanh trường kiếm. Trần thiết chỉ có thế. Có lẽ vì sinh trưởng nơi dân giả và quen nếp sống khắc khổ nên ông không thích sự rườm rà. Dinh thự này cũng do chính ông họa kiểu và dùng ngay những vật liệu sẵn có tại địa phương để xây cất. Dựa vào rặng đồi thoai thoải và lấy rừng cổ tùng gần đó làm bối cảnh, ông đã cho dựng sảnh đường và những phòng ốc phụ thuộc vào lối kiến trúc hơi thô nhưng giản dị và vững chãi của Nhà Yagyu.
Hyogo quỳ gối tiến vào. Đối với bá phụ, chàng luôn luôn có thái độ tôn kính vì biết ông rất câu nệ về nghi thức. Vừa là thuộc cấp lại vào hàng con cháu nên chàng không bao giờ dám suồng sã như một đôi khi đã tỏ ra với tổ phụ là Yagyu Muneyoshi.
Lúc Yagyu Munenori ở sảnh đường, ông luôn luôn ngồi nghiêm túc sau chiếc bàn thấp, nếp áo ngay ngắn buông toa? xung quanh. Cần nói hay sai bảo gia nhân điều gì, lời ông chỉ vừa đủ nghe, đĩnh đạt, trang nghiêm. Ở chỗ công chúng, chưa bao giờ Hyogo thấy ông tỏ thái độ bối rối hay giận dữ, một điều chàng cố noi theo mà không được.
- Otsu cô nương đã về chưa ?
- Thưa đã. Nàng lễ đền trên núi, lúc trở về để ngựa thong dong nên có hơi trễ.
- Ngươi đi đón nàng phải không ?
- Dạ phải.
Yagyu tướng công im lặng. Khuôn mặt ông nhìn ngang dưới ánh đèn rắn đanh, suy tư và khắc khổ. Đột nhiên ông lên tiếng:
- Otsu ở đây lâu thật khó xử. Ta đã bảo Kimura gặp dịp thuận tiện, lựa lời để nàng đi nơi khác.
Hyogo ngạc nhiên. Ba tháng trước, khi Otsu đến đây, Kimura giới thiệu nàng là người thân tín hầu cận lão nhân gia ở Nhà Yagyu, Yagyu tướng công đã vồn vã tiếp đón, bảo nàng lưu lại trong dinh bao lâu cũng được, nay không hiểu sao lại đổi ý.
Bèn rạp đầu xin hộ:
- Xin bá phụ rủ lòng thương xét lại. Otsu cô nương tứ cố vô thân, nếu bá phụ không cho tá túc thì nàng biết đi đâu.
- Không phải ta không rộng lượng, nhưng việc gì cũng phải có giới hạn.
- Con tưởng bá phụ đã có ý bao dung ...
Yagyu tướng công gật đầu:
- Otsu chưa làm điều gì khiến ta phiền lòng, nhưng chắc ngươi cũng rõ một thiếu nữ nhan sắc như nàng ở phủ này làm sao tránh khỏi lời dị nghị. Trong số những kiếm sĩ hầu cận ta, sớm muộn gì rồi cũng có chuyện đáng tiếc, bấy giờ thêm khó xử.
Hyogo không đáp. Những lời của bá phụ chàng không có ý gián tiếp chỉ trích ai và riêng đối với chàng lại càng không có ý ám chỉ. Hyogo đã ba mươi, tuy vẫn còn độc thân, nhưng chưa bao giờ để lộ cho ai biết cảm tình đặc biệt của chàng đối với Otsu. Giữa Otsu và chàng, sự giao du chưa bao giờ vượt quá mức của hai người bạn. Hyogo phỏng đoán vấn đề có lẽ liên quan đến chính bá phụ và bá mẫu chàng chứ không ai khác. Bá mẫu chàng xuất thân từ giai cấp quý tộc, trong một gia đình thuộc loại con gái xuất giá phải được rước bằng kiệu sơn son, phủ rèm gấm với đầy đủ nghi thức và danh vọng trong ngày hôn lễ. Bá phụ, bá mẫu chàng ở một khu riêng biệt, xa đại sảnh, hạnh phúc ra sao chẳng mấy ai biết, ngay đến con cháu trong nhà cũng ít khi lai vãng.
Cho nên khi thấy một thiếu nữ lạ mặt có nhan sắc đến tá túc trong dinh, qua những lời đồn đại thị phi, tránh sao bá mẫu chàng chẳng đem lòng nghi kỵ. Bèn nói:
- Bá phụ nghĩ vậy rất phải. Xin để con và Kimura lo chuyện này. Thế nào cũng tìm được cách giải quyết ổn thỏa không để lụy đến Otsu cô nương.
- Vậy hay lắm ! - Yagyu gật đầu - Ngươi nên giải quyết càng sớm càng tốt.
Nghe xong, Hyogo chưa kịp cáo từ, chợt gia nhân vào bẩm có thư ở Nhà Yagyu do khoái mã đưa đến. Yagyu Munenori hơi cau mày:
- Khoái mã ? Chắc có tin khẩn cấp. Bảo mang vào ngay ta coi:
Thì ra thư của Shoda:
“Lão nhân gia mới trở bệnh, lần này có phần nguy kịch hơn lần trước. Người nói bệnh của người không phải lý do để tướng công phải rời nhiệm sở, nhưng môn hạ ngại vì người tuổi cao, nếu có mệnh hệ nào, e không kịp. Vậy khẩn có thư này, xin tướng công lưu ý”.
Yagyu Munenori không để lộ xúc động. Ông yên lặng một lúc, vẫy tay cho gia nhân lui rồi vắn tắt với Hyogo:
- Lão nhân gia trong người không được khoẻ. - Đoạn tiếp với giọng điềm tĩnh cố hữu - Hyogo, ngươi hãy thay ta về Nhà Yagyu.
- Dạ.
- Hãy lo phụng dưỡng lão nhân gia, đừng để người thiếu thốn gì. Phải đích thân săn sóc tổ phụ, có tin gì báo cho ta biết ngay, chớ chậm trễ.
- Dạ.
- Tốt lắm ! Vậy về sửa soạn ngay đi, sáng mai lên đường sớm, miễn vào gặp ta nữa.
Hyogo lui ra. Yagyu tướng công mở thư đọc lại, nét mặt đăm chiêu:
“Bây giờ chỉ còn cầu Trời Phật cho lão nhân gia tai qua nạn khỏi mà thôi. Chắc chưa đến nỗi nào !”.
Tin dữ chẳng mấy chốc đã loan truyền khắp tướng phủ. Otsu, mắt đỏ hoe, vội vã đến gõ cửa phòng Hyogo:
- Nghe tin thiếu gia sắc đi Nhà Yagyu, xin cho tiểu nữ đi theo. Đã lâu lắm không được gặp lão cốc chủ, nay nhân cơ hội, tiểu nữ mong được về vấn an và hầu hạ người để đền đáp phần nào ơn cứu trợ.
Thấy Otsu, Hyogo chợt nhớ đến lời hứa với bá phụ khi nãy. Thật là dịp may hiếm có, không để cho nàng đi lần này thì còn dịp nào hơn nữa. Bèn gật đầu ưng thuận ngay:
- Vậy cô nương chuẩn bị đi, tại hạ đến xin phép tướng công. Nếu được, sáng mai ta sẽ khởi hành sớm.
- Đa tạ thiếu gia.
Nói đoạn, Otsu lật đật ra về sửa soạn hành trang rồi lên đại sảnh cáo biệt Yagyu tướng công.
- Cô nương cùng đi với Hyogo, thế thì tốt lắm ! Hắn vừa ở đây ra cũng đã trình ta về chuyện đó. Chắc phụ thân ta rất vui lòng được gặp lại cô nương.
Ông gọi gia nhân mang tiền và một bộ áo vóc thêu hoa mẫu đơn đưa tặng Otsu.
Buổi chia ly diễn ra bịn rịn giữa kẻ ở người đi, lúc trời chưa hửng sáng. Hai nữ tỳ mang đèn lồng cùng đoàn gia nhân tiễn Hyogo và Otsu ra đến tận cổng ngoài. Đốm sao mai lấp lánh qua cành thưa, lúc ẩn lúc hiện, lòng Otsu vui buồn lẫn lộn cũng chẳng khác gì. Trong cuộc đời trôi nổi của người thiếu nữ kém may mắn ấy, mỗi lần đi lại như mang đến cho nàng một chút hy vọng nhưng kèm theo niềm bâng khuâng tiếc nhớ. Hy vọng gặp được người tình. Tiếc nhớ niềm an vui vuột mất.
oo Tiếng gà rừng gáy xa xa. Trời sắp sáng. Chiếc nón nang rộng vành sương xuống ướt đẫm. Otsu xốc lại túi hành trang trên vai, kéo vạt áo sát vào người cho đỡ lạnh, chống gậy dò từng bước theo sau Hyogo. Băng qua bãi cát ướt ven sông và cây cầu gỗ, cả hai tới một con đường lớn được đắp từ thời Kamakura nhưng bây giờ không còn mấy người qua lại. Hai bên đường, cây cao bóng ngả tối đen, yên lặng và sâu hun hút. Hyogo dừng chân chờ Otsu:
- Vắng quá phải không cô nương ? Xưa kia chỗ này nhiều đạo tặc lắm !
- Vậy ư ? Thảo nào nghe rờn rợn. Chỗ này địa danh là gì vậy, thiếu gia ?
- Ngã ba Dogen. Những tên cường đạo cùng bọn đàn em ẩn nấp trong các hang động gần đây hay ra quấy nhiễu, cướp của giết người. Gặp đàn bà con gái chúng bắt cóc mang đi ...
- Ghê quá ! Thôi, thiếu gia đừng nói nữa.
Hyogo cười thầm. Biết làm cho nàng sợ hãi là không nên nhưng chàng vẫn thấy hơi thích thú khi cảm thấy mình mạnh để có thể bảo vệ người khác. Không biết đó có phải là một hiện tượng tâm lý để tự vệ, gây cho ta lòng tự tin hơn trước khi áp đảo kẻ thù hay không, dù sao chàng cũng cần trấn an người bạn đồng hành:
- Nhưng đấy là chuyện xưa kia. Từ khi bá phụ tại hạ lập tư dinh ở Higakubo, bọn chúng đâu còn dám lai vãng nữa. Vả lại, ngày nào chả có lính tuần tiễu.
Otsu gật đầu, yên tâm đôi chút. Tuy nhiên vẫn ráng bước dài hơn để theo kịp Hyogo.
Chợt tiếng lá xao động. Otsu nắm chặt cánh tay chàng kiếm sĩ đồng hành.
- Cái gì thế cô nương ?
- Có người !
- Đâu ?
Otsu trỏ một bóng đen đang lẩn vào bụi rậm. Nhanh như cắt, Hyogo nhảy tới.
Bóng đen vung tay. Ánh sáng của một lưỡi dao ngắn lóe lên.
- Này ! Con cáo !
Hyogo bắt ngay cánh tay cầm dao. Bóng đen vùng vẫy, tay đấm chân đạp.
Nhưng sức yếu, chỉ một loáng đã bị Hyogo đè sấp xuống đất. Thì ra là thằng bé gặp chiều qua trên sườn đồi. Nó vẫn tưởng chàng là con cáo thật.
Nằm trên cỏ, hai cổ tay bị khóa chặt trong lòng bàn tay cứng như sắt của hiệp sĩ trẻ tuổi, Sannosuke thở phì phì, đạp tứ tung. Nhưng nó nhất định không van xin con cáo. Otsu vừa đến. Động lòng trắc ẩn, nàng bảo Hyogo:
- Thiếu gia tha cho nó, tội nghiệp ! Nó còn nhỏ.
Hyogo nới tay:
- Ngươi là ai ? Rình mò chuyện gì ?
Sannosuke không đáp. Otsu gỡ tay Hyogo ra, đỡ thằng bé ngồi dậy.
- Tên em là gì ? Sao mới tinh sương mà đã đến đây được ? Nhà em ở đâu ?
- Thế các ngươi không phải là cáo à ?
Otsu mỉm cười:
- Không, chúng ta không phải là cáo.
- Láo ! Con cáo bị thương ở chân hôm qua đây mà !
Dứt lời đạp mạnh một cái, lấy đà đứng lên, định xông vào đánh nữa. Otsu tránh sau gốc cây kêu lớn:
- Chà ! Thằng bé này dữ quá !
Hyogo hét một tiếng, tay trái giữ hai khuỷu tay Sannosuke, tay phải nắm cổ áo nó nhấc bổng lên, xăm xăm trở lại cây cầu gỗ, dốc ngược đầu nó xuống rồi bảo:
- Thằng này điên. Hay mày bị cáo nó bắt hồn thật chăng ?
Dưới chân cầu, nước chảy ào ào tung bọt trắng. Trong ánh bình mình vừa rạng, Sannosuke trông những hòn đá tròn rêu phủ đen, ngổn ngang như đầu bầy quỷ vẽ trong tranh trên chùa.
- Ta vất mày xuống đây, sợ không ?
Dĩ nhiên thằng bé sợ. Sợ lắm ! Nhưng nó cắn răng không kêu khóc, chân đạp vào thành gỗ thình thình.
- Thiếu gia, thiếu gia làm gì thế ?
Otsu chạy đến, hốt hoảng hỏi Hyogo.
- Thằng bé này dường như bị quỷ ám hay bị Oan hồn nào nhập vào rồi. Mắt nó trừng trừng như mắt người điên vậy.
- Ta không điên ! Ta không bị quỷ ám ! Chính các người là hồ ly hiện hình định bắt hồn ta, còn nói gì ?
- Khoan, đừng nói bậy ! Thiếu gia bỏ nó xuống đi để tiểu nữ hỏi cho rõ. Chắc có uẩn khúc gì đây.
Hyogo đặt thằng bé xuống. Ngồi bệt trên sàn cầu, khiếp sợ, đói khát và bị sỉ nhục, không tự kềm chế được nữa, Sannosuke òa lên khóc. Đáng thương cho nó, bao nhiêu nhuệ khí, khôn ngoan bỗng tiêu tán đâu mất cả Otsu đến ngồi bên, quàng tay lên vai nó, ôn tồn an ủi:
- Tội nghiệp em ! Em ở đâu ? Đến đây có việc gì ? Cứ nói cho ta biết, ta sẽ giúp em. Ta chẳng phải là hồ ly đâu.
Giọng nói và dáng điệu thiếu nữ khiến thằng bé yên lòng. Nhưng nó vẫn phân vân không tin hẳn, hỏi lại, giọng vẫn còn nghẹn nước mắt.
- Thật không ? Thật không phải cáo không ?
Otsu cười, nắm tay nó. Tay nó ẩm và lạnh. Sờ trán. Trán nó hâm hấp nóng.
- Trời ơi, bị cảm lạnh rồi. Tối qua em ngủ ở đâu ?
Sannosuke hất hàm về phía bụi cây:
- Chỗ đó !
- Em từ đâu đến ?
- Kobikicho !
- Mô Phật ! Kobikicho cách xa đây hàng chục dặm đường ! Mà em đến đây làm gì?
- Em phải đưa một cuốn thư vào phủ Yagyu. Người ta bảo phủ Yagyu Ở khu này. Phải khu này tên gọi Higakubo không ?
- Phải.
Sannosuke mở bọc rút một cuốn thư ra đưa Otsu coi. Thấy lạ, Hyogo cũng tò mò ghé mắt nhìn.
- Thư này gửi cho hiệp sĩ Kimura trong phủ.
- Đúng rồi. Vậy ông không phải là cáo. Cáo không biết đọc.
Hyogo cả cười, khiến Otsu và Sannosuke cũng cười theo. Không khí hết căng thẳng trở nên hòa dịu hẳn. Sannosuke tiếp:
- Em phải đưa thư đến tận tay hiệp sĩ Kimura và đợi thư phúc đáp mang về.
Otsu gật đầu, cảm thấy việc này đối với thằng bé quan trọng lắm, như một sứ mệnh nó phải làm và chắc không bao giở để cho ai khác Kimura xem thư ấy. Bèn bảo nó:
- Tướng phủ ở cách đây chừng non một dặm về phía tây. Hiệp sĩ Kimura có ở đó, nhưng em đi sai đường rồi. Phải trở lại đường này mới đúng.
Định mệnh trớ trêu thật. Cơ hội đoàn tụ chờ đợi đã hơn ba năm giữa Otsu và Musashi, một cơ hội hãn hữu còn hơn cả cuộc gặp gỡ giữa ả Chức và chàng Ngâu qua giải ngân hà, lại một lần nữa bị lỡ.
Hyogo chỉ đường thêm cho thằng bé:
- Qua cầu, đến ngã tư thì nhớ rẽ trái. Khi nào nhìn thấy cổng đá cao trên có chòi canh thì hỏi người lính tuần, họ chỉ cho.
Sannosuke cảm ơn định bước đi. Chợt Otsu gọi:
- Khoan đã.
Nàng mở bọc, lấy bốn chiếc bánh nếp gói lá tre mang theo dự bị để ăn đường, đưa cho nó và bảo:
- Ăn đi em !
Sannosuke đứng sững nhìn khuôn mặt người thiếu nữ trước đây nó tưởng là con cáo, lờ mờ dưới bóng chiếc nón nan rộng vành, như cố ghi lấy những nét đặc biệt của ân nhân. Đoạn gỡ lấy bánh giơ ngang mày, nó lí nhí một câu cám ơn rồi cúi đầu chào, quay gót.
Sau nó, tiếng Hyogo dặn với, nửa đùa nửa thật:
- Cứ thong thả mà đi, không xa lắm đâu, đừng để cáo nó bắt hồn mà lạc.
Otsu khẽ thở dài.
- Thằng bé thật lạ !
Bất giác liên tưởng đến Jotaro. Nỗi băn khoăn tràn ngập tâm hồn khiến nàng đứng sững cho đến khi nghe tiếng Hyogo gọi mới sực tỉnh.



Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Sáu T4 06, 2007 2:55 pm
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ

CHƯƠNG 69

KHÚC GỖ









Bộp ! Trái mận xanh rụng ngoài vườn kêu một tiếng khô khan. Trong phòng, dưới ngọn đèn dầu thông hơi rung rung theo nhịp thở, Musashi mải miết đưa lưỡi dao sắc trên một khúc gỗ cũ. Vỏ gỗ mỏng rải rác trên mặt kỷ và khắp nơi quanh chỗ hắn ngồi.
Musashi mới dọn từ quán Mã Đề sang tạm trú tại một phòng sau xưởng mài kiếm của Kosuke. “Thằng bé này khó tính !”. Lời nói của mẹ, hắn thường nghe lúc nhỏ vì mỗi khi không vừa ý điều gì hắn lại khóc ré lên, đòi cho bằng được thứ mình muốn, còn ăn sâu vào tiềm thức như vết sẹo không xóa được của một cái mụn nhọt hắn mang trên đầu thuở thiếu thời. Những kỷ niệm xưa liên tiếp theo nhau qua ký ức, nét mặt và hình dáng mẹ hắn lúc nhạt nhòa, lúc rõ rệt hiện lên như một người mẫu. Mắt Musashi chăm chú, tay thoăn thoắt đưa đi đưa lại trên khúc gỗ. Hắn cố phổ lên đó những nét dịu dàng, yêu thương của mẹ hắn còn giữ được. Musashi đã hứa và cố tạc cho xong pho tượng Quan Âm để đổi lấy thanh kiếm của Kosuke. Hắn làm việc vội vàng suốt từ chiều sau khi vừa thu xếp xong chỗ ăn ở. Vì không sẵn gỗ bạch đàn và theo sở thích riêng của Kosuke, hắn đồng ý tạc tượng trên một khúc gỗ cũ do Kosuke để dành từ lâu và trìu mến đưa hắn:
“Ba năm trước, tại hạ hành hương ở phương bắc, thấy thợ thuyền đang phá một ngôi đền cổ thì dừng lại xem. Đền đổ nát gần hết, nhưng không phải là không giá trị. Họ không biết gì cứ phá bừa. Tiếc quá, tại hạ xin một khúc gỗ làm kỷ niệm. Khúc gỗ này đây, chắc phải lâu hàng mấy trăm năm, thớ gỗ mềm, vân đẹp, đại hiệp xem dùng được thì dùng”.
Musashi nhận lời, nhưng thấy Kosuke băn khoăn lo lắng về khúc gỗ gã coi như vật gia bảo, Musashi đôi khi không giữ được bình tĩnh. Tay hắn hơi run và đã mấy lần phải sửa lại toàn bộ hình thể bức tượng.
Gần sáng, bức tượng tưởng như sắp thành hình, bỗng gặp phải một đường nứt ngay phía trên đầu. Không phải là một nhà điêu khắc chuyên môn, không biết kỹ thuật sửa chữa thế nào cho khéo để che vết nứt, hắn cứ gọt bớt. Khúc gỗ trước dài hơn hai gang tay, nay chỉ còn độ gang rưỡi và không ra hình thù gì nữa. Chán nản, Musashi bỏ dao gục xuống kỷ. Ngọn đèn lụi dần. Ngoài kia, tiếng chim vành khuyên đã bắt đầu lích chích. Hắn thiếp đi lúc nào không biết.
Tỉnh dậy, Musashi thấy trong người dễ chịu hơn, tinh thần bớt căng thẳng.
Hắn ra giếng súc miệng rửa mặt rồi trở vào tiếp tục công trình bỏ dở. Ngọn đèn dầu được khêu to thêm. Musashi đưa lưỡi dao nhẹ nhàng trên khúc gỗ, linh cảm sự sống động của từng thớ cây mềm, tưởng chừng qua mỗi đường dao gọt những thớ gỗ ấy lại phát hiện ra bao nhiêu thăng trầm của lịch sử ngôi cổ miếu. Nếu không cẩn trọng, những đường dao của hắn là những đường dao vô ích làm hỏng cả khúc gỗ, biến khúc gỗ quý báu thành đống vỏ bào vô dụng.
Liên tưởng và so sánh lịch sử ngôi cổ miếu với lịch sử dân tộc, Musashi bỗng giật mình. Và hắn sợ. Những đường kiếm của hắn sẽ để lại gì ? Xây dựng hay chỉ là phá hoại ? Băn khoăn, nghi hoặc, hắn dừng tay thừ người suy nghĩ.
Nhưng một chốc lại thấy Musashi cúi xuống, lưỡi dao sắc đưa lia lịa, cuồng nhiệt. “Lần này phải thành công”, hắn cố moi ký ức, hình dung ra nét mặt mẹ hắn, những nét hiền hậu hắn muốn phổ vào bức tượng lịch sử này, nhưng không thể nào bắt nổi ... Nó nhạt nhòa như sương khói. Nó lãng đãng như ở một nơi xa xôi, vô thức nào hắn không sao đến được. Trước sự bất lực và giới hạn của chính mình, Musashi tức giận hét lớn. Ngọn đèn phụt tắt.
Chủ nhân bước vào:
- Musashi đại hiệp ! Sao thế ?
Musashi nhìn khúc gỗ. Nó chỉ dài độ bằng ngón tay giữa đống vỏ bào Kosuke vãi trên mặt kỷ và xung quanh chỗ ngồi.
- Bức tượng đâu ?
- Hỏng rồi ! Ta đã làm hỏng khúc gỗ.
Hắn gục xuống kỷ. Có tiếng chân dồn dập trong phòng và hình như hắn đang được nâng dậy. Nỗi xót xa vừa tỉnh cơn ảo mộng giảm bớt. Thay vào đó, một màn sương đục trùm lên toàn thân và bọc kín lấy hắn. Dần dần trí não Musashi chỉ còn là một khoảng trống vô hạn.
oo Trưa hôm sau, len lỏi trong đám mã phu dẫn ngựa, Sannosuke trèo vội vã lên thang gác quán Mã Đề, mồ hôi nhễ nhại, quần áo bám đầy bụi đất. Qua cửa văn phòng, mụ quản lý gọi giật lại:
- Thằng bé kia, đi đâu ?
- Lên gác. Tôi trọ với thầy tôi trên gác mà.
- A, ta nhớ ra rồi. Mày đi khỏi quán từ hôm nào ?
Sannosuke lẩm nhẩm tính:
- Từ hôm trước ngày hôm qua.
- Thế là đã ba ngày, hai đêm phải không ?
Sannosuke gật đầu:
- Phải.
- Từ đây đến phủ Yagyu mà ba ngày hai đêm ? Mày thấy có lâu quá không ? Hay là bị cáo nó bắt hồn ?
Sannosuke đáp liền:
- Sao bà biết ? Hay bà cũng là cáo đấy ?
Tìm được lời trả miếng mụ quản lý, nó cười khanh khách, tiếp tục lên thang.
- Thầy mày không ở đây nữa.
Lời nói như gáo nước lạnh dội lên đầu. Sannosuke đứng sững nhìn mụ rồi tỏ vẻ không tin, chạy ba bước một lên gác. Trở xuống, nét mặt nó ngơ ngác:
- Ông ...ông ấy đổi phòng rồi hở bà ?
- Thằng này lạ ...Thì ta đã bảo thầy mày đi rồi ...
- Đi thật à ?
Sannosuke hốt hoảng hỏi lại.
- Không tin thì sổ đây, xem đi.
- Tại sao ...tại sao ông ấy lại không đợi ...
- Tại mày đi lâu quá chứ sao ! La cà cho lắm vào ...
Sannosuke hỏi như mếu:
- Bà biết thầy tôi đi đâu không ?
- Không biết ! Ta nghĩ ông ấy bỏ mày lại vì thấy mày vô tích sự.
Sannosuke tái mặt. Nó chạy ra hiên, hết nhìn đầu phố lại cuối phố rồi nhìn lên trời, nước mắt ứa ròng ròng hai bên má.
Mụ quản lý mỉm cười quay vào, lấy gương soi rồi lấy bông phấn ra thoa lên mặt:
- Ta đùa đấy. Ông ấy chẳng đi đâu xa, dọn sang xưởng mài kiếm bên kia đường ấy.
Đến đấy mà tìm.
Người ta dẫn Sannosuke vào phòng Musashi. Sư phụ nó nằm trên chiếu, hai tay khoanh lại đặt sau đầu, thiêm thiếp như ngủ.
- Thưa thầy, con đã về.
Musashi yên lặng. Trong phòng, không khí buồn tẻ. Những mảnh vỏ bào Kosuke vãi khắp nơi, lấm tấm trắng trong bóng tối. Đĩa đèn dầu thông tắt đã lâu vẫn còn nguyên trên kỷ gỗ. Không thấy sư phụ nói gì, Sannosuke lại nhắc:
- Thưa thầy, con đã về.
- Ai đấy ?
Musashi mở mắt nhìn:
- A ! Sannosuke hở ?
Đoạn thoang thả ngồi dậy. Sannosuke quỳ rạp xuống chiếu:
- Con về trễ, xin thầy tha tội.
Nhưng Musashi lặng thinh, gần như chẳng có phản ứng gì trước sự hối lỗi của đồ đệ. Một lát mới nói:
- Ra mở cửa sổ, dọn phòng xong rồi đi tắm.
Nói xong khoác áo lững thững bước ra vườn, ngồi dưới gốc mận. Sự thất bại sáng nay của hắn chứng tỏ khả năng con người chỉ có giới hạn, và một mình hắn, đơn phương, chưa chắc làm nên chuyện gì hữu ích. Musashi tự hứa sẽ suy nghĩ về điều này kỹ càng hơn trước khi đem lưỡi kiếm phục vụ minh chủ mình chọn lựa.
Quay vào phòng, nhìn đồ đệ quỳ trước cửa chờ lệnh, Musashi ân cần hỏi:
- Con đi đường có mệt không ? Có thư phúc đáp gì cho ta không ?
Thấy không bị quở trách, Sannosuke vui vẻ:
- Dạ có, thưa đây.
Nó lôi trong bóc ra cuộn thư còn lấm tấm vệt mồ hôi trình sư phụ. Musashi bật niêm, đọc:
“Yagyu đại nhân rất tiếc, vì chức vụ, không thể so kiếm cùng đại hiệp.
Tuy nhiên, Yagyu Hyogo, một trong những người thấu đáo về kiếm học nhà Yagyu, có thể bồi tiếp. Chỉ tiếc hiện nay Hyogo đã đi Yagyu để săn sóc chủ, chưa biết bao giờ mới về. Vậy xin hẹn dịp khác”.
Musashi mỉm cười, tự nhủ “Cũng được !”. Yagyu Hyogo là ai, hắn không biết. Hắn chỉ muốn thử tài với Yagyu Munenori, người đã được vời vào giảng huấn về kiếm học cho trưởng nam đương kim lãnh chúa. Nếu không được thì thôi, Musashi chẳng tha thiết gì tranh tài hơn kém với người mang tên Hyogo nào đó.
Để cuốn thư lên kỷ, hắn hỏi đồ đệ:
- Sannosuke, chắc ngươi đi lạc ?
- Dạ.
- Lạc đường tới những ba ngày, ngươi thấy có lâu quá không ?
- Con bị cáo nó dụ.
- Cáo nó dụ ? Ngươi sinh trưởng ở thôn quê, lạ gì con cáo mà bị nó dụ ?
- Dạ ...dạ ...Con không rõ, nhưng đúng con bị cáo dụ đi loanh quanh mất hai ngày đêm.
- Hừ ...lạ thế !
- Dạ, đúng vậy. Có lẽ cáo ở Edo này nhiều và tinh khôn hơn cáo ở miệt Hotengahara, thành ra con bị nó bắt.
Musashi nghiêm mặt nhìn đồ đệ:
- Nó bắt ra sao ?
- Thưa thầy, nó định theo hại con vì con đánh nó bị thương. Con đã lấy nước bọt bôi lên lông mày để làm phép nhưng vẫn bị nó bắt được và trừng phạt.
Trước sự ngây thơ và tin tưởng thành thật của thằng bé, Musashi không nỡ quở trách, chỉ ôn tồn bảo:
- Không phải con cáo trừng phạt con đâu. Chắc con có làm điều gì đáng lẽ chẳng nên làm nên bị lương tâm con trừng phạt đấy. Thôi sửa soạn đi tập buổi chiều.
Ngoài kia, trời ầm ì như sắp bắt đầu một trận mưa lớn.


Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Sáu T4 06, 2007 2:58 pm
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ

CHƯƠNG 70

TIẾNG MUỖI ĐÊM HÈ







Mỗi ngày theo thông lệ, điểm tâm xong, Tadatoshi thường ra đại sảnh hỏi han mọi việc xảy ra trong lãnh địa, duyệt phê những tờ trình của thuộc cấp rồi vào thư phòng đọc sách hoặc cùng với các tham vấn luận bàn về tư tưởng của Nho gia, buổi chiều tập luyện ở thao trường; đến tối rảnh rỗi, đàm luận võ nghệ với các thuộc cấp thân cận cùng trang lứa.
Tadatoshi còn trẻ, tính tình khoáng đạt, nên trong những cuộc mạn đàm như vậy, không khí bên khay trà hay chiếu rượu thường cởi mở, tự nhiên. Ông mặc áo mỏng bằng vải gai, hàn huyên cùng thuộc cấp thật thoải mái.
- Này Okatani, nghe nói ngươi giỏi về môn trường thương, không mấy ai địch nổi, đúng chăng ?
- Bẩm, quả vậy !
Thấy lời đáp ra vẻ đắc ý, không tỏ chút khiêm nhường nào, Tadatoshi mỉm cười:
- Ngươi tự tin lắm nhỉ !
- Bẩm thiếu gia, cho đến nay chưa ai qua mặt được tiểu nhân thì hà tất phải chối cãi làm gì ?
Tadatoshi gật đầu:
- Ừ phải, để đấy. Có ngày ta sẽ thử tài cho ngươi biết.
- Xin đa tạ. Tiểu nhân mong ngày ấy sớm đến.
- Nếu ngày ấy không đến thì may cho ngươi lắm đấy !
Mọi người ha hả cười. Okatani lại nói:
- Thiếu gia chắc đã nghe câu đồng dao trẻ con hát ngoài phố ?
- Chưa, câu gì thế ?
- Câu hát ngụ ý ca tụng tiểu nhân.
- Vậy hả ? Đọc ta nghe thử.
Sử thương nhiều kẻ

Năng luyện ắt tinh

Vạn người khôn địch

Thương Okatani Goroji.
Nghe đọc vừa dứt, Tadatoshi đập tay vào đùi cười sằng sặc:
- Hay lắm ! Khéo lắm ! Nhưng ai đã sửa câu ấy thế ?
- Sửa ? Bẩm có ai sửa đâu ? Câu ấy do người nhà tiểu nhân nghe được rồi về thuật lại đấy chứ !
Tadatoshi vẫn không nín được cười. Lát sau mới lập nghiêm, bảo thuộc hạ:
- Câu này trong một truyện về đời Hậu Hán, dân gian đặt ra để ca ngợi Hàn Lý Thanh, một võ tướng vô địch trường thương đương thời chứ đâu phải tên ngươi.
- Vậy tiểu nhân không rõ, xin thiếu gia tha tội.
- Ta cũng đoán không phải chính ngươi sửa mà là một kẻ nào đó đặt ra để phỉnh ngươi mà thôi. Nhưng nên thận trọng, tự tin là một đức tính, nhưng tự mãn thì không.
Đoạn quay nhìn xung quanh, Tadatoshi hỏi:
- Trong các bằng hữu đây, có bao nhiêu người chuyên về trường thương, bao nhiêu chuyên về kiếm thuật ?
Bảy người thì năm người cúi đầu đáp sở trường về thương pháp, chỉ có hai chuyên về kiếm thuật.
- Trường thương lợi gì mà nhiều người học thế ?
- Thưa đó là võ khí có nhiều ưu điểm lúc lâm trận. Nó dài nên chiếm lợi thế hơn kiếm, miễn đừng dài quá khó sử dụng. Thương dùng đâm, chém, đỡ gạt được cả. Khi chẳng may thất bại, có thể bỏ thương dùng kiếm, còn nếu chỉ dùng kiếm, không may kiếm gãy, sinh mạng coi như trứng để đầu đẳng. Như vậy, kiếm bổ túc cho thương ...
- Không hẳn thế ! - Một kiếm sĩ vội vàng lên tiếng phản đối - Sự nghiệp của chúng ta không phải chỉ giới hạn trong những trận chiến ở sa trường. Huống chi kiếm là linh hồn của kiếm sĩ. Kiếm học giúp ta giữ tâm đoan chính trong khi đi tìm tinh hoa của kỹ thuật, và đó mới là căn bản của mọi sự học tập. Nếu giữ được cái tâm cho ngay thì với võ khí gì, dù cả với hỏa khí nữa, ta cũng không phạm vào những lỗi lầm ngu xuẩn và vô luân. Cho nên kiếm đạo có những áp dụng rất phổ quát ...
Tadatoshi cắt ngang:
- Quan niệm này ta đã nghe ở đâu rồi.
- Thưa đó là quan niệm của tiểu nhân và cũng có thể tất cả những ai lưu tâm đến kiếm đạo.
- Như những ai ?
- Như Koetsu tiên sinh và một danh kiếm đương thời Kojiro. Cả hai đều khẳng định như vậy.
Nhắc đến tên Kojiro, Tadatoshi mới sực nhớ ra chưa quyết định dứt khoát có nên gọi hắn vào để thử tài không. Mặc dầu đã được Sado đề bạt qua trung gian của Kakubei, Tadatoshi thực ra vẫn chưa rõ sở học cùng tài năng Kojiro. Với tuổi ấy, xét lương bổng chỉ cần hơn ngàn gia. lúa mỗi năm cũng đủ.
Nhưng vấn đề không phải ở đấy. Vấn đề, như lời thân phụ Tadatoshi đã nói, chính là xét kỹ người trước khi dùng và khi đã dùng rồi thì đãi ngộ trọng hậu. Xét người kỹ không những về tài năng mà còn cả về khuynh hướng đạo đức nữa. Nếu họ không hòa đồng được với chính sách chung của tộc đảng thì cũng vô ích. Ông đã nói:
“Lãnh địa này ví như một tòa lâu đài được xây cất bởi nhiều phiến đá. Nếu phiến đá nào không đẽo gọt được để có thể cùng ghép chung vào các phiến đá khác, tạo nên bức tường thành vững chắc chống đỡ cho lâu đài khỏi đổ, thì phiến đá ấy dù có tốt đẹp hay to lớn đến đâu cũng bằng vô dụng. Ở trên núi, ở đồng hoang, thiếu gì những phiến đá như thế bị bỏ lại”. Xét khía cạnh này, Kojiro có một ưu điểm. Gã còn trẻ, có thể đẽo gọt để trở thành phiến đá tốt chống đỡ lâu đài họ Hosokawa. Tadatoshi lại nghĩ đến kẻ kia, người kiếm sĩ tên Miyamoto Musashi đã không may để vuột mất. Nếu những điều Sado tham vấn nói là đúng thì kiếm sĩ ấy quả là người dùng được. Tiếc thay ! Chẳng biết bây giờ hắn lưu lạc phương nào ? Nhưng thật khó mà đánh giá. Tài năng cả hai chỉ căn cứ vào những lời đồn đại, có gì chính xác đâu. Xét gia thế, Kojiro được hai lợi điểm:
hắn sinh trưởng tại Suo, lại là môn đệ của Jisai, một danh kiếm mà tài năng ai cũng phải kính phục, tất nhiên sở học vững vàng hơn Miyamoto Musashi, xuất thân từ một gia đình kiếm sĩ tầm thường ở thôn Mimasaka cô lậu và không có căn bản vững chắc về kiếm học.
Bèn quay sang tả hữu, hỏi:
- Các ngươi có ai biết Miyamoto Musashi không ?
- Phải chăng thiếu gia muốn nói đến Miyamoto Musashi ở Miyamoto, đất Harina ? Một Ronin cách đây non bốn năm đã giao tranh với Phái Yoshioka ?
- Ta không rõ lắm nhưng đại cương hình như thế.
Mọi người nhìn nhau không hiểu rõ ý chủ soái nên ngài ngại chưa đáp.
- Có chuyện gì ? Các ngươi định giấu ta chăng ?
- Xin tha lỗi. Về Miyamoto Musashi, bọn tiểu nhân nhận được nhiều tin tức trái ngược, nhưng tựu trung chẳng ai biết diện mạo hắn ra sao mà tin tức cũng không có gì làm bằng chứng nên chưa dám mạo muội.
- Thì ta cũng thế. Nghe nói hắn là một kiếm sĩ dũng mãnh, lại có lòng cứu khốn phò nguy, giúp dân khai hoang nên được mến chuộng lắm phải không ?
- Chuyện đó thì bọn tiểu nhân không biết, nhưng hình như hắn là người rất tàn ác.
Khi còn ở Miyamoto, nơi sinh quán, hắn giết người không gớm tay. Lúc giao tranh với Phái Yoshioka, hắn đã nhẫn tâm chặt đầu cả một đứa trẻ mới tuổi.
Tadatoshi chau mày:
- Thật thế ư ?
- Và ngay bây giờ đây, ở Edo này, cũng có yết thị gọi đích danh hắn ra đối chất với một lão phụ cùng làng về một chuyện điếm nhục gì đó, hình như cướp đoạt vị hôn thê của con trai bà và phá hoại danh dự gia tộc bà thì phải.
- Bảng yết đã lâu chưa ?
- Bẩm cũng mới vài tháng.
- Thế hắn có ra mặt không ?
- Không ! Không thấy động tĩnh gì. Có thể hắn không biết và cũng có thể hắn trốn luôn. Người ta nói trong những trường hợp kém thế, hắn thường lủi mất. Đã mấy lần xảy ra như vậy, nhất là trong lần giao tranh với Yoshioka, sau cùng hắn cũng bỏ chạy, ẩn trốn trên núi mãi về sau mới lộ diện.
Tadatoshi nét mặt đăm chiêu. Những tin tức ông vừa được thuộc hạ cho biết thật khác xa với những tin tức của Sado thuật lại về vị anh hùng khẩn hoang mà nông dân vùng Hotengahara hàng ngày thờ phụng. Hình ảnh người kiếm sĩ ông ngưỡng mộ mờ dần, thay vào đó là mối nghi hoặc mỗi lúc một lớn. Tadatoshi cáo mệt đứng lên lui vào hậu thất. Là người không chịu chấp nhận những điều chưa rõ rệt, Tadatoshi tự nhủ “Con người đó có thể là một kỳ nhân. Ta sẽ tìm hiểu hắn kỹ hơn”.
Hôm sau, ở thư phòng ra, gặp Sado, Tadatoshi không ngần ngại kể lại những tin tức mới biết và yêu cầu ông đặc biệt lưu tâm, nếu có gặp Musashi thì tìm cách dẫn hắn vào dinh ngay. “Vãn sinh muốn biết mặt hắn thế nào và nó i chuyện với hắn một lúc”.
Đến chiều, ở thao trường, Kakubei lại nhắc tới Kojiro. Đặt mũi tên trên dây cung, Tadatoshi nói:
- Ờ, ta quên khuấy đi mất. Cứ dẫn hắn lại đây, lúc nào cũng được. Còn chuyện thu nạp hay không thì sau sẽ xét.
oo Ngồi trong phòng riêng nhà Kakubei, Kojiro rút “cây sào phơi” ra ngắm nghía. Suy đi tính lại, hắn đổi ý không muốn sửa thanh kiếm ấy nữa. Nó tuy dài quá thật, nhưng dùng đã quen, đối với người khác có lẽ gặp khó khăn nhưng trong tay hắn lại là một võ khí cực kỳ lợi hại. Nên hắn đã sai người đến xưởng mài kiếm lấy về.
Dĩ nhiên kiếm vẫn còn nguyên hình cũ, nhưng rút ra khỏi bao mới thấy khác rõ rệt. Từ màu xanh đen, lưỡi kiếm bây giờ sáng loáng, nhuyễn, mịn như gương. Các đốm nhỏ rỉ sét bằng mũi kim đã biết đi hết và hình vẽ sóng gợn dọc theo chiều dài lưỡi kiếm hiện lên, rõ nét như cắt. Ánh thép bóng ngời toa? hào quang, tưởng như mang theo trong lòng nó bao chiến công hiển hách của hàng thế kỷ trước. Toàn bộ lưỡi kiếm rực rỡ tựa tia nắng mai khiến Kojiro không khỏi thốt lên một tiếng “Ồ” ngạc nhiên thích thú.
Càng nhìn lâu, hắn càng đắc ý.
“Ta có cảm tưởng như mới được trông thấy nó lần đầu. Khác trước quá !”. hắn đứng lên múa thử vài chiêu. Không ! Vẫn là lưỡi kiếm đó. Sự khác lạ có chăng chỉ ở bên ngoài, và lần này xoay trở thanh kiếm trong lòng bàn tay, hắn lại có cảm tưởng như vừa được hội ngộ với cố nhân, vừa được nắm một bàn tay quen thuộc.
Tra kiếm vào bao, nghe tiếng “cắc” khô và gọn, Kojiro gật gù:
“Được lắm!”, rồi vỗ nhẹ vào bao kiếm, hắn thấy dậy lên trong lòng một niềm tin tưởng vô biên vào người bạn chí thân ấy.
Mải thử kiếm, Kojiro không để ý và cũng không ngờ có một bóng người đứng ở cổng từ bao giờ nhìn hắn qua khung cửa sổ mở.
- Kojiro - Ồ, Honiden lão bá ! Đến từ bao giờ, sao không lên tiếng ?
Tiếng cười khe khẽ qua cái miệng móm:
- Đến từ lâu. Đại hiệp luyện võ chăng ?
- Không, vãn bối thử kiếm. Thanh kiếm mới đưa người ta sửa lại. Mời lão bá vào trong này.
Nhà Kakubei ở trên cao, tại một nơi được gọi là đồi Lãm Nguyệt, nhở cảnh trí khoảng khoát, từ lưng chừng đồi đã có thể ngắm trăng một cách dễ dàng ngay từ khi trăng mới tỏ. Phòng Kojiro ở trông ra vịnh đằng xa. Những đêm trăng sáng, mây với nước cùng màu, mặt biển đẫm ánh trăng lung linh mờ ảo không phân biệt được đâu là trời đâu là nước, đẹp lạ lùng. Nhưng Kojiro không bao giờ để ý.
Cụ Osugi rửa chân xong, bước vào nhà, ngó quanh quẩn:
- Chà ! Đại hiệp có căn phòng mát mẻ quá ! Không sợ đâm lười ra ư ?
Kojiro mỉm cười cải chính:
- Nhà này của Kakubei, vãn bỗi chỉ ở nhờ. Vả chăng, vãn bối đâu phải là Matahachi !
Cụ Osugi không nhận ra lời nói chọc, hay có nhận ra cũng vờ như không biết.
Bà cúi tìm trong thắt lưng một mảnh giấy đưa cho Kojiro rồi nói:
- Chả có gì làm quà, có bài kệ hiếu tử để đại hiệp đọc những lúc nhàn rỗi. Ta chép một ngàn bài cơ đấy !
- Một ngàn bài ! Nhiều thế ?
Kojiro cầm tờ giấy liếc qua đoạn đầu:
Trên mọi nẻo đường đời

Vạn sự do nhân duyên

Nhân chính là hạt giống

Duyên xúc tác môi sinh

Nhìn vào thân chúng ta

Duyên chính là cha mẹ

Khổ nhọc thuở sinh ra

Dưỡng nuôi từ tấm bé.
...
Hắn đặt tờ giấy xuống:
- Hay lắm, cảm ơn lão bá, để rồi vãn sinh sẽ xem sau.
- Quạ còn biêt tha mồi mớm cho mẹ, vượn biết săn sóc cho già, con người mà không có lòng hiếu thì thua cả loài cầm thú. Ta thấy bây giờ lòng người đen bạc, tình cha con, nghĩa vợ chồng hỏng cả, nên bỏ công chép bài kệ này phổ biến. Đại hiệp thấy ai muốn có kệ tụng thì cho ta biết, ta mang đến.
Kojiro quay đi giấu nụ cười thầm và hỏi sang chuyện khác:
- Tấm giấy cáo thị vãn sinh viết cho lão bá, lão bá đã cho người đem dán khắp nơi chưa ?
- Lâu rồi, nhưng chẳng thấy kết quả gì. Nó vẫn trốn chui trốn nhủi ở đâu chứ có ra mặt đâu.
Đoạn hạ thấp giọng:
- Này, khi đến đây, ta thấy có một người khả nghi lắm. Gã cũng mặc rách rưới kiểu kiếm sĩ lang bạt như thằng Musashi, nhưng không phải nó. Thấy ta, gã nhìn một lúc rồi lủi vào bờ giậu mất.
Kojiro nhíu mày:
- Ai vậy kìa ?
- Gã này đã đứng tuổi. Đại hiệp nên cẩn thận.
Kojiro gật đầu cám ơn, gọi người nhà mang dưa ra đãi khách. Cả hai vừa ăn dưa vừa chuyện vãn. Cụ Osugi than thở đã lâu lắm, có đến mấy năm nay chẳng gặp mặt con, tuổi già càng ngày càng yếu nên mọi việc đều trông cậy cả vào Kojiro chứ chẳng mong gì ở thằng Matahachi. Bà vừa nói vừa khóc.
Chán ngấy vì đã nghe chuyện gia đình bà nhiều lần, lại không hiểu kẻ nào theo dõi mình nên trong lòng băn khoăn nên trong, Kojiro chỉ đưa đà cho có lệ. Câu chuyện trở thành nhạt nhẽo. Ngoài kia trăng đã lên, lấp ló ngọn cây. Thấy không tiện ngồi thêm, cụ Osugi đứng dậy cáo biệt.
Tiễn khách ra cổng xong trở vào, Kojiro khoanh tay gối đầu nằm ngửa trên chiếu, mắt xa vắng. Đèn chưa thắp, muỗi bay vo ve hắn cũng mặc kệ. Qua khung cửa sổ mở, ánh trăng chênh chếch chiếu vào in bóng những ngọn cây rung động lên vách.
Chiều xuống đã lâu mà Kakubei chưa về. “Chắc đêm nay hắn phải ở lại trong dinh”, Kojiro nghĩ thầm rồi dần dần thiếp đi trong tiếng muỗi cùng những tiếng côn trùng ri rỉ quanh hè.
Dưới chân đồi, một bóng đen vừa nhảy qua hàng giậu. Đêm khuya, trăng lơ lửng giữa trời, vằng vặc. Lẩn trong những lùm cây thấp, bóng đen phủ phục, chờ đợi. Rồi như một con ếch, gã bò vào, nhích từng bước, từng bước, sau mỗi bước lại dừng lại nghe ngóng.
Kojiro vẫn ngủ say, tiếng ngáy đều đều khiến bóng đen vững dạ. Gã đưa lưỡi kiếm luồn qua khe cửa, nhẹ nhàng đẩy sang bên. Khung cửa lùa mở hé, êm như ru, bóng đen bò vào, mất hút trong căn phòng tối.
Tiếng ngáy thưa dần, có tiến sột soạt của người vừa trở mình. Bên ngoài, ánh trăng vẫn chan hòa đổ trên những lá trà đen cứng như phủ lên đó một lớp bạc lỏng.
Yên lặng kéo dài chẳng biết bao lâu, một khắc hay mười khắc ? Ý niệm về thời gian mất hết. Chợt tiếng thét như xé toang màn đêm yên tĩnh và sau đó là tiếng mũi kiếm cắm phập xuống chiếu ngay chính giữa chỗ Kojiro nằm. Một bóng người vọt ra ngoài cửa sổ. Tiếp liền đó, Kojiro, tay trái còn giữ bao kiếm, tay phải trỏ mũi “cây sào phơi” vào cổ họng bóng đen đứng thở hổn hển.
- Ngươi là ai ?
Giọng Kojiro hết sức bình tĩnh. Như bức tượng đá, hắn không tỏ vẻ gì ngái ngủ hoặc bị khích động sau cuộc tập kích. Bóng đen vẫn đứng yên không đáp.
- Nói ngay ! Ngươi là ai ? Tên gì ?
- Ta thất bại thì ngươi giết ta đi, cần gì hỏi danh tính. Nhưng báo cho ngươi biết phái Obata sẽ không để ngươi yên.
Kojiro cười nhạt. Thì ra tên này thuộc phái Obata đến để trả thù cho đồng bọn bị hắn giết tại bờ sông Sumida đây ! Một cái xoay tay nhẹ. Lưỡi kiếm loáng lên như lằn chớp dưới ánh trăng. Tiếng rú tắt nghẹn trong cổ họng và một thây người đổ xuống trước nụ cười thỏa mãn chưa tắt của Kojiro.



Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Sáu T4 06, 2007 3:00 pm
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ


CHƯƠNG 71

CHIM BẰNG KHOE VUỐT









Hôm sau trên đường từ dinh Hosokawa về tư thất, Kakubei dừng lại dưới chân đồi, giao ngựa cho vợ chồng người mã phu già trông giữ. Vợ chồng nhà này không con, ngụ tại căn lều gỗ, sinh nhai bằng nghề cho thuê chuồng ngựa và săn sóc những con ngựa được người thuê gửi ở đấy.
Vừa bước vào cổng, Kakubei đã được lão mã phu lật đật ra đón, ghé tai nói nhỏ:
- Tôn khách biết chuyện chưa ? Tối qua lại có vụ giết người, xác còn nằm ở chân đồi đó !
- Lại trộm chứ gì ! Dạo này trộm cướp ở Edo, chẳng ngày nào mà không có.
- Không biết có phải không, nhưng cứ thế này lão cũng ngại lắm, chả biết có bảo toàn được ngựa cho quý khách không !
Kakubei trấn an:
- Không sao đâu, lão đừng lo ! Nếu xảy ra chuyện gì, cứ chạy lên nhà ta, báo cho Kojiro hiệp sĩ biết. Ông ấy ở không có đến cả năm nay rồi, chân tay ngứa ngáy cứ than thở chẳng có việc gì làm.
- Kojiro hiệp sĩ phải chăng là Sasaki Kojiro ?
- Chính thị. Sao lão biết ?
- Ai chứ Kojiro thì giới Giang hồ lạ gì. Người ta bảo ông ra chiêu xuất quỷ nhập thần. Nhưng chẳng biết có chịu giúp cho những kẻ như nô tài này không ?
Lời ca tụng của người mã phu già khiến Kakubei rất vừa ý. Ai cũng biết một trong những bổn phận của thuộc hạ Ở dinh Hosokawa là phải tìm kiếm và đề bạt những kẻ có tài, nhất là về võ học. Kojiro, người được Kakubei bảo trợ, không những còn trẻ, lại quả có tài. Nếu hắn được kết nạp, chức vụ hiện nay của Kakubei không những coi như vững chắc mà còn hy vọng thăng tiến nữa. Tuy thế, không bao giờ Kakubei tỏ ra vì lợi riêng mà vận động cho Kojiro. Lúc nào hắn cũng nói chỉ vì mong muốn lãnh địa Hosokawa được hưng thịnh và trường tồn mà tha thiết lo tròn bổn phận ấy. Cho nên, nếu Kojiro được mọi người biết đến thì chính là một điều tốt, góp phần vào việc nâng cao giá trị của hắn.
Kakubei bước vào nhà. Thấy Kojiro đang ngồi uống trà, hắn cười hớn hở, chào hỏi xong báo có tin vui, nhưng lại vội vào phòng tắm rửa mặt thay áo đã rồi mới trở ra.
Gọi gia nhân, không ai đáp. Hỏi thì Kojiro nói:
- Hôm qua, vì không có việc gì, thằng bộc xin về thăm mẹ, tại hạ đã cho nó nghỉ.
Quái lạ, sao bây giờ vẫn chưa trở lại.
Vì có họ xa với vợ Kakubei nên Kojiro vẫn giữ lễ trong cách xưng hô, tuy nhiên đôi khi hắn cũng tỏ ra lạm quyền như trong vụ cho tên bộc về nghỉ. Kakubei không nói gì. Chắc trong lúc vui, hắn không để ý. Chỉ thấy rót rượu ra hâm, mang lại trước mặt Kojiro rồi cả hai ngồi đối ẩm.
- Hôm nay tại hạ có tin mừng.
- Tin gì ? Kojiro hỏi.
- Như đại hiệp biết, tại hạ nhiều lần đã nêu danh tính đại hiệp ra trước mặt thiếu gia nhưng mãi đến hôm qua mới được ngài lưu ý. Ngài nói mời đại hiệp đến gặp ngài.
Thật là một vinh hạnh.
Tưởng như thế cũng đủ để Kojiro vui mừng. Không ngờ hắn chẳng nói gì.
Kakubei bồi thêm:
- Thuộc hạ trong dinh chẳng thiếu. Ai cũng sẵn sàng giới thiệu người của mình, nhưng dường như thiếu gia đã có chủ ý, muốn hội kiến với đại hiệp trước.
Kojiro rót rượu ra chén, đưa cho Kakubei:
- Xin phép tôn huynh, mừng tôn huynh một chung rượu.
- Hà hà ! Mừng đại hiệp mới phải chứ !
Đoạn giơ cao chén rượu lên “khà” một cái cạn chung.
Thấy Kojiro vẫn ngồi im, không đổi sắc mặt, Kakubei thầm khen con người khí phách, biết tiết chế cảm xúc.
Kojiro lại tự rót rượu ra chén, bưng uống. Lát sau mới nói:
- Đa tạ tôn huynh.
- Có gì đâu ! Xin đừng khách sáo. Đối với kiếm sĩ tài ba, tương lai rạng rỡ như đại hiệp lẽ dĩ nhiên tại hạ phải lo tiến cử lên chủ soái. Đó chỉ là bổn phận, còn riêng đối với đại hiệp, đó là nghĩa tương tri. Có gì mà phải bận tâm.
- Tôn huynh quá khen. Xin biết cho, tại hạ chẳng phải vì lương bổng mà muốn phụng thị họ Hosokawa nhưng chính vì lòng ngưỡng mộ người trong họ ấy, là đương kim lãnh chúa Tadatoshi, thân phụ ngài là Hosokawa Tadaoki  ...
- Vậy bao giờ đại hiệp có thể vào yết kiến thiếu gia ?
- Lúc nào cũng được.
- Ngay ngày mai được không ?
- Được.
Khí nói chuyện, nét mặt Kojiro bình thản, không lộ vẻ háo hức hay băn khoăn mà chỉ tỏ niềm tự tin vững mạnh lạ lùng.
Kakubei lại tiếp bằng một giọng cố làm ra thản nhiên:
- À, chắc đại hiệp cũng rõ thiếu gia chỉ quyết định thu nạp hay không sau buổi hội kiến và sau khi đã lượng định khả năng. Thủ tục ấy mà, tại hạ tin sẽ không có gì trở ngại.
Đặt chén rượu xuống, Kojiro nhìn trân trân vào mặt Kakubei. Rồi với một vẻ lạnh lùng gần như thách thức, hắn gằn giọng:
- Nếu vậy tại hạ không vào. Rất tiếc đã làm phiền tôn huynh.
Mặt Kakubei đã đỏ vì rượu lại càng đỏ thêm. Những tia máu xung quanh vành tai hắn như sắp nổ tung. Hắn lắp bắp:
- Sa ... sao ? Đại hiệp nói không muốn vào gặp thiếu gia nữa ư ?
- Phải. Tại hạ không thích nữa.
Kojiro chỉ vẻn vẹn nói có thế, không giải thích thêm. Sự bất ngờ và thất vọng làm Kakubei ngồi trơ như phỗng. Hắn nhìn kẻ bảo trợ mà lòng muốn điên lên được, nhưng cố nén tức giận.
Cả hai không nói thêm lời nào. Uống hết chung rượu dở, Kakubei đứng dậy về phòng riêng, quên cả cáo biệt.
Một mình trên chiếu, Kojiro cũng đã say, dựa đầu lên kỷ lặng lẽ cười thầm. Hắn biết Kakubei giận lắm vì đã bị đặt vào một tình thế khó xử. Biết nói năng ra sao với vị chủ soái đây ? Nhưng hắn bất cần. Tuy bảo không quan tâm gì đến lương bổng nhưng thực ra không phải thế. Là một người rất nhiều tham vọng, Kojiro muốn có địa vị và tiền tài càng nhanh càng tốt. Mà ngày nay cách nhanh nhất là bằng lưỡi kiếm. Hắn biết khả năng của mình nên không dễ gì để cho sự khiêm nhượng thao túng. Hắn chỉ làm cao một chút thôi, nhằm mặc cả thêm chút danh vọng, và vì đã dự trù hướng đi của mình từ lâu một cách thông minh và khôn khéo, hắn lùi một bước để tiến hai bước. Kakubei tuy lớn tuổi hơn hắn nhưng còn ngây thơ và dễ xúc động lắm.
Trong cơn say, Kojiro mơ thấy mình đang ngụp lặn trong cảnh vinh quang và tiền bạc như nước.
oo Phần Kakubei, tuy có cảm tình với Kojiro, hắn cũng không sao ngăn nổi bực mình.
Ngồi trong phòng riêng, sau khi đã tỉnh rượu, Kakubei loay hoay mãi không biết xử trí ra sao. Vấn đề không phải là phải đối phó cách nào với người bà con bên vợ và cũng là kẻ bảo trợ của hắn, nhưng chính là phải giải thích làm sao với chủ soái. Ai cũng biết Kojiro đã được hắn vận động tận tình để được thu nạp vào dinh, bây giờ sự thể thế này, tất nhiên uy tín của hắn không còn nữa.
Là người có óc quyền biến, Kakubei thử phân tích thái độ mới đây của Kojiro và xét thái độ ấy qua một nhãn quan khác. “Có lẽ Kojiro muốn chứng tỏ là một nhân vật đặc biệt chăng ? Địa vị người khác, tất đã nhảy vào nắm lấy cơ hội rồi. Để xem !”. Càng suy nghĩ, Kakubei càng tin Kojiro, tuy kiêu ngạo nhưng là kẻ có thực tài đáng được nâng đỡ. Như vậy thì vừa có lợi cho mình, vừa có lợi cho hắn. Bèn mưu tìm cách khác thuyết phục.
Ngày kế đó, Kakubei ở luôn trong dinh. Sáng hôm sau về nhà, hắn đến gặp Kojiro, tươi cười bả lả như không có chuyện gì xảy ra.
- Kojiro đại hiệp, trong mấy ngày nay, thiếu gia vẫn hỏi thăm tại hạ về đại hiệp. Mỗi đầu tuần thường có cuộc tranh tài bắn cung, sao đại hiệp không đến tham quan, coi xem thuật bắn cung của tộc Hosokawa ra sao ?
Kojiro chỉ mỉm cười không đáp.
- Thiếu gia nghe danh đại hiệp đã lâu. Ngài muốn gặp, đó là việc thường tình, có gì mà phải câu nệ ?
- Đành rồi, nhưng giả dụ ngài không vừa ý thì có phải tại hạ khó xử không ? Nếu bị từ khước, tôn huynh đã biết tại hạ đâu phải hạng người đi hạ mình cầu cạnh ...
- À ra thế. Vậy lỗi ở tại hạ đã không nói rõ. Chuyện ấy không hề có, không bao giờ thiếu gia có ý ấy.
- Ngài đã nói gì ?
- Chưa có điều gì nhất định, nhưng ngài tỏ vẻ sốt ruột ...
Suy nghĩ một lúc, Kojiro đáp:
- Đa tạ tôn huynh giúp đỡ. Tại hạ thật áy náy để tôn huynh phải lâm vào tình trạng như thế này.
- Đại hiệp thử xét lại xem:
đến gặp ngài một lần, nếu không bằng lòng thì thôi, ngại gì ?
Kojiro gật đầu:
- Vậy cũng được.
Kakubei mừng lắm:
- Ngay ngày hôm nay, được không ?
- Sớm thế ?
- Hôm nay đầu tuần, có thí võ. Thiếu gia chắc thế nào cũng dự kiến.
- Thí võ lúc mấy giờ ?
- Thường thì vào khoảng sau giờ ngọ.
- Vậy để tại hạ chuẩn bị.
Kakubei ra khỏi phòng, hối hả trở lại dinh. Kojiro tắm xong, chọn mặc một chiếc quần bằng hàng ngoại hóa đắt tiền, một kimono gấm, bên ngoài phủ áo chẽn rộng vai màu đỏ khé, hồ bột cứng, chân đi dép da mới và quấn xà cạp màu vàng nghệ. Thanh trường kiếm dài đặc biệt đeo chéo sau lưng, đoản kiếm giắt ngang hông trông đường bệ, rõ ra một kiếm sĩ phục thị cho một đại gia, lương bổng đồng niên vạn gia. lúa.
Hắn hỏi tên bộc:
- Nhà có sẵn ngựa không ?
- Dạ có, nhưng để ở tàu ngựa dưới đồi.
Xuốn đến tàu ngựa, không gặp lão mã phu. Quanh ra sau lều, thấy đám đông. Hỏi ra mới rõ người ta đang lo việc tống táng cho cái xác vô thừa nhận bị giết hai hôm trước.
Xác còn nằm trơ, mắt mở trừng trừng chẳng ai vuốt, ở cổ vết thương sâu hoắm, máu đọng đen lại. Lão mã phu cũng có mặt trong đám người phục dịch ấy.
Kojiro bước tới vỗ vai lão:
- Ta là khách của Kakubei đại nhân ở trên đồi. Hình như lão giữ ngựa cho Kakubei đại nhân ?
Nhìn cách phục sức của thanh niên kiếm sĩ, lão mã phu cũng một phần đã đoán ra là ai rồi, sợ hãi líu ríu:
- Dạ, dạ.
Đoạn hối hả trở về tàu, dắt ra một con ngựa lông xám tro đốm trắng. Kojiro cầm dây cương, vỗ nhè nhẹ lên bờm ngựa, khen:
- Con này được đấy !
- Dạ. Nó thuộc dòng ngựa hay, đại nhân vẫn thường cưỡi, nhưng hôm nay không hiểu sao người lại chọn con ngựa hồng.
Kojiro gật đầu, nhảy lên yên, rút ra một túi bạc nhỏ, lấy ba đồng ném cho lão và nói:
- Để mua hương hoa, còn thừa giữ lấy !
Ngạc nhiên, lão mã phu hỏi lại:
- Mua hương hoa làm gì ?
Kojiro hất hàm về phía đám đông:
- Kẻ chết đó !
Đoạn giật dây cương phóng đi trong tiếng ngựa hí. Qua khỏi chân đồi Lãm Nguyệt, Kojiro khạc và nhổ mạnh bãi nước bọt để xua đuổi cái cảm giác lợm giọng khi nhìn thấy gương mặt đen xạm của tử thi lúc nãy. Hắn có cảm tưởng cái xác hình như đã cử động trong manh chiếu, đôi mắt trắng dã phóng theo hắn. Kojiro thúc ngựa chạy nhanh hơn.
Đến dinh Hosokawa, trời đã xế trưa, chờ ở nhà khách đã lâu, ngồi đứng không yên, chợt thấy hắn, Kakubei chạy vội ra nắm lấy dây cương, vui mừng nói:
- May quá, đại hiệp đến đúng lúc. Hãy nghỉ một chút chờ tại hạ vào bẩm với thiếu gia.
Rồi gọi gia nhân mang nước thơm để Kojiro lau mặt và một khay thuốc lá đặt lên kỷ. Khi gã hầu cận tới dẫn Kojiro ra thao trường, hắn tháo trường kiếm trên lưng trao cho người hầu cận, chỉ mang theo thanh đoản kiếm giắt ngang hông.
Tadatoshi mải bắn cung. Mỗi buổi tập, ông đã tự hứa bắn hết trăm mũi tên, số tên chưa hết, không ai dám cắt ngang nên Kojiro cũng như mọi người khác, đứng xa xa nhìn.
Tadatoshi dé chân chèo, mặc quần ống rộng chùng đến mắt cá, cánh tay trái để trần cầm cung, tay phải mang bao da, dáng trang nghiêm đĩnh đạt nhưng không gò bó.
Mắt ông nhìn thẳng, mỗi phát tên bắn đi, nhanh và mạnh trúng hồng tâm. Tiếng reo hò của thuộc hạ nghe vang động cả thao trường. Kojiro gật gù tán thưởng, nghĩ thầm:
“Thật danh bất hư truyền, không hổ với tổ phụ !”.
Bắn xong trăm mũi tên, Tadatoshi gác cung lên giá. Gia nhân mang nước và khăn lại, thuộc hạ vây quanh thoa bóp tay chân, ông pha trò cười giỡn. Kojiro thấy những điều hắn dự đoán về Tadatoshi sai lạc cả. Có lẽ vì còn trẻ nên vị tiểu lãnh chúa này không có cái phong thái kiểu cách như phần đông các lãnh chúa khác.
Kakubei tiến tới trình điều gì, Tadatoshi khẽ gật. Ông chỉnh lại y phục, đến ngồi dưới lá cờ lệnh của tộc Hosokawa, vẽ huy hiệu một vòng tròn lớn với tám vòng tròn nhỏ bao quanh, tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng và các vì tinh tú.
Kakubei vẫy Kojiro lại gần. Hắn quỳ gối trước mặt vị tiểu lãnh chúa để làm lễ ra mắt rồi được mời ngồi trên ghế đối diện coi như thượng khách.
- Tráng sĩ quê ở Iwakumi ?
- Dạ phải.
- Trước trận Sekigahara, tộc Mitsuhiro ở vùng đó nổi tiếng khôn ngoan, giỏi nghề cai trị. Lệnh nghiêm có phục thị trong tộc đó không ?
- Thưa không. Tiểu nhân nghe nói tiên phụ vì sức yếu nên sớm ở ẩn và quy tiên tại quê nhà.
Sau vài câu thăm hỏi thêm về gia thế, Tadatoshi lại tiếp:
- Nghe nói tráng sĩ muốn phục thị tộc ta. Vì lý do nào lại chọn lựa như thế ?
- Hosokawa là một đại tộc tiểu nhân ngưỡng mộ nên muốn sống chết với tộc ấy.
Ngoài ra không còn lý do nào khác.
Tadatoshi gật đầu, xem chừng vừa ý về lời đáp trên.
- Tráng sĩ có những chiêu kiếm nào đặc biệt ?
- Tiểu nhân vẫn thường sử chiêu Trảm Nhạn và Chiết Liễu.
- Trảm Nhạn và Chiết Liễu ? Ta không nghe nói bao giờ !
- Thưa đó là những thế kiếm do chính tiểu nhân phát kiến.
- Đành vậy, nhưng cũng phải có tiền tích ra sao chứ ?
- Tiểu nhân học kiếm Chujo, sau theo Jisai tiên sinh. Những chiêu kiếm học được, tiểu nhân đã tự biến hóa để chém những cánh nhạn bay thấp và chẻ các nhành liễu rũ ở bờ sông.
Tadatoshi gật gù:
- Phải, phải. Tỉnh Suo nhiều không ngòi, chỗ nào cũng trồng liễu. Chắc tráng sĩ luyện kiếm ở một khúc sông gần nhà ?
- Dạ chính thế.
- Ta muốn xem một vài chiêu kiếm của tráng sĩ, được chăng ?
- Xin tuân lệnh.
Tadatoshi quay nhìn thuộc hạ:
- Trong các ngươi, ai muốn so tài với Kojiro tráng sĩ ?
Thuộc hạ Tadatoshi ở thao trường bấy giờ có đến vài chục người. Họ đứng đằng sau ông, chăm chú theo dõi cuộc thẩm vấn, thấy Kojiro còn trẻ, chẳng biết tài năng ra sao nhưng thái độ và ngôn ngữ huênh hoang tự phụ thì có ý ghét. Vài người định bước ra, nhưng Tadatoshi đã chỉ Okatani Goroji:
- Okatani ! Ngươi đắc ý về môn sử thương của ngươi. Hãy chứng tỏ cho mọi người biết.
- Dạ, tiểu nhân sẵn sàng nếu được tráng sĩ đây cho phép.
- Dĩ nhiên, tại hạ rất hân hạnh.
Câu đáp lễ phép nhưng hết sức lạnh lùng. Trong ánh mắt Kojiro, lóe lên một chút tàn ác.
Tadatoshi vẫy tay cho gia nhân dẹp chỗ trong thao trường. Ghế ngồi và các giá binh khí được tạm chuyển đi nơi khác. Không khí đột nhiên căng thẳng hẳn lên. Cuộc thi tài, tuy bề ngoài là một cuộc biểu diễn kiếm thuật, nhưng mặc nhiên, qua thái độ của các đối thủ, có thể sẽ xảy ra rất ác liệt. Thuộc hạ của Tadatoshi chỉ có kinh nghiệm ở thao trường, không mấy khi được dự kiến một cuộc giao đấu như lần này. Sinh mạng đôi bên không còn quan trọng nữa, đối thủ phải trông vào khả năng của chính mình, chỉ trong chớp mắt hoặc một chút lầm lẫn, thân bại danh liệt như chơi. Đâu đây xem chừng đã phảng phất mùi tử khí.
Đám thuộc hạ nhìn Okatani, đặc biệt tin tưởng vào bạn đồng đạo. Okatani lui vào hậu trướng thay áo lót mới theo đúng truyền thống của kiếm sĩ:
mỗi sáng và trước mỗi cuộc giao tranh, bắt đầu bằng một nụ cười và y phục tề chỉnh vì đến chiều, chẳng biết hình hài có còn nguyên vẹn hay không !
Phần Kojiro, gã đã nhờ Kakubei mượn cho một thanh mộc kiếm.
Đứng ở góc thao trường, tay khoanh trước ngực, gã nhìn đám người bận rộn xung quanh như chim bằng nhìn đàn quạ. Lòng tự tín của Kojiro có thể nói, gần như vô giới hạn. Thái độ ấy không qua khỏi mắt của một số người và họ thầm lo cho tính mạng của Okatani.
Okatani y phục tề chỉnh, vén màn bước ra khỏi trướng, tay phải lăm lăm cây thương dài non một trượng, tay kia một cuộn vải ẩm. Hắn dừng lại, quấn vải quanh mũi thương sắc như lưỡi chủy thủ và dài có đến ba tấc.
- Các hạ làm gì vậy ? Kojiro hỏi. Nếu sợ tại hạ bị thương thì xin cứ yên tâm. Mũi thương sắc hay nhụt cũng thế thôi, đối với tại hạ chẳng quan hệ gì.
Một lần nữa, trong lời nói lễ độ có hàm ý khinh mạn. Okatani liếc xéo đối thủ, mặt cau lại, dữ dội:
- Chắc không ?
- Chắc.
Tadatoshi và đám tùy tùng không ai nói gì nhưng đưa mắt nhìn Okatani dường như ngầm bảo:
“Đã thế thì cứ cho nó nếm thử vài mũi thương trần ...” Okatani gật đầu, lập tức xoay nhanh cán thương, gỡ lần vải quấn ra.
- Được ! Nếu các hạ muốn. Nhưng hãy dùng thiết kiếm. Tại hạ không muốn một đặc quyền nào.
- Không sao, thanh mộc kiếm này cũng hợp với tại hạ lắm.
- Không. Ta không chấp nhận một cuộc giao đấu chênh lệch như vậy !
- Sao ? Các hạ bắt ta dùng thiết kiếm trước mặt thiếu gia đây hay sao ? Ta là khách, đâu dám vô lễ như thế trước mặt ngài.
- Nhưng ...
Tadatoshi vội xen vào:
- Okatani ! Có ai bảo ngươi khiếp nhược đâu mà phải đắn đo mãi không chiều ý tráng sĩ.
Cả hai đấu thủ bèn bước vào giữa thao trường, cúi đầu trước Tadatoshi tỏ ý tôn kính rồi nghiêng mình nhìn nhau thi lễ. Vừa dứt, Okatani nhảy né sang bên, phóng đầu mũi thương vào gáy Kojiro trong một cuộc tấn công tiên thủ chớp nhoáng. Một tiếng “cắc” khô khan, cây mộc kiếm gạt cán thương bắn lên cao, Kojiro đã tiến sát bên đối thủ. Thừa dịp cánh tay đối phương còn vướng chưa kịp thu về, Kojiro thi triển chiêu:
“Chẻ liễu” đưa kiếm phạt chéo ngực Okatani. Nhưng Okatani chẳng phải tay vừa, uốn cong người tránh đòn chí mạng đó rồi lại nhảy sang bên với ý định luôn luôn giữ khoảng cách một ngọn thương giữa hắn và Kojiro. Biết điểm đặc thù này là nhược điểm của lối sử dụ ng trường thương, Kojiro không ngớt khai thác, bỏ lỡ một cơ hội nào mà không tấn công xáp lá cà.
Không để Okatani chiếm ưu thế, hắn nhảy theo bám sát, lúc trước mặt, lúc sau lưng, lúc hai bên sườn, lúc nào cũng sát nách, khiến đối thủ hắn phải cầm ngắn cây thương lại chỉ lo thủ thế. Thành ra cây thương dài một trượng của Okatani hó a vô hiệu, lại còn vướng víu.
Trong khi đó thì Kojiro liên tiếp tấn công như vũ bão bằng kiếm ngắn, thi triển vài chiêu rất ngoạn mục, kể cả chiêu trảm nhạn, khiến Okatani ban đầu còn chống đỡ, sau cứ nhảy lui dần, lui dần. Trông Okatani bấy giờ chẳng khác gì một con chim ưng nhỏ bị chim đại bàng đuổi theo mổ tới tấp.
Chợt một tiếng rắc vang lên, cây thương gãy hai. Mũi thương bắn ra xa, trong tay Okatani chỉ còn một đoạn gỗ ngắn. Cùng lúc, tiếng kêu đau đớn như xé màng tai của gã. Người ta tưởng tiếng rú của kẻ sắp hồn lìa khỏi xác cũng chỉ bi thương và ghê rợn đến thế !
Cuộc so tài ngắn ngủi chấm dứt. Một thuộc hạ khác của Tadatoshi định xách kiếm bước ra nhưng vị tiểu chúa ngăn lại và nói:
- Như vậy cũng đã đủ !
Ông đứng dậy bỏ vào hậu sảnh, nét mặt đăm chiêu, trong khi bạn hữu và gia nhân xúm quanh Okatani xem xét vết thương tìm cách cấp cứu.
Tối hôm ấy, khi Kakubei về nhà, Kojiro hỏi:
- Trước mặt thiếu gia, tại hạ biểu dương kiến thức có quá đáng không ?
- Không. Rất đặc sắc. Ngài rất lưu ý đến kỹ thuật của đại hiệp.
Tuy vậy trong lòng Kakubei hơi khó chịu. Đã biết tài của Kojiro, hắn có cảm nghĩ con chim hắn đang ấp ủ trong tay, sau này có thể trở thành một loài nghịch điểu, biết đâu chẳng gây cho hắn những tai họa bất ngờ.
- Ngài có thể nói thêm gì không, hay chỉ lưu ý đến kỹ thuật của tại hạ thôi ?
- Không nói thêm gì.
- Thôi mà tôn huynh, chẳng nên giấu nhau nữa.
- Ta giấu làm gì ? Ngài chỉ truyền trị thương và săn sóc cẩn thận Okatani mà thôi. Ngài có vẻ xúc động.
Thất vọng, Kojiro ngồi im, lát sau mới nói:
- Thiếu gia xem ra là người có kiến thức và đức độ. Trong tình thế này, nếu cần phụng sự một ai, tại hạ sẽ chọn lựa vị ấy. Nhưng dĩ nhiên, sự quyết định đâu phải ở tại hạ.
Kojiro chỉ nói có thế. Những năm gần đây hắn đã trưởng thành và cả với Kakubei, nhiều khi cũng không muốn tiết lộ hết những suy tư thầm kín.
Theo hắn, chẳng sớm thì muộn, hai tộc Hosokawa và Tokugawa thế nào cũng xung đột, nhất là khi Hosokawa Tadaoki Ở Osaka, tuy bề ngoài làm như ở ẩn nhưng thật ra vẫn chiêu binh mãi mã và thế lực ngày càng bành trướng. Không thể tiên đoán được kết quả ra sao, nhưng có điều những người như hắn, nếu không khôn ngoan mà chọn lầm chúa thì sau này sẽ có thể lại trở thành lang bạt, ăn cơm thí, ngủ đầu hè và sinh mạng nhiều khi cũng không giữ được chỉ vì miếng cơm manh áo.
Hai hôm sau, có tin Okatani đã tỉnh. Nội tạng bị chấn động và xương hông bị giập nát, hắn vẫn còn trong tình trạng khẩn trương nhưng có lẽ không nguy đến tính mệnh. Nghe tin, Kojiro không xúc động. Hắn bình tĩnh tự nhủ nếu sau cuộc thử tài hôm trước không nhận được một chức vụ gì như ý mong ước thì ít nhất hắn cũng đã tạo được danh tiếng.
Nhưng tuần sau, Kojiro ngỏ lời muốn đi thăm Okatani. Rồi không giải thích vì sao lại đột nhiên có lòng tốt như thế, hắn đích thân đến nhà nạn nhân.
Đang nằm dưỡng thương, Okatani cảm động rơi lệ:
- Chiến đấu thì thua được là lẽ thường. Tại hạ sở học còn kém, dĩ nhiên không địch lại được các hạ, đâu dám phiền trách. Các hạ đến thăm thật quý hóa. Xin đa tạ !
Kojiro ra về rồi, Okatani còn tỏ lòng ngưỡng mộ, nói với người thân:
- Trước ta tưởng hắn chỉ là một tên hợm hĩnh, nham hiểm, không ngờ cũng là tay khá, có tài và nhã nhặn.
Đó là phản ứng Kojiro đang mong đợi. Điều đó, hắn cũng đã xếp đặt sẵn trong kế hoạch:
làm cho kẻ thua hắn phải ca ngợi hắn để danh hắn được vang động Giang hồ và ảnh hưởng thuận lợi đến quyết định của Hosokawa lãnh chúa.
Mấy ngày sau, Kojiro lại đến thăm Okatani. Một lần còn sai gia nhân mang đến tặng một con cá tươi lớn.




Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Sáu T4 06, 2007 3:01 pm
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ

CHƯƠNG 74

MỘT CUỘC DÀN XẾP









Đến chân đồi Akagi, đêm đã sang canh. Shinzo và Musashi xuống ngựa dắt theo đường nhỏ quanh co giữa hai hàng trúc cao tới một cổng đá lớn.
Xa xa, vẳng tiếng sáo đưa lại, nghẹn ngào. Âm vang nức nở như khơi dậy trong lòng Musashi một nỗi cảm hoài man mác. Shinzo đẩy cổng bước vào, nói:
- Đây là đường tắt. Tại hạ dẫn đại hiệp theo đường này thật không phải, nhưng nếu đi đường chính thì quá lâu, sợ các vị khách chờ ...
- Có hề gì, các hạ đừng để tâm.
Quanh co một hồi nữa, bỗng thấy ánh đèn thấp thoáng, rồi hai thanh niên cầm thương tiến đến. Khi nhận ra Shinzo, cả hai đều cúi đầu chào. Shinzo hỏi:
- Lão nhân gia đã đi nghỉ hay còn ở đại sảnh ?
- Thưa còn ở đại sảnh.
Shinzo trao cương ngựa cho một thanh niên dẫn đi và bảo người kia cầm đèn soi đường đi trước.
Musashi không biết rõ gia thế Shinzo nhưng xét cung cách đối xử của gia nhân thì gã tất phải thuộc một tộc có danh vọng trong vùng. Chẳng hiểu trường hợp nào thân phụ gã lại quen với người đã biết hắn từ khi còn ở Miyamoto ! Bỗng nhiên Musashi sực nhớ và mười phần đoán được tám chín người đó là ai rồi.
Đường lên đại sảnh quanh co ngoắt ngoéo càng lúc càng cao như tạc trên sườn núi. Tới cửa một tòa lâu đài tường đá dày, cột gỗ lớn hai người ôm không xuể, đã thấy bốn gia nhân túc trực trên thềm cầm đèn sẵn.
Shinzo dẫn Musashi vào ngồi trong phòng đợi rồi xin cáo lui, nói để trình với thân phụ.
Nhìn ra cửa sổ, qua một khu vườn khi ẩn khi hiện dưới ánh trăng, chỉ thấy mây tỏa tứ bề, không có nhà cửa cây cỏ gì khác. Sương mù trắng đục bao phủ khắp nơi, len lỏi cả vào phòng. Musashi dự đoán khuôn viên này có lẽ được dựng trên một ngọn đồi cao hoặc trên một triền núi cheo leo nào đó bao quát cả vùng. Chắc ban ngày, nhìn từ đại sảnh xuống, cảnh trí vô cùng ngoạn mục.
Cửa mở êm như ru. Một tì nữ mặc kimono màu hoàng yến bước vào, để lên kỷ trước mặt Musashi khay trà, bánh và thuốc hút rồi kín đáo lui gót, lặng lẽ như tan biến qua khung cửa. Mùi phấn son còn phảng phất trong phòng, nhẹ nhàng nhưng quyến rũ.
Uống chưa cạn tuần trà đã thấy chủ nhân tới. Ông thấp lùn nhưng thật khó mà đoán được tuổi. Tóc ông lốm đốm bạc, phía trên trán có lẽ không cần cạo vì đã hói gần hết, răng cửa hổng hai cái. Tuy thế, da dẻ hồng hào không một vết nhăn trên mặt, ria mép và tóc mai dày chứng tỏ sức lực còn sung mãn. Ông chính là Hojo Ujikatsu, một hào trưởng vùng này, trước cũng là kiếm sĩ có danh vọng phụ thị trong đạo quân ngự lâm. Trong cuộc chiến Sekigahara, Ujikatsu đứng về phe chiến thắng nhưng sau đó không nhận tưởng thưởng gì. Tính tình phóng dật, không ưa bị câu thúc nên ông lui về ở ẩn tại tòa lâu đài do tổ phụ dựng lên từ mấy đời trên sườn núi Akagi này, lấy cớ để bảo vệ di sản của ông cha nhưng chính thực để được sống an nhàn theo sở thích.
Buổi sơ kiến, qua những tràng cười thành thật và hào sảng của ông, Musashi đã có hảo cảm ngay, cho nên sau khi thi lễ và vài câu xã giao, hắn hỏi thẳng:
- Vãn bối được lệnh tử cho biết có người muốn gặp. Dám xin lão tiền bối xác nhận phải thế chăng ?
Ujikatsu gật đầu:
- Phải. Chẳng những một mà là hai người nữa kia. Một vị may mắn đã được biết đại hiệp khi còn ở Miyamoto, vị kia thì chỉ mới nghe danh nhưng rất mong được hội kiến.
- Thật hân hạnh. Vãn bối đã đoán được người đó là ai rồi.
- Ai thế ?
- Phải chăng là thiền sư Takuan ?
Đập mạnh chiếc quạt đang cầm lên đùi, Hojo Ujikatsu cười ha hả:
- Phải rồi ! Thật không điều gì giấu được đại hiệp !
Đoạn không đợi Musashi nói thêm, ông đứng ngay dậy:
- Xin mời đại hiệp theo lão phu.
Ujikatsu xăm xăm tiến vào một hành lang sâu và hơi tối ở phía trong. Hành lang rộng nhưng ngoắt ngoéo, lúc lên lúc xuống, lúc hướng sang trái lúc quặt sang phải, Musashi theo mà gần như lạc hướng. Đến một khúc rẽ, đột nhiên không thấy chủ nhân đâu. Đang phân vân, chợt nghe tiếng Ujikatsu gọi:
- Musashi đại hiệp ! Lão phu ở dưới này !
Tiếng gọi dường như phát ra từ một căn phòng sáng có rèm che ở phía dưới. Từ chỗ hắn đứng đến căn phòng ấy là một khoảng lõm tối om trong vách đá và ở gần đấy, một cửa hông mở hé trổ ra khu vườn nhỏ hắn trông thấy khi ngồi trong phòng đợi.
Bất giác Musashi cảm có điều gì bất ổn. Tiếng chủ nhân lại gọi vọng lên:
- Có chuyện gì vậy, đại hiệp ? Chúng ta ở cả dưới này, ngay cuối hành lang, xin xuống ngay cho.
Musashi vội đáp:
- Đa tạ. Vãn bối tới ngay bây giờ !
Dứt lời, quay ngoắt trở lại mở cửa hông bước ra vườn rồi men theo những bậc đá ở hàng hiên dốc mé tả mà vào phòng.
Cửa vừa mở, Ujikatsu quay nhìn Musashi không giấu vẻ ngạc nhiên trên nét mặt, nhưng ở góc phòng, thiền sư Takuan chỉ ngẩng đầu mỉm cười. Musashi đến quỳ trước mặt Takuan, dáng điệu vô cùng tôn kính !
- Thầy Takuan !
Nhà sư phong thái vẫn như xưa, tuy diện mạo có già hơn đôi chút. Vẫn bộ áo chùng nâu cũ, vẫn cái dáng điệu ung dung gần như buông thả, nhưng lần này ở đây không thấy ông đeo tràng hạt. Hình thức bề ngoài hình như không còn để cho thiền sư quan tâm nữa.
- Lâu lắm chẳng gặp con, tuy vậy ta vẫn để ý theo dõi hành tung của con cho đến khi con rời khỏi xưởng mài kiếm của Kosuke.
Lời nói thân tình mà nặng ý quan hoài khiên Musashi cảm động.
- Lần cuối cùng ta gặp con ở đâu nhỉ ? À phải, ở Kyoto, có đúng không ? Sau khi mẫu thân ta mất, ta ở lại cư tang một năm rồi lại lên đường phiêu du, thăm nhiều đền miếu và các thân hữu, đọc các kinh sách lạ, đàm đạo với chư tăng, cũng thu thập được nhiều điều bổ ích lắm.
- Thế thầy mới đến Edo này thôi ư ?
- Ừ, ta được biết chủ nhân đây trong một dịp tình cờ qua sự giới thiệu của một thân hữu chung. Thế còn ngươi ? Trong thời gian đó làm những gì ?
- Theo dõi hành động của con, chắc thầy đã rõ.
Nhìn Musashi, Takuan dường như muốn so sánh hắn bây giờ với gã nông dân Takezo khi trước. Ông mỉm cười, chậm rãi:
- Sao còn quan tâm đến những việc đó ? Một người ở tuổi con mà đã nổi danh như thế chẳng phải chuyện thường, nhưng chừng nào con không làm điều gì ô nhục, xấu xa thì có gì đáng trách ? Điều ta muốn biết là sự luyện tập của con đến đâu rồi ?
Musashi trình bày sơ lược những học hỏi và thành quả của mình trong những năm qua cho Takuan nghe rồi kết luận:
- Con sợ còn dại dột, sự suy tư chưa được chín chắn, hành động đôi khi còn khinh suất. Càng đi, con thấy đường càng dài và có cảm tưởng đang trèo một con dốc vô tận mà chưa trông thấy đâu là đỉnh núi.
Takuan gật gù xem chừng thỏa mãn về những nhận định thành thật của người thanh niên ông bảo trợ.
- Phải như thế, con ạ ! Nếu một người ở lứa tuổi ba mươi mà tự cho mình đã đến bờ giác thì sự tu luyện coi như chấm dứt rồi. Gã sẽ luẩn quẩn mãi trong mê muội. Ta thật bối rối nếu có người coi ta như một vị bồ tát hay sùng mộ ta như một vị Phật sống. Hãy tự cho là may mắn khi thấy người đời không đánh giá con quá cao, con ạ !
Musashi cúi đầu cung kính:
- Con xin bái lĩnh lời thầy dạy.
Vừa khi ấy, một người trạc trung niên, dáng đường bệ, tay còn cầm trường kiếm để nguyên trong bao, bước vào. Thấy Musashi ngồi bên Takuan, người ấy khựng lại, đưa mắt nhìn chủ nhân rồi lại nhìn nhà sư, đoạn phá lên cười ha hả:
- Phải chăng đây là Musashi đại hiệp ?
Musashi cúi chào:
- Chính phải. Tiểu nhân là Miyamoto Musashi, sinh quán tại Miyamoto. Dám hỏi phải chăng ngài là Yagyu đại nhân ?
- Đúng. Ta chờ đại hiệp trong phòng tối từ lâu không thấy đi qua. Giờ đã ở đây rồi!
Khá thật !
Hojo Ujikatsu quay sang Musashi, giải thích:
- Đó là mẹo nhỏ do chính lão phu chủ trương, đại hiệp sớm phát kiến làm cho lão thật bẽn lẽn.
Takuan cười:
- Đó là cuộc đùa chơi, có gì mà chủ nhân phải để ý !
Nhưng Ujikatsu vẫn trần tình:
- Lão phu không ngờ Musashi đại hiệp lại linh mẫn đến thế ! Nghe nhiều lời đồn đại về đại hiệp, lão phu muốn chính mắt được chứng kiến võ công của đại hiệp nên đã bày ra trò này và mời Yagyu tướng công giúp một tay. Khi đại hiệp dừng lại ở hành lang, chính ngài là người đứng trong phòng tối sẵn sàng rút kiếm để thử xem phản ứng của đại hiệp đến mức nào.
Musashi cười:
- Ra thế đấy !
- Nhưng đại hiệp lại đi cửa khác, vòng ra ngoài vườn mà vào phòng này. Dám hỏi lý do gì khiến đại hiệp phát giác ra có bẫy mà tránh ?
Musashi không trả lời. Thực ra hắn cũng chẳng biết trả lời ra sao nữa. Takuan bèn đỡ lời:
- Chỉ là khác biệt về phản ứng.
- Thế là thế nào ? Xin đại sư nói rõ thêm.
- Phản ứng của một chiến thuật gia khác với phản ứng của một kiếm sĩ. Phản ứng chiến thuật căn cứ trên tri thức, do suy luận mà có. Phản ứng của kiếm sĩ do trực giác.
Khi tôn huynh dẫn hắn theo đường hành lang tới căn phòng này, tôn huynh suy luận đương nhiên hắn sẽ đi theo. Nhưng không ! Đến một chỗ nào đó, trực giác linh mẫn của hắn chắc đã cảm thấy có điều khác lạ nên hắn lập tức phản ứng. Và vì điều khác lạ đó không xác định được ngay, hắn đã chọn cách an toàn nhất để tự vệ:
tránh né.
Phản ứng ấy rất thông thường của người cầm kiếm và hoàn toàn theo bản năng.
- Phải chăng cũng giống như trường hợp đốn ngộ trong thiền phái ?
Takuan gật đầu:
- Ở một phương diện nào đó, nếu tuệ căn mẫn nhuệ thì cũng có thể so sánh như thế !
- Đại sư đã bao giờ gặp trường hợp như vậy trong lúc nghiên cứu thiền học chưa ?
Takuan mỉm cười:
- Bần tăng không biết, vì giá có gặp cũng không ý thức được.
Yagyu Munenori xen vào:
- Dù sao, bài học đáng để chúng ta suy gẫm. Một kiếm sĩ nào khác thấy nguy hiểm có lẽ đã rút kiếm xông bừa, áp đảo địch thủ, thắng bại trông vào tài năng. Hành động của Musashi đại hiệp thật khác thường, giải quyết vấn đề êm thấm và thích đáng.
Nói đoạn, quay sang Musashi ngồi ở góc phòng, ông tiếp:
- Kimura có đề cập đại hiệp nhiều lần với lão phu và cách đây không lâu, có trình bức thư của đại hiệp. Bấy giờ vì căn bệnh của lão nhân gia trở nên trầm trọng nên rất tiếc đã không chiều lòng đại hiệp được. Tuy nhiên ...
Ông ngừng lại một lúc. Takuan hỏi:
- Vậy tình trạng của Yagyu lão tiền bối bây giờ ra sao ?
- Cũng không khá hơn trước mấy. Gia nghiêm tuổi đã cao, nếu chẳng may mệnh hệ nào ...
Nhưng bỏ dở câu nói, Yagyu lại trở về với ý lúc nãy:
- Nếu không nệ, xin đại hiệp coi những lời yêu cầu trong thư như thế là đã thực hiện. Lão phu hy vọng, phương cách không mấy công chính ấy không làm đại hiệp phật ý !
Musashi rạp đầu:
- Tiểu nhân đâu dám trái lệnh.
Sự cung kính của Musashi cũng chỉ là tự nhiên. Yagyu Munenori tướng công ở vào một địa vị quá cao, không những ở hiện tại, mà vào hàng danh gia thế tộc từ lâu đời. Đối với một kiếm sĩ lang bạt và nghèo như Musashi, sự có mặt của hắn với ông cùng trong một phòng đã là điều lạ, huống chi còn ngồi chung đàm đạo với nhau như bạn hữu.
Chủ nhân gọi tì nữ hâm rượu mang tới. Chén chú chén anh, câu chuyện lan man sang nhiều vấn đề khác ngoài lãnh vực võ học. Musashi nhận thấy sự phân biệt tuổi tác và giai cấp xã hội không còn nữa. Takuan và Ujikatsu, cả hai đều không tỏ vẻ gì quan tâm đến chức tước của Yagyu cả. Họ coi nhau như anh em và hắn cũng đã được chấp nhận như thế vì cùng theo một lý tưởng đi tìm tinh hoa của Đạo, dù đó là thiền đạo hay kiếm đạo.
Rượu được vài tuần, Takuan hỏi Musashi:
- Otsu dạo này thế nào ?
- Đã lâu lắm con không được tin tức gì của nàng.
- Mô Phật ! Ngươi không quan tâm gì đến nàng nữa sao ?
- Otsu phải chăng là thiếu nữ trước đây hầu cận lão nhân gia ở Nhà Yagyu ?
Yagyu hỏi.
- Thưa chính phải.
- Thế thì lão phu biết. Năm ngoái, nàng được Kimura dẫn về tướng phủ, bây giờ lại trở lại Nhà Yagyu rồi. Nàng giúp xá điệt săn sóc lão nhân gia.
Nhân cơ hội, Takuan nói sơ về thân thế Otsu và mối liên hệ giữa nàng với Musashi. Nhà sư kết luận:
- Bần tăng nghĩ sớm muộn gì cũng phải có giải pháp thỏa đáng mà bần tăng là kẻ tu hành không tiện đứng ra tác hợp. Xin nhị vị giúp cho một tay.
Musashi cúi đầu yên lặng, trong lòng hết sức phân vân. Giữa tình yêu và sự nghiệp, sự giằng co vẫn chưa ngã ngũ. Trước kia, trên cầu Hanada, khi khắc những dòng chữ từ biệt lên thành cầu, hắn đã quyết tâm trốn tránh Otsu. Nhưng lòng hối hận day dứt, hắn lại tìm gặp người yêu. Quãng đường từ quán Liễu Kiều đến thác Phu Phụ còn để trong tâm khảm hắn bao nhiêu xúc động mà mỗi khi nghĩ đến, Musashi lại thấy lòng rộn lên một niềm yêu thương dào dạt. Không ngờ con tạo trớ trêu, chia ly xảy ra liền đó. Âu cũng là số mệnh, nhưng đối với Musashi, vô tình số mệnh đã dẫn hắn tiếp tục đi theo con đường tuy cam go nhưng đầy khích lệ của kiếm đạo. Hắn đã quên Otsu, đắm mình trong việc tập luyện, quên bản thân, giúp dân xóm tiều Hotengahara chống giặc cướp và nhọc nhằn canh tác.
Cho đến đêm nay, trong cuộc hội ngộ bất ngờ này, Musashi không ngờ lại bị đặt trước một quyết định khó khăn. Như một đống tro chưa tàn hẳn, lời nói của Takuan là cơn gió khơi dậy ngọn lửa yêu đương trong lòng hắn và nhắc cho hắn đừng quên trách nhiệm và bổn phận đối với người con gái đã từng cứu hắn thoát khỏi cơn nguy khốn năm xưa. Động lực nào đã run rủi nhà sư làm việc này ? Đó là một suy tính có kế hoạch hay chỉ là lòng thương xót chúng sinh ? Musashi bối rối.
Ujikatsu gật gù khen phải và Yagyu cũng cho rằng đã đến lúc Musashi phải ổn định đời sống. Trong thâm tâm, ông nghĩ nếu hắn chịu lập thân tại Edo thì sau này tộc Tokugawa sẽ có thêm một tay kiệt xuất và không còn lo gì những cuộc nổi loạn nữa. Về tình và lý, xem ra cả hai người đều tán đồng ý kiến của Takuan và hoan hỉ đứng ra bảo trợ cuộc hôn nhân. Ngoài ra, Yagyu dự định sẽ đề bạt Musashi vào một chức vụ huấn luyện kiếm thuật trong giảng huấn bộ của Tokugawa lãnh chúa. Ngặt nỗi chức này phải tuyển chọn rất kỹ và người được đề bạt ít nhất phải là thành viên của vệ binh đoàn trong phủ. Nhất là sau vài vụ nổi loạn được phát giác kịp thời và dập tắt, sự thanh lọc hàng ngũ những cận vệ của Tokugawa lãnh chúa càng gắt gao hơn nữa. Vấn đề gai góc chính là gia thế của Musashi. Không có giấy tờ gì chứng minh hắn thuộc dòng dõi kiếm sĩ danh vọng, nói gì đến liên hệ huyết thống với Tokugawa lãnh chúa. Tệ hơn nữa, trong cuộc chiến Sekigahara, Musashi lại đứng về phía bên kia và dường như tổ phụ hắn trong những thế kỷ trước, đã bị giam giữ và sát hại tại một trong nhiều căn thạch thất của lâu đài. Tuy nhiên, cả ba đều đồng ý là với sự can thiệp và bảo lãnh của Yagyu tướng công cùng Takuan thiền sư, vấn đề có thể giải quyết được.
- Thế nào, con nghĩ thế nào về việc này ?
Takuan hỏi.
- Con xin đa tạ và tri ân thầy cùng nhị vị tiền bối đã tỏ lòng ưu ái, nhưng con tự xét hãy còn not nớt ...
- Khoan ! Đừng nhìn vấn đề ở mặt ấy. Nào có ai bắt ngươi khi đã lập thân rồi thì phải thôi không được luyện tập nữa đâu ! Trái lại, chúng ta còn khuyên ngươi phải trau dồi tâm, đức và kỹ thuật cho thật hoàn hảo, đừng bao giờ xao lãng. Vấn đề chúng ta muốn biết là ngươi có định nhận trách nhiệm không hay cứ để mặc Otsu chờ đợi như thế cho đến khi nàng nhắm mắt ?
Musashi có cảm tưởng bị sập bẫy. Otsu đã nói với hắn nàng chấp nhận mọi sự thử thách nhưng như vậy không có nghĩa là hắn trút bỏ mọi trách nhiệm cho nàng. Otsu yêu hắn và hắn cũng yêu Otsu. Tình yêu đã được chia xẻ. Đối với Otsu, mối tình ấy là lẽ sống duy nhất của đời nàng, nhưng đối với Musashi lại khác.
Con đường còn dài, hun hút trước mặt mà lòng nhiệt thành theo đuổi kiếm đạo của hắn vẫn chưa nguôi.
Yêu Otsu, nhưng Musashi cũng yêu kiếm, say mê cuộc sống Giang hồ hành hiệp và muốn dâng hiến cả tâm tình lẫn thể xác của mình cho công bằng xã hội, cho lý tưởng cao đẹp mà kiếm đạo đã vạch ra, soi sáng đời hắn như một ánh chân quang.
Gia đình và công danh, với những ràng buộc của nó, có để cho hắn làm tròn được ước vọng ấy không ? Musashi sợ rằng không. Lưỡi kiếm mang bên mình, hắn sẽ không còn được rút ra tung hoành vì đại nghĩa, cũng như tâm hồn hắn sẽ phải đóng khung cứng ngắc trong những tư tưởng đã định ; những giáo điều có sẵn, những chỉ thị được ban hành nhiều khi không hợp với suy tư của hắn.
Nghĩ đến đây, Musashi nhăn mặt. Hắn không dám trình bày hết ý, sợ bị bài bác và cho rằng đã có tư tưởng vô trách nhiệm và không thực tế ; nên chỉ quanh quẩn trong những lý do:
còn quá trẻ, chưa đủ trưởng thành, sự tập luyện chưa được như ý muốn ...
Takuan gạt đi:
- Không sao ! Con cứ tin cậy ở chúng ta !
Hojo Ujikatsu cũng phụ họa:
- Đại hiệp chẳng nên từ chối. Việc này thế nào rồi cũng xong. Yagyu tướng công đảm trách tiến cử đại hiệp, còn lão phu xin lo hết mọi chuyện vật chất về hôn sự.
Ông nghiêng mình về phía trước, cầm quạt đập nhẹ lên đùi Musashi, cười hà hà:
- Chỉ xin đại hiệp khi thành gia thất đừng quên ngu lão.
Musashi thừ người, chẳng biết mình chủ động hay là nạn nhân của cuộc dàn xếp.



Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Sáu T4 06, 2007 3:02 pm
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ


CHƯƠNG 75

TIẾNG TRỐNG







Trận bão đêm trước trên đồng cỏ Musashino xem chừng còn dữ dội hơn cả cơn lụt ở Hotengahara dạo nào. Hàng năm, những ngày đầu tháng tám là những ngày nông dân địa phương lo sợ nhất. Gió bão liên miên khiến mùa kê lúa thiệt hại nặng nề, nhà cửa sập đổ. Ấy là theo lời khuyên của những người trong vùng, thầy trò Musashi đã đề phòng từ trước, chặt cây chống sườn nhà và lấy đá đè lên mái, thế mà căn lều vẫn không vững trước cơn bão. Bây giờ nó nghiêng hẳn sang một bên, gianh lợp tróc nhiều chỗ, mỗi khi gió hơi manh, kèo cột cọ vào nhau kẽo kẹt như đưa võng. Trong nhà, vật dụng, quần áo ướt nhẹp, nước mưa đọng thành vũng. Mấy quyển sách của Sannosuke sũng nước. Nhìn những hàng chữ nhòe nhoẹt trên tập giấy mủn nát, mắt nó đỏ hoe, Musashi đến bên, vỗ về an ủi:
- Thôi con ạ, để khi có dịp, ta sẽ dẫn con đi mua quyển khác.
Sannosuke ôm thầy khóc nấc. Mặc cho thằng bé được tự do xả hết nỗi phiền muộn qua hai hàng nước mắt, lúc sau Musashi mới ôn tồn nói:
- Chuyện thiên tai, có tiếc mấy cũng không làm gì được. Lần sau, chúng ta phải cẩn thận hơn. Con đi nấu cơm ăn đi.
Sannosuke lau nước mắt:
- Nhà không còn gạo, để con nướng hạt dẻ thầy lót lòng.
- Không, ta không đói. Con cứ nướng hạt dẻ mà ăn. Ta vào trong xóm, chiều mới về được.
- Thầy vào trong xóm làm gì ?
- Bão lớn chắc nhiều nhà sập và ruộng kê ngập nước hỏng cả. Ta đến giúp họ một tay.
Sannosuke tần ngần nhìn sư phụ bước ra cửa. Nó tự hỏi ông nghĩ gì khi căn nhà của chính ông không lo sửa chữa lại đi giúp sửa những căn nhà của người khác. Nhưng nó không dám tỏ ý. Khói bếp tỏa dày đặc làm nó cay mắt. Sannosuke cời than vùi hạt dẻ vào rồi bó gối nhìn những tàn than nổ lách tách. Mỗi khi thấy hạt dẻ chín bắn ra, nó nhặt vội, xoa vào quần cho bớt nóng rồi suýt soa ăn, quên hết nỗi buồn phiền khi nãy.
Không khí ấm áp quanh bếp lửa khiến nó vui trở lại. Ăn xong, Sannosuke mang quần áo ra hong và xếp dọn chỗ nằm cho sư phụ.
Xế chiều, Musashi trở về đem theo kê, gạo và cả bánh đậu đã làm sẵn khiến Sannosuke mừng hết sức.
- Đây là những món quà dân xóm tạ Ơn. Bánh đậu này khá ngon, ta mang về cho con đó.
Thì ra khi ta quên mình để giúp người, tự nhiên ta sẽ được người khác giúp. Sannosuke tự nhủ. Bài học tương trợ ấy làm nó sực tỉnh.
Hai ngày sau, trong khi thầy trò Musashi đang hì hục dựng lại căn lều, lại có ba nông dân tới. Họ đến giúp thầy trò hắn. Nhưng thấy lều đổ nghiêng quá nguy hiểm khó mà dựng lại được, họ đề nghị cả hai đến trú tạm tại nhà họ ít lâu, chờ lối xom gặt xong sẽ góp sức chặt cây cất cho hai thầy trò một căn nhà mới. Những người dân quê chất phác ấy đã tỏ lòng lân ái và tương trợ một cách tự nhiên thật cảm động. Chẳng tiện từ chối và thật ra cũng đang cần một nơi trú ngụ, Musashi nhận lời, cúi đầu cảm tạ. Hôm sau, hai thầy trò thu nhặt hành trang cùng vật dụng đến tạm cư tại nhà một trong ba người hàng xóm.
Thấm thoắt đã gần nửa tháng. Tiết trung thu, trăng sáng vằng vặc. Dịp này, công việc đồng áng tương đối mãn, nhiều nơi trong vùng bắt đầu mở hội. Nghe tiếng trống từ xa vọng đến, Sannosuke lại nhớ đến những đêm đi xem hội xưa kia, chen vai thích cánh giữa đám đông, nghểnh cổ nhìn các vũ công đeo mặt nạ múa hát trong những tiếng reo hò ầm ĩ. Nó mong cho chóng sáng, hỏi thăm chố nào đánh trống. Nghe nói ở đền Mutsumine trên núi Chichibu.
Sannosuke, lúc pha trà cho Musashi, đã khéo dò ý:
- Núi Chichibu có xa đây không thầy ?
- Không xa lắm. Con hỏi làm gì ?
- Con muốn đến đền Mutsumine xem tế thần.
Musashi nhướng mày hơi lấy làm lạ về sự đột nhiên quan tâm đến việc tế tự của đồ đệ. Hắn gật gù:
- Cũng tốt.
- Thế thầy dẫn con đi nhé ! Nhà mình chưa khởi công, đợi họ gặt xong đã, chắc cũng phải hết tuần trăng ...
Nhìn Sannosuke, Musashi cười mỉm:
- Chắc ngươi lại muốn đi coi múa hát chứ gì ?
Thằng bé toét miệng, gật đầu. Khúc nhạc và điệu vũ độc nhất Sannosuke biết đều do ở những cuộc đi xem hội lúc còn nhỏ vùng Hotengahara. Nó rất thích và không bao giờ quên được những âm thanh của khúc nhạc khi tươi vui, khi nghẹn ngào đứt quãng, những tiếng ự ... ư ... ư ..., theo nhịp dậm chân của vũ công trên sàn gỗ. Và tiếng trống !
Trời ơi ! Tiếng trống sao mà thúc giục và lôi cuốn đến thế ! Nó nôn nóng hỏi Musashi:
- Con nấu cơm, nắm mang đi ăn đường thầy nhé ! Hôm qua thầy nghe tiếng trống không ? Họ tập để vào hội ngày mốt đấy !
- Sao ngươi biết ?
- Người ta bảo thế !
Tính nết Sannosuke nhắc Musashi nhớ đến đồ đệ cũ. Thằng Jotaro muốn điều gì thì hay vòi vĩnh, không như Sannosuke khôn khéo hơn biết dò ý, xếp đặt có lớp lang và tính toán. Bất giác nghĩ đến tuổi thơ của mình không có ai để mà vòi vĩnh, hắn thương cả hai đứa, không nỡ từ chối, gật đầu:
- Ừ thì đi !
Sannosuke hối hả xuống bếp nói vọng lên:
- Tối nay còn trăng. Đi đêm chắc mát.
Cơm xong, nó ra đầu xóm mua hai đôi dép cỏ, sửa soạn hành trang. Thế là lên đường ngay chiều hôm ấy.
Vết tích cơn bão hai tuần trước còn lưu lại nhiều nới. Lá khô cành gãy ngổn ngang.
Ở những vũng nước rải rác, tiếng ếch nhái kêu ì ộp, đàn dơi bay thấp chao đi chao lại bắt muỗi dưới bầu trời hoàng hôn đỏ khé.
Thầy trò Musashi thong dong bước, vừa đi vừa ngắm cảnh. Đến bờ một con suối nước dâng cao như dòng sông con, giữa dòng chỉ còn lại một đoạn cầu gỗ chơ vơ vô dụng, Musashi dừng bước lưỡng lự. Trong khi hắn loay hoay tìm cách sang bờ bên kia, Sannosuke bỗng chú ý đến vài mẩu sắt nhỏ trên bờ suối. Nó nhặt lên. Thì ra những đầu mũi tên đã han rỉ và có cả một cái chỏm mũ gãy của chiến binh tử trận. Nó đưa cho sư phụ coi:
- Chắc chỗ này trước kia là bãi chiến trường phải không thầy ?
Musashi gật:
- Chắc thế !
Tò mò, Sannosuke lại men theo những hòn đá mấp mé mặt nước để tìm thêm.
Bỗng nó la lớn:
- Xương người ! Có xương người !
Musashi chạy lại. Quả nhiên, rải rác trên một khoảng bằng cái nong là những lóng xương trắng hếu bị nước cuốn lẫn với cỏ rác và những mảnh vải cũ.
- Chắc xung quanh đây còn nhiều xương nữa. Con thử tìm xem.
- Trời ơi, ghê quá ! Tìm làm gì hả thầy ?
- Để đem chôn con ạ. Cho thú rừng khỏi tha đi và người ta khỏi dẫm lên, tội nghiệp.
- Những người chết này có liên quan gì đến mình đâu mà phải làm thế ?
- Sannosuke ! Ta đã đọc cho con nghe một vài đoạn về sử nước nhà. Vùng Musashimo này, trăm năm trước đã là chiến trường giữa hai phái tranh chấp nhau. Cuộc phân tranh kéo dài hàng chục năm ...
- À, con nhớ rồi. Trận Kotensashigara. Vậy ở chỗ này đây hả thầy ?
- Ta không biết đích xác, nhưng chắc đã xảy ra nhiều trận đẫm máu trên bờ suối này hoặc trong rừng lân cận. Những người chết di tích còn đây là những chiến binh đã góp phần xây đắp nền móng quốc gia. Không có họ, quốc gia không thể tồn tại. Bây giờ những mảnh xương vô định của họ, hoặc vùi nong dưới cát như mảnh xương này, hoặc tản mác khắp nơi, không đáng để chúng ta thương xót hay sao ? Chiến tranh như những cơn bão, rồi sẽ qua đi, nhưng núi sông vẫn còn đó. Là những kẻ hậu sinh, chúng ta không thể quên ơn họ được !
- Dạ, con biết.
- Thế sao con lại nghĩ là không liên quan ?
Sannosuke lặng lẽ cúi đầu.
- Bây giờ con đi nhặt hết những khúc xương ấy đem về đây cho ta.
Đoạn tìm chỗ cao ráo, hai thầy trò đào một huyệt nhỏ, bỏ xương và di tích người chết xuống rồi lấp đất. Lại kiếm một cành cây lớn, khắc chữ “tử sĩ vô danh” cắm lên đó.
Sannosuke hỏi:
- Cần lấy hoa đặt lên mộ không thầy ?
- Tùy con. Nhưng nếu con đã hiểu được hết ý nghĩa của hành động con làm thì đặt hoa hay không cũng thế thôi.
Tần ngần một lúc, Sannosuke lại hỏi:
- Nếu người nằm dưới mộ là trung thần thì làm thế, nhưng ngộ người ấy là phản loạn thì sao ?
Musashi yên lặng nhìn vầng trăng. Hắn không tìm được lời giải đáp thỏa đáng. Lát sau mới nói:
- Đức Phật “thường hành bình đẳng”. Đối với người đã chết, ngài siêu độ tất cả, không phân biệt tốt xấu, kẻ thiện người ác.
- Thế kiếm sĩ tốt hay xấu khi chết cũng như nhau, không để lại gì à ?
- Có chứ ! Để lại cái danh của mình.
- Vậy một kiếm sĩ dũng cảm, trung liệt sẽ lưu danh mãi mãi hả thầy ?
- Phải đó. Nhưng không phải chỉ giản dị vậy đâu ! Dũng cảm và trung liệt chưa đủ, phải có lòng nhân ái. Nếu kiếm sĩ chỉ biết dùng sức mạnh của lưỡi kiếm thì, như cây khô ngoài sa mạc, như cơn bão dữ dằn, không những không lợi ích gì cho ai mà còn nguy hiểm. Kiếm sĩ phải có lòng trắc ẩn, có trái tim biết cảm thông với những bất hạnh của người khác.
Sannosuke lặng im, chắp tay thành kính cúi đầu trước mộ.
oo Sườn núi Chichibu bữa nay mây phủ đầy. Từ trên đền Mutsumine nhìn xuống, khách trẩy hội trông như đàn kiến, từng hàng theo chân nhau ẩn hiện qua những dải mây màu khói lam vắt vẻo ngay sườn núi. Họ chống gậy, đội nón nan, kẻ khoác tay nải, người gồng gánh lễ vật mang lên đền. Ba ngọn sơn lĩnh Kumotori, Shiraiwa và Myoho sau núi Chichibu hợp thành một bối cảnh hùng vĩ làm tăng vẻ nguy nga tráng lệ cho vùng thắng tích.
Đền Mutsumine khá lớn, được xây cất từ lâu và đã trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử. Ngôi đại điện ở một khu đất bằng phẳng trên sườn núi, rộng trăm mẫu, hàng năm vẫn là địa điểm tế lễ và tiếp đón khách thập phương. Xung quanh vô số miếu nhỏ, thờ đủ các vị thần linh, lẩn trong những hàng tùng trắc xanh biếc. Cảnh trí u nhã, thêm tin đồn đền rất linh thiêng, lại lưu trữ một bộ sưu tập đồ cổ ngoạn vô giá khiến khách du đã đi qua vùng đông bắc nước Nhật không mấy ai bỏ lỡ cơ hội đến chiêm bái.
Dưới chân núi, một làng được lập ra gồm toàn những gia đình nông dân trưng canh ruộng đền, xuân thu nhị kỳ mang lên đóng góp sản vật đã thu hoạch được. Một số tiểu thương mở trà thất, cửa hàng bán đồ tế tự và kỷ niệm làm cho vùng này quanh năm lúc nào cũng có không khí sầm uất.
Hai thầy trò Musashi đến chân núi thì đền đã bắt đầu vào hội từ hôm trước, nhưng đêm nay mới là đêm lễ chính. Quán trọ Phật Bà, nơi thầy trò Musashi dừng chân tạm trú, đèn treo tự sao sa. Hai cây đuốc lớn cắm trên giá trước cổng cháy hừng hực, soi sáng cả một vùng hàng chục trượng. Sannosuke nôn nóng muốn lên đền ngay sau bữa cơm chiều, nhưng thấy sư phụ còn thong thả bên khay trà nên không dám giục.
- Họ đã bắt đầu thúc trống rồi đấy !
Nghe đồ đệ nói lửng lơ, Musashi dư biết Sannosuke muốn gì. Hắn mỉm cười:
- Họ sửa soạn còn lâu chán ! Xem hội phải thong thả. Vội vàng hấp tấp nó mất thú đi !
Sannosuke đi ra đi vào, mang dép của thầy đặt ngay ngắn trước cửa. Lại kiểm soát hai ống tre xem nước uống có đủ không và mấy chiếc bánh mua của quán hồi chiều đã bỏ vào bọc chưa. Nhìn lên núi, khách hành hương đông như kiến leo kín các bậc đá, nó quay đi giấu tiếng thở dài.
Đợi mãi, sau mới thấy Musashi nói:
- Nào, ta đi !
Tựa con chó nhỏ xổng xích, Sannosuke chạy vụt ra cửa. Trời tối dần. Sao lác đác trên nền trời đen sẫm và giải ngân hà bắt đầu hiện ra lờ mờ như vệt khói nhạt.
- Đông quá ! Đêm nay mà trời mưa thì hỏng bét !
Sannosuke theo dòng suối người xô đẩy, quên cả Musashi phía sau. Nó háo hức trèo, nhằm phía đèn lửa sáng trưng trên đỉnh núi tiến tới. Địa điểm hành lễ còn trống nhưng sáng rực như ban ngày nhờ hàng trăm cây đình liệu đã thắp sẵn cắm cách nhau chừng trượng một. Cờ xí đủ màu sắc sặc sỡ bay phần phật. Trống thúc liên hồi, tiếng đàn sáo lẫn với tiếng cười nói của đám đông khích động tinh thần nó vô kể.
Musashi đi thong thả, hình như không quan tâm gì đến mọi người chung quanh. Thật ra hắn vẫn đề phòng. Cuộc đời hành hiệp của hắn nhiều ân oán, biết đâu một kẻ tiểu nhân nào đó đang rình rập, chỉ chờ cơ hội hắn sơ ý là ra tay. Musashi luôn luôn đứng trên bờ vực của cái chết. Để sinh mệnh mình bị kẻ khác lấy đi một cách uổng phí, thật không gì hối tiếc hơn. Trong đám đông như thế này, Musashi lại cần phải cảnh giác.
Nhìn tấm bảng gỗ ghi công đức những thí chủ cắm trước cổng đền, Musashi bỗng chú ý đến hàng chữ lớn:
“Daizo ở Nara”. Hắn nhớ ngay đến người đã dẫn Jotaro đi mất, cho đến nay vẫn không tin tức. Đột nhiên, tiếng Sannosuke như kéo hắn về thực tại:
- Thầy ! Thầy coi gì vậy ? Sắp bắt đầu tế rồi !
- Ờ, ngươi cứ vào xem trước đi ! Ta có việc phải làm, sẽ vào sau.
Musashi có chủ ý, muốn nhân dịp này đến gặp viên quản khố, hỏi thăm tin tức về Daizo.
Lão quản khố ở sau đền đã già, nhìn khách lạ bằng đôi mắt hấp háy, dè dặt:
- Bần tăng không biết gì về chuyện này. Chỉ biết khách thập phương ai cúng vật gì thì nhập kho, thế thôi. Thí chủ muốn biết rõ xin hỏi vị thủ tòa.
- Thủ tòa ở đâu ?
- Ở hậu điện.
Đáp xong, dường như không muốn nghe hỏi lôi thôi gì thêm nữa, lão quản khố sập mạnh cửa trước mặt Musashi và lẩn mất trong bóng tối của gian nhà kho rộng lớn.
Musashi lắc đầu đi ra, tìm đến hậu điện. Trước một tấm cửa gỗ dày có ghi chữ “văn phòng thủ tòa”, hắn gõ cửa. Một vị tăng phong thái khắc khổ bước ra nghênh tiếp. Sau khi nghe hắn trình bày có việc liên quan đến người tên Daizo ở Nara, vị tăng trịnh trọng dẫn hắn vào, mời ngồi trên bồ đoàn trong một gian phòng rộng, bài trí trang nhã. Trong phòng, nhiều tủ sách thấp trưng bày kinh Phật và vô số đồ cổ ngoạn.
Sa di bưng trà ra, rồi bánh, trái cây đang mùa và cả một bình rượu sa-kê thượng hạng. Tất cả đặt trên những khay sơn mài khảm xà cừ cực kỳ mỹ lệ. Musashi không ngạc nhiên vì những món đồ đãi khách xa xỉ, nhưng ngạc nhiên vì sự tiếp đãi quá trọng hậu ấy.
Thủ tòa là một vị tăng trung niên, mập lùn, da đỏ hồng, xúng xính trong bộ thiền phục màu vỏ dà, bước ra chắp hai tay:
- A di đà Phật ! Thiểm tòa lại được cung nghênh thí chủ lần nữa. Cửa thiền cô lậu, chẳng có gì xứng đáng đãi khách, mong thí chủ đừng để ý.
Biết có sự nhầm lẫn, Musashi vội cải chính:
- Tại hạ mới đến đây lần đầu. Tại hạ chỉ là một Giang hồ lãng nhân muốn biết tung tích Daizo tiên sinh ở Nara mà thôi.
Thái độ thủ tòa lập tức đổi khác. Ông nhìn Musashi từ đầu đến chân, mặc dù ông chỉ đứng đến ngực hắn, cất giọng hách dịch:
- A ! Vậy thí chủ đến đây không phải để dâng cúng gì mà chỉ để hỏi tin tức một người khác đã dâng cúng vào đền thôi, phải không ?
- Dạ phải. Tại hạ chỉ có mục đích ấy !
- Thế tại sao không nói trước ?
- Tại hạ đã nêu rõ là việc có liên quan đến một người tên Daizo chứ không hề nói cung hiến tài vật gì. Chắc có sự hiểu lầm.
- Vậy thí chủ là Ronin đấy ! Ta chẳng biết và cũng chẳng muốn hỏi danh tính quê quán thí chủ làm gì, nhưng nói cho thí chủ hay bản tòa không bao giờ tiết lộ những tin tức như thế. Muốn biết điều gì cứ coi sổ.
Nói đoạn, hất hàm bảo sa di mang sổ tới. Musashi liếc qua chỉ thấy ghi vỏn vẹn:
“Daizo ở Nara, cúng ba lần, mỗi lần lạng”, ngoài ra không tin tức gì khác.
Bèn cảm ơn và bước ra cửa.
Buổi lễ đang hồi thịnh. Đoàn nhạc công áo vóc viền vàng, đội mũ cao nghệu, thổi sáo trúc, tiếng ríu rít lảnh lót như chim. Ca công đeo mặt nạ, vừa đi vừa múa hát một bài lễ ca, thỉnh thoảng lại đập vào mặt trống đeo trước ngực kêu “Bung ! Bung !” để giữ nhịp. Nhìn cảnh ấy, Musashi tưởng mình đang sống lại thời thơ ấu đi xem hội đền Mimasaka ngày trước. Hắn như thấy hiện ra trước mắt cũng đám đông ấy, lẫn lộn giữa những người dân quên chen lấn nhau, nét mặt trắng hồn nhiên của Otsu, cái cười chân thật ngờ nghệch của Matahachi, và cậu Gon em cụ Osugi đi đi lại lại dáng điệu quan trọng. Và mờ ảo như sương khói, mẹ hắn lo lắng đến tìm hắn sợ hắn về khuya.
Tiếng trống cái càng lúc càng dồn dập. Khúc ca đổi khác, điệu múa nhanh hơn, rồi quay cuồng như trong một cơn lốc, cả đoàn vũ công chạy tròn quanh sàn gỗ, những chiếc mặt nạ lắc lư, kệch cỡm nhìn đám người lố nhố đứng dưới sàn qua đôi mắt trắng dã ghê sợ. Musashi biết cảnh này. Hắn cũng thuộc cả lời của khúc ca diễn tả những khổ hình dưới âm ty trừng phạt kẻ báng bổ thần linh. Hắn nhìn hai tay người đánh trống cái. Đột nhiên, sự phát hiện nổ ra như tiếng sét. Hắn nín thở.
- Phải rồi ! Phải rồi ! Song kiếm !
Musashi mừng rỡ hét lên. Vài người đứng gần quay đầu lại tưởng hắn điên, nhưng rồi sự ngạc nhiên của họ cũng qua mau. Tiếng hét của hắn chìm ngay vào âm thanh cuồng loạn của điệu nhạc và những tiếng chân dậm thình thịch trên sàn gỗ.
Sannosuke ngồi vắt vẻo trên cành cây ngay trên đầu Musashi nhìn xuống:
- A ! Thầy đã đến ! Con ở trên này, thầy !
Musashi chẳng nghe thấy gì. Mắt hắn chăm chú dán vào đôi tay kẻ đánh trống. Không phải trong sự mê say âm hưởng của loại nhạc khí cổ điển này nhưng hoàn toàn bị khích động bởi đôi dùi trống.
- Phải rồi ! Hắn lẩm bẩm. Đôi dùi trống và song kiếm ! Cùng một nguyên lý. Hai chiếc dùi trống, một tiếng phát ra.
Musashi khoanh tay, đăm đăm quan sát từng cử động của người đánh trống.
Thật là giản dị. Người ta sinh ra có hai tay, tại sao không dùng cả hai ? Trong cuộc giao đấu, mọi người thường chỉ dùng một kiếm, mãi rồi thành quen, thành lệ. Nếu cầm kiếm tay phải, tay trái sẽ không còn thuần thục nữa. Cầm kiếm cả hai tay, lợi biết bao nhiêu. Trước đây, trong trận chiến dưới gốc cổ tùng, hắn đã dùng cả hai kiếm, trường kiếm tay phải, đoản kiếm tay trái. Nhưng đó là một hành động phá lệ, không chính thống. Đối diện cái chết trước mắt, như một con thú bị dồn vào chân tường, hắn phải tận dụng mọi phương tiện và khả năng để tự cứu. Bây giờ, hắn thấy hành động ấy thật tự nhiên, nếu không nói là muốn chiến thắng mà không hành động như thế thì thật dại dột.
Trong binh pháp, không một võ tướng nào cầm quân lại dại dột chỉ bảo vệ một bên sườn đạo quân của mình, còn sườn bên kia bỏ trống. Tại sao một kiếm sĩ đơn độc lâm trận lại chỉ cầm kiếm một tay ? Sự phi lý ấy hẳn do tập quán. Tập quán đã khiến một hành động tự nhiên của con người trở thành không tự nhiên, tỉ như đi bằng một chân vậy. Tập cho quen thì đi một chân cũng được nhưng sao bằng hai chân ?
Khi lằn ranh giữa sự sống, chết nhỏ như sợi tơ, hắn đã hành động tự nhiên bằng cách dùng cả hai kiếm, một hành động dáng lẽ hắn phải làm hàng ngày, mà làm một cách thuần thục. Đời kiếm sĩ buộc hắn luôn luôn đi trên lằn ranh ấy, sao hắn ngu ngốc cứ đi bằng một chân ?
Dùng song kiếm chính là phương thức tự nhiên, không tránh được của một kiếm sĩ để tự bảo vệ sinh mệnh. Tuy là một hành động có ý thức như phải tập luyện, khai triển cho hai kiếm thuần thục, bổ túc cho nhau để trở thành một phản ứng vô thứ c, như ăn ngủ, thở hit không khí. Musashi nhìn hai chiếc dùi trống. Người đánh trống ý thức dùi nào tay phải, dùi nào tay trái, nhưng khi đánh trống đã hoàn toàn hành động một cách vô thức:
tay này đập, tay kia gõ; tới lui, lên xuống, hòa hợp đúng với âm điệu của khúc nhạc.
Hai dùi trống, một âm hưởng.
Đột nhiên, hắn thấy trải ra trước mắt quan niệm thiện ác của nhà Phật. Dưới mắt đại đồng của đức Phật, thiện ác như hai đứa trẻ sinh đôi cùng một vú mẹ, như cặp âm dương, tuy mâu thuẫn đấy nhưng chẳng hề bao giờ rời nhau. Phải biết vượt lên trên cả ác lẫn thiện thì mới mong siêu thoát. Ở khía cạnh này, kiếm đạo khác gì thiền đạo ? Musashi bỗng cảm thấy vui sướng vô cùng, như người hốt nhiên vừa tỉnh ngộ.
Một cành khô nhỏ rớt lên đầu. Hắn ngước mắt nhìn. Thấy Sannosuke đang còn mải mê xem, hắn bắc loa tay gọi:
- Sannosuke ! Liệu về thôi ! Ngay mai ta còn phải vào trong núi.


Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Bảy T5 12, 2007 7:23 pm
Viết bởi Kongou-Musha


MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ

CHƯƠNG 76

HỌA VÔ ĐƠN CHÍ







Đền Mutsumine có nuôi một đàn chó chừng hai chục con để bảo vệ kho tàng cổ ngoạn. Chúng hung ác vô cùng, nghe nói pha giống chó miền bắc với loài sơn cẩu vùng hoang địa Chichibu nên chịu được lạnh và rất dai sức. Đàn chó thường thả rông, sục sạo khắp nơi, xông cả vào trại của nông phu dưới chân núi phá phách và bắt gia súc ăn thịt. Nhưng cư dân không dám động đến. Họ coi chúng là những sinh vật do thần linh sai khiến để giám hộ tài sản của đền nên chỉ biết dựng rào cao để ngăn chặn.
Đàn chó được giao cho một lão tráng thủ hộ. Lão tuổi chừng năm mươi, mặt hơi rỗ, tuy phục sức tươm tất, áo màu dà, quần gai bó chẽn nhưng ăn nói lỗ mãng, điệu bộ hung hăng chẳng thua gì đàn sơn cẩu.
Đêm hành lễ, đi tuần, lão dẫn theo một con chó lông đen to như con bê con. Con chó quả thật dữ tợn. Đi bên lão, nó cứ hực lên gần như lúc nào cũng chỉ muốn chồm tới cắn người. Tuy khỏe mà lão phải cố gắng lắm mới ghìm lại được, sợi dây xích căng thẳng tưởng chừng muốn đứt. Con vật ghê gớm quá, chẳng ai dám đến gần. May mà người giữ chó dẫn nó xa xa ở vòng ngoài nên cũng không gây náo loạn gì mấy.
Đang đi, bỗng lão dừng bước, lánh xa đám đông rồi suỵt chó lẩn vào một đường rẽ.
Đến nơi có vài quán nhỏ lẫn mấy căn lều gỗ mới dựng, bày bán lèo tèo những đồ tế tự hoặc kỷ vật thô sơ bằng tre cho khách thập phương, lão đi chậm lại đưa mắt nhìn các bảng hiệu. Khách đã thưa, phần lớn có mặt ở đám lễ trên đền. Đèn nến cũng bớt sáng, tiếng cười nói ồn ào chỉ còn văng vẳng. Bên gốc cây, một cặp vợ chồng già ngồi quanh ngọn lửa chăm chú nấu món ăn tối trong chiếc nồi đất. Mùi đậu đỏ lẫn với mùi khói củi còn tươi bốc lên hắc và hơi ngọt. Thấy con chó tiến đến bên, người vợ sợ hãi nép vào bên chồng. Lão dắt chó giật mạnh sợi dây xích, suỵt con vật rồi hỏi một câu sẵng:
- Quán trà mụ Oko ở phía nào ?
- Dạ, đằng kia. Trước quán có treo lồng đèn.
Vừa chỉ, người chồng vừa kéo vạt áo che ngực.
Chẳng cảm ơn mà cũng chẳng hỏi gì thêm, lão xăm xăm dẫn chó đi sâu vào con đường tối. Đến một căn nhà gỗ nghèo nàn, trước cửa treo hai cây đèn lồng đề bốn chữ “Thanh Sơn lữ điếm” nhưng một cây đã tắt nến, lão bước vào:
- Chủ quán đâu ?
Ngồi ngủ gật bên quầy, đứa hầu gái giật mình tỉnh giấc, dụi mắt. Nhìn người và vật, cả hai đều có dáng hung dữ như quỷ âm ty, nó sợ hãi líu lưỡi:
- Dạ ... dạ ...
- Dạ cái gì ? Ta hỏi chủ ngươi đâu ?
Chưa hoàn hồn, đứa bé sụp xuống lạy. Vừa lúc ấy, Oko bước vào. Mụ già đi nhiều.
Son phấn không che được hết các nếp nhăn trên mặt. Cặp lông mày giả tô đậm, vẽ cao gần chân tóc và bộ y phục diêm dúa khiến Oko trông giống như một đào thương trên sân khấu tuồng Nô. Nhìn khách, mụ reo lên:
- A ! Tsujikaze lão gia !
Quả vậy, lão chính là Tsujikaze Kohei, người thợ rèn ở xóm Ujii đã có lần Musashi tha chết. Chính lão đã chế ra thiết liêm cầu, một thứ võ khí cổ quái gồm có quả cầu sắt móc vào sợi dây xích cùng với cây gậy ngắn giấu kín một lưỡi dao cong và có răng cưa như lưỡi liềm. Kohei đã dùng thứ võ khí cổ quái này nhiều lần giết hại những khách bộ hành xem ra có máu mặt chẳng may lạc đường vào xóm lão ở. Nhưng sau thấy nghề đạo tặc chẳng kiếm được bao nhiêu, mà nghề thợ rèn lương thiện thì không đủ nuôi sống vợ con nên lão giải nghệ, lang bạt đến vùng Edo này tìm kế khác sinh nhai. Dịp may, có người giới thiệu vào làm ở đền Mutsumine. Nhờ tài sử dụng món võ khí cổ quái thiết liêm cầu, lão thắng bọn côn đồ đến cướp phá và từ đó giữ chức trưởng toán an ninh phòng vệ, kèm thêm việc chăn đàn chó dữ.
- Chu lão gia đến có việc gì thế ?
Oko hỏi:
- Báo một tin quan trọng.
Oko hạ thấp giọng:
- Có đúng nó không ?
- Đích thị ! May mà mụ nhìn ra nó sớm.
- Bây giờ phải làm gì ?
Kohei không đáp. Lão vốn ít nói và cẩn thận nên hỏi lại, lửng lơ:
- Toji đâu ?
- Không biết. Mới về ! Chắc ở nhà trong.
Mụ quay sang con hầu:
- Lại ngủ phải không ?
- Dạ, đâu có.
- Ta không bảo ngươi. Ta hỏi ông chủ kìa !
- Ông chủ ? Vâng, ông chủ ngủ trong nhà.
Oko lầu bầu:
- Đồ ăn hại ! Ngày lễ ngày lạc, chẳng để ý đến việc gì cả ! Chỉ rượu với ngủ. Thảo nào cửa hàng ế chơ ế chỏng.
Nói đoạn, xăm xăm bước đến sau tấm bình phong, kéo tuột chăn của một người đang nằm trên chiếc ghế dài gần đó.
- Này dậy đi ! Ngủ gì ngủ lắm thế !
Bị đánh thức thình lình, người đang ngủ nhỏm dậy, mắt hấp háy:
- Gì thế ?
Oko lùi lại, ngạc nhiên, đoạn cười lên sằng sặc:
- Trời ơi, ta lầm rồi ! Ta tưởng thằng chồng trời đánh chứ !
Tấm chăn rớt xuống chân ghế. Người kia nhặt lên trùm kín mặt, sửa lại chiếc gối gỗ rồi ngủ tiếp. Bên cạnh chỗ gã nằm, lăn lóc cái bát với đôi đũa, sát tường dựng một đôi dép cỏ loang lổ bùn, một túi hành trang bạc phếch, một cái nón nan cũ và cây gậy tre lớn đã lên nước bóng loáng.
- Chắc là khách trọ ?
Đứa hầu gái đáp:
- Dạ. Ông khách chỉ đủ tiền trả tiền cơm nên xin ngủ nhờ, mai đi sớm.
Kohei ghé tai mụ thì thầm:
- Con chó này kềnh càng dễ gây chú ý. Để ta mang nó về, lát nữa trở lại. Mụ gọi chồng mụ dậy.
Oko gật. Đợi cho Kohei ra khỏi cửa, mụ mới bước vào phòng, Toji đã tỉnh giấc nhưng còn nằm nán trên chiếu. Cũng như ở Oko, thời gian đã in lên thể chất và tinh thần Toji những vết tàn phá càng ngày càng rõ nét. Qua nhiều năm cực nhọc và sa đọa, nhất là sau lần thoát chết trên đồi Hòa Đa, đồ đảng tan rã, gã trở thành một lão già bạc nhược, nhút nhát, không còn chút phong độ nào của một kiếm sĩ trước đây được coi như rường cột của phái Yoshioka. Thú vui duy nhất của gã bây giờ là ngày ba bữa rượu rồi ngủ vùi. Mọi việc phó mặc Oko lo liệu. Lữ điếm nghèo nàn của vợ chồng gã mở ra kiếm tiền độ nhật mỗi năm một suy tàn trông thấy. Toji không ngờ gã đang bước theo vết chân của Matahachi và chẳng bao giờ quan tâm xem mình hiện đang ở nấc thang nào của sự trụy lạc.
Toji tung chăn bước ra, chân xiêu vẹo và quần áo xốc xếch. Gã đến bên vại nước. Nhìn dáng khom khom của chồng, mụ Oko nhổ nước bọt. Gã múc một gáo nước đầy uống ừng ực rồi đổ chỗ còn lại lên đầu, dùng tay mặt vuốt tóc. Nước lạnh làm gã tỉnh táo đôi chút.
- Này Toji ! May cho ông lắm đấy ! Bữa nay mà còn la cả ở quán rượu thì chết mất xác rồi !
Toji cau mặt:
- Nói cái gì ?
- Tôi nói từ giờ ông phải cẩn thận. Ông biết thằng Takezo hiện đang ở vùng này không ?
Mặt Toji nghệch ra:
- Thế à ? Mụ trông thấy hắn à ?
- Phải. May mà tôi nhìn thấy và báo cho Kohei biết. Chút nữa lão trở lại.
Toji thừ người rồi bước vội vào phòng. Qua mặt vợ, gã nói nhỏ:
- Khe khẽ chứ. Vào đây, nói gì thì nói.
- ...
- Tắt đèn đi. Đừng để nó biết mình mở quán ở đây.
- Xì ! Ông thì nhát như cáy ngày. Định trốn trong buồng cả đời sao ?
- Thế mụ không nhớ chuyện xảy ra trên đồi Hòa Đa à ? Thằng ấy nguy hiểm lắm, mình suýt chết thiêu về tay nó.
- Nhớ chứ sao không. Nhưng việc gì mà sợ quá thế ? Đây là cơ hội tốt mình trả cái hận đó. Lại còn mối thù môn phái.
Mụ khích thêm:
- Ông là người của Yoshioka. Nó tàn sát cả tông môn, đến thằng bé con cũng giết mà ông không có phản ứng gì. Không biết nhục !
Thật ra khi cuộc giao chiến giữa Yoshioka và Musashi xảy ra dưới gốc cổ tùng mấy năm trước, Toji không có mặt. Nhưng được tin chưởng môn cùng bao anh em đồng đạo chết thảm khốc, gã áy náy vô cùng và lấy làm hổ thẹn đã hèn nhát bỏ đi.
Một lần, lừa được Musashi vào tròng tại căn nhà sàn chứa thuốc ở đồi Hòa Đa, tuy không phải hoàn toàn chỉ vì mục đích trả hận cho môn phái, gã đã hy vọng diệt được kẻ thù không đội trời chung ấy. Nhưng Musashi không mắc bẫy. Không những thế, hắn còn quật ngược lại, trói vợ chồng gã vào gốc cây rồi nổi lửa thiêu sống.
“Thằng đó ghê gớm quá !”. Toji nghĩ thầm. Bản năng tham sống sợ chết của gã nổi dậy càng làm gã thêm khiếp nhược.
- Ở Hòa Đa, băng đảng nhiều mà còn không làm gì được. Huống chi bây giờ chỉ còn ta với mụ !
- Sao lại chỉ còn ông với tôi ? Lão Kohei cũng hận nó không kém, có thể hợp tác với ta được !
Oko bèn đem chuyện Musashi giết em Kohei là Tsujikeza Tenma trên đồi Ibuki ra kể cho Toji nghe. Gã mừng lắm, vì không những lão biết sử dụng thuần thục thứ võ khí cổ quái thiết liêm cầu mà còn đứng đầu bọn tuần vệ nữa. Bề nào cũng trông cậy vào lão được rất nhiều.
- Hay lắm ! Vậy mụ đã bảo với lão chưa ?
- Dĩ nhiên là rồi.
- Lão nói sao ?
- Chút nữa trở lại Toji bỗng giật mình. Gã đưa mắt ra nhà ngoài nhìn kẻ ngủ trên ghế dài rồi hỏi nhỏ vợ:
- Ai thế ?
- Khách trọ !
- Bảo nó dậy đi đi !
Oko gọi đứa hầu gái đến đánh thức khách, mời ra khỏi quán. Tuy lẩm bẩm phản đối nhưng người khách trọ cũng không nài ở lại, khoan thai đeo hành trang, cầm gậy bước ra cửa.
Vóc gã thô kệch nhưng dáng đi mềm mại mà vững vàng, khác với dáng dấp của phần đông khách hành hương thường thấy. Oko hơi thắc mắc, hỏi con hầu về số tiền cơm. Thấy nói khách đã trả đủ, mụ bỏ qua không lý đến nữa, đoạn bảo nó tắt đèn và đóng cửa quán.
Chừng nửa đêm, Kohei trở lại, mang theo một bọc vải dài. Oko ra mở cửa dẫn vào. Lão tháo dép ngồi bên Toji. Khay rượu đã dọn sẵn. Cả ba yên lặng một lúc dường như còn ngại ngùng chưa biết mở đầu thế nào. Họ uống rượu hết đĩa này đến đĩa khác.
Mãi sau, Oko mới hỏi:
- Lão có kế hoạch gì chưa ?
- Hồi tối đi tuần, ta nghe nói nó với một đứa nhỏ sáng mai chúng nó vào hậu điện.
Cứ phục ở dọc đường, thế nào cũng giết được nó.
- Chỉ có ta với lão sợ không đủ sức !
Kohei cười ghê rợn, quả quyết:
- Cứ tin ta. Nó không thoát được đâu !
Rồi thấp giọng:
- Ta đã bảo mấy đứa thân tín cầm giáo dài núp ở ven suối.
Đoạn hất hàm về phía Toji:
- Còn lão huynh dùng cái này !
Kohei mở bọc vải lấy ra cây súng hỏa mai đưa cho gã:
- Thấy nó thì bắn ngay. Bọn ta sẽ nhất tề xông vào, nó có mười chân cũng chẳng thoát được.
Toji mừng rỡ đập tay xuống chiếu:
- Hoàn hảo quá ! Phen này thằng ấy đến số rồi !
Kohei cười hềnh hệch, không đợi mời, chìa đĩa để Toji rót thêm rượu. Ngồi kế bên, Oko góp ý. Cả ba châu đầu vào nhau thì thầm bàn bạc mãi đến khuya mới giải tán.
Tinh sương hôm sau, bọn Toji đã tề tựu bên bờ suối. Trăng hạ huyền lơ lửng trên thung lũng, bên cạnh ngôi sao mai còn lấp lánh trong bầu trời mực loáng. Ven núi, sương phủ mờ mờ, rừng cây chỗ đậm chỗ nhạt như nổi lềnh bềnh trên biển khơi.
Kohei gọi thuộc hạ:
- Anh em đủ mặt cả chưa ?
- Đủ.
- Bao nhiêu ?
- Mười ba.
Lão cắt đặt:
- Thằng Y Lâm dẫn bốn đứa bố trí dọc theo bờ đường, sau tảng đá lớn đằng kia. Số còn lại núp vào các bụi cây trước mặt. Giáo đặt nằm dưới đất cho khỏi lộ hình tích. Hễ nghe tiếng súng nổ là nhất tề xông ra đâm chết nó, chớ để nó thoát.
Mọi người gật đầu y kế tản ra, thoáng cái đã mất hút.
- Còn Toji lão huynh ! Xem lại mồi thuốc súng đừng để ẩm. Nạp đạn sắn đi, núp ở triền dốc cao này, thấy nó thì bắn liền, chậm là khốn đấy.
Đoạn rút thiết liêm cầu ra, lão men theo bờ đường, tìm chỗ nấp kín đáo ngồi đợi.
Bình minh ló dạng. Ba đỉnh núi Kumotori, Shiraiwa và Myoho đã bắt đầu in hình rõ rệt trên nền trời ửng hồng buổi sớm. Cảnh trí huy hoàng như tranh vẽ. Vượn hú trong tàn cây, chim vỗ cánh rời tổ, cành lá rung động xào xạc khiến không khí sinh động hẳn.
Con đường dốc hiện ra lờ mờ, ngoằn ngoèo như dải lụa, một đầu mất hút trong sương. Đầu kia, từ dưới chân núi đi lên, thầy trò Musashi thong dong bước.
Thấy mặt trời vừa hé, Sannosuke xòe tay ra đón. Những kẽ tay nó hồng rực lên dưới ánh dương quang. Sannosuke cười thích thú:
- Thầy ơi ! Máu con đây này. Đỏ như ánh mặt trời !
Musashi gật đầu:
- Phải. Thần Thái Dương là tổ chúng ta, tự ngàn xưa truyền huyết lực cho dân tộc Nhật và sẽ còn truyền mãi cho đến những đời sau. Con phải nhớ thế mới được !
Liên tưởng đến ý nghĩa bài lễ ca, Sannosuke nghe văng vẳng từ những từng mây ngũ sắc trên cao, vọng xuống tiết điệu thần bí, trang nghiêm của khúc nhạc tế đền. Cảm động, nó ngước nhìn thầy, thấy trong lời dạy của sư phụ có một cái gì thiêng liêng như chính đó là những lời truyền dạy của thần linh. Nó nắm chặt tay thầy, lòng tràn ngập biết ơn và tôn kính.
Đến lưng chừng núi, Musashi nhận thấy ở bên đường, nhiều chỗ cỏ bị dẫm nát. Trực giác báo cho biết có sự chẳng lành, hắn lập tức ôm đồ đệ nhảy vào bụi rậm.
Ngay lúc đó, súng nổ chát chúa vang động cả khu rừng. Vượn kêu, chim đập cánh bay tán loạn, mùi thuốc súng khét lẹt. Những tiếng thét xung trận “Giết ! Giết !” dội vào vách đá tứ phía, không còn phân biệt được ở đâu và của ai nữa.
Bình minh chưa rạng hẳn. Lẫn trong bóng tối của những tảng quái Musashi, thầy trò Musashi nép mình thật sát vào một hốc đá nông. Chỗ núp chật hẹp, Musashi không rút được kiếm. Hắn ghé tai đồ đệ, thì thầm:
- Nằm im, có bị dẫm lên cũng đừng ...
- Úi cha ! Có người !
Một ngọn giáo đâm tới, gió rít nghe “vù”. Không kịp tránh, Musashi bắt luôn ngọn giáo giật chếch sang bên đồng thời phóng cước đá một phát như trời giáng về phía trước. Một tiếng “hự”, tên cầm giáo tung lên, đầu đập vào đá giấy đành đạch.
Chỉ ba bước, Musashi đã ra khỏi chỗ nấp, song kiếm tuốt trần, mắt đổ lửa.
Đột nhiên có tiếng thét đau đớn nổi dậy ở dưới thung lũng. Musashi ngạc nhiên không hiểu chuyện gì và kẻ địch bao nhiêu người. Hắn chưa xuất thủ, không hiểu sao lại có tiếng thét ? Hay chúng sát hại lẫn nhau như đã xảy ra trước kia ở đồng cỏ Hannya ? Musashi bối rối, nhưng vội gạt đi ngay những suy luận vô ích. Rối trí là chết ! Hắn cẩn trọng di chuyển đến gần một gốc cổ thụ, lợi dụng gốc cây to để đỡ mặt sau.
- Các ngươi là ai ? Muốn gì ? Chốn trang nghiêm, ta không muốn có đổ máu, nhưng nếu không khai rõ danh tính hoặc rút lui thì đừng trách ta tàn ác.
Đáp lại lời cảnh cáo của Musashi, ba bóng đen cầm trường thương hiện ra, chậm chạp tiến về phía hắn. Cả ba đều mặc tăng bào màu vỏ dà, quấn khăn bịt mặt và quần da bó chẽn. Chúng không nói lới nào, mũi thương chĩa về phía trước, bước những bước trầm trọng. Hai bóng đen khác sử kiếm, tản ra hai bên tả hữu, xem chừng muốn vây Musashi vào giữa.
Vừa lúc ấy từ hốc đá, Sannosuke thình lình chạy vụt ra, theo sau là một bóng đen khác đuổi rất gấp. Thấy đồ đệ lâm nguy, Musashi thét một tiếng long trời lở đất, đạp chân vào gốc cây mượn đà nhảy tới như chim cắt bắt mồi. Kiếm quang lóe sáng, chân chưa chạm đất, thủ cấp tên kia đã lăn lông lốc trên đám loạn thạch.
Nhìn địch thủ ra tay quá nhanh và dũng mãnh, bọn mặc tăng bào sợ hãi khựng lại.
Nhưng chỉ trong thời gian ngắn, chúng lại hăng hái cầm thương phóng tới. Sự đụng độ mãnh liệt tựa hai ngọn cuồng phong nhưng ở đây không có lá rơi cành gãy mà chỉ có máu bắn tung tóe. Musashi xuất chiêu thần tốc, trở ngược lưỡi kiếm, tiện đứt phăng ba đầu ngọn thương chĩa về phía hắn, rồi song kiếm phối hợp, liên tiếp đâm chém nhanh, gọn như người chặt chuối. Cả ba gục ngã không kịp kêu một tiếng, đứa mất nửa đầu, đứa thủng bụng.
Hai tên còn lại kinh hãi tột độ, chém bậy vài chiêu rồi hè nhau tháo chạy. Vừa say máu, vừa cho tụi này là quân cường đạo đón đường cướp người lương thiện, Musashi quyết ra tay trừ khử. Hắn đuổi theo. Chỉ chớp mắt, cả hai đã hồn lìa khỏi xác. Máu phun loang đỏ mặt đường, bắn vào mặt Musashi lấm tấm. Hắn đưa tay gạt.
Thình lình tiếng kim khí chạm nhau lách cách, rồi một quả cầu sắt tung ra quấn ngay lấy thanh trường kiếm của hắn. Phản ứng tự nhiên khiến Musashi giữ chặt chuôi kiếm. Quay lại, bộ mặt rỗ hoa của một kẻ lùn và vạm vỡ hiện ra cách hắn chừng hơn một trượng. Tay trái gã cầm cây gậy ngắn buộc sợi xích sắt có quả cầu đang quấn lấy kiếm Musashi; tay phải:
một thứ võ khí kỳ dị hình lưỡi liềm. Gã cười gằn:
- Súc sinh họ Musashi ! Phen này ta móc bụng ngươi để trả thù cho anh ta !
Dứt lời, cây liềm nhằm cổ Musashi phóng tới.
Trong nháy mắt, Musashi ý thức ngay được sự lợi hại của món võ khí cổ quái thiết liêm cầu. Thì ra tên này là Tsujikaze Kohei ! May sao, tay trái hắn còn thanh đoản kiếm. Bèn trầm mình xuống, đưa mũi kiếm thẳng vào bụng địch thủ. Kinh hoảng, gã thợ rèn thu liềm về, cố sức giật trường kiếm của Musashi chứ không dám đến gần hắn nữa.
Musashi nghĩ thầm, nếu không dùng song kiếm thì lúc này chắc hắn đã mất mạng rồi ! Hai địch thủ vờn nhau, kẻ liềm người kiếm đâm bên tả, móc bên hữu chỉ bằng một tay, tìm nhược điểm của nhau mà tiêu diệt. Trong khi đó cả hai đều vận dụng hết công lực giật võ khí của nhau, nhất là Kohei. Cổ gã bạnh ra, gân nổi phồng to như chiếc đũa, gã kéo mạnh dây xích nhưng giật được võ khí khỏi tay Musashi chẳng phải dễ dàng gì.
Cuộc giao tranh dã man một cách khác thường. Võ khí đã cổ quái mà những chiêu thức cũng kỳ lạ không ra lề lối gì, dù người có kinh nghiệm về võ học cũng khó mà đoán được kết quả ra sao, ai thắng ai bại.
Musashi đã phạm vào hai lầm lỗi:
Thứ nhất, chiến đấu ở chỗ trống khi không biết rõ số địch quân là bao nhiêu, thành ra có thể bị tập hậu dễ dàng trong lúc bận giáo tranh ở mặt trước. Thứ hai, sơ suất để bị tấn công bất ngờ, vì vậy thanh trường kiếm, món võ khí sinh tử của hắn, trở thành vô dụng.
Bỗng âm thanh trầm của một giọng đàn ông cất lên, thân mật:
- Musashi đại hiệp ! Có tại hạ Ở phía này !
Không biết ai nói, nhưng bất luận là ai, người nói câu ấy phải là bằng hữu. Musashi cảm thấy như cất được gánh nặng. Nhìn nụ cười ác độc trên khuôn mặt đẫm mồ hôi của Kohei, hắn thấy ngay lối thoát:
hy sinh thanh trường kiếm để đoạt lại thế công chớp nhoáng hắn vẫn thường áp dụng. Musashi mỉm cười.
Hắn chờ cơ hội.
Phía bên kia, nụ cười trên môi Kohei cũng không tắt. Lão biết khóa được kiếm của Musashi là đã thắng được nửa phần, làm vô hiệu sự di động thần tốc của hắn. Nhưng lão còn muốn hơn thế nữa:
đoạt kiếm của địch thủ. Lão vận toàn công lực kéo sợi dây xích, xích thẳng căng như sắp đứt.
Bỗng “phựt” một cái, Musashi thình lình buông tay, cả quả cầu và sựoi dây xích không gì kềm giữ, quật ngược lại quấn vào mình Kohei. Lão mất đà ngã ngửa.
Musashi chỉ đợi có thế ! Nhanh như cắt, hắn chồm tới, dẫm chân lên tay cầm liềm của lão, mũi đoản kiếm thọc sâu vào cổ họng đưa ngược lên đến óc. Tất cả chỉ trong chớp mắt. Mắt Kohei mở lòi tròng, máu ở mũi và miệng ứa ra. Lão giẫy vài cái, đoạn nằm ngay đơ như khúc gỗ.
Musashi lùi lại, tay còn cầm đoản kiếm vấy máu đến tận chuôi. Sau hắn, Gonnosuke đã đứng đó tự bao giờ. Musashi trố mắt nhìn chàng hiệp sĩ đất Kiso, người ba năm trước đã để lại một kỷ niệm khó quên bằng trúc côn trên ngực hắn.
Vóc dáng thô kệch của anh chàng này đối với Musashi bấy giờ thật không gì đẹp hơn. Cây trúc côn vẫn nằm trong tay Gonnosuke, đầu côn vấy máu. Hắn mừng rỡ:
- Thì ra tiếng nói lúc này là tiếng của các hạ đấy ! Xin vạn tạ !
- Có gì mà đại hiệp phải bận tâm !
Đoạn cúi xuống bên xác Kohei, Gonnosuke cầm cây thiết liêm cầu lên xem, nói lảng:
- Thật là thứ võ khí quái dị ! Nếu tại hạ bị tấn công bằng thứ này, chắc chết rồi !
Musashi gật đầu:
- Nguy hiểm thật ! Trước đây, tại hạ đã có dịp được coi vợ tên này biểu diễn.
Nhưng coi là một việc mà chống lại nó lại là việc khác.
Đoạn chùi kiếm tra vào bao, Musashi hỏi:
- Sao các hạ biết tại hạ Ở đây mà tiếp cứu ?
- Cũng là ngẫu nhiên. Nhân qua địa phương này, nghe nói đền Mutsumine mở hội, tại hạ đến nghỉ chân ở lữ quán Thanh Sơn, tình cờ nghe được chuyện ám muội của vợ chồng chủ quán toa rập với mấy kẻ khác mai phục ám sát một khách hành hương, bèn theo dõi. Không ngờ nạn nhân lại chính là đại hiệp.
Gonnosuke nói đến đấy, lắc đầu:
- Thời buổi nhiễu nhương, giặc cướp lộng hành quá !
- Các hạ biết vợ chồng chủ quán là ai không ?
- Không. Nhưng người chồng chính là tên bắn súng hỏa mai. Tại hạ đã đập chết ngay sau khi tên đó bắn phát súng đầu tiên.
Musashi cùng Gonnosuke ra lật xác tên cầm súng. Thì ra là Toji !
Musashi bấy giờ mới vỡ lẽ, không ngờ Toji chưa chết sau vụ hỏa thiêu đồi Hòa Đa. Lần này tuy không trực tiếp giết gã, hắn linh cảm mối thù của Phái Yoshioka đối với hắn vẫn chưa dứt.
- Các hạ biết chúng bao nhiêu đứa không ?
- Không biết có đứa nào chạy thoát chăng, riêng tại hạ đã giết năm đứa, kể cả tên chủ quán.
Sực nhớ đến Sannosuke, Musashi hỏi:
- Tại hạ có một tiểu đồ đi theo, không biết giờ này nó trốn đâu ?
- À, có một thằng bé chừng mười bốn, mười lăm trốn trong hốc đá. Tại hạ bảo nó trèo lên cây cho được an toàn hơn. Phải nó chăng ?
- Chắc nó đấy.
Bèn bắc loa gọi. Lát sau Sannosuke chạy tới, tuy không còn sợ hãi nhưng nét mặt vẫn đượm vẻ lo âu. Thấy sư phụ bình yên, nó mừng rỡ hỏi han tíu tít.
Cả ba theo chân nhau xuống suối gột hết vết máu bắn vào quần áo. Musashi thu hồi được thanh trường kiếm bị văng mất lúc nãy. Thấy lưỡi kiếm vẫn còn nguyên không sứt mẻ, hắn gật gù:
- Kiếm tốt thật ! Kosuke quả có mắt tinh đời. Thật là bảo kiếm !
Lại hỏi thăm gia cảnh Gonnosuke, mới rõ lão bá đã quy tiên, Gonnosuke cũng bỏ nghề nông, bán trang trại đi Giang hồ hành hiệp.
Chuyện chưa vãn, bỗng nghe tiếng ngựa hí vang. Một đoàn tuần cảnh giáo dài, giáp sắt, có cả hỏa mai và cung nỏ, rần rần đổ dốc vây chặt lấy ba người.
- Ba tên này, tên nào là Musashi ?
- Chính ta !
- Bắt trói nó lại.
Cả ba sửng sốt. Mặc dầu phản đối, Musashi cũng bị trói gô như bó củi vất lên lưng ngựa tải đi, song kiếm bị đoạt mất.



Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Bảy T5 12, 2007 7:25 pm
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ

CHƯƠNG 77

BẠN ĐỒNG MÔN









Đoàn tuần cảnh điệu Musashi đi khỏi triền núi, Sannosuke mới ý thức được tai họa bất ngờ. Nó dậm chân khóc nức nở. Gonnosuke cầm tay Sannosuke dìu xuống vệ cỏ rồi ôm nó vào lòng an ủi.
- Đừng khóc ! Vô ích. Phải bình tĩnh mới cứu được sư phụ chứ !
Nhưng Sannosuke càng khóc già.
- Sư phụ cháu có tội gì đâu ? Ông bị vây đánh nên phải tự vệ, tại sao người ta lại bắt ông đi ?
Gonnosuke lắc đầu:
- Ta cũng không rõ nữa. Chính ta cũng tham dự vào cuộc chiến, sao chúng chỉ bắt có một mình ông ? Chắc phải có uẩn khúc gì đây !
Sannosuke kéo vạt áo chùi mắt.
- Ngươi theo sư phụ lâu chưa ?
- Được ba năm. Trước ở Hotengahara làm ruộng, sau dời đến Musashino này.
Nhân gặp ngày hội đền, đến xem, không ngờ gặp quân cường đạo ...
Có tiếng sột soạt trong bụi. Gonnosuke nắm chặt cây trúc côn. Một con chó đen to lớn chạy ra sủa ầm ĩ, nhe nanh gầm gừ chực nhảy vào cắn. Sannosuke nhặt hòn đá. Mắt con chó tròn xoe, đỏ rực tựa than hồng, rãi rớt sùi trắng hai bên mép. Con vật chạy vòng quanh, vừa chạy vừa sủa dữ tợn.
Gonnosuke một tay đẩy Sannosuke ra phía sau, một tay cầm côn lừ đừ theo dõi sự di chuyển của con vật. Gã vung côn đánh dứ. Chó lùi ra xa. Sannosuke ném đá. Hòn đá không trúng nhưng con chó như bị khích động, chồm lên nhảy tới, định cắn cổ kẻ vừa tấn công nó.
Một tiếng chát ! Cây côn tre hạ xuống nhanh như lằn chớp. Chỉ nghe “ẳng” một tiếng, con vật ngã ngay trước mặt Sannosuke, bốn chân giật liên hồi, máu pha lẫn rãi rớt chảy loang đỏ cả đám cỏ nhàu nát.
Sannosuke xanh mặt, ôm chặt lấy Gonnosuke. Gã bảo nó trèo lên lưng cho gã cõng, đoạn tay lăm lăm cây trúc côn, lùi dần về phía đường mòn còn rải rác xác người, cái thì gục bên gốc cây, cái thì co quắp sau tảng đá. Ngồi trên lưng Gonnosuke, hai tay quàng quanh đôi vai lực lưỡng của gã, Sannosuke bớt sợ. Nhưng nhìn những xác chết của cả người và vật, nó không khỏi rùng mình.
Qua khỏi khúc quanh triền núi, Sannosuke mới hoàn hồn, bảo:
- Tráng sĩ ! Tráng sĩ là ai vậy ? Quen gì với sư phụ cháu mà đến cứu ?
Gonnosuke cười:
- Không quen, nhưng ta có giao đấu với ông hai trận.
- Thật à ? Vậy không phải là bạn rồi !
- Ừ, chẳng phải là bạn, nhưng ta chịu ơn ông và phục ông như thầy. Tên ta là Gonnosuke, họ Oko, ở Kiso. Còn ngươi, hồi nãy thấy sư phụ gọi ngươi là Sannosuke, phải không ?
- Dạ phải, tên Sannosuke do sư phụ đặt.
- Tên hay lắm. Ngươi là đồ đệ của Musashi đại hiệp thì cứ gọi ta bằng đại huynh cũng được.
- Cháu không dám.
- Sao lại không dám ? Ta chưa phải đồ đệ của sư phụ ngươi nhưng có ý tìm ông để theo học đã lâu. Ngẫu nhiên mà gặp, chưa bày tỏ được sở nguyện thì ông đã ngộ nạn.
Thật không may quá !
Mải chuyện trò, Sannosuke quên phứt mình đang ngồi trên lưng Gonnosuke. Nó thầm cảm ơn vị hiệp sĩ đã cứu nó, trong lòng dậy lên niềm yêu kính, nhưng ngại không dám gọi bằng đại huynh vì thấy Gonnosuke tuổi tác cao hơn nó mà võ nghệ cũng hơn nó nhiều.
Sannosuke tuột xuống, đi song song bên cạnh ân nhân và cũng là người bạn mới.
Sự thành thực cởi mở dễ đưa đến niềm thông cảm. Mối giao tình giữa hai người bạn vong niên mới chớm nở mà dường như hứa hẹn nhiều bền vững.
Cả hai vừa đi vừa bàn cách cứu Musashi, phân vân mãi không biết làm thế nào. Gonnosuke dự đoán có lẽ chúng mang Musashi đến giam ở đồn gần núi Chichibu. Thời bấy giờ, nội chiến mới dứt, đồn ải xây rất kiên cố, nhất là những chỗ giam tù nhân, ba bốn lần rào cao hào sâu, đơn độc một người khó xông vào đánh phá.
Gã lại chẳng quen ai có thế lực để nhờ điều tra hay lo lót. Cách duy nhất có lẽ là cứ quanh quẩn ở vùng này ít lâu, dò hỏi dân địa phương xem thực hư ra sao rồi sau sẽ liệu.
Đến sân đền, sàn gỗ trống trơn. Buổi lễ mãn từ lâu, khách hành hương đã về hết.
Những cây đình liệu tối qua sáng là thế, bây giờ đứng trơ trụi, đầu cháy xám đen lạc lõng dưới ánh nắng chênh chếch. Gió thổi nhẹ, kéo theo lá tre, giấy vụn lăn nhanh trên con đường sỏi vắng lặng. Qua lữ điếm Thanh Sơn, Gonnosuke liếc nhìn vào. Sannosuke bỗng kêu lớn:
- Kìa ! Người đàn bà kia lúc nãy dẫn con chó !
Oko giật mình quay ra. Bắt gặp tia mắt Gonnosuke và nhìn dáng đi của gã, mụ sực nhớ:
- À, tên này hôm qua trọ Ở đây mà !
Gonnosuke bước vào quán. Mụ ngưng tay xếp dọn, nói buông sõng:
- Lữ điếm hôm nay đóng cửa !
- Không, ta không ở trọ. Chỉ muốn hỏi một câu.
Giọng Oko càng gay gắt:
- Muốn gì ? Hay trở lại định do thám đấy ?
- Ta không hiểu sao mụ không bị bắt. Vợ chồng mụ âm mưu giết người cướp của, phải vậy không ?
Oko há hốc mồm, muốn cãi mà không ra tiếng. Mụ lùi về phía quầy bếp, thình lình rút con dao nhọn vẫn dùng để thái thịt cắm trên giá, chỉ về phía Gonnosuke:
- Đúng thằng này sát hại chồng ta. Có bước ra ngay không ta đâm chết.
Gonnosuke cười nhạt:
- Phải ! Vì chồng mụ toa rập với đạo tặc mưu ám toán người lương thiện nên phải ra tay trừ khử.
- A !
Tiếng kêu chưa dứt, mụ nhảy ngay tới trước mặt Gonnosuke vung dao đâm loạn.
Nhưng Oko đâu phải là đối thủ của hiệp sĩ đất Kiso. Chỉ một cái gạt nhẹ, Gonnosuke đã hất mụ sang bên, bẻ quặt tay lại khiến con dao nhọn rơi xuống đất. Oko la như trời sập:
- Ăn cướp ! Ối hàng xóm ơi, ăn cướp ! ...
Gonnosuke đẩy mạnh một cái. Mụ văng ra ngoài cửa, miệng không ngớt la chói lói:
- Ối hàng xóm ơi ! Tụi cướp đồ bảo vật trong đền đến phá quán tôi đây này ! Cứu tôi với !
Sannosuke tái mặt, lẩm bẩm:
- Mụ này ghê quá, còn vu cho mình ăn cướp đồ bảo vật nữa.
Nó kéo áo Gonnosuke định bỏ chạy nhưng Gonnosuke đã nhặt con dao nhọn phóng một phát về phía trước. Mũi dao phóng vừa nhanh vừa mạnh trúng Oko, đâm suốt từ lưng ra đến ngực. Mụ ngã sấp. Tiếng la hét của mụ lịm dần rồi tắt hẳn trong những âm thanh ằng ặc, khò khè của máu bắt đầu trào vào cổ họng và mũi, miệng.
Hàng xóm có vài người chạy đến. Gonnosuke kéo Sannosuke lùi ra cửa sau, nhảy xuống cái rãnh khô tháo chạy rồi nương theo những lùm bụi rậm rạp trên sườn đồi mà lẩn trốn.
Ngoài cửa lữ điếm, dân xóm tụ tập mỗi lúc một đông, người xẻng cuốc, kẻ gậy gộc, ồn ào như chợ vỡ. Họ bao vây lữ điếm, cắt người đổ thuốc cấp cứu chủ nhân. Nhưng trễ mất rồi. Mắt Oko đã lạc thần, mà kẻ gây ra tai họa cũng không để lại dấu vết.
Đến đèo Shomaru, Gonnosuke cùng với Sannosuke ngồi nghỉ trên phiến đá. Trước mặt là khu rừng thưa, xa hơn nữa, đồng cỏ Musashino trải dài dưới chân, con suối với khúc cầu gỗ nhỏ đổ nát chơ vơ giữa dòng gợi lại trong trí Sannosuke cảnh nó và Musashi đứng tưởng niệm bên nấm mồ chôn những lóng xương nó đã gom lại dưới ánh chiều tà hôm nào. Bất giác nó bật lên khóc. Gonnosuke hỏi, Sannosuke thực thà kể lại hết những lời dạy dỗ của thầy, khiến gã không ngăn được tiếng thở dài. Trong lớp vỏ liều lĩnh đến tàn nhẫn của Musashi, quả có một hiệp sĩ với lòng nhân chân chính.
Gã không tin Musashi có thể làm điều gì phi pháp.
- Ông bị nghi oan rồi. Ta nghĩ Musashi không bao giờ có ý tưởng muốn xâm phạm những đồ báu vật của đền chứ đừng nói ăn cướp những báu vật ấy nữa. Ông bị bắt lầm.
Sannosuke chùi mắt:
- Vậy làm sao cứu ông ?
- Bây giờ chưa có cách gì, nhưng thế nào cũng phải tìm cách. Ta sẽ trở lại Chichibu xem xét tình hình, nếu biết ông bị giam ở chỗ nào thì vạn bất đắc dĩ cần phá ngục cũng phải phá để cứu ông ra.
- Cháu đi theo với !
Gonnosuke ngồi lặng, suy nghĩ. Lát sau mới nói:
- Không được. Ngươi còn nhỏ quá, một mình ta dễ xoay trở hơn. Ngươi hãy về chỗ cũ đợi ta, chừng một hai tháng ta sẽ cho mang tin đến. Đằng kia là đồng cỏ Musashino rồi, từ đây ngươi tìm được lối về chứ ?
Sannosuke gật.
- Tốt ! Như thế mới xứng đáng là hảo đồ đệ của sư phụ chứ !
Nói đoạn, cầm tay Sannosuke nắm chặt. Trong cái nắm tay ấy như gửi gấm bao nhiêu thương yêu, tin cậy của người huynh trưởng đồng môn.
Sannosuke nhìn Gonnosuke trở lại đường cũ đến khi khuất dạng mới bước ra khỏi khu rừng thưa. Bây giờ nó thấy tự tin hơn và không sợ hãi. Định hướng xong, xuống đồi theo phía mặt trời lặn mà đi. Được một quãng khá xa thì gặp rừng tranh dày đặc, lau từng bụi mọc cao quá đầu. Quanh quẩn một hồi không tìm được lối ra mà mặt trời cũng không biết ở hướng nào nữa. Thỉnh thoảng, một con chim bay vụt ra như mũi tên vút lên cao, buông tiếng kêu sắc nhọn. Mệt và khát, nhìn xa xa thấy một tảng đá lớn, Sannosuke vạch cỏ đi lại phía ấy. Đến gần thì ra một ông phỗng ai đặt ở đó từ bao giờ, mưa nắng đã soi mòn các góc cạnh, chỉ còn lờ mờ nét vẽ trên mặt. Nó ngồi nghỉ sau lưng ông phỗng đá, khuất trong bụi lau, ngủ quên lúc nào không biết.
Khi trời đã chạng vạng, bỗng nghe phía trước có tiếng thì thầm của hai người đang nói chuyện. Hai người qua đây có lẽ cũng dừng lại nghỉ chân như nó, nhưng ngồi trước mặt ông phỗng. Gần đấy, một con lừa tải cái rương nhỏ sơn then phủ tấm nhiễu đề hàng chữ lớn:
“Đồ mỹ nghệ sơn mài dâng quan trấn thủ”.
Hai người một già một trẻ trò chuyện có vẻ tương đắc, thỉnh thoảng cười nho nhỏ.
- Ngươi thấy đấy ! Chở đồ trong rương đi thế kia có mà thánh biết !
- Kế của phụ thân hay thật. Giá có ai nghi ngờ cũng không dám chặn lại đòi mở ra xét.
- Ừ. Theo ta thì phải mở mắt ra mà học. Jotaro ! Ngươi là đứa trẻ thông minh lại còn trẻ, sau này chắc sẽ hơn ta.
- Dạ, con xin cố gắng.
Giọng ông già cười hắc hắc:
- Tốt ! Tốt lắm ! Ngươi tuy là nghĩa tử nhưng ta coi như con ruột. Nếu thành công, ngươi sẽ giàu sang quyền quý không ai bằng !
Nghe lỏm những lời trò chuyện của hai cha con. Sannosuke giật mình. Nó đoán ngay được trong rương kia đựng những gì và hai cha con lão này, không lầm được, chính là thủ phạm vụ ăn cắp bảo vật ở nội điện đền Mutsumine, chở trên lưng lừa qua đây đem đi cất giấu.
Sannosuke nín thở, không dám cử động, sợ lộ hình tích. Lại chú ý lắng tai thì biết được người cha tên là Daizo và người con là Jotaro, ngoài ra không rõ thêm gì nữa.
Chẳng hiểu hai cha con nhà này tải chiếc rương kia đi đâu.
Một lúc im lặng. Sannosuke ngửi thấy mùi khói thơm ngai ngái phảng phất trong không khí. Thì ra lão kia hút thuốc.
Đêm xuống dần. Trên trời, chim xào xạc bay về tổ. Xung quanh nó, lá lau sậy bắt đầu đổi màu thành đen sẫm. Cha con Daizo bấy giờ mới đứng dậy vạch cỏ dẫn lừa đi.
Một mình ngồi suy nghĩ, Sannosuke muốn biết lão kia giấu cái rương ở chỗ nào.
Nó có ý định dẫn quan quân đến lấy lại, để chứng minh rằng thầy nó bị bắt oan. Trong bộ Óc non nớt của nó, sự việc đơn giản và sáng tỏ như ban ngày, Sannosuke chẳng mảy may lo lắng gì về nguy hiểm có thể xảy ra cho nó trong lúc theo dõi.
Nghĩ là làm. Quên nhọc mệt, nó đứng dậy, lần dấu cỏ bị giạt mà tiến. Được một lúc ra khỏi rừng cỏ gianh. Lờ mờ dưới ánh sao, trông thấy bóng hai người dẫn lừa phía xa xa trên con đường mòn bằng phẳng. Sannosuke rảo bước theo. Bóng cha con Daizo khi ẩn khi hiện, đôi lúc tưởng tan biến trong những lùm bụi ven đường hoặc qua các tảng quái Musashi.
Bụng Sannosuke sôi lục ục. Nó cảm thấy đói, nhưng không có cách gì kiếm được thức ăn, đành bấm bụng chịu. Đi mãi, đi mãi, có lẽ đã quá nửa đêm. Phía xa, rặng Chichibu hiện đen ngòm ở chân trời dưới ánh trăng hạ tuần mới mọc mỏng và cong như lưỡi liềm cũ. Đến chân một ngọn đồi thấp, cha con Daizo dừng lại, cúi xem vật gì dưới đất rồi bỏ đường mòn trèo lên đồi. Sannosuke rùng mình phần vì lạnh, phần vì đói, phần vì lo lắng trước một hoàn cảnh bất định, nhưng trí tò mò thôi thúc, lại thêm tính bướng bỉnh cố hữu, nó nhất quyết theo đến cùng.
Lẩn trong bóng tối những bụi rậm, nó bò tới chân đồi. Ngay chỗ con đường mòn rẽ hai ngả, có cái bia đá đổ nghiêng, khắc ba chữ “Thủ cấp lũng”. Nấp dưới chân đồi, Sannosuke nhìn lên. Daizo buộc lừa vào gốc cây tùng lớn giữa đỉnh đồi, tháo rương xuống trong khi đứa con trai hì hục đào đất. Khi đã được một cái hố sâu chừng ngang bụng, hai cha con khiêng rương đặt xuống hố rồi lấp đất lại. Dưới đồi, Sannosuke nhìn không bỏ sót một cử chỉ. Nó quan sát vị trí và hình dạng cây tùng, lại nhớ cả chỗ rẽ có đường trèo lên với tấm bia đổ nghiêng. Đoạn bò ra xa, ẩn vào hốc đá tránh đi, phòng cha con Daizo khi làm xong việc có thể phát giác.
Đợi hồi lầu mới thấy Jotaro xuống, đi ngược lại đường mòn lúc trước, nhưng không thấy lão Daizo đâu. Xa xa, tiếng gà rừng văng vẳng báo hiệu đêm đã tàn và trời sắp sáng. Đồ chừng lão theo hướng khác, Sannosuke đi ngược lại để tránh gặp lão và hy vọng đường ấy dẫn nó trở về nhà cũ ở đồng cỏ Musashino.
Bấy giờ nó mới thấy đói và khát dữ dội. Ruột cồn cào, miệng khô mà toàn thân thì mệt mỏi vô kể, chỉ muốn nằm xuống ngủ một giấc. Nó tạt vào bụi rậm, thè lưỡi liếm những giọt sương đọng trên lá. Không đã khát nhưng cũng đỡ khô miệng, rồi mệt quá, nằm lăn trong bụi ngủ thiếp đi mất.
Tỉnh dậy, trời sáng rõ từ lâu. Về phương đông, mặt trời đã lên cao bằng con sào, nhưng con đường mòn trước mặt vắng hoe, không bóng người qua lại. Trong bụi, chim ríu rít tranh nhau mổ ăn những trái cây chín đỏ mọng to bằng đầu ngón tay. Chẳng biết là loại trái cây gì, nhưng Sannosuke trông thèm quá. Nó bứt một trái, bỏ vào mồm nhai thử thấy ngon ngọt vô cùng. Ngồi dậy lắng nghe trong mình, không thấy có phản ứng gì lạ, lại ăn thêm vài trái nữa. Đợi lúc lâu không sao, bèn bứt cả chùm, ăn lấy ăn để.
Nhờ có những trái cây ấy mà Sannosuke đỡ đói và khát, trong người khỏe hẳn ra.
Đến khi mặt trời sắp đứng bóng, nó mới lên đường tiếp tục cuộc hành trình bỏ dở. Qua một xóm lèo tèo vài căn nhà thấp, mái lợp tranh và vách làm bằng những thân cây ghép vào nhau còn nguyên cả vỏ, Sannosuke tạt vào, định hỏi thăm đường nhưng gõ cửa mấy lần, thấy không ai đáp, đành thôi.
Lại đi. Trước mặt nó, núi Chichibu gần thêm. Dưới bầu trời trong xanh của một ngày thu đẹp, nó thấy trong lòng sảng khoái và cảnh vật cũng thân mật hơn. “Chắc gần về đến nhà !” Sannosuke nghĩ.
Bỗng xa xa, ngay phía trước, trên con đường mòn, hiện ra bóng Jotaro, con trai lão Daizo. Sannosuke ngạc nhiên nghĩ thầm:
“Không hiểu sao nó đi chậm thế. Hay cũng nghỉ chân ở chỗ nào như mình !”. Nó chậm chân lại, có ý muốn xem thằng đó đi đâu, làm gì ! Đối với Sannosuke, cha con Daizo rõ ràng là những tên gian phi cần bị theo dõi và tố cáo.
Có lẽ linh tính báo cho Jotaro biết nó đang bị dò xét nên thỉnh thoảng nó quay đầu nhìn lại phía sau và rảo bước nhanh hơn. Jotaro bây giờ không còn là đứa trẻ như trước. Nó vẫn đen đủi, nhưng trong những năm ở với Daizo làm con nuôi lão, Jotaro đã lớn và đẫy đà hơn nhiều. Mười tám tuổi rồi, Jotaro trở thành trang thanh niên nhanh nhẹn, khôn ngoan, rất vừa lòng nghĩa phụ.
Thấy thằng bé cứ lẽo đẽo theo mình, Jotaro muốn thử xem có phải thật nó dò xét mình không, bèn đang đi, thình lình tạt ngang đến nấp sau một tảng đá lớn, hé mắt quan sát.
Quả nhiên Sannosuke mắc bẫy. Không thấy Jotaro đâu, nó nhớn nhác nhìn quanh. Đến gần tảng đá, Jotaro nhảy xổ ra quát lớn:
- Thằng kia ! Mày theo dõi ta phải không ?
Giật mình, Sannosuke đứng sững:
- Đâu có !
- Đừng chối ! Đúng mày theo ta !
Sannosuke bỏ chạy, nhưng Jotaro nắm ngay được lưng áo nó:
- Tiểu nghiệt súc ! Ai sai mày dò xét ta ?
Sannosuke vùng vẫy. Bị kẻ đồng trang lứa gọi là tiểu nghiệt súc, một tiếng chửi nặng nề, nó tức giận mắng lại:
- Ngươi mới là nghiệt súc. Ăn cắp bảo vật rồi đem chôn giấu, ngươi tưởng không ai biết hả ?
Câu nói bất ngờ khiến Jotaro sửng sốt. Thừa cơ, Sannosuke vùng mạnh một cái, giật ra chạy, vừa chạy vừa la chói lói:
- Ăn cắp ! Thằng ăn cắp ! Bắt nó !
Thấy xa xa lẩn trong những hàng cây xanh rì, có vài căn nhà dựng liền nhau, Sannosuke đoán là xóm có người ở. Nó hướng về phía ấy chạy thục mạng. Jotaro đuổi theo, chậm hơn. Hai đứa cách nhau một quãng xa. Đến giữa xóm, Sannosuke la càng lớn:
- Thằng ăn cắp nó đuổi tôi ! Bớ làng xóm, cứu tôi với ! Nó chôn đồ ăn cắp ở gò Thủ cấp lũng.
Nghe thấy vậy Jotaro sợ quá. Không ngờ thằng bé này theo dõi việc làm của nó từ đêm qua, không khéo hỏng hết cả. Nhanh trí, Jotaro không đuổi nữa. Nó chậm bước lại, kéo quần áo ngay ngắn rồi làm bộ tự nhiên đi thong dong như khách qua đường.
Vài phụ nữ tò mò chạy ra, có người lưng đeo con nhỏ, lại thêm cả một lão ông.
Sannosuke vừa chạy vừa la vừa chỉ trỏ về phía sau. Chẳng ai hiểu chuyện gì, nhìn nhau rồi lại nhìn hai thiếu niên, thấy anh chàng lững thững đi sau chẳng có vẻ gì là gian phi cả. Gã lại còn mỉm cười chào mọi người nữa chứ ! Hỏi gã, gã bảo không biết, chẳng nhìn thấy ai đuổi ai. Thằng bé đó kêu la chắc có ý tinh nghịch muốn trêu trọc dân xóm.
Mọi người lắc đầu, cho là chuyện trẻ con không lý đến.
Chạy được quãng xa, ra khỏi xóm, Sannosuke dừng lại. Tuy không thấy ai đuổi theo nữa nhưng dân xóm dường như cũng chẳng quan tâm gì đến lời nó kêu cứu. Ngạc nhiên không hiểu tại sao người lớn lại lãnh đạm đến thế trước tội ác của thằng ăn cắp, nó phân vân chẳng biết xử trí cách nào. Đành cứ cắm cúi đi, đợi về đến nhà đem chuyện thuật lại cho dân xóm Musashino rõ. “Chắc họ sẽ giúp ta lấy lại đồ bảo vật và cứu sư phụ”, Sannosuke nghĩ.
Thấm thoắt thế mà đã xế chiều. Những lùm trắc và những cây dẻ gai trên đồng cỏ quen thuộc đã hiện ra, chỗ thì vài cây rải rác, chỗ thì mọc thành bụi rậm bên đường mòn, khiến Sannosuke vui mừng như gặp được người quen sau bao năm xa cách. Nó vừa định chúm môi thổi sáo, nhưng nghĩ đến sư phụ lại thôi, lòng bồi hồi lo lắng.
Thình lình, một bóng người nhảy ra, giơ tay cản đường. Sannosuke lùi lại rút mộc kiếm. Thì ra lại thằng Jotaro. Không biết nó đi đường tắt nào mà đến đây trước được.
Nhớ lời sư phụ dạy, Sannosuke tập trung ý chí vào đôi mắt, phóng mục quang quắc nhìn địch thủ. Nhưng Jotaro chỉ liếc sơ nó, cười gằn:
- Á à gan nhỉ ! Bé con cũng biết đánh kiếm cơ đấy !
Nói đoạn cũng rút gươm ra thủ thế.
- Trông đây ! Chuột nhắt !
Dứt lời phạt chéo một chiêu chênh chếch từ trên xuống dưới. Sannosuke thấy Jotaro xuất chiêu đã chậm mà lại để hở cả sườn bên phải, bèn nghiêng mình tránh rồi cả hai tay nắm kiếm gỗ phạt ngang hông nó. Kiếm gỗ đập cái “chát” vào đùi Jotaro.
May là kiếm gỗ và công lực của Sannosuke chưa có gì nên Jotaro chỉ đau chứ không bị thương. Nó hét lên:
- Ta giết mày !
Sannosuke chạy quanh gốc cây. Jotaro phóng kiếm chém loạn, nhát bên phải, nhát bên trái, cành lá rơi lả tả. Sannosuke kinh hãi toát mồ hôi, bỏ chạy.
Lợi dụng bóng tối giữa những thân trắc đen sì, cao lừng lững, nó quanh co hồi lâu rồi thoăn thoắt trèo lên một thân cây cao, ngồi lẩn trong vòm lá rậm rạp nhìn xuống.
Phía dưới, Jotaro xách kiếm lò dò tìm địch thủ, chân bước chậm chạp, mắt láo liên, đầu lúc nghiêng bên này lúc quay bên kia, chẳng khác gì con gà trống tìm mồi, hai tay khuỳnh ra như hai cái cánh. Không nhịn được, Sannosuke bật cười thành tiếng. Thế là bị phát giác.
- Có giỏi xuống đây giao đấu ! Ở trên đó hèn lắm !
- ...
- Chịu thua ta, hàng đi, ta sẽ tha mạng !
- Không đời nào ! Ta không bao giờ hàng một thằng ăn cắp.
Tức giận, Jotaro ôm thân cây trèo lên, nhưng vì thân hình đẫy đà, trèo không nhanh bằng Sannosuke. Đến cái chạc chỗ Sannosuke ngồi thì Sannosuke đã trèo lên cành khác cao hơn mất rồi.
Jotaro hổn hển bò theo:
- Hàng đi ! Nếu không, ta bắt được đừng trách.
- Không đời nào ! Ta không bao giờ hàng ngươi để làm nhục sư phụ !
- A, khá lắm ! Ngươi có sư phụ đấy ! Sư phụ ngươi là ai vậy ?
- Nghe đại danh, ngươi sẽ sợ hãi chết khiếp mà rớt từ trên cây xuống !
Jotaro cười ranh mãnh:
- Không sao, ta ôm chặt cành này rồi. Ai vậy ?
- Miyamoto Musashi.
Jotaro không tin ở tai mình. Nó hỏi lại:
- Ai ? Nói lại nghe coi !
- Sư phụ ta là đại hiệp sĩ Miyamoto Musashi ở Miyamoto. Ta là đồ đệ độc nhất của người.
- Láo ! Nói láo ! Ta mới là đồ đệ người !
- Ngươi nói láo thì có. Sư phụ ta có bao giờ lại nhận một thằng ăn cắp làm đồ đệ.
Nếu cứ bình tĩnh bày tỏ, có lẽ Jotaro cũng sẽ dò hỏi thêm cho biết ngọn ngành và giải tỏa được sự hiểu lầm, nhưng Sannosuke luôn mắng nhiếc nó là thằng ăn cắp. Lời sỉ nhục chẳng khác gì muối sát vào vết thương. Nó nổi giận phóng gươm về phía Sannosuke. Sannosuke đưa mộc kiếm ra đỡ. Gươm của Jotaro văng mất. Sannosuke cười thỏa mãn:
- Ha ha ! Thua rồi nhé ! Ngươi thua rồi nhé !
Jotaro vươn mình, đánh đu lên cành cây phía trên đầu, quơ tay định nắm chân địch thủ thì bỗng “rắc rắc”, cả hai cành đều gẫy. Jotaro và Sannosuke mất thăng bằng cùng rơi xuống đất như trái thông rụng, nằm bất tỉnh trên đám loạn thạch dưới dốc.
oo Sau buổi hội đàm tại tư thất Hojo Ujikatsu cùng với Yagyu, Takuan có ý muốn tìm gặp riêng Musashi. Ông đến đồng Musashino. Tiếc thay, Musashi đã cùng đồ đệ đi xem hội chưa về.
Một nông dân dẫn ông tới căn lều hắn ở. Căn lều vẫn lệch nghiêng sau trận bão, nhưng đã được ghìm lại bằng nhiều dây chão lớn nên cũng chưa đổ. Takuan bước vào.
Đồ đạc nghèo nàn chứng tỏ một nếp sống đạm bạc đến mức thiếu thốn. Chủ tâm đợi Musashi về, ông trải bồ đoàn ngồi nghỉ rồi nhóm lửa pha trà.
Chợt nghe tiếng gõ ở liếp ngoài, Takuan bước ra. Một ông già mù mặc áo vải gai, chống gậy, hông đeo lỉnh kỉnh đủ thứ đồ lặt vặt như nồi, chén, chăn chiếu cuộn tròn lẫn với những túi vải đựng gì không biết, đứng đấy tự bao giờ. Trên lưng lại còn giắt ống sáo. Trông dáng dấp rõ là một đạo sĩ.
Lão đen, gầy nhưng nét mặt có nhiều nét quen khiến Takuan ngờ ngợ đã gặp ở đâu rồi. Lão xin chủ nhân chút nước nóng. May sao ấm nước cũng vừa sôi, Takuan mời vào pha trà cùng uống.
Nghe giọng nói của nhà sư, lão đạo sĩ đột nhiên ngẩng mặt:
- Phải chăng chủ nhân đây là Takuan thiền sư ở chùa Shippoji ?
Bấy giờ Takuan mới sực nhớ:
- Phải, nhưng bần tăng không phải là chủ nhân. Thế còn lão, phải chăng là cựu đội trưởng Aoki tại lâu đài Himeiji ngày trước ?
Đạo sĩ cúi đầu không đáp. Lát sau ngẩng mặt lên, hai giọt lệ lăn trên gò má, đôi mắt trắng đục chớp nhanh.
Takuan cầm tay dẫn vào. Hỏi ra mới rõ sau khi bị mất chức đội trưởng, lão lang bạt mấy năm, rồi vào ở ẩn tại một ngôi đền bỏ hoang ngoại thành Kyoto như một đạo sĩ cho đến khi lòa cả hai mắt. Ngôi đền chẳng may bị thiêu rụi trong một cuộc cháy rừng lau nên lão lại nay đây mai đó, không có chỗ trú nhất định.
- Bần đạo sở dĩ còn cố bám lấy cuộc sống đến ngày nay cũng chỉ vì đứa con trai ...
- Nó đâu ? Sao không cùng đi với lão ?
- Chưa gặp. Bần đạo đã để ý dò hỏi nhiều người, nghe nói hình như nó theo hầu một kiếm sĩ.
- Tên gì ? Lão đạo sĩ có thể cho biết được không ?
- Aoki Jotaro, nhưng người ta vẫn thường gọi nó là Jotaro.
- Ồ ! Phải đứa bé chừng mười hai mười ba tuổi, da ngăm ngăm đen, dáng người mảnh khảnh không ?
- Chắc phải. Lúc đó bần đạo mới rời khỏi quân ngũ nên gửi nó cho người thân nuôi dưỡng lúc lên mười. Bây giờ hẳn nó đã lớn lắm !
Takuan gật đầu:
- Ai chứ thằng Jotaro thì bần tăng biết. Quả nó có theo học một kiếm sĩ.
Mừng rỡ, lão đạo sĩ hỏi dồn:
- Vậy ư ? Vậy ư ? Bây giờ nó đâu, đại sư có biết không ?
- Thật đáng tiếc. Đã mấy năm nay không gặp nhưng để thong thả, bần tăng sẽ có cách giúp lão đạo sĩ tìm lại được nó.
- A di đà Phật ! Đa tạ đại sư.
Uống cạn tuần trà, lão đạo sĩ đứng lên cáo thoái. Takuan nhắc:
- Lão chưa cho bần tăng biết chỗ ở. Tìm được tung tích Jotaro, làm sao bần tăng thông báo ?
Aoki bấy giờ mới sực nhớ. Nhưng lão ngần ngừ. Bốn bể không nơi nương tựa, biết rồi sẽ giạt về đâu mà báo trước ! Lắc đầu, lão nói:
- Thôi ! Đại sư bất tất phải nhọc lòng. Nếu gặp con lão, cứ cho nó biết tiện danh cũng đủ. Nếu nó còn chút tình quyến luyến thì sẽ tìm, bằng không ...
Bỏ lửng câu nói, lão đạo sĩ cúi đầu lẳng lặng, khua gậy bước ra cửa. Takuan nhìn theo, ái ngại. Gần tám năm mặc áo vải gai, sống đời cô lậu mà lòng trần chưa dứt, vẫn còn nhiều hư vọng. Cầu đức vô lượng từ bi giải thoát cho lão.
Ông lấy giấy bút ra, viết vài chữ giới thiệu đến một ngôi thiền tự gần Edo rồi chạy theo đưa cho lão đạo sĩ, căn dặn ở đấy tới khi gặp Jotaro.
Trở vào bên khay trà, Takuan ngồi trầm ngâm cho đến tối. Trong nhà, bóng đêm sập xuống nhanh. Ngọn đèn dầu thông leo lét không soi sáng hết gian nhà cỏ.
Chợt có hai nông dân hớt hải khiêng một đứa trẻ đến đặt trước thềm. Thằng bé trạc mười bốn mười lăm, nằm thiêm thiếp. Takuan ngạc nhiên chạy ra:
- Thằng bé này là ai ?
- Nó ở đây với một hiệp sĩ chúng tôi vẫn thường gọi là Musashi đại hiệp. Không hiểu sao lại nằm bất tỉnh trong miễu trắc với một đứa nữa.
- Thế đứa ấy đâu ?
- Còn ngoài miễu.
- A di đà Phật ! Vậy phiền các bác lại ra đó khiêng nó về đây ta coi thế nào. May ra còn cứu được !
Hai nông dân hối hả chạy đi. Takuan bế xốc Sannosuke vào nhà đặt nằm trên chiếu. Sờ thân thể còn nóng và mạch vẫn đều hòa, ông lấy nước lã vã lên mặt. Lát sau nó tỉnh. Vừa khi ấy, hai nông dân kia cùng dìu được Jotaro đến cửa. Jotaro khỏe hơn nên không đến nỗi ngất lâu như Sannosuke, nhưng nhất thời chẳng khác gì người mất trí. Nó ngơ ngác nhìn Takuan.
Nhà sư hỏi:
- Thằng Jotaro phải không ? Làm sao đến nỗi này ?
Jotaro ngơ ngác một hồi, chỉ tay vào Sannosuke. Sannosuke lắp bắp:
- Ăn ... cắp ... Thằng ... ăn ... cắp ...
Chẳng ai hiểu gì. Takuan bắt Jotaro nằm xuống góc lều, đoạn lục trong đẫy ra một lọ thuốc, lấy một viên mài với nước đổ cho cả hai uống. Lúc sau, Jotaro và Sannosuke cùng thiếp đi, tiếng thở đều hòa và sắc diện đã hồng hơn trước.
Cảm ơn hai nông dân xong, Takuan cũng trải chiếu nằm nghỉ.
Sáng hôm sau, bình minh vừa rạng, Takuan ra khỏi lều, bách bộ vài vòng. Trở về, Jotaro đã chờ sẵn ngoài cửa. Thấy Takuan, nó quỳ xuống kính cẩn:
- Con xin cảm ơn thầy.
Nhà sư gật đầu mỉm cười:
- Lâu không gặp con, không ngờ lớn thế này rồi đấy ! Sao không nghe thầy con nói gì tới con cả ?
- Dạ, mấy năm nay con cũng không biết sư phụ Ở đâu.
- Vậy hả ? Thế trong thời gian đó con làm gì ?
- Con được một nhà hảo tâm nhận làm nghĩa tử và nuôi dưỡng. Ông ấy tên Daizo, ở đất Nara.
Trong nhà, Sannosuke cũng đã ngồi dậy. Thấy Jotaro trò chuyện với một nhà sư, nó ngạc nhiên hết sức, lắng tai nghe. Thấy nhắc đến Daizo, nó bèn xen vào:
- Đại sư đừng nghe nó ! Nó với Daizo ăn cắp đồ bảo vật của đền.
Takuan không hiểu, nhìn Sannosuke rồi lại nhìn Jotaro ra ý hỏi. Jotaro cúi đầu không đáp. Ông bèn kéo nó ra hẳn bên ngoài:
- Chuyện gì thế con ? Nói hết ta nghe, đừng giấu giếm.
Jotaro bèn đem tất cả sự việc, từ khi ở thác Phu Phụ ra đi, bị lạc Otsu và thầy như thế nào, rồi gặp Daizo thấy ông này mang vàng chôn ra sao, hứa với ông ấy những gì khi ông cưỡng bách nó phải làm nghĩa tử, lại âm mưu đoạt bảo vật của đền Mutsumine đem đi giấu ở đâu, nhất nhất thuật lại hết. Takuan chú ý nghe, trán cau lại, nét mặt đăm chiêu không giấu được vẻ suy tư.
- Jotaro ! Con đang làm một việc nguy hiểm tày trời con có biết không ?
- Dạ.
- Daizo là người thế nào ?
- Ông ấy rất tốt. Ông có ăn cắp thật nhưng là lấy tiền của những nhà giàu để làm việc thiện. Ông chỉ bắt con không được tiết lộ cho ai biễt những việc ông làm mà thôi.
Nhà sư cười khẩy:
- Ăn cắp là ăn cắp. Ta chưa hề nghe nói hành động ăn cắp nào là tốt, hành động ăn cắp nào là xấu. Nhưng ta không nghĩ Daizo ăn cắp chỉ vì mục đích xã hội, muốn làm việc thiện. Ông ta nhắm một mục đích khác, ghê gớm hơn nhiều.
- Mục đích gì ?
- Theo ý con thì ngoại mục đích dâng cúng vào chùa chiền, ông còn mục đích gì khác không ?
- Chắc không.
- Lầm ! Theo chỗ ta biết, Daizo có liên hệ đến họ Toyotomi ở Osaka và có ý định tạo phản.
Jotaro giật mình, mơ hồ cảm thấy lo sợ. Takuan bảo nó theo vào nhà rồi hỏi chuyện Sannosuke. Thằng bé lúc đầu ngại ngùng chỉ trả lời gióng một những câu hỏi của nhà sư nhưng sau thấy ông trấn an và tỏ ra quen biết rất nhiều với sư phụ nó nên vững tâm hơn, kể vanh vách những chuyện xảy ra.
Thấy Sannosuke quả là đồ đệ của Musashi và được Takuan cho biết Jotaro cũng là đồ đệ nhưng đã được thu nhận trước, cả hai nhìn nhau không còn hằn học nữa.
Takuan quay nhìn Jotaro, nghiêm nghị:
- Con thấy không, hành động của Daizo và của con chắc đã khiến sư phụ con bị bắt oan.
Jotaro chùi nước mắt:
- Con muốn gặp sư phụ.
- Bây giờ chưa được.
Jotaro nức nở. Sannosuke cũng khóc theo.
- Con muốn gặp sư phụ. Con sẽ thú hết tội lỗi.
Takuan nhìn nó thương hại. Ông quát:
- Đồ ngu ! Làm như thế ích gì ? Mày sẽ rục xương trong ngục hoặc bị xử trảm. Mày không rõ tội phản loạn to lớn đến đâu ư ? Có thể làm lụy đến sư phụ mày nữa chứ đừng nói cứu ông.
- Thưa thầy, thế phải làm thế nào ?
- Việc ấy mặc ta lo liệu. Sáng nay ta mới gặp thân phụ mày. Chắc ông đang trên đường tới chùa Vân Lĩnh ở Edo, hãy tạm đến đó ở với ông.
Takuan mở đẫy lấy ra hai đồng tiền vàng, đưa cho Jotaro:
- Đi ngay đi. Kiếm mua một cái nón nan và bộ tăng bào để trá hình làm khất sĩ.
Cầm hai đồng tiền, Jotaro tần ngần hỏi:
- Sao ngài Tokugawa lật đổ dòng họ Toyotami, tiêu diệt các sứ quân lại không bị coi là phản bội, mà người khác lật đổ ngài lại bị ghép tội ấy ?
Takuan nghiêm nghị nói:
- Đừng bắt ta trả lời câu hỏi đó. Lịch sử sẽ trả lời cho ngươi biết. Đối với ta, bất cứ ai nhân danh bất cứ điều gì, dù cao đẹp đến đâu mà phản bội dân tộc cũng bị coi là phản bội.