Bạn đang xem trang 7 / 9 trang

Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Hai T2 26, 2007 12:10 am
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ

CHƯƠNG 56

CUỘC GẶP GỠ TÌNH CỜ







Vết thương ở ngực Musashi bây giờ tím bầm, tay hắn cử động hơi khó.
Vận khí thấy huyết mạch vẫn điều hoà, hắn không quan tâm lắm, nhưng không muốn la cà ở dọc đường hỏi tin tức về Jotaro và Otsu nữa mà đổi ý theo hướng đông rẽ sang quan lộ đi Shimosawa. Ở đấy, nếu vết thương có biến chứng gì cũng dễ trị.
Shimosawa là một trấn lớn bên bờ hồ Suwa, dân cư khá đông, nổi tiếng về suối nước nóng và những nhà tắm hơi công cộng. Các gia đình quyền quý và thương gia giàu có dựng nhà nghỉ mát kể có hàng ngàn. Tại các lữ điếm dành cho phái quý tộc, phòng tắm hơi đều có mái che, còn ở những nhà tắm công cộng để giới bình dân dùng thì chỉ là vài cái bồn gỗ quây sơ sài trong một khu lộ thiên gần suối.
Musashi dừng chân trước một trong những nhà tắm công cộng ấy, cởi trang phục máng lên cành cây rồi bước vào bồn nước. Gối đầu lên phiến đá, ngâm mình trong bồn nước ấm hơi nóng bốc mù mịt, hắn thấy sảng khoái vô cùng. Bao nhiêu mệt mỏi dường như theo hơi nước tiêu tan đi mất cả. Hắn đưa tay xoa nhẹ vết thương, cảm thấy dễ chịu, lim dim mắt nhìn ra bên ngoài rào gỗ.
Trời đã xế chiều. Mặt hồ Suwa phẳng lặng phản chiếu ánh hoàng hôn hồng nhạt qua những căn lều thưa thớt của xóm dân chài. Trong thửa vườn nhỏ, rộng mỗi bề chừng chục thước, một người đàn bà lúi húi tưới rau. Gần đấy là ngôi hàng xén bán dầu đèn cùng vài thứ cần dùng khác cho khách. Trước hiên, một người đàn ông trung niên vận trang phục lữ hành ngồi trên ghế đẩu đang thử đôi dép cỏ. Khách vừa thử vừa hỏi chủ quán:
- Ông chủ thấy có ai tên Musashi đi qua đây không ?
Chủ quán lắc đầu. Khách lại tiếp:
- Hắn có bản lĩnh ghê hồn, dám một mình một kiếm giao chiến với cả trăm người phái Yoshioka mà không ai làm gì được. Đảm lược ấy ngày nay không mấy ai có.
- Lão không nghe nói. Thế hắn chừng bao nhiêu tuổi, ăn mặc ra sao ?
Khách không đáp, xem ra cũng chẳng rõ gì hơn ngoài cái tên Musashi vừa thốt, chỉ yên lặng lúi húi buộc quai dép, trả tiền rồi đứng dậy lẩm bẩm:
- Thế nào cũng phải tìm hắn cho bằng được.
Musashi nheo mắt nhìn. Khách lạ vào trạc tứ tuần, da nâu vì sương nắng, tóc hai bên thái dương lốm đốm bạc, nét mặt phong sương và cương nghị. Y phục bằng vải tốt và thanh kiếm đeo bên hông chuôi nhẵn bóng. Hắn đoán người đó phải là một kiếm sĩ có địa vị và từng trải, đã xông pha nhiều trận.
“Không lẽ lại là đệ tử Yoshioka ?”. Musashi nghĩ thầm nhưng vội gạt ngay ý nghĩ ấy, vì nếu là đệ tử Yoshioka thì tất biết rõ tầm vóc, tuổi tác hắn. Vả nghe giọng nói, không thấy vó vẻ gì hằn học hay thù hận. “Nhưng là ai, không hiểu tại sao lại tìm mình ?
Lạ quá !”.
Chờ cho khách đi khỏi, Musashi mới bước ra ngoài bồn tắm. Với quần áo mặc vào, trả tiền xong, hắn ung dung đi ra đường lớn, trong lòng vẫn không khỏi thắc mắc về danh tính và mục đích của kẻ đó. Như một khách thừa lương, hắn bước thong thả, cẩn trọng trông chừng từng bụi cây và các chỗ khuất.
Được quãng xa, đến một khúc quanh, bất ngờ lại gặp chính ngay người khách lạ mặt ấy. Dưới chiếc nón nan, đôi mắt khách sắc như dao liếc nhanh về phía hắn.
Musashi tảng lờ như không biết, cứ tiếp tục đi. Người kia đến gần, hỏi:
- Tráng sĩ phải chăng là Miyamoto Musashi ?
Musashi khẽ gật và kín đáo đề phòng.
Người kia tỏ vẻ mừng rỡ:
- Quả không lầm ! Thật là hạnh ngộ !
- Tôn ông là ai ? Theo tại hạ có việc gì ?
Musashi hỏi.
- Xin tráng sĩ tha lỗi đường đột. Tiện danh là Ishimoda Geki, thủ túc thân tín của tướng công Date Masamune đất Mutsu. Tại hạ có ý tìm tráng sĩ từ lâu ...
- Rất hân hạnh. Nhưng tìm tiểu nhân có việc gì ?
- Đứng đây nói chuyện không tiện, xin mời tráng sĩ tới lữ quán dùng cơm chiều, tại hạ sẽ trình rõ.
Musashi do dự, ý muốn từ chối. Ishimoda Geki lại tiếp:
- Buổi sơ kiến mà xử sự như thế này thật vô phép, xin tráng sĩ đừng nghi kỵ. Tại hạ chính là người có vị thế lớn dưới trướng Masamune tướng công, bổng lộc trên vạn giạ lúa, giannhân hàng chục người, ngựa tốt trăm con. Vì ngưỡng mộ tài năng của tráng sĩ mà đi tìm chứ không có ý gì khác. Xin chớ phụ lòng.
Trước thái độ vồn vã ân cần của khách lại, Musashi không tiện thoái thác, Geki bèn níu áo lôi đi.
Đến chỗ trọ, không ngờ là một lữ điếm sang trọng vào bậc nhất trấn Shimosawa, tì nữ ra đón vào, cầm đèn lồng hướng dẫn qua một lối đi riêng giữa hai hàng tùng xanh trúc biếc. Musashi lại càng không đoán được lý do nào mà một kiếm sĩ có địa vị như thế lại cất công đặc biệt tìm mình.
Thị tỳ mang áo mới đến, thứ áo mềm lót bông để khách dùng trong nhà, đặt trên hai cái khay sơn then khảm xà cừ và nạm bạc. Ishimoda Geki cầm áo nói:
- Đường xa bụi bặm, tại hạ mạn phép vào phòng tắm một lát. Mời tráng sĩ cùng vào một thể.
- Xin cứ tự nhiên, tiểu nhân vừa tắm rồi.
Geki không ép, đi vào nhà trong, đồng thời sai nữ tỳ mang rượu tới. Musashi bước ra hiên. Thị trấn đã lên đèn, tiếng ồn ào cũng giảm bớt. Xa xa, nước hồ đổi từ màu chàm sang màu đen sẫm khiến hắn liên tưởng tới màu mắt đen của Otsu lo lắng nhìn hắn đêm nào dưới ánh trăng trên triền núi. Áy náy và hối hận tràn ngập trong lòng, Musashi tự hỏi không biết giờ này Otsu ở đâu, an nguy ra sao và tự trách mình đã bỏ phí thì giờ đến một chỗ không cần thiết. “Kẻ nào bắt cóc Otsu tất không đời nào dẫn qua một nơi đông đúc như thế này !”. Tưởng tượng nghe tiếng Otsu kêu cầu cứu đâu đây, lòng hắn bồn chồn như lửa đốt.
Geki tắm xong đã trở lại phòng khách. Thấy bộ áo của lữ quán vẫn còn nguyên để trên khay, Geki ngạc nhiên hỏi:
- Tráng sĩ không thay áo ?
- Tiểu nhân mặc thế này cũng đủ. Trong nhà, ngoài đường hay bất kỳ lúc nào, tiểu nhân cũng mặc thế này. Âu là thói quen, vả mặt thế này thoải mái hơn, xin miễn thứ.
Đoạn mỉm cười ra chiều xin lỗi. Ishimoda Geki gật gù:
- Chắc tráng sĩ muốn luôn luôn sẵn sàng. Masamune tướng công thấy thế hẳn phải vừa lòng lắm !
Musashi nhướng mày ra ý hỏi, nhưng Geki chỉ cười, cầm chén tráng vào bát nước nóng để bên rồi thân hành rót rượu mời.
Musashi từ tạ mà nói:
- Buổi đầu gặp gỡ, tiểu nhân được tôn ông quá biệt đãi, dành cho nhiều cảm tình như thế này, không hiểu vì lý do gì, nên thắc mắc mà không dám nhận.
Geki cười ha hả, cầm chén rượu uống cạn:
- Tráng sĩ ngạc nhiên là phải. Nhưng có gì đâu ! Lý do cũng dễ hiểu. Tại hạ bị ma lực của tráng sĩ quyến rũ đấy !
Nói xong lại cười khiến Musashi cũng cười theo, nhưng sau những tiếng cười ấy, mỗi người có một ý tưởng khác.
Geki chưa biết rõ Musashi, chưa dám bộc lộ tâm tình nên nghĩ rằng giải thích như vậy cũng đủ. Trái lại, lời giải thích của Geki càng làm Musashi hoang mang hơn. Hắn còn trẻ, bản tính chân thật, chưa từng trải bao nhiêu trong sự giao tiếp với xã hội, nên không bao giờ tưởng rằng một người đàn ông lại có thể bị quyến rũ bởi một người đàn ông khác. Riêng hắn, không bao giờ hắn cảm thấy như thế cả. Takuan nhiều lúc đùa cợt nhưng những lời ông nói hàm ý tứ sâu xa, hắn coi như bậc thày.
Koetsu sống ở một thế giới khác. Yagyu lão nhân thì đã rút khỏi vòng hệ lụy của nhân sinh, ngưỡng mộ hay không ngưỡng mộ Ông nào có khác gì ? Có lẽ Geki nói như thế chỉ có mục đích tâng bốc. Nhưng Musashi nhìn mắt người đối thoại, thấy không phải là một kẻ xiểm nịnh tầm thường, bèn hỏi thẳng:
- Tôn ông nói bị ma lực của tiểu nhân quyến rũ là thế nào ?
Geki thôi không cười nữa, nghiêm trang đáp:
- Có lẽ vì diễn không hết ý hoặc dùng chữ sai nên tráng sĩ không hiểu rõ. Tại hạ chỉ muốn nói từ khi được nghe đại danh sau trận hỗn đấu trên đồi Sinh Minh, và được diện kiến, tại hạ hết sức cảm phục và đem lòng yêu mến chẳng khác nào bị mê hoặc.
Musashi đỏ mặt gạt đi:
- Tôn ông quá khen, tiểu nhân quả không xứng đáng. Nhưng sao tôn ông biết tiểu nhân đi đường này ?
- Tại hạ có xem mảnh vải yết thị treo trên cây của tráng sĩ.
- À ra thế !
Thật trớ trêu ! Mảnh vải viết để tìm một người thì một người khác lại tìm đến.
Chẳng hiểu rồi ra có liên quan gì đến những việc sau này không. Con tạo có những xếp đặt bất ngờ thật !
Geki lại tự tay rót rượu mời Musashi.
- Anh em bốn bể một nhà, huống chi chúng ta đều trong võ lâm cả. Xin tráng sĩ chớ làm khách, hãy nhận chén rượu này, tại hạ thành thật mong được tráng sĩ coi là bạn.
Musashi cầm chén rượu nâng ngang mày rồi vui vẻ uống cạn.
- Lúc nãy tại hạ đã tự giới thiệu là thủ túc của Date Masamune tướng quân, chắc tráng sĩ chỉ mới nghe danh chứ chưa rõ nhiều về ngài, vậy xin nói rõ.
Masamune tướng công là vị sứ quân đứng đầu một lãnh địa đang hồi phong thịnh lại rất hào phóng. Vùng đất Mutsu phương bắc rộng tới vạn mẫu, bổng lộc hàng năm kể mấy triệu gia. lúa, dưới trướng không biết bao nhiêu là kiếm sĩ nhưng xét cho kỹ, chẳng mấy ai được như tráng sĩ. Tráng sĩ còn trẻ, nếu nghĩ đến tương lai, xin đừng bỏ qua cơ hội.
Musashi đăm đăm nhìn khay rượu, không đáp. Tiếng đàn từ phòng bên vọng tới cùng với bóng tỳ nữ qua lại ngoài hiên in lên nền giấy dán trên song cửa. Bỗng nhiên, Geki đột ngột hỏi:
- Musashi tráng sĩ ! Tráng sĩ luyện kiếm cho ai ?
Bị hỏi bất ngờ, Musashi không biết trả lời sao, vì hắn chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện ấy. Hắn ngay thật đáp:
- Thì cho tiểu nhân !
Geki mỉm cười:
- Tráng sĩ nói đùa rồi ! Mưu cầu danh lợi cá nhân chẳng phải là mục đích tối hậu của người cầm kiếm, nhất là người cầm kiếm ấy là tráng sĩ. Xin đừng giấu nhau nữa !
Vô tình hay hữu ý, Geki đã đưa dần Musashi đến mục đích chính của cuộc gặp gỡ. Lặng yên một lúc, Geki tiếp:
- Toàn thể nước Nhật ngày nay đều đặt dưới quyền thống trị của Tokugawa Ieyasu. Hòa bình và thịnh vượng này, như tráng sĩ biết, chỉ là giả tạo. Dân chúng có được gì không ? Qua bao nhiêu thế kỷ nối tiếp nhau, phái quân phiệt luôn luôn nắm chính quyền, áp bức không những dân chúng àm còn cả hoàng gia nữa. Lợi lộc đều về tay đảng tộc của họ, còn dân chúng vẫn chịu cảnh cơ cực. Dưới thời Tokugawa Ieyasu xem ra dân còn lầm than hơn nữa, và thời đại này chẳng qua cũng chỉ là kéo dài sự chuyên chế tàn bạo của những thời đại trước mà thôi.
Masamune tướng công và một số bạn hữu ngài ý thức điều đó rõ hơn ai hết nên có ý định hành động ...
Ishimoda Geki nói một hơi dài rồi dừng lại, liếc nhìn Musashi, thấy hắn vẫn im lặng lễ phép ngồi nghe và không phản ứng gì thì chẳng biết ý tứ hắn ra sao.
Nhìn xuống khay rượu, Geki mượn cớ:
- Rượu nguội cả rồi ! Nào xin cạn chén đi chứ ! Tử lượng tráng sĩ chắc phải hơn tại hạ.
- Không, tiểu nhân uống ít lắm.
- Người phương bắc vùng tại hạ uống rượu không biết say, một phần vì thói quen, một phần để chống lại hàn khí. Masamune tướng công là một trong những người uống rượu rất hào, uống cả đêm được mà sắc mặt vẫn không đổi.
Chén thù chén tạc, câu chuyện đổi sang nếp sống thường nhật của dân chúng phương bắc và lòng trung thành của Masamune tướng công đối với hoàng gia.
Trong khi Geki thao thao bất tuyệt ca tụng chủ soái với hậu ý kết nạp Musashi thì hắn chỉ tỏ thái độ dè dặt. Tuy nhiên, nghe lời nói và xét ý tứ của Geki, hắn cũng rõ khá nhiều về đường hướng và lý tưởng chính trị của Date Masamune, coi kiếm đạo như con đường độc nhất để khắc kỷ và giải quyết mọi vấn đề xã hội.
Kiếm đạo có từ thời cổ, từ lúc có giai cấp võ sĩ, nhưng ngày nay nghĩa vụ và giá trị tinh thần của nó không còn nữa. Thảng hoặc có người nhớ đến thì chỉ là những khái niệm mơ hồ. Trong cuộc nội chiến giữa các sứ quân vào thế kỷ mười lăm và mười sáu, tinh thần võ sĩ đạo đã bị bóp méo và phần lớn bị thu hẹp trong nghĩa vụ của người võ sĩ đối với chủ soái mà thôi. Bây giờ thì bất cứ người cầm kiếm nào cũng có thể tự phong cho mình là kiếm sĩ, không quan tâm gì đến ý nghĩa của con đường họ theo đuổi nữa.
Những kẻ đó đa số tâm địa còn thấp kém hơn cả tâm địa những người dân quê ngu dốt.
Hồi tưởng lại những năm trong Musashi thất ở lâu đài Himeiji, Musashi nhớ đã xem qua một cuốn sách viết về cốt tủy của kiếm đạo, mục tiêu và kỹ thuật của nó do FJurokian viết. FJurokian chính là bút hiệu của viên võ tướng nổi danh Uesugi Kenshin. Lý tưởng cùng phép ứng dụng kiếm đạo vào xã hội của ông đã khiến lãnh địa do ông cai quản trở thành một trong những lãnh địa giàu mạnh nhất thời ấy. Những lời Ishimoda Geki vừa nói xem ra phản ánh phần nào quan niệm cai trị của Uesugi Kenshin.
- Tráng sĩ tha lỗi cho tại hạ đã dài dòng. Tai nghe không bằng mắt thấy. Nếu tráng sĩ không nề, ngay ngày mai, tại hạ xin dẫn đường đến Mutsu để tráng sĩ đích thân mục kích sự sinh hoạt trong lãnh địa. Chắc chắn Masamune tướng công sẽ rất hân hạnh được đón tiếp tráng sĩ.
Đêm đã khuya. Khay rượu được dọn đi và thay vào bằng những món ăn nóng.
Musashi rất lưu ý đến những lời mời mọc của Ishimoda Geki nhưng vẫn chưa tỏ thái độ rõ rệt.
- Đa tạ tôn ông đã có hảo ý, nhưng tiểu nhân cần suy nghĩ trước khi trả lời dứt khoát ...
Bữa cơm tiếp diễn trong bầu không khí tương đắc giữa hai người bạn mới gặp cho đến cuối canh hai mới dứt.
Về phòng riêng, Musashi không thể không nghĩ đến những lời chí tình của Ishimoda Geki. Hắn cũng đồng ý mục đích tối hậu của người cầm kiếm không phải chỉ là trau dồi kỹ thuật cho cao để trấn áp kẻ khác mà kiếm đạo phải là con đường giải thoát; giải thoát con người khỏi những ẩn ức; giải thoát xã hội khỏi sự đè nén. Mục tiêu tối hậu của người cầm kiếm là không dùng kiếm. Ý tưởng ấy hắn học được ở đâu, bây giờ hiện ra sáng chói. Để có dịp, Musashi sẽ đến thăm Masamune tướng công và nếu con đường ông theo quả có mục đích ấy thì hắn sẽ hợp tác. Lần đầu tiên Musashi nhận thấy có cơ hội mang đến cho kiếm đạo một tinh thần nhân bản, dọn đường cho con người hợp nhất với thiên nhiên như lòng hắn mong ước.

Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Hai T2 26, 2007 12:10 am
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ

CHƯƠNG 57

MÓN QUÀ TẶNG





Tỉnh dậy, Musashi nghĩ ngay đến Otsu và Jotaro. Hắn biết trong lúc này không thể nào đi cùng với Ishimoda Geki đến Mutsu được.
Lúc cáo biệt, Geki tỏ vẻ buồn và thất vọng:
- Thật tiếc không được làm bạn đồng hành với tráng sĩ. Hy vọng những lời nói hôm qua trong bữa rượu không bị tráng sĩ bỏ ngoài tai. Nếu đến nơi, tráng sĩ không vừa ý thì cũng xin coi đó như một cuộc du ngoạn. Phong cảnh bắc phương đẹp có tiếng, tráng sĩ chắc biết.
Musashi cảm động vì những lời thành thật ấy. Hắn ấp úng nói:
- Tiểu nhân cũng rất tiếc nhưng có việc riêng phải làm ngay. Có dịp sẽ cùng tôn ông tái ngộ.
Geki chia tay đi về phía đèo Hòa Đa còn Musashi thì rẽ sang hướng Nakasendo. Đến ngã ba Koshu, đang phân vân không biết theo đường nào và đặt kế hoạch ra sao để tìm tung tích Otsu thì có một bọn người rảo bước đi tới. Bọn này ăn mặc ra dáng phu khuân vác hoặc người giữ ngựa, quấn khăn đầu rìu, áo ngắn, chân mang xà cạp. Chúng bâu đến Musashi. Một tên khoanh tay trước ngực nhìn hắn, lỗ mãng nói:
- Khách quan có vẻ lo lắng. Muốn tìm ai chăng, người đẹp hay con hầu ?
Musashi lắc đầu, quay đi chỗ khác. Không biết rõ nên làm thế nào, hắn định rảo quanh khu đó hỏi thăm. Nếu không được tin tức gì, có lẽ đến phải lên phương bắc đi Mutsu vậy. Âu cũng là định mệnh đã an bài, biết làm sao được !
Đang suy nghĩ thì một tên khác lại mò tới:
- Nếu khách quan thực tâm muốn tìm người quen thì bọn nô tài có thể giúp được, còn hơn là đứng nắng hay đi hỏi cầu âu. Người quen của khách quan ra sao ? Bọn tiểu nhân không dám đặt tiền công đâu, tùy hảo tâm của khách quan cho bao nhiêu cũng được !
Nghĩ rằng như vậy lại hơn, Musashi bèn tả hình dáng Otsu và Jotaro cho bọn kia biết. Chúng quay ra hỏi nhau một lúc rồi một đứa nói:
- Bọn này không ai trông thấy người mà khách quan tả cả, nhưng có thể chia nhau đi tìm, thế nào cũng gặp. Kẻ bắt cóc chỉ theo một trong ba đường núi giữa hai trấn Suwa và Shiojira mà thôi. Khách quan không biết đường nhưng tụi này biết.
Musashi nghe, không lấy gì làm tin tưởng lắm, nhưng cũng bảo:
- Vậy tốt, các chú đi tìm ngay đi !
- Rồi ! Làm ngay !
Một tên dáng chừng đầu nậu, họp cả bọn dưới gốc cây, chỉ trỏ người này kẻ kia có vẻ phân công cho từng đứa một. Chúng gật gù cười nói, đoạn tên đầu nậu đên bên Musashi, xoa hai tay vào nhau, lễ phép nói:
- Nô tài đã cắt đặt xong cả rồi, chỉ còn chuyện này hơi khó xử. Ờ ... à ... khó nói quá! À ... à ... chắc khách quan cũng biết, bọn này là thợ thất nghiệp, tiền bạc không có, từ sáng chưa được hột cơm nào. Nhịn đói mà chạy việc cho khách quan thì sợ không được việc, khách quan lại quở trách. Vậy xin ứng trước cho nửa ngày công, nếu hơn chút đỉnh thì càng tốt để bọn nô tài ăn chút gì dằn bụng trước khi đi. Xin bảo đảm với khách quan thế nào cũng tìm thấy.
Musashi tính nhẩm rồi gật đầu:
- Thế cũng được. Ta cũng có ý định đưa trước cho các chú một số tiền nhỏ. Bao nhiêu ?
Tên kia đưa ra một con số. Musashi thấy cao hơn số tiền hắn có thì khựng lại. Hắn cũng biết giá trị của đồng tiền nhưng sống một mình, không thân thích phải giúp đỡ, nhiều khi hắn chẳng để ý đến tiền bạc. Trên bước đường Giang hồ, gặp người ái mộ ủng hộ chút ít để chi phí thì tốt, bằng không, vào ở đậu trong chùa hoặc ngủ qua đêm trong rừng hay bờ suối, có khi quên cả ăn, hắn cũng không quản ngại.
Những ngày gần đây, Otsu nhờ được sự giúp đỡ của Mitsuhiro, đã xuất tiền ra lo hết mọi việc chi tiêu, hắn chẳng phải để tâm gì đến. Như một người vợ hiền, thỉnh thoảng nàng lại còn bỏ vào bọc hắn ít bạc vụn để làm tiền túi.
Musashi khều số bạc ấy ra, chỉ giữ lại chút đỉnh, còn bao nhiêu đưa cả cho tên phu đầu nậu. Mặc dầu hy vọng được nhiều tiền ứng trước hơn, gã phu cũng không từ chối và bằng lòng đi tìm, vì “cảm tình đặc biệt” với khách.
- Khách quan tới đợi ở tam quan chùa Musashi Phật, tụi này sẽ tới đó trước khi mặt trời lặn.
Nói đoạn, cả bọn chia nhau số bạc, rồi giải tán đi các ngả.
Một mình chẳng biết làm gì, Musashi thả bộ quanh vùng, thăm trấn Shimosuwa và lâu đài Takashima, dừng chân quan sát địa hình cùng cách dẫn thủy vào lâu đài để rộng kiên văn, phòng sau này cần đến. Hắn cũng không quên hỏi thăm Otsu và danh tính những kiếm sĩ trong vùng, nhưng chẳng biết thêm được điều gì hữu ích.
Mặt trời xế bóng, Musashi đến chùa Musashi Phật ngồi đợi trên bậc thềm đá dưới tam quan. Khá lâu chẳng thấy ai đến, hắn đảo quanh chùa ngoạn cảnh vườn cho khỏi cuồng cẳng, nhưng lòng bồn chồn, mới được vài bước đã quay lại chỗ cũ dưới tam quan ngồi đợi.
Trời bắt đầu chạng vạng. Nghe tiếng ngựa hí đâu đây, Musashi hơi ngạc nhiên. Đợi lúc nữa cũng không thấy ai đến, hắn theo tiếng ngựa hí đi tới thì thấy ở cái chuồng nhỏ sau chùa có người mã phu già đang dội nước tắm cho hai con ngựa bùn đất còn bám đầy móng.
Thấy Musashi, người mã phu dừng tay nhìn, tỏ vẻ ngờ vực:
- Tối rồi, thí chủ đến đây làm gì thế ? Cần gì chăng ?
Musashi nói rõ lý do. Người mã phu bèn cười hô hố mãi không dứt khiến Musashi cau mày khó chịu. Đợi tin tức thì có gì đáng cười ? Hắn toan phản đối nhưng chưa kịp mở miệng, người mã phu đã nói:
- Thí chủ từ đâu đến ? Ngây thơ thế đáng lẽ chẳng nên đi một mình mới phải. Thí chủ tưởng rằng tụi đó đi tìm người cho thí chủ đấy hẳn ? Nếu trả tiền trước rồi thì ôi thôi... coi như nước lã ra sông, đừng hòng nhìn lại nữa !
- Vậy ra lão cho rằng chúng đóng trò để lừa tiền mỗ chăng ?
Người mã phu tỏ vẻ thương hại:
- Đúng thế ! Chúng bày kế cướp tiền của thí chủ rồi ! Lão mới về nhưng nghe nói trên đường đi, có chục tên du đáng họp nhau ở bên kia đồi đánh bạc, uống rượu. Hẳn chúng nó chứ không ai. Những vụ lừa đảo như thế bây giờ xẩy ra như cơm bữa. Tệ thật !
Rồi lão thuận miệng kể vài vụ cũng khách thương bị côn đồ gạt vào bẫy, lấy nhẵn cả tiền và hàng hóa, rồi kết luận:
- Ối dào ! Đời bấy giờ ấy mà ...Từ nay thí chủ nên cẩn thận !
Nói xong, gánh đôi thùng không xuống đồi múc nước, để Musashi đứng một mình, sượng sùng với lời khuyên, trong bóng chiều bắt đầu buông dày đặc.
Musashi vừa tức vừa buồn cười, tự trách mình quá khờ khạo. “Ta tự hào không sơ hở để địch thủ đâm hông được mà lại bị một bọn dốt nát lừa gạt. Thật không khác gì bị cái tát. Vậy mà mơ những chuyện cao xa, chỉ huy binh đội, lãnh đạo chiến tranh thì làm thế nào được !”.
Trèo những bậc đá lên chùa, hắn tự nhủ thầm sẽ thận trọng hơn trong sự tiếp xúc với xã hội bên ngoài. Đến tam quan, bỗng thấy một trong những người thợ ban sáng đang đứng đợi.
- À ! Khách quan đây rồi ! Làm nô tài chờ mãi !
Musashi cau mặt, nhưng cũng hỏi:
- Có tin gì không ?
- Có ! Có tin một trong hai người !
- Ai ! Thiếu nữ hay tiểu đồng ?
- Tiểu đồng ! Nhỏ đó với một người đứng tuổi tên Daizo ở Narai đi về phía đèo Hòa Đa. Không thấy tận mắt nhưng nô tài đã cất công đến tận Seba mới được tin đấy !
Bọn kia đã ai về báo tin cho khách quan biết chưa ?
- Chưa. Nhưng ta chắc chúng lừa ta, lấy tiền đi đánh bạc chứ tìm cái gì !
Người thợ gật gù:
- Thường thì như vậy, nhưng nô tài thì không. Thấy khách quan đứng đắn, nô tài cố giúp.
Hơi ngượng vì đã có ý vơ đũa cả nắm, Musashi nói chữa:
- Cám ơn chú đã cho tin.
Rồi móc số bạc vụn ra. Hắn ước tính số bạc chỉ đủ để trả tiền bữa cơm tối nên ngần ngừ một lát. Nhưng lại nghĩ lòng thành thật không thể không được tưởng thưởng, bèn dốc cả số bạc vụn vào tay người thợ. Biết đâu chẳng vì thế mà những ngày sắp tới gã chẳng giúp thêm được vài người nữa, tin rằng người thật thà sẽ được đền đáp xứng đáng ?
Người thợ được tiền, mừng rỡ nâng ngang mày tỏ ý cảm ơn rồi tất tả quay gót.
Trời tối hẳn. Bóng đêm lẫn với bóng núi mờ mờ, vài đốm sao mới xuất hiện nhấp nháy. Tiết trời mát mẻ và trong người dễ chịu, Musashi quyết định đi đêm đến đèo Hòa Đa, hy vọng sẽ gặp Daizo và Jotaro ở đó vào buổi sớm. Hắn dời chùa Musashi Phật, và một lần nữa lại được hưởng cái thú đi đêm một mình trên con đường vắng. Hắn cảm thấy khoan khoái vô cùng, được nghe chính bước chân mình rào rạo trên sỏi đá, lắng nghe cái yên lặng của đất trời rất sinh động chung quanh, quên hết cả để tận hưởng sự hiện hữu của chính mình. Giữa đám đông ồn ào và vội vã trong các thị trấn, Musashi đôi khi cảm thấy buồn và cô độc, nhưng trong cảnh tịch mịch của đêm khuya, không bao giờ hắn thấy đơn côi hay bị ruồng bỏ. Trái lại, tâm hồn hắn dễ rung động, tinh thần linh mẫn và ý tưởng cũng khoáng đạt hơn. Óc và tâm hắn có lúc như rời hẳn nhau, giúp hắn có cái nhìn rất lạnh lùng và khách quan để tự xét.
Qúa nửa đêm, Musashi trông thấy ánh lửa đằng xa. Từ khi qua khỏi cầu Ochi, đường dốc dần. Musashi đoán có lẽ sắp tới chân đèo. Ánh lửa có thể do tiều phu trong rừng đốt sưởi ấm hoặc của một quán ven đường nào còn mở cửa.
Nghĩ đến quán, Musashi sực nhớ chưa ăn cơm chiều và tự nhiên bụng hắn cồn cào sôi sục. Từ khi dời trấn Shimosuwa, lần đầu tiên hắn thấy đói.
Đến nơi, quả nhiên là một cái quán ven đường. Bên ngoài trống bốn cây cột để buộc ngựa nhưng không có ngựa. Tuy nhiên có tiếng lè nhè từ trong quán vọng ra lẫn với tiếng củi cháy nổ lách tách. Musashi đứng trước hiên, do dự. Nếu là một căn lều của nông dân hay tiều phu, hắn không ngại gì mà không xin ngủ đậu nhưng đây lại là một quán hàng. Mà trong bọc hắn không còn đồng tiền nào cả. Mùi cơm và thịt nấu bay ra xộc vào mũi, Musashi nuốt nước bọt. Sực nhớ đến pho tượng mang theo, một pho tượng Quan Âm nhỏ, gọt bằng gỗ mận trong những lúc nhàn rỗi, hắn định đem ra đổi lấy bữa cơm. “Mình sẽ giải thích cho chủ quán rõ, chắc họ chẳng nỡ từ chối”.
Bèn đẩy cửa bước vào. Ba người khách ngồi cạnh lò quay ra nhìn. Râu ria lởm chởm, quần áo xốc xếch, trong cảnh tranh tối tranh sáng bên ngọn lửa bập bùng, không ai đoán được họ bao nhiêu tuổi. Quán nghèo nàn. Hai cái bàn thấp đóng bằng ván cũ với ghế đẩu kê trong góc. Trên bếp, cũng dùng làm lò sưởi, treo cái nồi nấu thịt, mùi thơm tỏa ngào ngạt. Bên cạnh, một hũ sành chắc đựng rượu hâm nóng.
Musashi ngồi vào bàn. Một người khách hỏi:
- Muốn gì ?
- Ai là chủ quán ? Cho cái gì ăn chứ ?
Tức thì cả ba cùng nói:
- Quán ! Có khách !
Một người từ nhà sau bước ra, hất hàm hỏi:
- Dùng gì ?
- Cơm, canh, gì cũng được, mà nhanh lên !
Lát sau, thấy chủ quan bưng ra một liễn cơm nguôi và một bát canh rau cùng đũa bát:
- Khách quan ăn tạm. Nhà hết cơm nóng mà thịt lợn rừng thì chưa chín.
Musashi gật đầu:
- Cũng được !
Rồi bắt đầu ăn ngấu nghiến. Những người kia cũng không nhìn Musashi nữa, tiếp tục quay vào cạnh lò nói chuyện, thỉnh thoảng lại nhổ nước miếng đánh bẹt một cái vào lửa.
Nhân thấy chủ quán đứng gần, Musashi bèn hỏi:
- Ông quán có thấy ai tên Daizo qua đây không ?
Chủ quán không đáp. Musashi nói thêm:
- Daizo trạc năm mươi, tóc hoa râm, đi cùng với một thằng bé khoảng mười lăm tuổi.
Chủ quán bèn quay hỏi những người khách kia:
- Toji ! Lão có thấy ai tên Daizo chừng tuổi dẫn thằng bé qua đường này không ?
Ba người kia đưa mắt nhìn nhau như hỏi ý rồi cùng lắc đầu. Chủ quán nói:
- Chắc không có, hay chưa tới cũng không biết chừng.
Musashi lại tiếp tục dùng bữa. Khi đã lửng dạ, hắn mới nghĩ đến việc trả tiền. Sở dĩ hắn không nói ngay lúc đầu vì không muốn có vẻ như một tên khất thực trước mặt những người khách lạ. Hắn định nếu chủ quán không nhận bức tượng Quan Âm, hắn sẽ thế con dao chuôi bằng sừng hươu vẫn để trong bọc.
Cơm nước xong, Musashi gọi chủ quán:
- Ông quán này ! Ta có chuyện muốn yêu cầu !
Chủ quán hất hàm ra ý hỏi:
- Ta không có tiền, nhưng cũng không muốn chịu tiền cơm của ông quán. Ông có ưng nhận đồ vật thay cho tiền cơm không ?
- Đồ vật gì ?
- Một bức tượng.
- Tượng thật hay giả ?
- Tượng Quan Âm, chẳng phải do điêu khắc gia danh tiếng nào tạo ra, nhưng do tay ta làm. Chẳng biết có đáng giá bữa cơm hay không nhưng ông cứ xem trước. Nếu được ...
Vừa nói, Musashi vừa lấy ra một cái túi vải và bắt đầu cởi dây buộc. Ba người khách kia cũng ngưng nói chuyện, quay ra chăm chú nhìn tay Musashi cởi dây túi.
Cởi xong, Musashi đổ tất cả lên bàn. Một quyển sổ con, một cái bút với nghiên mực nhỏ, một pho tượng gỗ cùng với một cái túi nhỏ nữa nặng hơn rơi ra lộn xộn.
Mấy đồng tiền vàng từ miệng cái túi nhỏ cũng lăn ra theo, một đồng rơi xuống đất va vào bệ đá kêu đánh keng một tiếng.
Mọi người trố mắt nhìn, kể cả Musashi. Hắn không hiểu sao, nắn nắn cái túi vải, rồi thò tay vào rút ra một mảnh giấy. Mảnh giấy ký tên Ishimoda Geki, trên có ghi vài hàng chữ:
“Chút quà mọn, kính ái tặng tráng sĩ làm tiền lộ phí”.
Musashi bấy giờ mới vỡ lẽ:
đấy là cách mua chuộc của Date Masamune.
Chẳng ai lạ gì sự bất mãn của một số sứ quân thời bấy giờ, bên ngoài tuy ra vẻ thần phục lãnh chúa Tokugawa, nhưng bên trong ngấm ngầm chiêu binh nuôi ngựa làm phản. Date Masamune, một trong số những sứ quân ấy, tất nhiên không qua khỏi thói thường. Ông đã sai thủ túc Ishimoda Geki đi khắp nước Nhật tìm tài năng lạ, nhất là thuộc giới võ lâm Giang hồ, lôi kéo về phe mình.
Nhận tiền của Date Masamune thật không ổn. Hắn không muốn chịu ơn người mà hắn chưa biết rõ đức hạnh cùng chí hướng ra sao. Vả khi nhận tiền rồi, tất bị ràng buộc, mà trong thâm tâm, Musashi chẳng muốn bất cứ sự ràng buộc nào, cho nên, tốt hơn hết, cứ coi số tiền kia như không có. Bèn nhặt hết những đồng vàng vung vãi trên bàn bỏ lại vào túi, rồi chìa bức tượng gỗ cho chủ quán:
- Đây, tượng đây ! Nếu được, ông quán cứ giữ thay cho tiền cơm.
Nhưng chủ quán khoát tay, lắc đầu:
- Không được !
- Sao, không ưng hả ? Tượng không đáng giá chăng ?
- Không phải vậy ! Khách quan không có tiền thì mới nhận. Khách quan có tiền, phải trả tiền chứ !
Thấy chuyện lạ, những người ngồi bên bếp cũng dường như tỉnh hẳn rượu, dời chỗ ngồi đến gần bàn Musashi nhìn hau háu.
Nhận ra sự phi lý của mình, nhưng nghĩ cho cùng chẳng muốn giải thích lôi thôi làm gì, Musashi mở túi lấy một đồng vàng đưa chủ quán.
- Nhiều quá ! Không có tiền thối.
- Không sao. Cứ giữ chỗ lẻ, ta không đòi lại đâu !
- Vậy ở lại chút nữa ăn thịt lợn rừng.
Nhưng Musashi lắc đầu cảm ơn, đeo hành trang, cầm nón ra cửa. Hắn hy vọng nêu không gặp chuyện gì trắc trở sẽ lên tới đỉnh đèo vào đầu giờ mão.
Vùng này nổi tiếng nhiều giống hoa mua rừng rất đẹp, đủ màu sắc, nhỏ bằng cái cúc cũng có và to bằng cái chén cũng có, mọc thành chùm đỏ tươi, vàng óng, tím nhạt hay trắng muốt, mỗi thứ một vẻ không ai là không thích. Rất tiếc, Musashi lại qua đây vào ban đêm nên chỉ trông thấy những lùm bụi đen ngòm, không thưởng thức được gì cả.
Khỏi quán chừng một dặm, bỗng thấy một bóng đen vội vã chạy theo rồi có tiếng gọi giật:
- Khách quan ! Khách quan !
Musashi dừng chân ngoái cổ lại. Bóng đen rảo bước đi tới:
- Khách quan quên cái này !
Nói đoạn lấy trong bọc ra một đồng tiền vàng đưa Musashi.
- Đồng này lăn dưới gậm bàn, khách quan quên chưa nhặt.
Thì ra là một trong số ba người ngồi ở quán hồi nãy. Musashi cầm tiền, cảm ơn rồi tiếp tục cất bước. Không hiểu sao, hắn chẳng thưởng cho người kia chút gì.
Đi được một lúc, người kia bắt chuyện:
- Khách quan cũng trong võ lâm hả ?
- Phải.
- Qúy danh tính là gì ?
- Tại hạ họ Miyamoto.
- Môn phái nào ?
- Không có môn phái.
Nghe những lời đáp nhát gừng như vậy, người khác tất chán nản bỏ đi, nhưng gã này xem ra càng bám riết.
- Vậy đồng đạo rồi. Tiểu đệ cũng là kiếm sĩ, trước có đôi chút danh vọng. Nhưng vì tình thế, bây giờ phải tạm lánh trong rừng.
- Thế à !
- Tiểu đệ săn thú, kiếm củi lấy tiền độ nhật, chờ gặp minh chủ. Thật chẳng khác gì rồng nằm trong ao hẹp !
Musashi mỉm cười:
- Tiếc quá nhỉ ! Thế bằng hữu đứng về phía Osaka hay Edo ?
- Chẳng về phía nào. Nhưng cần gì, phía nào cũng được, miễn có người dùng.
Musashi quay nhìn kẻ đồng hành, cố nhớ xem gã là ai trong ba kẻ ngồi bên lò sưởi ở quán, nhưng trời tối quá trông không rõ.
Musashi rảo bước nhanh hơn, cố ý bỏ rơi gã đồng hành. Chẳng phải tay vừa, gã theo sát nút phía sau về bên trái, một hành động chuẩn bị chiếm ưu thế khi sắp tấn công mà không một kiếm sĩ nào không biết.
Nhưng Musashi không tỏ vẻ bận tâm. Hắn thản nhiên bước những bước dài và nhanh, đều đều trên đường núi dốc.
Gã kia lại tiếp:
- Từ đây đến Edo cũng còn xa. Qua đèo Hòa Đa lại phải trèo đèo Đại Môn, cao và dốc lắm. Nếu không quen đường thì khá mệt.
- Bằng hữu thông thạo vùng này lắm nhỉ ?
- Đương nhiên. Tiểu đệ Ở vùng này đã mấy năm, chung với hai gã kia, ngay sau ngọn đồi trước mặt. Ờ, mà tại sao huynh không đến nghỉ chân ở nhà tiểu đệ ! Nhà đệ tuy nhỏ nhưng cũng đủ chỗ cho khách trú qua đêm. Như thế chẳng tiện lắm ư ?
Một lần nữa, Musashi lại liếc nhìn phía sau. Có một cái gì khác thường khiến hắn nghi ngờ nhưng không nói. Bản tính ưa mạo hiểm lại tò mò muốn biết gã kia định giở trò gì, hắn coi lời mời như một sự thách đố. Bèn gật đầu nhận:
- Qúy xá có xa đây không ?
- Không xa mấy, qua con suối sau đồi này là tới.
- Thế hai ông bạn kia, họ đồng ý chăng ?
- À, hai thằng đó đêm nào chả say như chết ! Chắc bây giờ còn ngồi uống rượu ở quán. Mọi lần đệ phải dìu về nhưng hôm nay thì mặc kệ.
Đi một quãng nữa, bỗng gã nói to như báo hiệu:
- Gần đến rồi ! Cẩn thận, ở đây có cái lạch !
- Phải qua lạch không ?
- Qua chứ ! Huynh trèo lên cây cầu này sang bên kia rồi cứ theo bờ mà đi.
Đoạn lùi lại, nhường Musashi lên trước. Cầu là một thân cây nhỏ không tay vịn, bắc qua chỗ trũng, trông xuống dưới tối om om, lờ mờ dòng nước chảy.
Musashi mới bước được vài bước, thình lình gã đi sau chồm ngay tới, nhấc đầu cầu lên hất hắn xuống rạch.
Đã đề phòng trước, Musashi mượn đà cây gỗ bị nhấc lên, nhảy ngay về phía hòn đá nhô ra cạnh bờ, nhẹ nhàng như én đậu.
- Này, rồi đời tên cường đạo !
Gió kiếm nghe “vù”. Một tiếng thét trong đêm khuya rồi âm thanh của thân cây va vào đá trước khi rơi xuống nước vang theo dòng lạch sâu, kéo dài tưởng như bất tận.
Vài con chim rừng xào xạc bay lên, cánh vỗ phành phạch.
Xác gã thảo khấu vô danh nằm co quắp trên bờ. Có lẽ gã đã tắt thở ngay sau đó, không biết và không ngờ Musashi rút kiếm ra chiêu nhanh đến thế.
Khi đồi Hòa Đa trở lại yên tĩnh, trên cao, một ngôi sao lạc kéo vệt sáng dài từ đông sang tây rồi tắt như một linh hồn vừa lìa cõi thế.
Musashi đọc lời cầu nguyện ngắn, thu nhặt hành trang, vừa định bước đi thì một tiếng nổ chát chúa vang động cả thung lũng. Ánh lửa nhoáng lên từ phía bên kia bờ. Tiếp theo là một tiếng nổ nữa. Musashi nằm sấp, nghe rõ ràng tiếng đạn bay rít trong không khí. Hắn chú mục nhìn sang bên kia. Giữa những lùm bụi và thân cây rừng thưa thớt, lờ mờ hai bóng đen đang thận trọng bò tới.



Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Hai T2 26, 2007 12:13 am
Viết bởi Kongou-Musha


MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ







CHƯƠNG 58

NGỌN LỬA SIÊU ĐỘ







Hắn nằm im nín thở. Hai gã kia đều mang súng hỏa mai. Sau hai phát vừa rồi, tất chúng còn chờ động tĩnh.
Đến bờ lạch, một đứa nói:
- Ngươi chắc sang bên kia không việc gì chứ ?
- Chắc ! Bắn trúng nó mà, rõ ràng nó ngã ! Từ bấy đến giờ không động đậy gì, chắc chưa chết thì cũng bị thương.
- Vậy sang !
Hai bóng đen theo nhau lần xuống dòng lạch. Tiếng cành cây gãy cùng với tiếng chim nháo nhác bay giúp Musashi định ngay được vị trí của chúng.
Như con thú rình mồi trong đêm tối, mắt hắn dán vào bờ lạch. Vừa thấy một cái đầu nhô lên, hắn lập tức tung mình vọt tới,thét một tiếng kinh hồn, đồng thời lia ngang ngọn kiếm.
Tiếng thét khiến cả hai giật mình. Hai tiếng nổ chát chúa cùng phát ra một lượt, nhưng đạn bay lên trời cả.
Chiêu kiếm Musashi cũng không trúng, lưỡi kiếm tiện đứt ngang ngọn cây trên bờ lạch. Mùi thuốc súng tỏa khét lẹt.
Có tiếng chửi thề và tiếng chân chạy rào rạo.
- Vậy mà bảo nó chết ! Nạp đạn đi, ta chặn hậu !
Hiển nhiên tụi này chẳng phải là thảo khấu tầm thường mà có tổ chức hẳn hoi.
Musashi nghĩ thầm. Cho đến nay chỉ mới thấy xuất hiện ba đứa, nhưng không rõ còn bao nhiêu nữa. Cứ để chúng hoành hành thì nhiều người còn phải vong mạng với chúng. Bèn đuổi theo. Thấy tên mang hỏa mai đang lúng túng với ngòi nổ, nhanh như cắt, hắn sà tới. Một thế kiếm dũng mãnh và chính xác chẻ đôi tên đó từ vai đến hông khiến cả thân hình gã đổ xuống như khúc củi mục, không kịp kêu lên một tiếng. Musashi vừa tránh những tia máu phọt ra, vừa đỡ chiêu kiếm của tên cướp còn lại đang xông đến cứu đồng bọn.
Võ nghệ tên này cũng vào hạng cao cường. Gã liên tiếp phóng ra ba chiêu, chiêu nào cũng mạnh mẽ và cực kỳ nguy hiểm, nhưng xét ra thiếu nhanh nhẹn. Có lẽ gã ít luyện tập hoặc không còn trẻ nữa nên tai mắt kém tinh thục.
Biết nhược điểm ấy, Musashi múa kiếm vù vù, giương đông kích tây, kiếm quang loang loáng lúc bên phải lúc bên trái, lúc đằng trước lúc đằng sau khiến gã hoa mắt. Mới vài đường mà bộ vị và chiêu thức đã bắt đầu rối loạn.
Bỗng “keng” một tiếng, cườm tay gã bị lưỡi kiếm của Musashi sướt qua, kiếm tung ra xa, máu tuôn xối xả. Hết sức kinh hãi, gã đá bậy một cước, co cẳng chạy, thoắt cái đã biệt dạng trong đêm tối.
Musashi đuổi theo, quyết tâm bắt cho được tên cường đạo để trừ hậu họa.
Nhưng không rõ địa hình, hắn phải men dọc theo bờ lạch, vì chỉ có đường ấy tương đối dễ đi hơn cả so với cảnh rừng già rậm rạp xung quanh. Hắn tin chín phần mười gã đó chính là một trong ba tên ngồi uống rượu ở quán và theo lời đứa dẫn đường lúc nãy thì cùng ở với nhau trong một căn nhà sau đồi này.
Những dự đoán của Musashi quả nhiên đúng. Con lạch hắn đang men theo mang tên là lạch Giẻ Gai vì ven bờ có vô số những cây giẻ gai mọc rậm rạp. Đầu lạch, một căn nhà gỗ đã được cất lên mấy năm nay, theo kiểu nhà sàn, toàn bằng thân cây giẻ gai để nguyên vỏ ghép lại, phía sau trông xuống một cái vực sâu có đến năm sáu trượng.
Từ thành vực, nước trong núi đá rỉ ra suốt đêm ngày, chảy vào trong một cái hồ nhỏ nên không khí xung quanh lúc nào cũng ẩm ướt.
Tên cường đạo chạy đến trước nhà, đập cửa rầm rầm. Một thiếu phụ bước ra, giơ cao đèn soi rồi sợ hãi kêu lớn:
- Ủa, sao thế này ? Sao máu đầy người thế này ?
- Câm mồm ! Tắt đèn đi !
Gã gạt thiếu phụ sang bên, ngoái cổ nhìn lại:
- Tắt cả đèn trong nhà nữa ! Tắt hết ! Nguy đến nơi rồi !
Đoạn hốt hoảng chui tọt vào trong nhà. Chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, thiếu phụ tắt vội đèn chạy theo, đóng sập cửa.
Khi Musashi tới, căn nhà tối om, bốn bề côn trùng kêu ri rỉ. Nấp sau gốc cây lớn, hắn đảo mắt quan sát. Một con mèo đen chạy tới cọ mình vào chân hắn kêu meo meo. Gần chỗ hắn nấp, có cái sào phơi, trên sào sót lại một chiếc áo chưa cất, gió đánh lật phật.
- Nhà này có chủ. Musashi nghĩ.
Hắn dùng mũi kiếm khều chiếc áo rồi lặng lẽ bò đến bên thềm. Hắn đã có chủ đích. Nằm phục dưới bậc cửa, chiếc áo bọc lưỡi kiếm giơ cao, Musashi quát như sấm động:
- Mở cửa !
Tiếng quát dội vào vách đá vọng lại ầm ì, mở cửa ...mở cửa ...mở cử ...a ...rồi chết dần trong sự yên lặng rợn người. Không ai trả lời. Thình lình, một mũi kiếm từ trong khe gỗ vọt ra, đâm thẳng vào chiếc áo. Nhanh như cắt, hắn bật dậy xoay ngang thanh kiếm đè chặt lưỡi kiếm kia giữa hai khe gỗ, đồng thời co cẳng đạp một cái thật mạnh vào cửa.
Cánh cửa bật tung. Có tiếng kêu “ối”, tiếng người ngã cùng với những tiếng răng rắc của thân cây và ván gãy. Musashi xông vào như vũ bão. Một bóng đen nằm ngửa dưới đất đang dùng khuỷu tay lết về phía chân tường. Hắn vung kiếm. Bóng đen la hoảng lăn một vòng. Lưỡi kiếm bổ xuống, tiện đứt góc bàn và mắc ở một vật gì không rõ, khiến bóng đen có cơ hội vùng dậy. Lăm lăm cây trủy thủ trong tay, bóng đen nắm vạt áo Musashi nhằm lưng hắn đâm tới. Gian nhà chật hẹp mà đồ đạc ngổn ngang, hắn bỏ kiếm, chỉ vừa kịp tránh mũi dao sát thủ.
Thanh trường kiếm của Musashi bỗng trở thành vô dụng. Dưới ánh sáng lờ mờ của lò than mới dập, hai bóng đen vờn nhau như hai con thú vờn mồi. Tiếng thét vang, một mũi dao lóe sáng vung lên, cả hai cùng ngã lăn ra đất. Nhưng Musashi đã chiếm thượng phong. Hắn dùng một thế võ khóa tay địch thủ khiến lưỡi dao trủy thủ văng tuốt luốt, chỉ còn tiếng ằng ặc rồi khò khè của kẻ bị chẹt cổ.
Đột nhiên không rõ từ đâu tới, bát đĩa bay đến tứ tung, đập vào thành bàn, vào cột, vào tường rồi vỡ loảng xoảng.
Musashi nhấc bổng gã kia lên, dùng làm mộc đỡ, rồi thuận tay ném một phát tựa trời giáng gã vào bếp lò. Than tro tung bụi mù. Gã nẩy lên một cái rồi rơi xuống, nằm ngay đơ bên chiếc tủ thấp.
Bát đĩa, rồi ấm trà, hũ sành tiếp tục được ném ra như mưa bấc về phía Musashi. Gạt không xuể, hắn phải dùng một cái ghế đẩu che mặt. Lẫn với tiếng loảng xoảng, một giọng đàn bà the thé giận dữ:
- Đồ ăn hại ! Cứ khoe tài giỏi ! Để nó theo về nhà làm loạn thế hả ?
Thanh âm quen thuộc khiến Musashi sững người. Hắn hét lớn:
- Khoan !
Nhưng mụ đàn bà không ngừng, lần này phóng ra cả vung, nồi, chai, lọ ...Musashi nhảy ba bước vào bếp, chỉ một cái khoát tay nhẹ đã đẩy người đàn bà ngã lăn chiêng ra đất, lấy chân đè lên hai cánh tay mụ:
- Mụ là ai ? Không nói ta giết !
Lần này thì chính người đàn bà kia ngạc nhiên. Mụ lắp bắp:
- Phải ...phải Takezo đó chăng ?
Quả nhiên hắn đoán không lầm. Ngoài cụ Osugi ra, chỉ còn một người nữa biết tên tục và thường gọi hắn như thế. Ấy là Oko. Hắn bỏ chân ra:
- Bà làm gì ở đây ?
Oko lồm cồm bò dậy, vén lại tóc và phủi quần áo.
- Takezo ! Chà, bây giờ chú khá trước nhiều quá !
- Oko ! Bà làm gì ở đây ?
Takezo hỏi lại, nhưng Oko chỉ lắc đầu không đáp, lặng lẽ châm đèn, bao nhiêu giận dữ lúc trước dường như nguội hết. Musashi trừng trừng nhìn theo.
Lát sau mụ mới ngượng ngùng nói:
- Kể ra thì xấu hổ ...
- Người nằm kia phải chăng là chồng bà ?
- Phải. Chắc chú biết hắn. Toji đấy !
Musashi không hỏi thêm. Một nỗi buồn man mác bỗng nhiên đến xâm chiếm tâm hồn hắn. Khi còn ở Kyoto, có lần hắn nghe Toji, một trong những nhân vật cột trụ của Phái Yoshioka đã cuỗm tất cả số tiền quyền được dành phục hưng môn phái, trốn đi cùng với ả Giang hồ chủ nhân quán Yomogi. Không ngờ bây giờ gã sa đọa đến thế, trở thành quân cường đạo mai phục chỗ vắng vẻ để bóc lột người lương thiện.
Sự trụy lạc của con người bất giác khiến Musashi bi thương vô hạn. Hắn lắc đầu:
- Tệ quá ! Thôi bà ra săn sóc hắn đi. Nếu biết là chồng bà, ta đã chẳng nặng tay.
Oko vực Toji vào phòng múc nước lau mặt và buộc những vết thương. Gã lờ đờ mở mắt, môi mấp máy như muốn nói điều gì. Oko ghé tai gã thì thầm:
- Đấy là Takezo. Bây giờ hắn đã đổi tên là Musashi ...
Mắt Toji bỗng trợn ngược, hai bàn tay nắm lại. Máu ở vết thương ứa ra thấm ướt cả lần vải buộc.
Oko bước ra khỏi phòng, khép cửa. Musashi ngồi ở một góc nhà ngoài, nét mặt đăm chiêu tư lự.
Mụ thu vội những mảnh chén bát vỡ, kê bàn ghế cho ngay ngắn chút đỉnh, gây lại bếp lửa, đặt bình rượu lên hâm rồi mời Musashi:
- Tình cờ gặp cố nhân, chú ở lại uống chút rượu.
Musashi thoái thác, nói đã uống ở ngoài quán rồi nhưng Oko khẩn khoản:
- Lâu lắm, có lẽ đã bảy tám năm nay rồi đấy nhỉ ! Từ khi rời khỏi đồi Ibuki đến nay không gặp, ta vẫn thường hỏi thăm. Bây giờ chú đổi tên và thành danh rồi, còn nhớ gì đến người cũ !
Câu nói ngụ ý trách móc khiến Musashi hối hận. Hắn cầm bát rượu uống, lòng như lắng xuống và tha thứ hết.
- Không ! Tại hạ vẫn không quên những kỷ niệm cũ.
Cơn gió mạnh nổi lên. Căn nhà tuy đã đóng kín cửa mà gió vẫn luồn vào theo khe vách hở làm lung lay ngọn đèn, kéo theo mùi rêu ẩm ướt.
- Tiện nữ Akemi, chú có gặp nó đâu không ? Đã lâu lắm ta chẳng được tin gì của nó.
- Tại hạ không gặp, nhưng theo lời Matahachi thì dường như cả hai người cùng có ý định đi Edo lập nghiệp, sau đó không biết vì chuyện gì, Akemi mang hết tiền bỏ trốn ...
Oko đăm đăm nhìn ngọn lửa:
- Akemi ? Nó cũng thế ư ?
Rồi thở dài, bất giác so sánh đời mình và đời con gái.
Có tiếng động ở phòng trong. Toji khập khiễng bước ra. Ngửi mùi rượu thơm, gã cũng muốn nhập cuộc.
- Musashi ! Tráng sĩ tha tội cho kẻ lão nhược này đã vô tình xúc phạm.
Musashi không đáp, nhích sang bên nhường chỗ cho Toji. Oko rót một bát rượu đưa gã và giúp gã bưng uống, xong kể lại những ngày lưu lạc của hai người.
Sau khi dời khỏi Kyoto, cả hai cùng định đi Edo, chẳng may đến Suwa, Toji đánh bạc thua nhẵn tiền phải lang bạt nay đây mai đó. Đến vùng này, quẫn quá đành giở nghề cũ hái thuốc độ nhật, tuy thỉnh thoảng cũng kiếm được món bổng của khách qua đường, nhưng từ nay sẽ thôi không làm ăn như thế nữa.
- Tại hạ sẽ về Kyoto và cố gắng lấy lại danh tiếng cũ.
Musashi ngồi nghe, thầm nghĩ Toji cường đạo và Toji kiếm sĩ cũng chẳng khác nhau là mấy, nhưng nếu hắn quả có ý ấy thì đường sá cũng đỡ nguy hiểm hơn nhiều.
Bèn gật gù nói:
- Tại hạ nghĩ đã đến lúc các vị nên bỏ nghề này thôi ! Gian lao quá !
Vài bát rượu khiến Oko trở nên đỏm dáng, mắt long lanh đưa đẩy và bắt đầu làm duyên. Mụ thuộc loại phụ nữ không có tuổi nhất định và đến lúc này vẫn còn nguy hiểm.
Con mèo nuôi trong nhà bên gối chủ thì dễ thương, nhưng thả đi hoang thì chỉ thời gian ngắn sau nó sẽ lần mò rình rập khắp nơi, mắt sáng rực, sẵn sàng rúc đầu vào moi ruột xác chết hay xé thịt khách bộ hành chẳng may ngã bệnh bên đường. Oko cũng thế.
- Này Toji ! Mụ nói. Nghe Musashi kể lại thì con Akemi đã đi Edo.
Hay chúng ta cũng đến đó hưởng cuộc sống văn minh một chút chứ cứ chui rúc mãi ở xó rừng này thì còn gì là đời nữa ! Nếu may mà tìm thấy nó thì lo gì chẳng hái ra bạc !
Toji lơ lửng:
- Cũng được ...Để xem ...
Nhìn Toji co ro bên bếp lửa, đầu gối quá tai, dáng thiểu não, Musashi có cảm tưởng Toji cũng như Matahachi, đã thấm thía nỗi ê chề và bắt đầu cảm thấy hối tiếc. Nghĩ rằng chính hắn cũng từng bị Oko dụ hoặc, hắn rùng mình ghê sợ.
Đêm khuya, rượu gần cạn. Toji dựa lưng vào tường bảo vợ:
- Musashi tráng sĩ chắc đã mệt. Nàng vào dọn cái phòng trong cho tráng sĩ nghỉ qua đêm. Đừng để tráng sĩ tưởng mình không hiếu khách.
Oko cười bả lả:
- Dĩ nhiên rồi !
Và đưa mắt liếc Musashi, nửa nạc nửa mỡ, mụ nhắc lại chuyện cũ:
- Trong phòng tối lắm đấy ! Chú không thích ngủ phòng tối phải không ?
Nhưng Musashi mỉm cười, thẳng thắn đáp:
- Không sao, tại hạ không ngại.
Rồi theo chân Oko qua dãy hành lang lờ mờ đến căn phòng cuối nhà.
Phòng có vẻ như một cái chái cất thêm sau này với mấy cột gỗ chống vào vách đá.
Ở trên trông xuống là vực sâu, không khí ẩm thấp, mỗi khi có cơn gió mạnh, cả căn phòng đu đưa như đánh võng.
Oko đặt đèn xuống bàn:
- Chú ngủ tạm. Chỗ này vẫn để trữ lá thuốc.
Đoạn mang chăn gối đến và lui ra ngoài.
Musashi nhìn quanh. Sát vách kê hàng kệ gỗ trên có xếp vài bó dược thảo khô cùng ít đồ dùng để bào chế. Hắn hơi ngạc nhiên vì không khi nơi đây ẩm thấp, những người buôn dược thảo không bao giờ trữ thuốc ở những nơi như thế này. Tuy nhiên mùi hương nhu thoang thoảng làm Musashi dễ chịu. Hắn tung chăn đắp, rồi trong những tiếng kẽo kẹt nhẹ nhàng như ru của căn phòng, hắn ngủ quên lúc nào không biết.
Bỗng cửa lùa xịch mở. Một bóng người bước vào:
- Takezo, ta mang nước cho chú đây !
Musashi tỉnh giấc nhưng hắn làm như không nghe tiếng. Sự nghi ngờ thoáng hiện.
Oko lại gọi:
- Takezo ! Takezo ! Chú thức hay ngủ ?
Musashi không đáp, vờ nhép miệng cựa mình. Lúc lâu không động tĩnh, Oko nhẹ nhàng đi ra với tay khép cửa.
Musashi trở dậy cuốn chăn như hình người nằm rồi yên lặng đến xem xét các chân cột. Dưới ánh đèn vàng vọt, những điều hắn tìm thấy quả nhiên xác nhận sự nghi ngờ của hắn:
hàng cột vách ngoài nối với nhau bằng những xà gỗ mang chi chít lỗ đinh. Có cột còn lưu lại vết tích những móc sắt gẫy. Các tấm ván sàn cũng thế, vô số lỗ đinh lỗ chỗ, màu sắc lại không hợp với nhau, cái cũ cái mới, chứng tỏ phòng này đã được cất lại nhiều lần và không phải có mục đích chứa dược thảo.
Musashi nhếch mép:
- Ta đoán quả không sai !
Bèn tắt đèn mở cửa bước ra ngoài.
Xung quanh yên lặng như tờ. Toji hỏi Oko:
- Nó ngủ chưa ?
- Rồi !
- Ra xem anh em thế nào !
- Đến đủ cả. Họ xuống cả dưới vực, chắc đã buộc xong dây vào chân cột, chỉ còn chờ trên này ra hiệu đuốc là giật.
Toji không giấu nụ cười thoa? mãn.
- Cứ làm như những lần trước chứ ?
- Còn phải hỏi gì nữa ! Tiền nó giắt trong thắt lưng, thấy xác nó là phải lục soát ngay.
Đoạn lẩm bẩm nói một mình:
“Phen này trả được mối thù môn phái nữa”. Nụ cười trên môi gã dường như không muốn tắt.
Gió thổi lớn. Phải một lúc sau Toji mới đánh được lửa châm đuốc. Ngọn đuốc vừa giơ cao thì “rầm” một tiếng, cả căn phòng Musashi nằm, sụp xuống như động đất. Mái, cột, kèo gãy răng rắc rơi lả tả xuống vực. Thân gỗ va vào thành đá kêu lịch kịch, kéo theo sỏi cát rào rào và bụi bay mù mịt.
Tiếng cây đổ lẫn với những tiếng hò reo vang động cả vùng thung lũng yên tĩnh.
Trong đêm tối, nhiều bó đuốc bỗng nhiên được bật sáng sói hàng chục bóng đen từ những chỗ nấp trong khe đá ào ra tìm bới đống mảnh vụn của căn phòng chứa thuốc trước đây Musashi nằm.
- Ngươi thấy gì không ?
- Không. Chỗ này không có !
- Không chừng xác nó còn vắt trên cây hay mắc đâu đó !
Thình lình cả khu đồi bỗng rực lên một màu hồng tựa ánh bình minh vừa rạng.
Mặt hồ cũng đỏ tươi như máu. Tiếng củi nổ lép bép, khói bốc khét lẹt.
Mọi người đứng sững trông lên. Một quả cầu lửa đang bao quanh căn nhà Toji, những con lửa lem lém liếm hàng vách ván đằng trước, sắp chồm lên mái gỗ và đã có những lưỡi lửa thò ra khỏi cửa sổ rầm thượng, phun phì phì như những lưỡi của một giống quái vật khủng khiếp nào. Khói đen cuồn cuộn ngút trời che lấp cả những tàn lá xung quanh.
- Toji ! Vợ chồng Toji !
Một kẻ hô to, cả bọn hè nhau trèo lên dốc.
Tới hông nhà, thấy Oko và Toji đã bị trói giật cánh khuỷu vào một gốc cây giẻ gai từ bao giờ, ngất xỉu trong làn khói đen mù mịt.
- Nó đâu ? Nó đâu ? Anh em đuổi theo bắt nó !
Nhưng Musashi đã đi xa rồi. Ngọn lửa hắn nhóm lên chưa siêu độ kịp hai tâm hồn tội lỗi.

Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Hai T2 26, 2007 12:14 am
Viết bởi Kongou-Musha

MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ


CHƯƠNG 59

CHƠI VỚI LỬA









Không giống như những quan lộ khác, đường từ Koshu đến Edo trơ trọi, vắng bóng cổ thụ. Thua nữa, nó lại hiếm cả quán trọ. Lữ khách vì thế khó tìm được nơi ăn uống vừa ý. Ở một vài quán nghèo nàn dựng bên lề đường, chỉ thấy có bánh nếp gói lá tre hoặc cơm nắm bọc lá sồi khô, vậy mà cũng gạt ra không hết khách. Con đường Koshu tuy mới đắp nhưng là đường thuận tiện nhất trong vùng. Gần như suốt cả miền đông này, ai muốn đến Edo đều phải đi qua một vài đoạn trên con đường ấy.
- Này ! Lại toán nữa mới đến kìa !
Gã tiều phu cười trỏ đoàn phụ nữ phục sức diêm dúa dắt nhau nối gót lên đồi.
Quần áo và khăn choàng đầu của họ bám đầy bụi cát. Đoàn phụ nữ đi có lẽ đã từ sớm lắm, bây giờ sắp trưa rồi mới đến lưng chừng đồi. Họ vào khoảng đôi ba chục kỹ nữ, già có trẻ có, di chuyển từ Kyoto đến Edo như đoàn hát dạo. Theo sau là một số gia nhân gồng gánh vật dụng linh tinh và mấy con ngựa thồ những sọt tre nặng trĩu. Một lão tráng tuổi chừng năm mươi đi tới đi lui đốc thúc. Nhìn cách ăn mặc và dáng điệu rõ ra phong cách chủ nhân có tiền bạc và quyền thế. Mặt trời lên cao, không khí oi ả, lão tráng ra lệnh mọi người dừng lại nghỉ.
- Nàng nào đau chân thì thay tất dày và buộc quai dép cho chặt vào. Đừng than.
Trông người ta đi chân đất kia kìa, ai kêu la gì đâu !
Có tiếng phản đối:
- Nhưng chúng em chưa quen !
- Chưa quen rồi sẽ quen !
Nghe giọng bẳn gắt, hiển nhiên lão đương gặp khó khăn trong việc đốc thúc toán kỹ nữ đàn em. Lão tên Shoji Jinnai, trước là kiếm khách, sau không biết vì lý do gì lại bỏ nghề kiếm, quay sang mở kỹ viện. Khôn ngoan và thủ đoạn, Jinnai được lòng các nhà quyền quý. Đánh hơi thấy Edo là đất có tương lai, lão chạy chọt xin mở một kỹ viện và quyết định di chuyển tất cả số đàn em đến đấy.
Quay sang Onao, một mụ tào kê sống lâu trong nghề, lão bảo:
- Mụ đem cơm ra chia thôi. Đến giờ ăn rồi.
Cơm mang đến, được chia thành từng nắm, gói lá sồi cùng với đậu ngọt phân phát cho mọi người. Không có nước trà, các nàng vươn cổ ra nuốt, mắt trợn trừng, mồm đánh chem chép.
- Chà ! Bữa cơm này sao mà ngon thế !
Giọng chế giễu đượm chút hờn tủi của một nàng khiến bữa cơm đột nhiên trở nên buồn tẻ, nhưng cũng không lâu. Lát sau tiếng đùa giỡn lại đã nổi lên ở một vài chỗ.
- Khách đa tình nào đến viếng ta tối nay ?
Lời nói cửa miệng thường nghe thấy trong viện, lúc này lạc lõng như một cung đàn sai điệu. Bọn kỹ nữ cười ồ. Một nàng chỉ đám thanh niên đi qua, lơi lả đáp:
- Chàng ấy đấy, tối nay sẽ đến thăm em !
- Á à ! Ai vậy ? Những ba người, sao bạn ta tham thế ?
- Ta nói chàng kia, canh chàng cao lớn, lưng đeo kiếm dài đó !
Không nghe những lời đùa cợt mà cũng không ngờ mình là cái mốc cho những lời đùa cợt ấy, anh chàng cao lớn nghênh ngang cứ phăng phăng đi, chẳng để ý đến ai. Một kỹ nữ ghé tai bạn nói nhỏ:
- Ai như Kojiro ấy nhỉ ?
- Ờ phải. Kojiro đấy ! Đúng rồi. Anh chàng này cùng với bọn Yoshioka đến viện mấy lần, lầm sao được !
Bèn cất cao tiếng gọi:
- Kojiro ! Kojiro !
Nhưng Kojiro là một tên phổ thông, nhiều người có. Anh chàng cao lớn không quay lại. Hắn không rõ có phải ả gọi mình không, vả ở chỗ này chẳng muốn tỏ ra quen biết với những ả kỹ nữ.
- Ê, chàng đeo kiếm tóc rủ trước trán kia, phải Kojiro không ?
Kojiro cau mày, quay xem ả nào vừa gọi. Jinnai mắng át:
- Nàng nào vô lễ thế ?
Vừa toan xin lỗi thì nhận ngay ra Kojiro:
- Kìa, đại hiệp ! Đi du ngoạn đâu mà qua đây thế này ?
Kojiro cũng nhận ra Jinnai, chủ nhân Phong Nguyệt Lâu tại cổ thành Kyoto. Bèn đáp lễ:
- Tại hạ đi Edo. Còn lão huynh ? Định dẫn các người đẹp làm một chuyến thiên đô tập thể chắc ?
Jinnai cười ha hả:
- Đúng thế ! Đại hiệp đoán không sai !
Rồi ghé tai chàng thanh niên, lão nói khẽ:
- Đi đất mới lập nghiệp. Chỗ nước tù hãm, cây cỏ khó mọc !
Kojiro gật đầu đồng ý:
- Edo bây giờ chắc không thiếu gì thợ giỏi và lao công tốt, nhưng khách làng chơi sang trọng biết cách thưởng thức như vẫn thường thấy lui tới lầu Phong Nguyệt thì e rằng... e rằng ...
Jinnai khoát tay:
- Đại hiệp lầm rồi ! Bến Hoành Tân là hải cảng do bọn kỹ nữ lập nên đấy chứ. Lão phu phải đến trước, đặt nền móng cái đã. Thương gia và các nhà chính trị sẽ tới sau.
Kojiro mỉm cười:
- Có thể, có thể lắm ! Nhưng Edo mới đang xây cất, làm sao tìm được chỗ thuận tiện ?
- Đại hiệp đừng lo. Lão phu đã tính cả rồi và đã cho dựng tạm một căn nhà gỗ trên thửa đất mới được cấp gần lộ.
- Chà ! Được cấp đất mở kỹ viện cơ đấy ! Ai mà hào phóng thế ?
- À, bí mật ! Nếu lão phu không quen với các vị có quyền hành thì làm sao được đặc ân ấy ?
- Quả nhiên lão huynh khôn ngoan, trông rộng.
- Thế còn đại hiệp ? Đã tìm được nơi nào phục thị chưa ?
- Chưa. Tại hạ chưa có chủ ý. Tuy nhiên nếu được mời giữ chức chưởng doanh hay thống binh thì tại hạ cũng sẽ xét.
Jinnai không biết sở học và tài năng của Kojiro đến mức nào, nhưng nghe cái giọng hợm hĩnh ấy thì cười hề hề, đưa đẩy vài câu rồi làm bộ quát bảo mã phu sửa soạn thắng ngựa.
Kojiro cũng cáo từ để tiếp tục cuộc hành trình. Hắn không muốn liên quan mật thiết đến giới ca kỹ, một giới mà hắn cho là không xứng đáng giao thiệp ngoài những lúc mua vui.
- Nào, nghỉ ngơi rồi, bây giờ ta lên đường. Nhớ buộc lại quai dép cho chặt.
Jinnai nhắc bọn phụ nữ.
Mụ Onao đếm đầu người rồi lẩm bẩm:
- Quái ! Thiếu một ả.
Mụ thầm nghĩ hai nàng ưa trốn đi chơi nhất là Kicho và Sumizome thì có mặt ở đây cả rồi. Mà sao đếm đi đếm lại vẫn thiếu. Lạ thật ! Bèn đem chuyện ấy trình với Jinnai. Jinnai nhớ ra:
- Chắc là Akemi rồi !
- À à, phải rồi, Akemi ! Nàng mới nhập đoàn ở Kiso !
Bèn sai mấy ả đi tìm quanh các quán xá nhưng không thấy. Đồ chừng Akemi đã trốn khỏi đoàn, Jinnai nói:
- Thấy nó tứ cố vô thân, ta vì lòng trắc ẩn mà thu nạp, sao nó không biết ơn lại bỏ trốn. May chưa kịp đưa đồng nào, chỉ tốn mấy bữa cơm, không đáng kể. Thôi kệ nó ! Đi!
Đoạn hô cả đoàn lên đường.
- Cứ thế này thì tối mới đến Hà Châu. Đêm nay chắc phải nghỉ ở đó mất, mai mới tiếp tục được.
Đi một quãng, bỗng gặp Akemi ngồi chờ bên lộ. Mụ tào kê ngạc nhiên nhưng sa sầm ngay nét mặt:
- Đi đâu vậy ? Tưởng bỏ trốn rồi. Ngươi làm cả đoàn vất vả.
Akemi lúng túng giải thích:
- Tiểu nữ thấy người quen, không tiện gặp nên tránh mặt. Không ngờ ở lùm cây có chỗ dốc trượt chân ngã xuống khu dưới kia. Quanh quẩn mãi không tìm được lối lên, rách cả quần áo.
Nói đoạn vạch những chỗ áo rách và cánh tay xây xát cho mụ coi. Jinnai bước tới trừng mắt:
- Akemi ! Ngươi định trốn phải không ?
- Không.
- Nếu ngươi thực tâm muốn làm nghề này thì phải vâng lời, theo kỷ luật của đoàn như các nàng kia. Rồi đổi tên đi, tên Akemi không hay mà khó nhớ. Ngươi có quyết tâm làm nghề này hay không ?
Akemi cay đắng:
- Quyết tâm làm gái Giang hồ ư ?
- Ừ ! Nếu muốn khá thì phải biết vâng lời, biết chiều khách. Đấy là ta bảo trước.
Tùy ngươi.
Akemi bậm môi giữ cho khỏi khóc. Rồi lẩm bẩm:
- Thì cũng liều. Cuộc đời tiểu nữ đã bị đàn ông làm cho hỏng rồi, còn gì đâu mà chọn lựa !
Jinnai nhìn cô bé. Lão cũng bùi ngùi thương xót, nhưng óc thực tế của lão mạnh hơn:
- Thái độ ấy không phải là một thái độ đứng đắn. Nghĩ kỹ đi. Nếu ngươi đổi ý trước khi đoàn đến Edo thì cũng chẳng can gì, ta không đòi tiền cơm của ngươi đâu.
Ở Tako, cũng ngày hôm ấy, một lão ông quắc thước và một thiếu niên tuổi chừng mười lăm lững thững đi về phía Hà Châu. Theo sau là một gia nhân quẩy cái rương lớn đựng đồ nhật dụng.
Qua một ngôi chùa, cả ba rẽ vào nghỉ chân. Lão ông ngoạn cảnh vườn, tò mò đọc từng tấm bia, ngắm từng gốc cổ thụ và chiêm ngưỡng lối kiến trúc vững vàng cũng như những đường cong cân đối của mái chùa đã phủ rêu lốm đốm.
Đoạn vào tiền đình dùng trà, ông xin cúng một số tiền. Vị tăng già mang sổ đến.
Thấy dưới số tiền khá lớn, có ghi tên họ và địa chỉ thí chủ:
“Daizo, nhà bào chế dược thảo, Narai”, vị tăng kinh ngạc gọi chú tiểu mời trụ trì ra nghênh tiếp. Suốt trong vùng, không ai lạ gì danh tình Daizo, một thương gia giàu có, rất sùng đạo và hào phóng.
Trong những dịp hành hương, không đền chùa nào ông đến viếng mà không được ông cúng hiến tiền bạc, thường là vàng, có khi hàng chục lạng. Chỉ có Trời Phật và chính ông mới biết ông cúng như vậy là vì lòng kính ngưỡng thật sự hay chỉ vì háo danh và húng của.
Thấy chẳng mấy khi may mắn được tiếp đãi một ân nhân như thế, vị sư trụ trì lưu ông lại, định đích thân mở cửa kho bảo vật để ông xem những cổ khí và Phật tích hiếm có, nhưng Daizo một mực từ chối, xin cáo biệt chờ dịp khác thuận tiện hơn.
Đến Hà Châu, trời còn sáng. Đường chính trong trấn thưa người đi lại, nhưng nhiều quán xá đã lục tục lên đèn. Ở Hà Châu, đường này có lẽ có nhiều lữ điếm và buôn bán sầm uất nhất.
Daizo quay sang hỏi thiếu niên đi cạnh:
- Jotaro ! Ngươi muốn đến lữ điếm nào ?
- Lữ điếm nào cũng được, miễn đừng ở chùa thôi !
Daizo cười ngất:
- Thằng này thế mà thật thà !
Bèn tìm đến một quán lớn, sang trọng bước vào.
Nhìn dáng dấp bệ vệ và nhất là cái rương lớn sơn then của khách do gia nhân gánh tới, viên thủ hạ cúi rạp đầu nghênh tiếp:
- Qúy khách muốn phòng trông ra phố hay ra vườn ?
- Phòng nào cũng được, cốt yên tĩnh.
Người chiêu đãi dẫn Daizo lên một phòng lớn trần thiết lịch sự trên lầu rồi đưa Jotaro và tên gia nhân sang phòng xép cạnh cầu thang.
Thông thường quán xá ven lộ hay phải đón tiếp một số thực khách bất ngờ, nhất là vào những giờ trước bữa ăn tối. Nhưng chưa khi nào lữ điếm này lại gặp một số khách đông đảo và hỗn tạp như bữa nay.
Có đến ba chục nữ lang, không kể gia nhân khác, phần lớn còn trẻ, mặt thoa phấn trắng, môi son đỏ chót chạy rậm rịch khắp nơi, gọi nhau í ới.
Chủ lữ điếm phải đích thân cáo lỗi cùng quan khách. Ông ta nói với Daizo:
- Có một số thực khách mới đến bất ngờ gây huyên náo, xin lượng thứ. Nếu ngài không được vừa ý, xin mời lên lầu hai, cũng có phòng tốt mà lại yên tĩnh.
- Không sao ! Chủ nhân đông khách lão cũng mừng cho. Để gọi gia nhân dọn đồ lên.
Hành trang vừa dọn ra, Daizo đã bị một toán bốn năm nữ lang chen lấn. Mùi phấn son nức mũi, tay áo như bướm bay, tiếng chuyện trò cười nói ríu ra ríu rít. Không còn là cảnh hoạt động nữa mà là hỗn loạn. Con hầu, đầy tớ, nhà bếp đều bỏ việc ra ngóng xem các nữ lưu thanh lịch ở Kyoto ra thế nào.
Khi được biết đấy toàn là kỹ nữ đất kinh đô thì ôi thôi, lời bàn ra tán vào không sao kể xiết. Nhà bếp nấu ăn thì trễ, tuần rượu xong, thiếu người dọn dẹp. Khách tò mò đứng đầy cửa ngó nghiêng xem các nàng mặt ngang mũi dọc ra sao mà nổi tiếng mỹ miều, xử sự khéo léo khiến đàn ông phải mê mệt.
Nằm nghỉ không yên, Daizo bỗng nảy ra một ý. Ông gọi gia nhân. Chẳng thấy trả lời, bèn xuống lầu mở cửa phòng xép tìm. Phòng trống không. Cả Jotaro cũng không có đấy.
Ông xuống nhà dưới. Lẫn trong đám đông há hốc mồm ngắm các nàng kỹ nữ, Jotaro đang đứng xớ rớ. Ông lôi nó lên phòng, nghiêm nghị hỏi:
- Ngươi nhìn cái gì thế ?
Jotaro lúng túng gãi đầu. Thanh kiếm gỗ dài đeo sau lưng làm nó vướng víu càng như tăng sự lúng túng của nó hơn.
- Dạ, thì cháu cũng nhìn như người ta.
- Nhưng nhìn cái gì mới được chứ ?
- Dạ, nhìn các nàng ấy.
- Có thế thôi à ?
- Dạ, chỉ có thế.
Sự có mặt của các kỹ nữ trong lữ điếm không làm phiền Daizo, nhưng chẳng biết vì lý do gì, lão rất ghét những kẻ hay dòm ngó công việc của người khác. Lão gay gắt:
- Các nàng ấy có gì lạ ?
- Cháu cũng không biết. Jotaro ngây thơ đáp.
- Ta có việc phải ra phố bây giờ. Trong lúc ta đi vắng, ngươi ở nhà không được đi đâu, nghe không ?
- Lão bá không cho cháu theo à ?
- Không !
- Tại sao thế ?
- Tại vì không phải ta đi chơi mà đi có việc !
- Việc gì ?
- Việc tôn nghiêm. Thằng này hay hỏi lôi thôi quá !
- Lão bá ở đền chùa cả ngày chưa đủ hay sao. Tối rồi. Đến sư cũng phải có lúc nghỉ ngơi chứ !
- Việc tôn nghiêm không phải chỉ làm ở chùa, đền mà đủ. Xuống gọi Sukeichi, tên bộc của ta, mang chìa khóa rương lên đây !
Jotaro xuống lầu tìm gia nhân của Daizo. Nó biết phải tìm gã ở đâu. Chen lấn một lúc, quả nhiên thấy Sukeichi đang đứng dưới hành lanh trố mắt nhìn lên dã y phòng các kỹ nữ ở trọ, đợi các nàng bước ra. Jotaro đến nắm áo gã:
- Sukeichi ! Lão nhân gia gọi ngươi kìa !
- Thật không ?
- Lại chả thật ! Lão nhân gia bảo mang chìa khóa rương lên để lão nhân gia lấy quần áo đi phố. Sao ông ấy hay đi thế, tối rồi mà còn đi !
Sukeichi tiếc rẻ, bước đi mà còn ngoái cổ lại một lần nữa. Jotaro thong thả bước theo.
Bỗng có tiếng gọi khẽ:
- Jotaro ! Phải Jotaro đấy không ?
Jotaro dè dặt không dám đến gần, chỉ cất tiếng hỏi:
- Ai đấy ?
Thiếu nữ bước ra chỗ ánh đèn. Nhìn rõ mặt, Jotaro mừng rỡ reo:
- Akemi cô nương !
- Ừ, ta đây ! Lâu lắm lo gặp ... Quỷ, ngươi làm gì ở đây thế ?
- Thế còn cô nương, cô nương làm gì ở đây ?
- Ta ... ta ... Thôi, em chẳng hiểu đâu !
- Cô nương đi cùng với những người kia đấy hả ?
- Ừ, ta đi cùng với họ. Nhưng ta chưa nhất định ...
- Nhất định cái gì ?
- Nhất định làm một nghề như họ.
Akemi thở dài. Jotaro nhìn nàng không chớp. Nó thấy Akemi gầy và già hơn lúc gặp nàng giặt quần áo ở ven suối ba năm trước.
- Sư phụ của em đâu ?
Jotaro biết đấy là câu hỏi chính và đấy mới là mục đích Akemi muốn gặp nó.
Nó lựa lời đáp:
- Sư phụ tiểu đệ, Otsu cô nương và tiểu đệ lạc nhau giữa đường. Chẳng biết bây giờ đâu.
- Otsu ? Otsu là ai ?
Hỏi xong, Akemi như sực nhớ:
- À, ta biết rồi.
Đã từ lâu, Akemi vẫn cho rằng Musashi là kẻ lang bạt, thích đi đâu thì đi, thích ở đâu thì ở, sống trong rừng, ngủ trên đá, không gì kềm giữ, chẳng bao giờ muốn đời mình bị ràng buộc nên Akemi không hy vọng gì mối tình của mình được đáp ứng và nhẫn nhục chịu. Nhưng nếu nghe có người đàn bà nào khác chia sẻ cuộc đời của Musashi thì nàng thấy nghẹn họng. Tên Otsu đã đánh thức mối ghen tuông trong lòng nàng và khơi đỏ những cục than tưởng như tàn lụi của một mối tình vô vọng.
- Jotaro ! Ở đây đông người quá, ta muốn nói chuyện với em. Mình ra chỗ khác đi.
Jotaro gật đầu theo Akemi ra khỏi khuôn viên lữ quán. Phố xá lên đèn sáng rực.
Khách đi chơi tối đã bắt đầu tấp nập. Kể từ khi rời Kyoto đến nay, bây giờ Jotaro mới thấy một thị trấn náo nhiệt như thế này.
Về phía chân trời xa, bóng núi Chichibu đen sẫm, yên lặng, nhưng ở đây sặc mùi rượu sa-kê, tiếng rao hàng lanh lảnh, tiếng xe ngựa ồn ào vả cả những tiếng nghệ công hát dạo, giọng nghẹn ngào thổn thức kéo dài, u uất như chính cuộc đời của họ.
- Matahachi có kể ta nghe nhiều chuyện về Otsu - Akemi đưa đẩy, dù biết rằng đấy chỉ là những lời nói dối - Otsu là người thế nào hả em ?
- Otsu cô nương tốt lắm, dịu dàng và dễ thương. Lại đẹp nữa. Tiểu đệ thích cô ấy lắm.
Akemi cảm thấy chỗ đứng của nàng trong lòng Musashi mờ đi. Nàng mỉm cười cố giấu nỗi buồn tủi:
- Otsu tốt thế kia à ?
- Vâng, lại khéo nữa. Hát hay, viết chữ đẹp, biết thổi sáo. Thổi sáo rất giỏi.
Như con mèo xù lông trước khi giương móng, Akemi cười gằn:
- Đàn bà biết thổi sáo thì được tích sự gì ?
Jotaro ngạc nhiên:
- Cô nương không thích sáo à ? Không thích thì thôi, nhưng nhiều người thích tiếng sáo của cô Otsu lắm, kể cả Yagyu lão tiên sinh. Cô Otsu chỉ có mỗi một tật đệ không ưa.
- Ừ, là người ai chả có tật xấu. Như ta cũng có tật xấu chứ, nhưng nếu biết tật mình mà sửa thì thành tốt, còn nếu như đem che giấu đi dưới lớp vỏ đức hạnh thì chỉ là đạo đức giả ...
- Không, cô Otsu không thế đâu. Cô nương chẳng che giấu cái gì cả.
- Vậy tật của Otsu là gì ?
- Cô Otsu chỉ hay khóc.
- Hay khóc ?
- Vâng. Hơi một tí là khóc, nhất là những khi nghĩ đến Musashi sư phụ. Thành ra đi với cô nương buồn chết được. Tiểu đệ không ưa.
Jotaro nói chuyện thành thật. Thành thật đến tàn nhẫn, bất kể hậu quả gây ra cho người nghe ra sao. Vô tình nó không biết ngọn lửa ghen đương phừng phừng trong lòng Akemi, thiêu đốt tâm can và thể xác nàng.
Mặt Akemi nhợt nhạt, mới có một lúc mà trông nàng già đi hẳn mấy tuổi. Nhưng cũng phải khen Akemi can đảm. Mặc dầu tức đến nghẹn cổ, nàng vẫn còn tỉnh táo hỏi Jotaro:
- Otsu bao nhiêu tuổi ?
- Cũng bằng tuổi.
- Em muốn nói bằng tuổi ta hả ?
- Vâng, nhưng trông có vẻ trẻ hơn cô nương.
Akemi muốn nghe một lời kể xấu Otsu hoặc một chuyện gì Otsu đã làm Musashi không vừa lòng. Để nàng còn bám víu vào đấy mà hy vọng. Để nàng còn có cớ mà xua đuổi nỗi đau khổ tột cùng đương dày vò tim óc nàng. Bèn hỏi Jotaro mà như mớm lời cho nó:
- Sư phụ của em là người tính tình dũng mãnh, chắc phải khó chịu khi thấy Otsu hay khóc. Otsu dùng nước mắt để làm cho người khác thường chứ gì, cũng như những ả kỹ nữ ở Kyoto vậy. Thật đáng ghét !
Jotaro phản đối:
- Không phải. Musashi sư phụ yêu Otsu cô nương. Ông không bao giờ tỏ tình nhưng tiểu đệ biết ông yêu cô Otsu lắm.
Lời nói của Jotaro là giọt nước cuối cùng làm tràn bát nước đầy. Mặt Akemi tái xanh, nàng thở hổn hển.
- Cô nương sao thế ?
- Không ! Không sao cả !
- Tiểu đệ đưa cô nương về nhé ?
Akemi gạt tay Jotaro:
- Mặc ta. Ta không muốn về đấy đâu !
Jotaro tần ngần một lúc, định bỏ đi rồi lại không nỡ. Nó không hiểu được người lớn đã đành, nhưng Akemi tuổi chẳng hơn nó bao nhiêu sao cũng có những hành động khó hiểu vậy !
- Jotaro ! Dẫn ta lại cái quán đằng kia cho ta nghỉ chút.
- Đằng ấy là quán rượu mà !
- Càng tốt. Ta muốn uống chút rượu. Còn em thích ăn gì cứ gọi.
Jotaro dẫn Akemi vào quán. Nàng gọi một bình rượu lớn và vài cái bình cho Jotaro. Rượu mang ra, Akemi rót uống hết chén này đến chén khác, mặt lầm lì tái ngắt.
Thấy Akemi uống rượu không ngừng, Jotaro hoảng sợ:
- Cô nương uống nhiều quá !
- Kệ ta ! Không việc gì đến ngươi. Ngươi là bạn Otsu phải không ? Ta ghét ngươi, ta ghét con Otsu, ta ghét Musashi.
- Cô nương say rồi, trả tiền đi rồi về.
- Chưa say. Ta muốn uống nữa. Chủ quán đâu ? Cho thêm bình rượu !
Jotaro đưa mắt nhìn chủ quán ra hiệu đừng mang rượu đến.
- Cô nương có tiền trả không ?
- Tiền hả ? Sao ta lại không có ! Ta đã bán thân cho Jinnai rồi mà ! Đến lữ điếm mà đòi, ha ... ha ...
Chủ quán có lẽ đã quen với những cảnh như thế này nhiều lần, lạnh lùng nhìn nàng, sau thương hại bảo Jotaro:
- Say quá rồi, dẫn về đi. Mai đến trả tiền cũng được !
Jotaro dìu Akemi ra khỏi quán. Bóng tối ngõ hẻm đổ lên đầu hai người. Cơn gió lạnh thổi qua, Jotaro rùng mình, tưởng nghe tiếng than khóc của những linh hồn đau khổ nào. Nó không để ý tới một bóng đen từ trong hẻm bước ra theo chân nó và Akemi.
- Jotaro ! Đừng dẫn ta về đấy làm gì. Dẫn ta đến chỗ thầy ngươi.
- Đệ biết Musashi sư phụ Ở chỗ nào đâu !
- Vậy đưa ta ra bờ sông. Gió mát làm ta đỡ bực bội.
Ra đến bờ sông, Akemi cầm tay thằng bé:
- Thôi em về đi, để ta ngồi đây.
Một ý nghĩ thoáng hiện, Jotaro hoảng hốt kêu lớn:
- Đừng ! Đừng ! Cô nương đừng làm thế !
Thình lình có một vật gì đập mạnh vào đầu khiến Jotaro ngã lăn ra bất tỉnh.
Bóng đen theo chân nó và Akemi nhảy tới vừa kịp đỡ thân người thiếu nữ không để nàng gieo mình xuống nước. Gã vác Akemi lên vai, chạy mất hút vào trong đêm tối.
oo Jotaro mở mắt, nhiều người đứng lố nhố xung quanh. Kẻ cầm đèn lồng, người mang gậy gộc.
Họ vui mừng thấy nó đã tỉnh. Hỏi thăm về thiếu nữ cùng đi với nó, nó cũng chẳng biết bị ai bắt và bắt dẫn đi hướng nào. Lại thấy nó không bà con thân thích gì với nàng, mọi người đều lấy làm lạ.
Một mình lủi thủi trở về phòng trọ, Jotaro bỗng nhớ đến câu đồng dao bạn bè nó vẫn vỗ tay hát khi còn nhỏ:
Này ông phỗng đá Đứng giữa đồng không, Thấy cô gái nhỏ, Mái tóc rối bồng, Dòng đời lỡ bước, Lạc tới đây chăng ?
Hỏi phỗng, phỗng chẳng nói năng ...
Đánh phỗng, phỗng chỉ nhăn răng phỗng cười.

Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Hai T2 26, 2007 12:15 am
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ

CHƯƠNG 60

DẾ TRONG BỤI CỎ







Len lỏi giữa những ngõ tối khu ven sông, Jotaro cắm cúi đi, trong lòng nơm nớp sợ bọn người kia gọi lại vặn hỏi lôi thôi và có thể bắt nó giải lên quan trấn thủ không biết chừng.
Nó không biết sẽ phải đối đáp ra sao trước những câu hỏi của bao nhiêu người lạ mà nó đoán sẽ gay gắt lắm, về Akemi, về thầy nó, về Otsu. Và trần tình như thế nào trước mặt Daizo khi ông hỏi nó tại sao đi cùng với một kỹ nữ vào tiệm nước.
Nó biết Daizo chẳng ưa gì giới ăn chơi, nhất là giới kỹ nữ. Vả hơn nữa, ông đã dặn nó phải ở nhà trong khi ông đi vắng. Tất cả những điều ấy, khi nghĩ đến, khiến nó bồn chồn lo lắng và giục nó bước mau.
Vết thương còn hơi nhức, Jotaro lấy tay sờ đầu không thấy máu thì yên bụng. Cơn gió thốc vào mặt, luồn qua khe áo phong phanh khiến nó run rẩy. Nó cố giữ cho hai hàm răng khỏi đánh vào nhau lập cập.
Nhìn ra xung quanh, Jotaro không khỏi ngạc nhiên. Cảnh vật lạ hoắc, khác hẳn với những khu phố đã đi qua hồi nãy. Nhà cửa thưa dần, tối đen, im lìm. Quay nhìn lại chẳng thấy có quán xá hay bất cứ dấu vết gì của sự sinh hoạt náo nhiệt nữa. Tuy về phía chân trời, ngọn Chichibu vẫn yên tĩnh nhưng chỗ Jotaro đứng có một cái gì hoang phế làm nó rờn rợn.
Đây là cuối ngõ và xa hơn nữa là bãi hoang. Một con đường mòn chạy ngoằn ngoèo qua bãi hoang khuất sau vách đá dựng đứng của một tòa lâu đài cổ. Tòa lâu đài, dường như bị bỏ phế lâu ngày, đã điêu tàn; cây dại, bụi gai chen nhau mọc lấp cả chân tường và lối vào. Mái ngói hư nát trơ những kèo và đầu mè đen sì. Dưới ánh trăng non, trông chúng tựa những rẻ sườn của một xác chết.
Xung quanh tòa cổ lâu chẳng có vết tích gì gọi là tường hay hào bao bọc. Trước kia, đây hẳn là chỗ ở của một lãnh chúa địa phương, sau khi sa sút, con cháu bỏ đi lập nghiệp nơi khác, không đoái hoài đến nữa.
Phía bên kia đường có vài thửa ruộng cằn. Xa hơn, mấy căn lều gỗ trơ trọi, tối đen.
Trong cái đìu hiu của cảnh vật, tiếng ếch kêu gióng một càng như gợi lên trong lòng Jotaro một cảm giác thê lương và sợ hãi không duyên cớ.
Bỗng trên sườn vách đá có vật gì động đậy. Tưởng là chồn cáo, Jotaro không để ý, nhưng thấy vật ấy cử động có hơi khác lạ, nó tò mò nhìn kỹ. Vật ấy cử động đều đặn một lát, ngưng lại, rồi lại tiếp tục cử động đều đặn như thế.
Jotaro trố mắt nhìn đến nứt kẽ. Mãi sau mới nhận ra một người đang tuột dây từ trên bờ thành lâu đài xuống. Gã đeo trên lưng cái bọc lớn.
Tuy sợ, Jotaro vẫn đứng yên, chú mục nhìn như bị thôi miên. Đến chân tường, bóng đen giật cho sợi dây rớt xuống, cuộn lại, rồi bỗng mất hút, tưởng như tan biến vào trong bóng tối của những lùm cây vây bọc xung quanh.
Sự tò mò của Jotaro lên đến cực điểm. Nấp sau một tảng đá, nó định bụng chờ lúc nữa, nếu không động tĩnh gì, sẽ đến chân tòa lâu đài coi xem thế nào.
Nhưng chẳng phải đợi lâu. Chừng một chập, có lẽ chưa tàn nửa nén hương, Jotaro đã thấy cũng cái bóng đen ấy men theo bờ ruộng tiến thẳng về hướng nó nấp. Hoảng sợ, Jotaro định bỏ chạy nhưng bỗng thở phào:
bó củi trên lưng kẻ ấy khiến nó đoán ra ngay.
“Có gì đâu ! Chỉ là một người kiếm củi, thế mà làm mình sợ muốn chết !”. Nhưng Jotaro lại thầm rủa kẻ kiếm củi về trễ đã làm nó thất vọng. Cái cảm giác rờn rợn nổi da gà khi nãy không còn nữa và cả một sự bí mật ghê gớm nó mường tượng ra đột nhiên trở thành tầm thường và nhàm chán một cách khó chịu.
Nó toan dời chỗ nấp trở về đường cũ. Nhưng nhìn dáng đi của người kiếm củi, Jotaro kinh ngạc vội giơ tay tự bịt miệng để khỏi thốt ra tiếng kêu lớn. Vì đấy chính là dáng đi của Daizo.
Bóng người kiếm củi mỗi lúc một gần. Ông ta mặc bộ áo chẽn màu chàm, loại quần áo tiều phu thường mặc, đi dép cỏ và quấn một vuông khăn đen để giấu mặt, nhưng vóc dáng ấy không thể đánh lừa được Jotaro. Đôi vai rộng, bước đi vừa vững vàng vừa mềm mại, khó tìm thấy ở những người trạc tuổi ngũ tuần là những đặc tính không thể lầm Daizo với một người khác được. Jotaro tự hỏi:
“Chẳng biết ông ấy đến đây làm gì, nhưng chắc chắn không phải để kiếm củi”.
Daizo men theo bờ ruộng, đến gần chỗ Jotaro nấp thì rẽ sang một bờ ruộng khác, trèo lên con đường mòn. Đoán chừng ông ta trở về trấn, Jotaro nảy ý định theo chân cho khỏi lạc, nhưng lại không muốn để ông biết. Bèn chờ Daizo đi thật xa mới len lén dời chỗ nấp, nương bóng tối mà theo. Đường mòn quanh co như rắn lượn đến một cái gò.
Tới chân gò, Daizo để bó củi xuống ngồi nghỉ bên một tấm bia đá chôn đã lâu ngày, đổ nghiêng. Lúc sau mới đứng dậy tiếp tục trèo lên. Jotaro đến chỗ bia đá cũng dừng lại nghỉ chân. Bia cũ nhưng ít rêu phủ. Jotaro lẩm nhẩm đọc hàng chứ hãy còn rõ nét:
“Thủ cấp lũng” (gò đầu người) và nghĩ chỗ này chắc là chỗ chôn thủ cấp những kẻ chiến bại ngày trước. Cảm giác rờn rợn lại ào đến xâm chiếm lòng nó và bỗng dưng Jotaro có cảm tưởng như âm khi lãng đãng theo sau cùng với nhiều tiếng kêu khóc.
Nó quay lại nhìn ...Không ! Bốn bề vắng lặng như tờ, đến tiếng côn trùng cũng không có. Ngó lên cao, gốc tùng cổ thụ vươn những cành cằn cỗi đan vào nhau dưới ánh trăng suông. Bóng Daizo cũng mất hút. Dưới chân gò, con đường mòn vẫn ngoằn ngoèo, từ đâu đến và dẫn đi đâu Jotaro cũng không biết. Phân vân một lúc, nó đánh liều cứ leo lên gò, may ra ở chỗ cao sẽ tìm được phương hướng.
Mới được mươi bước, Jotaro khựng lại ngay núp vào trong bụi rậm. Vì nó vừa thấy bóng Daizo trên đỉnh gò. Ông ngồi lên một cái rễ nổi cao khỏi mặt đất, đang hút thuốc.
Jotaro nín thở. Tẩu thuốc ấy xác nhận danh tính của ông. Không còn nghi ngờ gì nữa. Đúng là Daizo. Nông dân thời đó làm gì có thuốc lá mà hút vì thuốc lá được coi là một loại xa xỉ phẩm. Nước Nhật bấy giờ chỉ mới trồng được một ít thuốc, bán ra rất đắt.
Đến như ở Kansai là vùng giàu có mà cũng ít người dám bỏ tiền mua hút. Ngay Date Masamune, lãnh chúa vùng Mutsu thịnh vượng, mỗi khi hút thuốc, gia nhân cũng phải ghi vào sổ rành mạch để theo dõi sự tiêu thụ:
“Sáng:
ba cối; chiều:
hai cối; tối:
một cối”. Ngoài vấn đề đắt đỏ ra, thuốc lá còn không được thông dụng vì độc tính của nó.
Những người không quen, khi hút dễ bị nhức đầu, nôn mửa. Mặc dầu ngửi thơm, thuốc lá bấy giờ bị coi như ma túy và xếp vào hàng độc dược.
Jotaro biết Daizo nghiện thuốc lá. Ông ta ưa dùng xa xỉ phẩm nhưng ông giàu, hút gì mà chả được. Có điều ông đến đây với mục đích gì giữa lúc tối tăm, lại phải trá hình là một kẻ nhà quê đi nhặt củi thì nó không thể nào đoán ra. Tuổi còn trẻ, với tính tò mò cố hữu, Jotaro không thể nhịn được. Nó bò đến gần, mở banh mắt ra nhìn.
Hút xong cối thuốc, Daizo thong thả đứng dậy, xắn tay áo đi vòng ra phía sau cây tùng. Khi trở lại, ông cầm một cái mai. Daizo lấy cái mai ở đâu không biết, nhưng Jotaro thấy ông tỳ tay lên cán mai đứng một hồi lâu nhìn xung quanh dường như muốn ghi nhận tất cả những chi tiết của cảnh vật trong óc. Đoạn ra vẻ vừa ý, ông đến một chỗ ở phía bắc gò, gạt hết lá khô cùng cành gãy sang một bên rồi bắt đầu đào. Hì hục một lúc, Daizo đã đào được một cái hố sâu, rộng chừng vừa một người đứng. Jotaro thấy ông nhảy xuống hố rồi mất dạng. Nó sợ hãi muốn kêu lên, tưởng Daizo tự đào huyệt chôn mình. Nhưng không. Ông nhô đầu lên ngay, đổ ít đất lên miệng hố rồi lại thụp xuống.
Thì ra ông ngồi dưới hố cốt đào cho hố sâu thêm, mỗi khi nhô đầu lên là để đổ đất ra ngoài. Jotaro tự cười mình ngốc.
Khi trăng xế, cái hố đã khá sâu. Daizo trèo ra ngoài ngồi nghỉ, kéo khăn lau mặt rồi lấy tẩu ra nhồi thuốc. Nhưng nghĩ thế nào, lại cất vào bọc. Ông đến bên bó củi gỡ những cành khô buộc ở bên ngoài ra, để lộ một cái áo da lớn, loại áo các lãnh chúa thường mặc ngoài giáp sắt mỗi khi lâm trận. Trong nữa là một cái đẫy vải. Jotaro thấy Daizo cởi đẫy, đánh lửa châm ngọn nến con, lúi húi đọc một tập giấy to khoảng bàn tay rồi soạn nhiều thỏi dài và nặng từ trong đẫy ra. Dưới ánh nến, Jotaro thấy những thỏi đó lóe sáng thì biết ngay là vàng. Vàng đã được nấu chảy đổ vào khuôn làm bằng những gióng tre bổ đôi nên có hình như nửa hình ống.
Chưa hết, Daizo còn cởi thắt lưng lấy ra vô số đồng tiền vàng khác, đặt cẩn thận lên những thỏi vàng trong đẫy, gói cả lại thành một bọc lớn vất xuống hố như người ta vất xác một con chó chết. Đoạn tắt nến, gạt đất lấp hố lại, lấy chân dậm cho chặt, sau đó nhặt lá thông khô và cành gẫy trải lên trên. Lúc sau không còn thấy vết tích gì của cái hố mới đào nữa.
Công việc êm trôi, Daizo xoa tay khoan khoái, cởi bỏ bộ áo nông dân bọc vào cái mai, ra phía sau cây tùng. Lúc ông trở lại, Jotaro thấy ông hiện nguyên hình là một thương gia giàu có như nó biết, vai đeo túi hành trang bằng vóc thêu, tay chống gậy trúc, phong thái ung dung như các thương gia giàu có đáng trọng khác.
Ngồi trong bụi, Jotaro tưởng mình mơ, không biết chuyện vừa xảy ra trước mắt là chuyện thật hay chỉ là một vở tuồng Kabuki diễn khéo.
Đợi cho Daizo đi hẳn, nó mò đến gốc tùng cổ thụ. Mặc dầu vừa chứng kiến tận mắt việc làm của Daizo, nó cũng không thể nhất quyết được chỗ nào là chỗ vàng mới chôn:
dưới ánh trăng lu, bên gốc cổ thụ, chỗ nào cũng đầy lá thông khô, cành thông gẫy.
Jotaro nhìn mặt đất như nhìn cái bàn tay trống không của một nhà làm ảo thuật thiện nghệ.
“Khuya rồi, chắc mình phải tìm đường về thôi, kẻo bị nghi ngờ”. Nghĩ đoạn, bèn trèo lên cành cây cao nhìn bốn phía. Xa xa, ánh đèn trấn Hà Châu hiện rõ. Jotaro tuột xuống, định hướng xong, cứ thế mà đi nhưng cũng cẩn thận tránh những đường lớn vì sợ gặp Daizo.
Về đến lữ điếm, may sao mọi người đã yên giấc, không còn cái không khí ồn ào, rộn rịp lúc ban chiều nữa. Vào phòng thấy gia nhân của Daizo đang ngáy pho pho bên chiếc rương lớn sơn then, một dòng nước rãi nhểu dài trên khóe mép.
Jotaro lay gọi:
- Sukeichi ! Sukeichi ! Sao không xuống dưới chiếu mà nằm. Mà ngươi không khép cửa, để gió lùa độc lắm !
Sukeichi giật mình sực tỉnh. Rồi như chợt nhớ điều gì, nó dụi mắt, nói:
- Jotaro hả ? Ngươi đi đâu suốt từ chiều mà không xin phép lão nhân gia ? Sao bây giờ mới về ?
- Đi đâu đâu ? Ra phố một chút rồi về ngay, có ngươi ngủ, không biết thì có !
- Nói láo ! Đừng hòng gạt ta. Người ta bảo ngươi đi theo ả kỹ nữ đoàn Phong Nguyệt. Mới bằng ấy tuổi đầu mà đã thế thì sau này làm được cái tích sự gì ?
Jotaro chưa kịp cãi, cửa đã mở toang. Daizo bước vào:
- Thôi đừng to tiếng nữa. Khuya rồi, làm rộn người khác. Sukeichi, sửa soạn giày áo cho ta để mai lên đường sớm.
oo Tuy nói là lên đường sớm, nhưng thực ra cả ba thầy trò Daizo còn nấn ná ăn sáng, dềnh dàng mãi đến gần trưa mới dời khỏi lữ điếm. Đoàn kỹ nữ Kyoto đã lên đường từ lâu. Jotaro nghe tiếng Jinnai quát bảo đàn em ngay từ sáng sớm.
Như thường lệ, Daizo và Jotaro đi trước, nhưng lần này Jotaro không đi cùng với ông nữa mà lui về phía sau đi cạnh Sukeichi. Qua một bãi cỏ xanh tươi, Daizo ra vẻ ngạc nhiên quay hỏi thằng bé:
- Jotaro ! Hôm nay ngươi sao thế ?
- Dạ ! Có sao đâu !
Nó cố làm ra vẻ tự nhiên.
- Có chuyện gì phải không ?
- Dạ không ! Sao lão bá lại hỏi thế ?
- Ngươi có vẻ nóng nảy, sợ hãi, không như mọi ngày.
- Dạ không ! Không có chuyện gì. Jotaro vội đáp. Có điều cháu đã nghĩ kỹ, nếu cứ theo chân lão bá mãi thì không biết đến bao giờ mới gặp lại được sư phụ. Vậy xin cho cháu được đi tìm sư phụ một mình, nếu không có điều gì bất tiện ...
Daizo mơ màng nhìn ra xa như suy nghĩ điều gì rồi nói:
- Ta thấy có một điều bất tiện.
- Điều gì ? Cháu biết được không ?
Mỉm cười, Daizo đưa tay nắm tay nó:
- Ngồi xuống đây đã !
Nhưng Jotaro không nắm tay lão. Nó giả vờ không nhìn thấy cử chỉ thân thiện ấy của Daizo, ngồi bệt ngay xuống cỏ theo lời bảo. Daizo lặng thinh cũng ngồi xuống phiến đá bên cạnh. Ông ra hiệu cho gia nhân cứ gánh rương đi trước, rồi rút trong bọc ra cái tẩu sành vẫn quen dùng, ông lấy thuốc thong thả nhồi vào.
Sốt ruột, Jotaro nhắc:
- Cháu nóng lòng muốn gặp sư phụ ...
Daizo châm thuốc, gật gù:
- Thì ta có cấm ngươi đâu !
- Vậy lão bá để cho cháu đi tìm sư phụ một mình ...
Daizo hút một hơi thuốc dài, đoạn quay lại, nét mặt nghiêm nghị bảo Jotaro:
- Không được ! Kể từ giờ, ngươi không được đi đâu một mình vì ngươi đã là con nuôi ta !
Jotaro sửng sốt. Nó không hiểu gì cả. Nó nuốt nước bọt. Daizo cười rung cả hai vai và cả cái tẩu thuốc cầm trên tay. Thấy thế, Jotaro cũng cười, tưởng lão nói đùa. Bèn đáp:
- Không được ! Cháu không muốn làm con nuôi lão bá !
- Sao ?
- Vì lão bá là thương gia mà cháu lại muốn trở thành kiếm sĩ.
Tiếng cười vừa dứt lại phá lên. Lần này lâu và dài tưởng vô tận.
- Không hề gì. Daizo này chẳng phải là dân giả tầm thường không danh vọng gì hay dòng dõi thế gia. Nếu ngươi bằng lòng, ta sẽ giúp ngươi trở thành kiếm sĩ.
Jotaro ngạc nhiên thật sự, vì nó cảm thấy tuy bề ngoài cười cợt nhưng bên trong Daizo không có ý đùa. Bèn quay sang rụt rè hỏi:
- Tại sao lão bá đột nhiên có ý ấy ?
Thình lình Daizo chộp ngay lấy hai tay thằng bé, kéo nó vào lòng mình rồi ghé sát tai nó mà dằn từng tiếng:
- Nghiệt súc ! Mày nhìn thấy hết cả rồi phải không ?
Jotaro xanh mặt, cố trấn tĩnh:
- Lão bá bảo cháu nhìn thấy gì ?
- Hà hà ! Thằng này vờ vịt khéo thật !
- Cháu không hiểu lão bá định nói gì.
- Mày nhìn thấy việc ta làm đêm qua rồi phải không ? Tại sao mày dám chõ mũi vào công việc riêng của ta ?
Jotaro cựa quấy cố giằng ra nhưng Daizo khỏe quá. Tay lão như hai gọng kìm sắt siết chặt cổ tay nó và đùi lão ép chặt vào hai bên hông nó. Biết không chối được mà cũng không chạy được, Jotaro xuống nước năn nỉ:
- Xin lão bá tha cho cháu ! Cháu chỉ tình cờ mà thấy chứ không chủ ý. Cháu sẽ không nói chuyện này cho ai biết.
- Khẽ chứ ! Ta không phạt ngươi nhưng muốn ngươi phải làm con ta. Nếu không chịu, ta không còn cách nào khác là phải giết ngươi để diệt khẩu. Đừng bắt ta làm thế.
Ngươi là đứa trẻ thông minh tất hiểu rõ.
Lần đầu tiên trong đời, Jotaro thấy sợ. Một nỗi sợ thật sự, không phải là ghê rợn hay kinh hãi, nhưng là một nỗi sợ tiếp nhận qua lý trí của một kẻ đứng trước cái chết mà thấy mình bất lực.
- Xin lão bá tha cho ! Cháu đã biết lỗi, xin đừng giết tội nghiệp.
Ánh mắt Daizo sắc như dao nhìn nó. Gọng kềm hai bàn tay lão siết cổ tay nó mà lời của lão vẫn ngọt tựa mía lùi:
- Vậy ngươi bằng lòng làm con ta chứ ?
Qùy trong lòng Daizo, Jotaro như con dế giữa bụi cỏ cao. Lá cỏ bao vây hay che chở nó, nó không phân biệt được. Che chở hay bao vây, nó vẫn chỉ là một thằng tù.
Jotaro cảm thấy yếu hẳn đi, không còn sức kháng cự nữa.
- Ta để tùy ý ngươi. Muốn làm con ta hay muốn chết, nói ngay !
Jotaro rên rỉ rồi òa khóc. Những giọt nước mắt chảy dài trên đôi má đen đủi đầy bụi cát làm mặt nó nhem nhuốc thêm.
- Tại sao ngươi khóc ? Trong đời ngươi, sẽ không bao giờ có được cơ hội như thế này nữa. Ta bảo đảm sẽ nuôi dậy ngươi trở nên một kiếm sĩ có danh vọng.
- Nhưng ...
- Nhưng cái gì ?
- Lão bá ... lão bá ...
- Lão bá làm sao ? Nói mau ! Nam nhi phải biết nói cho gãy gọn và minh bạch.
- Lão bá ... Phải nghề của lão bá là ăn cắp không ?
Daizo cười hà hả, bỏ tay ra đập nhẹ lên vai thằng bé:
- Phải đấy là tất cả những điều ngươi lo nghĩ và muốn tránh xa ta, phải không ?
Jotaro gật đầu.
Lão lại cười nữa, mãi không dứt.
- Bé con, nghe đây ! Ta có thể là kẻ đã ăn cắp cả quốc gia, ăn cắp cả nước, ăn cắp cả một triều đại, nhưng là kẻ ăn cắp tầm thường thì không phải. Ngươi thấy Tokugawa Ieyasu đấy, ông ta ăn cắp cả nước chứ cứ gì ta. Ở với ta, rồi một ngày kia ngươi sẽ hiểu.
- Vậy không phải lão bá đã ăn cắp những thỏi vàng đó à ?
- Ta để tâm đến cái nghề nhỏ mọn ấy làm gì !
Bỏ Jotaro ra, Daizo đứng lên, để tay lên vai nó, nói tiếp:
- Bây giờ biết rồi thì đừng khóc nữa. Bắt đầu từ nay, ngươi sẽ là con ta. Ta sẽ là một người cha tốt. Phần ngươi cũng thế, tuyệt đối không được tiết lộ cho ai biết việc ta làm. Nếu không, ta vặn cổ chết !
Thằng bé tin lời nói ấy của Daizo, đưa tay lên chùi nước mắt.



Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Hai T2 26, 2007 12:16 am
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ


CHƯƠNG 61

MÁU ĐỔ VEN SÔNG









Cụ Osugi đến Edo vào đầu tháng sáu. Tiết quý hạ Oi bức như trời muốn mưa mà không mưa được khiến bà khó chịu. Tuổi già, đường trường mệt nhọc, lại thêm nỗi thất vọng đâm hụt Musashi càng làm bà buồn bực.
Từ ngày rời khỏi đồi Sinh Minh đến nay thấm thoát đã hai tháng. Hai tháng lang thang, không tin tức gì của Matahachi, đứa con trai duy nhất, nhưng bà vẫn không nản chí. Không chùa miếu nào là bà không tạt vào thắp hương khấn vái, cầu nguyện. Cụ Osugi chỉ sống với hy vọng độc nhất là bắt được kẻ thù không đội trời chung của dòng họ, đồng thời dẫn đứa con yêu quý về làng. Nhưng sức khỏe giảm dần, bà sợ chẳng còn đủ thì giờ làm tròn được lời nguyền ấy trước khi nhắm mắt.
Edo đương kỳ nắng hạn. Con đường gồ ghề chói chang. Chỗ nào cũng lọc cọc xe bò, lũ lượt phu khuân vác tung bụi mù mịt phủ trắng ngọn cây và trên các mái tranh các căn lều gỗ cất san sát ven lộ.
- Đây là Edo đấy ư ? Sao người ta lại có thể chọn một nơi khô cằn thế này làm kinh đô được ?
Cụ Osugi lắc đầu, không tin những gì thấy trước mắt. Qua một giàn tre dựng cạnh bức tường đang xây dở, thấy chỗ râm mát, bà dừng chân nghỉ, lấy quạt trong bọc ra phe phẩy.
Bỗng “bộp” một cái, miếng vữa bằng cái bát từ trên giàn rớt ngay vào áo. Giật mình ngước lên, bà lớn giọng mắng kẻ vô ý. Bọn thợ trên giàn nhìn bà cười hô hố.
- A ! Tụi này hỗn láo quá ! Ở Miyamoto, chúng bay dám cười ta thế chăng ?
Nhưng tiếng cười càng to, vừa chế nhạo vừa khiêu khích.
- Con mẹ khùng ấy nói gì thế ?
- Đứa nào láo ? Này ta bảo cho mà biết, ta đáng tuổi mẹ chúng bay, đừng có hỗn !
Nhưng bọn thợ chẳng vì thế mà ngưng cười. Chúng còn trao đổi với nhau những câu ra ý dè bỉu khiến bà tức lộn ruột.
Trời nóng nực càng như quạt thêm lửa giận trong lòng, vừa mắng nhiếc, bà vừa lay cây cột chống. Tấm ván trên giàn đổ nhào, bọn thợ hồ ngã xuống kéo theo nào thùng nước, nào vôi cát bắng tung tóe. May mà cụ Osugi tránh kịp và giàn tre cũng không cao nên không ai việc gì. Bọn thợ văng tục, vây quanh bà xắn tay áo định làm dữ. Cụ Osugi cũng chẳng vừa, rút ngay cây gươm cũ ra. Tuy là gươm thờ lâu ngày cùn nhụt, nhưng trong tay một người có hành động liều lĩnh để tự vệ, nó cũng khiến bọn kia e dè không dám sấn tới.
Kẻ qua đường hiếu kỳ bắt đầu bu đông. Thấy bà lão dữ quá lại lăm lăm cây gươm, bọn thợ hồ đồ rằng bà cũng thuộc dòng dõi kiếm sĩ gì đây nên sợ liên lụy, đưa mắt nhìn nhau rồi rút vào một xó dọn dẹp, thỉnh thoảng liếc mắt lườm nguýt bà và lẩm bẩm chửi rủa.
Sự thay đổi thái độ ấy làm cụ Osugi hài lòng. Bà tra gươm vào vỏ, phủi áo, rẽ đám đông bước ra, không quên quay lại mắng vài câu lấy lệ.
Ruồi nhặng vo ve trên những đống rác. Mùi hăng ngai ngái của phân bò phơi nắng luẩn quẩn trong bầu không khí oi ả. Cụ Osugi mới đi được chừng quãng ngắn, bỗng thấy một thiếu niên xách thùng nước bẩn chạy theo, đổ vào lưng bà, tiếp theo là những tiếng cười hăng hắc. Thiếu niên này dáng thợ thuyền, chắc cũng cùng cánh với bọn thợ hồ lúc nãy. Đổ nước xong, hắn xách thùng trốn mất dạng sau những đống gạch vụn và tre gỗ ngổn ngang gần đó. Cụ Osugi tức lặng người, không biết xử trí ra sao, đứng la hét chửi rủa một hồi, rồi cung cúc đi giữa những cặp mắt lãnh đạm của khách bộ hành qua lại.
“Đời bây giờ chẳng còn luân thường đạo lý gì ! Không ai trọng nể người già cả.
Nếu chẳng phải vì thằng Matahachi thì không bao giờ ta ở đây thêm một ngày nào nữa”. Bà tự nhủ.
Xung quanh bà, cái gì cũng mới:
những ngôi nhà mới dựng hoặc vừa được xây xong, gạch ngói còn đỏ au, cây mớ trồng, đường mới đắp, thợ thuyền đều là những thanh niên trẻ trung lực lưỡng. Chỉ có bà là già, không hợp thời, không đúng cảnh ngộ, lạc lõng và bị chế nhạo. Tủi cực dâng lên trong lòng, bà khóc. Kéo vạt áo lau nước mắt, vạt áo ướt nhẹp. Bà lấy tay vắt mũi, bàn tay nhăn nheo, da điểm đồi mồi lấm tấm. Con đường đông người mà sao cụ Osugi thấy cô độc như đang đi trong sa mạc.
Đến khúc rẽ, một đống đất cao nghều nghệu chắn cả lối đi. Gần đống đất có cắm bảng chỉ lối vào một nhà tắm công cộng. Cụ Osugi theo hướng chỉ, đến nhà tắm mua tấm thẻ gỗ, cởi áo ngoài ra giặt rồi treo lên sào phơi. Tắm xong, ngồi đợi áo khô bên gốc cây, bà đưa mắt nhìn mông lung xung quanh.
Chỗ nào cũng thấy cất nhà, dựng quán. Sau quầy gỗ của một ngôi hàng xén nhỏ, một cô bé tuổi chừng mười lăm, mười sau, mãi soi gương kẻ lại lông mày. Cử chỉ quen thuộc ấy nhắc bà nhớ lại những năm còn trẻ khiến tự nhiên bà có cảm tình với cô bé xa lại. Đó là hảo cảm đầu tiên bà có giữa những cảnh náo nhiệt chen lấn và những lời mặc cả ồn ào ở chốn kinh đô đang được tạo lập này.
Loáng thoáng vài câu trả giá miếng đất đưa đến tai. Bà ngạc nhiên không hiểu sao một khoảnh đất rộng chừng ba trượng, sâu chừng chục trượng mà giá đắt đến thế, bằng một mẫu đất hay ruộng tốt ở quê nhà.
Bỗng nghe tiếng động sau lưng. Bà có cảm giác như ai vừa sờ vào áo. Giật mình quay lại, thằng kẻ cắp đang lần lưng bà. Bà nắm tay nó. Trễ mất rồi, nó đã giật mất túi tiền bà buộc hờ ngoài áo lót sau khi tắm.
- Ối kẻ cắp ! Bắt thằng ăn cắp !
Vừa la hoảng, cụ Osugi vừa nhoài người ra ôm lấy nó. Nó đạp mạnh một cái khiến bà ngã lăn ra nhưng trong tay vẫn còn nắm được vạt áo nó. Sực nhớ đến thanh gươm, bà rút ra chém loạn.
Gã kẻ cắp tháo chạy, nhưng chẳng được xa. Dường như bị thương ở chân, gã chạy tập tễnh được một quãng. Có người đi ngược tới, nghe tiếng kêu, chẳng biết nếp tẻ ra sao, túm ngay được nó. Thì ra thằng Sumida chuyên nghề cắp vặt trong vùng. Người ta trói nó lại và đi mời Yajibei đến phân xử.
Hangawara Yajibei chẳng phải là kiếm sĩ hay phán quan gì ở địa phương. Ông chỉ cai quản một toán thợ chừng mấy chục người, thầu xây cất nhà cửa khi có khách gọi đến. Nhưng ông được tín nhiệm và kính trọng nhờ tính công bằng và lòng thương người, ưa giúp kẻ hoạn nạn.
Yajibei đến, thấy Sumida bị trói gô nằm dưới đất, đã biết ngay là có chuyện gì rồi. Ông gọi gia nhân tới truyền lệnh:
- Trồng cây cột rồi kiếm miếng ván và bút mực đem đến đây.
Nghe nói trồng cột, Sumida lo lắng ra mặt, van lạy:
- Chủ nhân tha cho, nô tài xin chừa. Từ nay sẽ về làm nghề khác.
Yajibei lắc đầu:
- Không được. Ngươi hứa nhiều lần rồi mà chứng nào vẫn tật nấy ... Lần này ta không tha nữa.
Cột trồng ngay ven lộ, nơi đông người qua lại. Yajibei tự tay viết mấy dòng chữ lên miếng ván:
“Tên này là Sumida, nguyên làm công cho bản nhân, phạm tội trộm cắp bị bắt quả tang, nay trói tại đây để mọi người phỉ nhổ cho chừa. Làm tại Edo, đường Ninh Hạ. Yajibei cẩn cáo”.
Viết xong, sai đóng lên đầu cột, trói Sumida vào để người canh giữ và cho ăn uống trong ba ngày. Lại đích thân đem túi tiền trả cho cụ Osugi. Sau khi hỏi han, được biết bà không phải người địa phương, bèn sai gia nhân săn sóc:
- Juro ! Ta thấy bà già này chẳng có ai thân thích ở đây. Để bà lang thang rồi lại bị lừa nữa cho xem. Người đưa được bà về nhà thì tốt. Tuổi cao mà bị đánh, thật bất hạnh.
Bấy giờ Edo mới lập, trộm cắp như rươi. Nạn sứ quân tuy tạm yên nhưng quyền lãnh chúa chưa vững, quan quân bận tâm dẹp loạn, không đủ thì giờ tuần tiễu và trừng trị kẻ gian phi. Dân chúng phải tự vệ và đảm trách lấy an ninh, cho nên khi bắt được đứa làm bậy, họ thường trói vào cột, kể tội để mọi người qua lại sỉ nhục. Đối với thường phạm, đó là hình phạt phổ thông nhất, vì thời bấy giờ không nói gì đến giới sĩ phu và kiếm sĩ, các tầng lớp dân gian khác cũng rất trọng danh dự, rất sợ bị đàm tiếu.
Yajibei đến Edo đã hơn mười năm, khi vùng này mới lèo tèo chỉ có vài quán xá. Nhờ trí thông minh, tài tháo vát và nhất là khéo léo mua chuộc lòng người, ông quy tụ được một số thợ giỏi làm thủ túc, nhân thầu xây cất cho những thương gia mới đến lập nghiệp. Công việc làm ăn phát đạt, có số vốn khá, ông đầu tư vào việc tạo mãi đất đai, tự xây nhà bán lấy lời. Cứ thế phất dần lên, bây giờ giàu có không phải bận tâm gì đến việc kinh doanh nữa, ông xoay ra kết thân với phái kiếm sĩ có quyền thế và được mọi người kính nể, mặc nhiên coi như là hào trưởng thủ lĩnh cả vùng, hễ có việc gì khó khăn là đến nhờ giải quyết.
Thời đó hai giới được trọng vọng nhất là kiếm sĩ và hào trưởng. Tuy nhiên giới sau này được quý mến hơn vì họ đứng về phía dân chúng. Đấy không phải là một tâm trạng mới mẻ hay lạ lùng gì. Lòng quý mến này có đã từ lâu trong dân gian và không phải chỉ thấy ở những vùng đang phát triển như Edo.
Sự hình thành của giới hào trưởng bắt nguồn từ thời kỳ còn sứ quân Ashikaga, lúc nội chiến đang mạnh. Khắp nơi, chỗ nào cũng có những bọn thảo khấu tung hoành giết người cướp của như loài dã thú. Theo truyền thuyết, bọn này cưỡi ngựa, đóng khố, thắt lưng da trâu to bản, tóc dài xõa xuống vai và thay vì quấn khăn, chúng buộc quanh đầu một vòng thừng lớn.
Bọn đó sử dụng trường kiếm dài đến bốn thước, đoản kiếm thước hai, nhưng cũng có khi dùng bồ cào, dao quắm và cả rìu nữa. Khỏi nói, bọn thảo khấu ấy giết người không gớm tay, quan quân phải nể sợ.
Tuy nhiên cũng có một số thảo khấu chủ trương tốt, không giết bừa bãi mà chỉ giết để trừng phạt những kẻ hay hà hiếp nhân dân mà thôi, rồi lấy tài sản của những kẻ đó chia cho người nghèo khó. Do đấy chúng được lòng dân và dân tôn chúng lên làm hào trưởng.
Hòa bình vãn hồi. Bọn thảo khấu phần lớn giải nghệ hoặc bị bắt đi phát vãng, nhưng cũng có kẻ đổi tên đổi họ lẩn trốn, chiêu tập đàn em lập thành phường đảng ở các thị trấn. Một số thành công được dân chúng tin cậy. Tuy danh hiệu không rõ ràng nhưng cái tinh thần hào trưởng vẫn có.
Họ được coi như loại người “lấy đạo nghĩa làm xương, lòng yêu dân làm thịt và sự dũng cảm làm da”. Nói cách khác, họ chính là những anh hùng dân gian đúng nghĩa.
Cụ Osugi được Juro cõng, theo Yajibei về nhà ông ở bên kia cầu Đại Bản. Cầu này mới bắc được hơn năm, còn tươi màu gỗ mới. Chân cầu xây đá xanh, đồ sộ và vững chắc. Cầu này ai cũng biết và được dân chúng coi như một điểm mốc để đo các khoảng cách từ Edo đến các thị trấn lân cận.
Dưới sông, thuyền đậu san sát, chở đến Edo đủ các loại thực phẩm và vật liệu xây cất. Bên kia cầu là chợ cá và khu thương mại chính, chia thành nhiều phường:
phường thợ rèn, phường thợ nhuộm, thợ dệt chiếu, thợ bán đồ đồng.v.v ...
Tư thất Yajibei ở một ngõ hẻm xa đường cái nên ít ồn ào bụi bặm, tuy không rộng lắm nhưng có nhiều điểm hợp với cụ Osugi nên bà nấn ná mãi mười tám tháng sau vẫn còn ở đó.
Mỗi lần cáo biệt để ra đi, bà lại được Yajibei chí tình lưu lại:
- Vội gì ! Vãn bối đã ra lệnh cho gia nhân hễ được tin tức gì của Matahachi hay Musashi thì thông báo ngay. Lão bá cứ ở đây, hà tất phải nhọc lòng.
Mãi rồi bà cũng thành lười, an phận. Phải công nhận Yajibei là người tốt.
Căn nhà của vị mạnh thường quân này chẳng phải chỉ có cụ Osugi mà thôi mà còn là nơi tá túc thường xuyên của vô số những kẻ lang bạt, những thanh niên phóng túng, những can phạm mới ở tù ra, thất nghiệp không ai chứa chấp. Tóm lại, đó là chỗ thường trú của những kẻ vô gia cư. Chúng tụ đến ăn uống, ngủ la liệt trên sàn, ngoài hiên. Tuy có đời sống phóng túng như vậy nhưng nói chung chúng rất trọng nghĩa khí, không bao giờ làm phiền đến ân nhân, và cũng có tổ chức:
kẻ đến trước bảo ban kẻ đến sau, ít khi để xảy ra những chuyện đáng tiếc.
Để có việc làm qua thì giờ, cụ Osugi thường săn sóc những kẻ ốm đau, giúp việc may vá, nấu nướng cho cả bọn nên được bọn chúng quý trọng lắm. Phong cách kẻ cả của bà làm nhiều đứa phải nể phục và kháo nhau:
“Đúng là dòng dõi kiếm sĩ. Không biết trước đây chồng bà làm gì nhưng dòng Honiden chắc là một dòng có hạng”.
Để bà được yên tĩnh lễ Phật, Yajibei sai cất riêng cho bà một gian nhà gỗ ở góc vườn và hàng tuần đến vấn an. Có người hỏi tại sao ông đãi ngộ một người không thân thích mà hậu hĩnh như thế, Yajibei giải thích:
- Khi còn song thân, ta ở chẳng hết lòng. Nay thấy có bổn phận phải trọng những người già cả, coi họ như song thân ta lúc còn tại thế.
Mùa xuân tới. Hoa mận rừng nở rồi rụng mà những cây anh đào trồng ven lộ vẫn chưa chịu đơm hoa. Có lẽ do khí hậu hỗn tạp của đô thị đương xây cất mà hoa đào nở muộn chăng ?
Năm ấy chùa Phổ Giác ở tả ngạn sông Sumida về phía bắc có rừng mơ vừa chớm nụ. Thiên hạ rủ nhau đi lễ đông lắm.
Yajibei bảo với cụ Osugi:
- Vãn bối lên chùa Phổ Giác, lão bá có đi không ?
- Đi chứ. Chùa Phổ Giác nghe nói linh thiêng. Ta cũng muốn tới dâng hương vài ngày, trước là lễ Phật, sau du xuân cho đỡ cuồng cẳng.
Yajibei bèn sai gia nhân đến bãi Kyobashi thuê thuyền. Rồi bày rượu ra, rót mời cụ Osugi một chén.
- Vãn bối lên chùa là có ý định cầu siêu cho thân mẫu. Tiết thanh minh, chẳng tiện về quê tảo mộ. Nhớ đến song thân, lòng lại bồi hồi ân hận, nên nhân dịp này muốn giãi bày chút lòng hiếu.
Cụ Osugi rưng rưng nước mắt:
- Lão đệ nghĩ thế là phải lắm. Nếu thằng con ta cũng được như lão đệ thì ta sung sướng biết mấy ! Nhưng chưa lễ lạc gì mà rượu chè thế này có tiện không ?
- Vãn bối đã dặn trước trên chùa rồi, lão bá yên tâm. Vả lại lễ lạc rềnh rang mà làm gì ! Thiển nghĩ cỗ bàn có to đến đâu cũng chẳng nguôi được lòng ân hận của vãn bối.
Cụ Osugi cúi đầu, có lẽ cũng đồng ý với chủ nhân. Yajibei lại mời:
- Nào, xin cạn chén. Hôm nay ta phải đi thuyền ngược dòng sông một quãng.
Nhưng không hề gì. Thuyền to mà gia nhân đều là những chân sào thiện nghệ cả, lão bá đừng sợ.
Chén thù chén tạc, chẳng mấy chốc cụ Osugi đã say khướt.
- Lâu lắm không uống rượu, nay vui miệng, ta thấy người như bay bổng.
Bữa rượu gần tàn thì thuyền cũng vừa tới. Gia nhân chạy lên thông báo. Cả bọn khiêng đồ, quẩy níp xuống thuyền, chèo ra giữa sông mà đi, vào một ngày xuân tươi đẹp, gió nhẹ bay vừa và nước sông chỉ hơi gợn sóng. Càng lên phía bắc, càng cách xa Edo bao nhiêu, cây cỏ càng xanh tươi bấy nhiêu, mặt nước long lanh trong vắt. Ở những chỗ gần bờ, rễ cây lớn đua ra, bóng rợp che kín cả vùng khiến lòng sông như sâu thẳm.
Trong bụi cây, tiếng chim trả lời nhau lảnh lót.
- Ồ ! Tiếng chim họa mi, lão đệ nghe thấy không ?
- Có. Khu rừng này có tiếng nhiều chim. Về mùa mưa, tu hú hót cả ngày.
Yajibei lại bày rượu ra. Hai người chân sào cũng nhắp mỗi người một chén.
- Một chén thôi. Để khi đến nơi, các chú muốn uống bao nhiêu thì uống. Say bây giờ, lộn cổ xuống sông cả lũ.
Mọi người cười ha hả:
- Phải rồi ! Phải rồi ! Một chén mà tiểu nhân đã thấy nước sông trôi như rượu trong vò đổ ra rồi !
Qua xóm chài, thuyền ghé vào bờ mua cá. Cá tươi đủ loại vô số kể, thả trong khoang tha hồ chọn. Mua xong, Yajibei xẻ thịt ra, lấy giấy lau khô, rưới nước gia vị lên ăn sống. Cụ Osugi ghê sợ quay mặt đi niệm Phật.
Đến bến chùa trời đã quá ngọ. Cụ Osugi tập tễnh trèo lên, tuy đau chân nhưng vẫn nhất định từ chối sự giúp đỡ của Yajibei. Từ bến lên tới cổng chùa phải qua một bãi đất rộng, lau lách mọc đầy xen lẫn với những hòn đá cuội to bằng trứng ngỗng. Buộc thuyền xong, cả bốn người theo chân nhau qua bãi.
Một bọn trẻ con tay xách giỏ tre đang cắm cúi vạch lau lật đá, thấy người lạ tới thì ùa đến.
- Ông khách, ông khách mua cho cháu đi !
- Lão bá ! Những món này đẹp lắm, lão bá mua đi, cháu lấy lão bá coi nhé ?
Yajibei có vẻ thích trẻ con, ông cười vui vẻ hỏi:
- Chúng mày bán gì thế ? Cua hả ?
- Không. Đầu mũi tên.
Vừa nói, một đứa vừa lấy trong giỏ ra một vài mũi tên bằng đồng đã han rỉ đưa Yajibei coi.
- Đằng kia co nhiều mộ hoang, khối người đến lễ. Họ mua đầu mũi tên cắm lên mộ. Ông mua vài cái cắm lên mộ lấy phúc.
Yajibei lắc đầu:
- Ta chẳng dùng đầu mũi tên làm gì. Đây, cho mỗi đứa mấy đồng, bằng lòng chứ ?
Dĩ nhiên là chúng bằng lòng, cười hể hả bỏ đi, nhưng được một quãng, một gã râu ria từ trong căn lều cuối bãi bước ra tịch thu hết cả số tiền ấy. Yajibei không ngạc nhiên, chỉ lắc đầu. Cụ Osugi hỏi:
- Sao có nhiều đầu tên ở đây vậy ?
- Không rõ. Vãn bối dự đoán chỗ này xưa kia chắc là bãi chiến trường. Nghe nói cách đây mấy trăm năm, trên thượng lưu sông Sumida này có xảy ra nhiều trận thủy chiến. Hẳn đây là di tích của những trận ấy và những ngôi mộ đằng kia là mồ các chiến sĩ vô danh.
Hai gã chân sào đi trước thông báo nên khi Yajibei và cụ Osugi tới nơi, vị tăng trụ trì đã đứng sẵn trên thềm nghênh tiếp.
Cảnh chùa Phổ Giác khiến cụ Osugi thất vọng. Chùa chỉ là một ngôi nhà cổ, ngói vỡ nhiều nơi, cửa mục, tường đất bị nước mưa sói vào lâu ngày đã lở lói, để lộ chân cột mối ăn lỗ chỗ. Nhưng bối cảnh thật vĩ đại. Núi cao lừng lững với rừng tùng xanh đen, xen lẫn những gốc mơ điểm hoa trắng trên sườn đá rêu phong. Tiếng chim gõ thân cây đều đều như gõ mõ, hàng lau già xào xạc khiến cụ Osugi cảm thấy như có nỗi buồn vô cớ đương len lỏi vào lòng lúc nào, không sao ngăn được.
- A di đà Phật ! Cung thỉnh chư vị vào chùa lễ Phật.
Tiếng vị tăng già đánh thức cụ Osugi trở về thực tại.
- A di đà Phật ! Cảnh chùa điêu tàn quá đỗi ! Thế chùa ta khách thập phương không được mấy hay sao ?
- Cũng chẳng có nhiều. Như thí chủ thấy đấy, vì đường xa diệu vợi phải đi đò, lại ở nơi vắng vẻ nên không mấy người đến.
Khay trà dọn ra, chủ khách đàm đạo một lúc thì vị tăng dẫn Yajibei ra chính điện làm lễ cầu siêu cho mẹ. cụ Osugi cũng theo ra ngồi phía sau nghe kinh.
Bà lâm râm khấn nguyện, cầu cho Matahachi bình yên và cho bà chóng gặp lại hắn. Rồi hai tay chống xuống chiếu, đầu cúi rạp, bà hạ thấp giọng:
- Và cũng xin chư Phật mười phương ban cho già sức khỏe để già giết được thằng Takezo. Lòng thành cúi xin các ngài chứng giám.
Bà suýt soa khấn vái, kể tội kẻ thù, tưởng như đức Phật trên tòa sen kia là một phán quan, và sau những lời cầu xin ấy, không có lý do gì không ban cho bà những điều bà mong ước.
Lễ xong, Yajibei và cụ Osugi cúng vào chùa một số tiền đã phong bao sẵn.
Vị tăng trụ trì dẫn hai người ra hậu điện ghi tên vào sổ công đức. Nhìn trên bàn, thẻ gỗ mang danh tính thí chủ và tiền tặng xếp thành hàng. Thấy có tấm thẻ đề:
“Daizo ở Narai, cúng lạng vàng lá”, Yajibei hỏi:
- Đại sư thứ lỗi. Mười lạng vàng này quả là món tiền lớn. Daizo ở Narai là ai vậy?
- Bần tăng không rõ. Năm ngoái vị đó qua đây thấy cảnh chùa nghèo, mái dột nên có nhã ý tặng số tiền ấy để sửa lại mái. A di đà Phật ! Thật là công đức vô lượng !
- Chắc là một thương gia giàu có lại có lòng mộ đạo.
- Bần tăng cũng đoán thế. Được biết vị đó còn cúng vào chùa Kim Các tới hai mươi lạng vàng vì trong chùa có đặt vong của Masakado. Vị đó nói:
“Masakado không phải là kẻ phản loạn mà là một hào trưởng có nghĩa khí, đáng được ghi ơn vì đã có công mở mang miền đông nước Nhật”.
Yajibei yên lặng một lúc rồi gật đầu:
- Cũng có lý. Ở đời này, nhiều người có hành vi kỳ lạ ...
Chưa kịp giải thích thêm, bỗng nghe ồn ào ở cửa ngoài. Vài ba đứa trẻ đang tranh nhau mách với hai người chân sào và chỉ trỏ ra phía bãi.
Vị tăng bước ra nạt:
- Đi chỗ khác chơi ! Làm gì ồn thế !
- Ngoài kia đang đánh nhau ! Đại sư ra mà xem !
- A di đà Phật ! Lại có chuyện chẳng lành rồi ! Chúng bay nói thật hay bỡn ?
- Thật !
- Xin lỗi chư vị, bần tăng phải ra coi chuyện gì. Bãi này vắng vẻ, mỗi khi có chuyện, bần tăng phải thảo tờ trình cho quan quân đến điều tra, nếu không thì phiền phức lắm.
Vị tăng già xỏ dép, chống gậy hối hả bước ra, theo sau là Yajibei, cụ Osugi và hai người chân sào. Nhưng đến nơi, cuộc chiến đã mãn. Cảnh vật yên lặng lạ lùng. Gió hình như cũng không thổi nữa. Một con én đơn độc chao trên mặt nước ngoài xa rồi mất hút trong đám sậy.
Bốn xác người nằm rải rác giữa những vết chân chằng chịt in lên đất bùn nhão trên bãi và những ngọn lau tơi tả rụng xung quanh. Một thanh niên cao lớn mặc bào đỏ, len lỏi giữa những xác chết ấy ý chừng đang tìm lối ra bờ sông. Lưng hắn đeo kiếm dài.
Hắn không có vẻ gì sợ sệt hoặc quan tâm đến năm người vừa ở chùa ra đứng sững nhìn và mấy đứa trẻ lấp ló sau gốc liễu.
Bỗng có tiếng khàn khàn gọi. Hắn quay lại. Một xác người chống tay ngồi dậy, hổn hển nói:
- Nghiệt súc ! Đừng hòng trốn chạy. Trận chiến chưa xong mà, ta thề sẽ phanh thây mày !
Loáng một cái, lưỡi gươm của gã áo đỏ bổ xuống. Một tiếng rú thất thanh, máu phọt tung tóe. Đầu kẻ vừa nói bị chẻ đôi và tiếng cười của gã áo đỏ vang lên man rợ, thích thú:
- Hà hà ! Bây giờ thì trận chiến xong chưa ?
Đoạn, kéo áo người chết lau kiếm, gã thản nhiên tra vào bao và vũng nước gần đấy rửa tay, gột những chỗ áo bị rây máu.
Vị tăng già nuốt nước bọt thấy khó. Ông chưa bao giờ chứng kiến một cảnh giết người tàn bạo đến thế.
- A di đà Phật ! A di đà Phật !
Vị tăng dường như không nói được gì hơn, chỉ luôn mồm niệm Phật. Nhưng cụ Osugi ngạc nhiên trố mắt. Thấy gã áo đỏ đứng lên, bà gọi rối rít:
- Kojiro ! Kojiro !
Kojiro quay nhìn bà. Chẳng biết gã có nhận ra bà là ai không, chỉ thấy gã mỉm cười rồi rảo bước bỏ đi.
Bờ sông, tiếng sóng vỗ rì rào làm chòng chành con thuyền gỗ.



Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Hai T2 26, 2007 12:18 am
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ


CHƯƠNG 62

MẢNH VỎ BÀO









Yajibei ngạc nhiên, không ngờ cụ Osugi là người ít giao thiệp lại quen biết gã kiếm sĩ trẻ tuổi ấy. Ông cũng định hỏi cho rõ nhưng trước mặt vị tăng già, thấy không tiện lại thôi.
Hai gã chân sào ra chỗ thuyền đậu, sửa soạn cởi giây buộc để dời bến. Thình lình Kojiro rẽ lau bước tới:
- Các chú chở ta sang bên kia sông được không ?
Còn khiếp sợ vì đường gươm chớp nhoáng của gã thanh niên kiếm sĩ áo đỏ, hai gã ấp úng. May sao cụ Osugi đến. Thấy bà, Kojiro đổi ngay thái độ, tươi cười hỏi:
- Lão bá làm gì ở đây thế ?
- Ta lên chùa Phổ Giác dâng hương.
- Lão bá đi thuyền này đấy ư ?
- Phải.
- May quá ! Vãn bối cũng muốn sang sông về Edo. Phiền lão bá cho quá giang được chăng ?
Cụ Osugi chưa kịp đáp, Yajibei đã tiến ra vái chào. Nhanh trí và khôn ngoan, ông biết không thể từ chối được nên đi bước trước để mua chuộc cảm tình của Kojiro. Ông tự giới thiệu mình và ân cần mời chàng thanh niên kiếm sĩ cùng xuống thuyền trở về Edo.
Tâm thuật Yajibei và Kojiro khác nhau nhiều lắm, nhưng đôi khi những người khác tính nết lại tình cờ có một vài sở thích giống nhau. Yajibei và Kojiro đều thích ăn cá sống, vì vậy khi cá tươi được mang tới và khay rượu bày ra, cả hai đều tỏ vẻ hoan hỉ. Dưới mắt Yajibei bấy giờ, Kojiro không còn là một kẻ sát nhân ghê sợ nữa mà là một tri kỷ.
Câu chuyện nổ như pháo ran. Trong lúc cao hứng, chàng thanh niên kiếm sĩ rửa chén chuốc rượu mời cụ Osugi và chủ thuyền, sau đó lại rót cho hai gã chân sào mỗi người một chén. Cụ Osugi hỏi tin tức về Musashi:
- Hình như hắn vẫn còn ở vùng Edo này. Mùa thu năm ngoái, có người thấy hắn đến thăm một kiếm sĩ có danh vọng về võ học ở ngoại thành.
Yajibei không đồng ý, cho là sai lầm. Nếu Musashi còn ở Edo thì gia nhân đã báo ông biết rồi. Kẻ chịu ơn ông không hiếm, lại thuộc mọi tầng lớp xã hội, có lý nào hành tung của một kiếm sĩ đã diệt gần hết phái Yoshioka qua khỏi mắt họ được.
Tuy tin tức về kẻ thù không rõ nhưng lòng quan tâm theo dõi của hai người làm cụ Osugi yên bụng. Bà hy vọng nếu cả hai cùng giúp thì chóng chầy gì bà cũng bắt được Takezo.
- Già này được cả hai vị để tâm ra sức giúp cho, thật muôn vàn may mắn. Chắc những lời cầu xin của già đã được đức Phật chứng giám nên ngài run rủi cho gặp hai vị.
Thật là hạnh ngộ.
Nói rồi bà cúi rạp đầu xuống sạp thuyền tạ Ơn và rót rượu mời Yajibei và Kojiro.
Nhân cơ hội, Yajibei cũng muốn biết thêm về kẻ đối ẩm, bèn đưa đẩy:
- Kojiro đại hiệp ! Thế bốn tên mà đại hiệp vừa giết ở ven sông là ai vậy ? Có liên hệ gì với Musashi chăng ?
Dường như chỉ đợi có thế, uống xong chén rượu, Kojiro nhếch mép cười khinh mạn, đáp:
- Có gì đâu mà phải bận tâm ! Bọn đó là tiểu tốt của Obata chứ không liên hệ gì đến Musashi. Obata mở trường dạy binh pháp, ta có đến thăm mấy lần.
Toàn lý thuyết suông. Cũng có lần lão luận về thuật dụng kiếm, nhưng cũng như lý thuyết về binh pháp của lão, hão huyền cả. Ta có lên tiếng chỉ trích thì bị bọn đồ đệ Obata đả kích và thách thức. Ta chỉ cười và hẹn chúng đến bờ sông Sumida cho chúng nếm thử chiêu kiếm trảm nhạn của ta.
Ngừng một lát, rót thêm rượu uống cạn, Kojiro lại tiếp:
- Có năm đứa đến, nhưng một đứa sợ quá bỏ chạy ngay từ đầu. Hà hà ...Còn bốn đứa kia, làm sao địch nổi một cái vẩy tay của ta được.
Kể xong, hắn gật gù cười nhạt:
- Ở Edo này xem ra chẳng thiếu gì kẻ khoác lác, nói một tấc lên đến trời mà hành động thì khiếp nhược ...
- Obata ? Obata nào nhỉ ?
- Obata Kagenori, tôn ông không nghe nói đến bao giờ ư ?
- Không, lão phu kiến thức nông cạn ...
- Obata xuất thân ở đất Cải, một thời giữ chức tham nghị quân sự cho sứ quân Takeda. Bây giờ về hưu, mở trường riêng thu đồ đệ.
Yajibei tuy là một doanh nhân, không hiểu rõ về những việc xảy ra trong giới võ lâm nhưng tính tình chất phác dễ tin người. Những lời Kojiro nói khiến ông phục lắm. Qua vài mẩu chuyện trao đổi, ông thấy ga thanh niên ngồi trước mặt tuy hợm hĩnh, tàn nhẫn nhưng là một kẻ có tài về kiếm thuật và chắc chắn đường gươm độc đáo của hắn sẽ dùng được việc khi cần, bèn nảy ý muốn mua lòng Kojiro. “Gã này còn trẻ, chưa cạo đầu xuống tóc như các kiếm sĩ khác mà đã tỏ ra có bản lĩnh và kiến thức, thật không phải dễ tìm. Mình nên tìm cách giữ hắn làm thủ túc”.
- Đại hiệp ! Lão phu có lời đề nghị.
- ...
- Hiện trong nhà lão phu có nuôi được chừng bốn năm chục gia nhân đều là thanh niên can đảm, khỏe mạnh. Lão phu có ý muốn xây dựng một võ đường cho họ luyện tập và mời đại hiệp giảng dạy. Đại hiệp nghĩ thế nào ?
Kojiro ngồi im một lát, đoạn nhìn thẳng vào mặt Yajibei mà nói:
- Tôn ông cũng biết là đã có nhiều sứ quân mời tại hạ, bổng lộc hai ba ngàn gia. lúa mỗi năm nhưng tại hạ chưa tiện nhận lời vì thú thật, hiện nay chưa muốn bị ràng buộc bởi một lời hứa nào cả. Vả lại tại hạ đã định không làm việc gì nếu bổng lộc không được năm ngàn giạ.
Ngưng một lát, hắn lại tiếp:
- Nhưng thế nào cũng có dịp tới vấn an tôn ông.
- Đa tạ đại hiệp.
Cụ Osugi khẩn khoản xin Kojiro lưu tâm đến lời đề nghị ấy nhưng gã chỉ ậm ừ.
Đến gần cầu Đại Bản, cảnh hỗn tạp vùng Edo đã thấy xuất hiện. Kojiro yêu cầu cho thuyền cập bến, từ giã cụ Osugi và chủ thuyền để lên bờ. Nhìn vóc dáng cao lớn của gã thanh niên với thanh kiếm đeo trên lưng dài như cây sào phơi in rõ nét trên nền áo tía khuất dần theo con đường mòn ven đô, Yajibei không khỏi khen thầm, khẽ thốt:
- Chà ! Con người trẻ tuổi mà ghê gớm quá !
Cụ Osugi cũng trông theo. Liên tưởng đến Matahachi, bà khẽ thở dài không nói.
Năm ngày sau, Kojiro đến tư thất Yajibei như một cơn lốc. Chủ nhân hân hoan ra đón, lại gọi gia nhân lần lượt từng người tới cung kính vái chào khiến Kojiro rất xứng ý.
- Đây là số gia nhân phụ trách trong nhà. Còn một số nữa cũng hiểu biết võ nghệ và kiếm thuật được lão phu sai đi làm chút việc nên không ra mắt đại hiệp được, xin thứ lỗi.
- Tôn ông có nếp sống phong lưu lắm nhỉ !
Yajibei mỉm cười:
- Cũng không phải lo về sinh kế. Như lần trước đã đề nghị với đại hiệp, lão phu muốn mở một võ đường ...
- Tại hạ hôm nay đến đây cũng vì lý do ấy. Xin cho xem khu vườn tôn ông định dựng võ đường.
Yajibei dẫn Kojiro ra vườn sau. Thấy có một số vải đương nhuộm phơi la liệt trên cỏ, Kojiro ngỏ lời hỏi.
- Vườn rộng, lão phu cho nhà hàng xóm làm nghề thợ nhuộm thuê phơi vải. Nếu đại hiệp nhận lời, để bảo họ dẹp đi.
- Bất tất ...Tôn ông dựng võ đường làm gì ! Vườn này khá kín đáo không trông ra đường, chỉ cần khai quang một khoảng đổ cát lên là được. Chẳng ai làm rộn.
- Nhưng nếu trời mưa ?
- Trời mưa tại hạ không đến. Và cũng báo để tôn ông rõ, những buổi tập luyện sẽ nguy hiểm lắm đấy, không như ở các võ đường khác đâu. Tôn ông cần cảnh cáo gia nhân, nếu họ không chú ý sẽ bị tàn phế cả đời hay có khi mất mạng nữa.
- Được rồi ! Họ phải hiểu chuyện đó. Đại hiệp cứ giảng dạy theo ý muốn.
Các buổi luyện tập được ấn định mỗi tháng ba lần vào những ngày mồng ba, mười ba và hăm ba nếu trời không mưa, lương bổng tùy số lần luyện tập nhưng không dưới hai ngàn gia. lúa mỗi năm và các phí tổn linh tinh trong khi giảng dạy chủ nhân phải đài thọ.
Sân luyện võ vừa hoàn tất, Kojiro đã khai giảng ngay và mới hôm đầu tiên đã không nương tay với các võ sinh dù họ thiếu kinh nghiệm. Đến hôm thứ ba thì đã có một người gãy cẳng và bồn năm kẻ bị thương nhẹ.
Đứng giữa sân, lăm lăm cây kiếm tre, Kojiro lớn tiếng cảnh cáo:
- Ta đã bảo phải cẩn thận chú ý đề phòng ! Nào ai muốn tập nữa ? Muốn thì vào đây, nếu không ta đi về, khỏi mất thì giờ vô ích.
Trong số võ sinh đứng ngoài lố nhố bên gốc phong lớn, một thiếu niên bước ra nói:
- Vãn sinh ! Xin đại hiệp nương tay cho !
Và cúi xuống nhặt thanh kiếm gỗ.
Một tiếng “chát”. Thanh trúc kiếm của Kojiro đã giáng vào lưng. Thiếu niên ngã sấp, nằm bất động trên nền cát ẩm, chưa kịp giơ kiếm lên đỡ.
Mọi người xúm đến khiêng thiếu niên võ sinh đặt dưới tàn cây, lấy nước vẩy lên mặt. Nhưng gã không tỉnh, mặt nhợt nhạt, lát sau mắt lạc thần, không thở nữa.
- Các ngươi trông gương đó ! Lúc nào cũng phải cẩn trọng không được sơ hở. Để đối thủ khai thác nhược điểm của mình là điều tối kỵ trong khi giao đấu !
Bầu không khí nặng nề khó thở. Võ sinh đưa mắt nhìn nhau, có người cau mặt giận dữ, có người nhẫn nhục chịu đựng, nhưng ai cũng tỏ vẻ bi thương. Duy Kojiro không hỏi han và cũng không hề để mắt nhìn đến cái xác không hồn của thiếu niên võ sinh nằm dưới tàng cây phong lớn.
- Nếu cái chết làm các ngươi sợ hãi thì tốt hơn hết nên từ bỏ kiếm thuật. Tinh thần còn quan trọng hơn kiếm thuật. Sự luyện tập là cần nhưng biết khép mình vào kỷ luật để chế ngự xúc động và giữ cho mình cái dũng khí cần thiết khi lâm trận, đó mới là điều cốt yếu. Nào ! Ai là kẻ tự cho mình còn giữ được cái dũng khí ấy thì vào đây !
Không ai lên tiếng và cũng không ai động đậy gì.
Thình lình một võ sinh trung niên cao lớn đứng phía sau Kojiro nhảy vọt tới với ý định tập hậu hắn. Nghe tiếng gió, Kojiro cúi rạp mình. Bị mất đà, trung niên võ sinh ngã lộn ra phía trước và thanh trúc kiếm của Kojiro cũng vừa bổ xuống trúng hông gã. Tiếng thét đau đớn vang lên. May gã chỉ bị gẫy xương chứ không đến nỗi nguy đến tính mệnh.
Kojiro vứt kiếm xuống sân, tháo bao tay, nói:
- Thôi ngưng ! Hôm nay như thế tạm đủ.
Đoạn ra giếng múc nước rửa mặt.
Xác gã thiếu niên võ sinh được khiêng vào hậu sảnh và người ta lo chữa trị cho những kẻ bị thương. Gia nhân đổ đi tìm Yajibei, kháo với nhau khe khẽ:
- Có lẽ phải nói với chủ nhân ngưng tập thôi. Nguy hiểm quá !
oo Về đến nhà, Yajibei hốt hoảng đến ngay hậu sảnh thăm gia nhân bị thương và cử người lo việc mai táng cho gã thiếu niên bạc phúc.
Ra nhà ngoài, thấy Kojiro ung dung ngồi uống trà bên chiếc kỷ thấp, đột nhiên hình ảnh gã kiếm sĩ vung gươm kết kiễu đời kẻ thua trận không đủ sức tự vệ trên bờ sông Sumida tháng trước hiện lên trong trí ông khiến ông nửa bất mãn, nửa phẫn nộ.
Một người, dù có tài năng đến mấy đi nữa mà thờ ơ như thế trước cái chết và sự đau khổ của đồng loại do chính mình gây ra thì người ấy cũng không đáng để ông ngưỡng mộ.
Thấy ông vào, Kojiro điềm nhiên quay lại hỏi:
- Nghe nói Edo có xóm yên hoa mới lập, chủ nhân chắc biết rõ, sao không cho tại hạ đến thăm ?
Muốn uống rượu hay hưởng lạc, Kojiro thường vẫn có thói đòi hỏi như thế, chẳng biết vì dụng ý trơ trẽn hay chỉ vì tuổi thiếu niên thiếu tế nhị. Yajibei khôn khéo đáp:
- Thế ra đại hiệp chưa đến đó bao giờ ư ? Tối nay lão phu phải ở nhà trông coi gia nhân lo việc tang chứ không thì cũng đến đó với đại hiệp.
Nói đoạn gọi hai tên bộc thân tín là Juro và Koroku đến đưa cho một số tiền và căn dặn:
- Các ngươi đến đó không phải để ăn chơi mà để đại hiệp sai bảo. Đừng để đại hiệp mất vui. Nhớ lời ta dặn.
Cả ba theo đường mới đắp qua bãi đậu thuyền Kyobashi, đến gần xóm yên hoa thì trời đã chạng vạng. Ban đêm ở Edo bấy giờ phần lớn chưa có đèn. Những đêm không trăng như đêm nay, trời tối như mực, ba thầy trò Kojiro bước khấp khểnh khó khăn. Đường gồ ghề, nhiều đoạn đá, cát chất thành đống ngổn ngang, đường chính không đi, đi xuống ruộng.
- Chà ! Đường xá gì mà tồi tệ quá. Đáng lẽ ta phải mang đèn.
Juro cười:
- Đi chơi mang đèn để tổ người ta cười cho. Ấy ! Cẩn thận, có đống đất mới đào, đại hiệp tránh sang bên kẻo sa xuống hố !
Cả ba cùng nói cười vui vẻ, quên hẳn chuyện bị thảm ban chiều. Đến một cái cầu gỗ bắc ngang qua một con lạch nước đục ngầu phản chiếu màu trời đỏ quạch, Koroku bảo Kojiro:
- Xóm yên hoa ở bên kia cầu này. Đây là đường tắt, chứ đường chính xa hơn và đông người qua lại. Đại hiệp có cần khăn vải không ?
- Để làm gì ?
- Để che mặt đi một chút. Như thế này ...
Hắn vừa nói vừa lấy khăn trong bọc ra choàng lên đầu.
Kojiro cũng bắt chước, dùng một tấm khăn lụa màu lá úa bịt tóc.
Koroku nhìn rồi nói:
- Được lắm ! Bảnh quá rồi !
Juro cũng phụ họa:
- Màu khăn thật khéo chọn !
Đến xóm yên hoa, nhà nào nhà nấy đều đã lên đèn. Tuy không được như xóm Liễu ở Kyoto, nhưng cái không khí ăn chơi rộn rịp không kém. Trước cửa thanh lâu phần nhiều có treo rèm lụa màu hoàng yến hoặc nghệ non. Có nhà buộc dây đeo lục lạc hoặc khánh sành dưới chân cửa để báo hiệu cho con em biết mỗi khi có khách đến.
Kojiro cùng hai gia nhân đi lẫn lộn trong đám khách tìm hoa, người nào trên đầu cũng buộc một vuông khăn như một ước lệ. Họ vào nhà này, nhà kia, ngắm nghía một lúc rồi lại đi ra, dường như chưa vừa ý.
- Thôi, đại hiệp khỏi cần giấu diếm nữa. Juro nói.
- Giấu diếm cái gì ?
- Đại hiệp bảo chưa tới khu này bao giờ, sao vừa đến nhà đằng kia đã có người nhận ra ngay ?
- Ai ? Ta đâu có biết !
- Một cô em nấp sau tấm bình phong, thấy đại hiệp đến, kêu lên rồi bỏ chạy.
Kojiro mỉm cười:
- Họ lầm đấy. Ta quả chưa đến nơi này bao giờ.
Nhưng lát sau nghĩ thế nào, hắn lại bảo hai tên theo hầu:
- Hay là trở lại nhà đó, xem cô bé ấy là ai.
- Tùy đại hiệp.
Cả ba trở lại ngôi thanh lâu đầu tiên, trước cửa treo hai chữ Ogiya. Căn nhà mới cất được một phần, kiến trúc dự trù có vẻ quy mô, hàng cột vài mái thấp rập theo lối kiến trúc các đền miếu cổ thành Kyoto, nhưng nhìn kỹ có một vẻ tạm bợ và thiếu phong cách chững chạc. Kojiro đoán chừng dưới sàn gỗ có lẽ vẫn còn là bãi lầy với cỏ hoang và ếch nhái. Căn đại sảnh dùng làm phòng ăn chưa kịp dọn dẹp, bừa bãi khay rượu, khăn lau tay và những cánh hoa nhàu nát.
Juro vỗ tay ba lượt, đợi lúc lâu mới thấy một mụ trung niên ra đón vào, mời ngồi bên chiếc bàn thấp ở góc phòng. Trên bàn, độc nhất chiếc lọ sứ nhỏ cắm một bông cúc long trảo đã héo.
- Chỗ này mà gọi là Ogiya sao ? Kojiro hỏi, nửa bông đùa nửa chỉ trích.
- Xin quý khách lượng thứ. Quán mới cất, chưa được như ý. Xếp đặt phòng ốc và bài trí chưa đâu vào với đâu. Chừng nào xong, quý khách sẽ thấy quán chúng tôi chẳng kém gì nhà hàng chính Ogiya ở Kyoto khi trước.
- Ồ ! Thế ra đây là hậu thân của Ogiya quán ở Kyoto đấy ?
- Cũng không hẳn thế. Đây chỉ là một chi nhánh mới mở.
Nhìn Kojiro một lát, mụ rụt rè hỏi:
- Qúy khách tha lỗi, hình như năm trước chúng tôi có gặp quý khách trên đường Koshu thì phải ?
Kojiro quên lần gặp gỡ ấy nhưng vội nắm ngay lấy cơ hội để làm quen:
- Phải rồi ! Thế là ta cũng có duyên với quán này lắm.
Mọi người cười vui vẻ, không còn nhớ gì đến lời chê bai của hắn lúc trước.
- Dĩ nhiên đại hiệp có duyên với quán này rồi. Juro tiếp. Có nàng vẫn không quên đại hiệp mà !
Rồi gã tả qua dung mạo và y phục người thiếu nữ nhìn thấy sau bức bình phong cho mụ tài phán nghe. Mụ gật đầu:
- Tiện phụ biết. Tưởng ai chứ nàng đó thì đúng ở đây rồi. Xin để gọi ra bồi tiếp.
Nhưng đợi mãi không thấy ai ra, Koroku nóng ruột lại vỗ tay gọi.
- Khách quan vui lòng thư cho một chút. Chủ nhân đang cho người đi tìm. Không hiểu nàng đi đâu mà tìm mãi không thấy.
- Nàng tên gì ?
- Hanagiri.
Hanagiri là tên mới của Akemi. Sau cái đêm bị kẻ lạ mặt bắt đi và cưỡng bức ở ven sông trấn Hà Châu, tỉnh dậy, Akemi không còn cách nào khác là theo đoàn kỹ nữ đến Edo và xin nhập bọn vậy. Nàng mang tên mới do Jinnai đặt cho từ đó.
Thấm thoắt thế mà đã gần hai năm. Kiếp bèo giạt tưởng tạm yên, ai ngờ định mệnh lại đưa đẩy gã này đến với nàng lần nữa. Akemi sợ và ghét Kojiro. Cũng như Seijuro và tên cường đồ đã cưỡng bức nàng, Akemi thấy người đàn ông nào cũng ích kỷ, tàn bạo và đáng ghê tởm, ngoại trừ một người ... Người đó, chao ôi ! nghĩ đến chỉ khiến nàng tủi thân muốn khóc. Sự sợ hãi thúc đẩy Akemi tìm cách tránh mặt ba người khách. Nàng nép mình trốn trong đống gỗ vụn và dăm bào của căn lều đang dựng ở sân sau. Ngoài kia tiếng gọi “Hanagiri” vang đến tai nàng lẫn với tiếng ồn ào của khách chơi đêm, tiếng sênh phách và những tiếng rao hàng lanh lảnh.
Mỗi tiếng gọi lại như làm tăng thêm nỗi lo sợ của Akemi khiến nàng cố thu mình nhỏ lại hơn trong bóng tối như con chuột trong lỗ sâu. Nàng ngồi như thế lâu lắm, lắng nghe động tĩnh. Cho đến khi không còn tiếng réo gọi nữa và đồ chừng khách đã đi khỏi, Akemi mới bò ra, len lén xuống bếp. Thấy nàng, mụ đầu bếp ngạc nhiên:
- Hanagiri ! Đi đâu về thế ? Bao nhiêu người tìm, cả chủ nhân cũng ...
- Khe khẽ chứ ! Chủ nhân đâu ?
- Ông lên nhà khách rồi.
- Cho ta chén rượu.
- Rượu bây giờ ư ?
- Ừ, nhanh lên !
Với hũ rượu trên kệ, mụ rót một chén rượu đưa Akemi. Nàng ngửa cổ uống một hơi cạn, lấy vạt áo chùi mép đoạn chạy ra cửa.
- Đi đâu đấy ?
- Ta ra giếng sau rửa chân.
- Nhớ lên trình chủ nhân, nghe !
Nhưng Akemi không lên đại sảnh gặp Jinnai. Nàng vòng qua bếp mở cổng sau ra đường. Gió đêm thổi lành lạnh. Chút rượu vừa uống khiến nàng chếnh choáng say. Nhìn mấy khung cửa giấy sáng, trên đó hiện lên hình một hai kỹ nữ với khách làng chơi ngồi kề vai nhau, Akemi nhổ nước bọt rồi cắm cúi đi thật nhanh về phía trước.
Một cái hố, nước mưa đọng lưng chừng, phản chiếu nền trời sao lấp lánh. Akemi dừng lại ngắm, rồi nghĩ thế nào, nhìn lên trời tìm ngôi sao lớn nhất, nàng thì thầm một lời ước.
Đằng xa về phía sau, bóng đèn lồng thấp thoáng. Gió thoảng đưa tiếng chân người và tiếng gọi “Hanagiri” đến tai Akemi.
Nàng tức giận rủa thầm:
- Đồ súc vật ! Chúng không để người con gái đau khổ này yên thân được lúc nào chăng ? Nước mắt và mồ hôi của ta trong bấy lâu không đủ để chúng mua thêm được cái cột hay cây kèo nào sao ?Đừng hòng bắt ta trở về nữa !
Akemi rẽ theo đường mòn xuống ruộng. Trong bóng tối, nàng rảo bước đi nhanh, hy vọng chóng ra khỏi chỗ này càng sớm càng tốt.
Trên đầu nàng, vướng trong tóc, một mảnh vỏ bào cũng theo nhịp chân nàng bước mà nhún nhảy như múa.
oo Khi cả ba dời khỏi trà thất thì Kojiro đã say chếnh choáng, phải vịn tay vào vai Juro mới đi được.
Phố xá vắng teo. Về đến gần bờ lạch, trời tối om nhất là qua những quãng đường có tàng cây rậm rạp. Đêm không trăng, dưới ánh sao lờ mờ khi ẩn khi hiện, cả ba bước thấp bước cao, không phân biệt được chỗ nào là đường chỗ nào là vệ cỏ nữa Juro bực dọc nói bâng quơ:
- Đã bảo ngủ lại, mai về có phải hơn không !
Koroku cũng phụ họa:
- Phải rồi. Sao đại hiệp không ngủ lại ?
- Ngủ ở đâu ? Kojiro lè nhè. Ở cái trà thất hôi hám đó à ? Không đời nào !
Thà trở lại quán Ogiya còn hơn.
- Không nên ...
- Sao lại không nên ?
- Nàng đó tuy biết đại hiệp song lại cố ý lánh mặt. Như thế thì còn thú vị nỗi gì ?
Kojiro đập tay vào vai Juro:
- Phải ! Phải ! Ngươi nói phải lắm !
- Đại hiệp muốn cùng vui với nàng không ?
- Không.
- Nhưng vẫn nhớ nàng phải không ?
- Trong đời, ta chưa bao giờ nhớ ai cả. Ta không phải hạng người dễ say mê đàn bà. Ta có nhiều việc khác phải làm !
- Việc gì ?
- Tiền tài ! Danh vọng ! Lòng ngưỡng mộ của người đời ! Ta muốn ...
- Ấy cẩn thận ! Đống đá trước mặt !
Kojiro tránh sang bên. Đột nhiên, hắn gạt tay Juro và Koroku rồi quát lớn:
- Ai ?
Một bóng đen nhào tới, mũi kiếm phóng thẳng vào bụng Kojiro cùng với tiếng thét:
- Coi đây !
Tình hình khẩn cấp khiến Kojiro tỉnh hẳn rượu. Hắn nghiêng mình tránh mũi kiếm sát thủ, rồi nhảy lên tảng đá đảo mắt nhìn. Quanh hắn, hàng chục bóng đen khác lố nhố từ các lùm cây ven lộ xông ra - Súc sinh ! Mày giết bạn đồng môn của ta, mày phải chết.
Kojiro cười gằn, với tay ra sau lưng rút “cây sào phơi” nhanh như một lằn chớp.

Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Hai T2 26, 2007 12:19 am
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ

CHƯƠNG 63

ĐĨA CÁ NƯỚNG









Bỏ ý định đi Mutsu gặp Date Masamune, Musashi phiêu bạc khắp miền trung nước Nhật gần hai năm. Cuộc sống khổ hạnh, bất trắc đã tôi luyện chí khí hắn, cho hắn nhiều dịp giúp đỡ đồng loại và những kinh nghiệm quý báu về kiếm thuật. Say mê nếp sống hải hồ, phóng dật, Musashi không để ý đến bề ngoài. Quần áo lôi thôi lếch thếch, râu ria lởm chởm, hắn mặc kệ, đói thì đào củ, hái trái cây rừng mà ăn, lạnh thì hiên chùa, cùng lắm bụi cây, hốc đá chố nào cũng là chỗ trú.
Sau khi thoát hiểm trên đồi Hòa Đa, hắn đến Edo lưu lại vài ngày rồi lại hướng về phía Thiên Đài mà đi. Hắn không muốn sự ràng buộc nào nên đã quyết định không lên phương bắc phục thị nhà Date nữa. Số tiền Ishimoda Geki tặng chưa trả được, Musashi vẫn còn áy náy.
Cuộc sống phiêu bồng đưa đẩy hắn đến bình nguyên Hotengahara, nơi đây năm trăm năm trước, Nasakado đã khởi loạn. Bình nguyên này cho đến ngày nay vẫn thế :
một vùng hoang vu đầy lau thưa với cỏ dại. Đây đó, vài gốc sồi ngả nghiêng bên những thân cây mục nát đổ dài trên đất sỏi như xác những kẻ chiến bại bị đốn ngã từ nhiều thế kỷ trước.
Mặt trời xế về tây. Ráng chiều nhuộm hồng mặt nước đầm cỏ lác gần đó khiến bóng những ngọn cói đen, cao, rõ rệt như cắt trên nền nước sáng.
Nhìn quanh không hy vọng gì có chỗ trú ngụ qua đêm, Musashi ngồi nghỉ chân bên một gốc cây mục. Hắn cảm thấy mệt mỏi. Sau trận bão vừa qua trên đồi Tochigi, khí trời ẩm thấp lùa vào lần áo trong làm hắn rùng mình ớn lạnh. Đã mấy hôm nay chỉ ăn hạt giẻ với rễ cây, hắn ao ước một bếp lửa ấm, một bát cháo nóng hay một thứ gì ăn cho chắc bụng.
Cơn gió thoảng mang đến vị mằn mặn của muối. Tiếng ếch kêu lúc xa lúc gần.
Musashi đoán chừng sắp hết bình nguyên. Cứ đi nữa chắc sẽ ra bờ biển, có thể gặp xóm chài nào đó xin tá túc. Nếu không lại phải ngủ qua một đêm ngoài trời nữa.
Những lúc khác, có lẽ Musashi đã tận hưởng cái thú được một mình trong cảnh tịch mịch như thế này. Nhưng sau nhiều ngày thiếu thốn, hắn chỉ thấy một cảm giác đau thương đến buốt nhói trong lòng và muốn xua đuổi cái cảm giác ấy đi. Trớ trêu thay, tiếng muỗi vo ve cùng những tiếng côn trùng ri rỉ xung quanh lại như đồng lòng lôi kéo, bao vây hắn trong niềm cô quạnh mà hắn không sao dứt ra được.
Musashi đứng lên men theo con lạch nhỏ. Đến bờ đầm, bỗng nghe bì bõm trong đám cỏ lác, rõ là tiếng chân người hoặc tiếng rái cá bắt mồi. Đầm này sâu, mặt nước cao, chắc rái cá tụ vào đây không phải là ít ! Trong bóng tối chập choạng, hắn mở to mắt nhìn. Quả có bóng người đang lúi húi. Trông kỹ thì ra một đứa trẻ.
Thấy động, thằng bé ngẩng lên. Nó cũng chẳng khác gì con rái cá, quần áo đầy bùn đất nhưng hai mắt long lanh, đen, tròn nhìn Musashi dò xét.
Mừng được gặp đồng chủng, Musashi cười vui vẻ:
- Chú bé làm gì đó ?
- Bắt cá !
Thằng bé đáp gọn lỏn, đồng thời giơ cho hắn xem chiếc rổ tre đựng chừng chục con cá to bằng ba ngón tay, vẩy trắng bạc đang quẫy lẫn trong những cọng rong và lá cỏ phủ trên mặt.
- Nhiều cá nhỉ !
Thằng bé lắc đầu:
- Cũng chẳng nhiều. Bắt từ trưa đến giờ mới được chừng ấy. Mùa thu rồi, cá trốn xuống bùn hết.
- Bán cho ta được không ?
- Bán chỗ cá này ấy à ?
- Ừ, cho ta mua, ta sẽ trả tiền.
- Không được. Cá này tôi bắt về cho cha tôi.
Dứt lời nó ôm rổ cá nhảy lên bờ. Một loáng đã mất dạng trong đám cỏ tranh cao bằng đầu người, không để lại dấu vết.
- Thằng này nhanh nhẹn quá !
Musashi bất giác hồi tưởng lại những kỷ niệm cũ thuở thiếu thời và nghĩ đến Jotaro, đứa học trò nhỏ bây giờ chẳng biết trôi giạt nơi đâu. Lần cuối gặp Jotaro ở trấn Kiso, gần biên giới tỉnh, bấy giờ nó mới mười lăm. “Nay chắc đã lớn, gần mười bảy tuổi rồi còn gì ! Tội nghiệp ! Nó gọi mình là sư phụ, tôn kính phục thị mình mà mình đã làm được gì cho nó đâu !”.
Nhớ đến những lúc đi với Jotaro và Otsu, hắn phiền muộn khôn cùng, tự trách mình đã không làm tròn bổn phận bảo vệ hai người trong cơn hoạn nạn. Trăng lên từ bao giờ hắn không biết. Mãi khi nhìn thấy bóng mình kéo dài trên nền cỏ ướt sương, hắn mới sực tỉnh. Vầng trăng đầy, tròn vành vạnh tỏa ánh sáng lung linh lên cánh đồng mênh mông càng làm tăng nỗi hiu quạnh trong lòng hắn. Nhớ lại những đêm trăng sáng như đêm nay, Otsu thường mang sáo ra thổi. Qua nhạc dế nỉ non, Musashi nghe văng vẳng tiếng sáo của Otsu xen lẫn với những tiếng cười trong như thủy tinh của nàng và Jotaro. Musashi lẳng lặng đi như kẻ mộng du. Vầng trăng chênh chếch ngang vai, biểu tượng mối tình son sắt của nàng, theo hắn từng bước, trung thành và im lặng.
Đi như thế chẳng biết bao lâu, bỗng xa xa thấy thấp thoáng có ánh đèn. Mừng được chỗ nghỉ chân và biết đâu chẳng có cái gì ăn lót dạ, Musashi rảo bước về phía ấy.
Nhưng đến nơi, căn lều gỗ trơ trọi đen ngòm sau rặng lau cao khiến hắn e ngại.
Cửa đã đóng kín. Một tiếng ngựa hí vang. Hắn giật mình nắm đốc kiếm.
- Ai đó ?
Hắn nhận ngay ra giọng thằng bé bắt cá hồi chiều.
- Ta là khách lỡ đường, muốn ngủ nhờ một đêm, sáng mai đi sớm.
Tấm ván cũ dùng làm cửa được kéo sang bên, đứa trẻ thò đầu ra dò xét.
- À ! Ông khách !
Đoạn bước hẳn ra ngoài, nhìn Musashi một lúc, nó nói:
- Được, mời ông vào.
Căn lều đổ nát quá đỗi. Mái tranh nhiều lỗ hổng, ánh trăng xuyên qua vẽ lên vách lá những vệt sáng tròn loang lổ. Cuối lều sát với một căn phòng, tạm gọi là phòng vì được ngăn ra bằng mấy tấm ván cũ, là một chỗ lõm xuống dùng làm bếp. Trong bếp than, sậy đã tàn nhưng mùi khét của những thân sậy chưa cháy hết vẫn còn phảng phất.
Đứa bé khêu to ngọn đèn dầu thông đặt trên bệ đất, mời Musashi ngồi vào chiếc chiếu độc nhất trải trên nền nhà rồi quỳ xuống trước mặt hắn, trang trọng nói:
- Xin tha lỗi, nhà nghèo không có gì đãi khách. Lúc nãy ở ngoài đầm, ông ngỏ ý muốn ăn cá, bây giờ còn ý muốn ấy không ?
Trong căn lều nát, dáng trịnh trọng của thằng bé khiến Musashi ngạc nhiên. Hắn không nói mà chỉ nhìn nó chăm chú. Thấy khách nhìn, thằng bé cũng nhìn lại, chờ câu trả lời.
- Ngươi bao nhiêu tuổi ?
- Mười hai.
Đứa trẻ đáp buông sõng. Nhìn khuôn mặt nó, Musashi phân vân vì nó hao hao giống một khuôn mặt nào đó hắn không nhớ. Tuy thằng bé nhem nhuốc đen đủi như củ sen vừa móc dưới bùn lên, nhưng khuôn mặt ấy có nhiều nét thanh tú. Đặc biệt là đôi mắt sắc sảo vô cùng, vừa thông minh vừa cương nghị khiến hắn có cảm tình ngay.
Không thấy khách nói gì, đứa trẻ lại tiếp:
- Trong nhà cũng còn cháo kê nấu đậu. Cá nướng phần cha tôi rồi, ông có thể dùng chỗ còn lại.
Musashi mỉm cười nghe câu nói thật thà ấy. Hắn gật:
- Tốt lắm. Vậy mang ra đây cho ta.
- Ông dùng trà không ?
- Nếu có trà thì còn gì bằng !
- Vậy ông chờ đấy.
Musashi nghe tiếng đứa nhỏ bẻ những thân sậy ở phòng trong rồi tiếng thổi lửa phù phù. Chắc nó đang đun nước.
Qua khe vách, khói cuồn cuồn tuôn ra, xua hàng đàn muỗi với bọ mát bay tứ tung khắp chỗ.
Lát sau thằng bé bưng ra một cái khay gỗ trên bày lộn xộn những thứ thực phẩm vừa kể, kèm theo một ấm trà, đôi đũa và cái bát sành, để tất cả lên chiếu trước mặt khách.
Đang đói bụng, Musashi không nề hà, ăn một loáng đã hết cả món cá nướng và bát kê nấu đậu. Hắn chép miệng ra vẻ còn thòm thèm, gật đầu cám ơn thằng bé.
- Ngon lắm ! Cho ta gửi lời cảm ơn chủ nhà nữa. Chủ nhà đâu ? Chắc ngủ rồi !
Đứa trẻ cười hì hì, lấy tay chỉ vào mũi mình:
- Chủ nhà đây !
Musashi trố mắt:
- Ngươi là chủ nhà ?
Đứa trẻ gật. Yên lặng ngượng nghịu một lát, Musashi lại hỏi:
- Ngươi ở một mình thì làm gì mà sống ?
- Bắt cá, trồng rau, cho thuê ngựa. Con ngựa buộc đằng trước ông thấy đó. Tôi cho thuê và làm nài giữ ngựa luôn.
Thằng bé vừa nói vừa thu xếp khay mang vào.
- Khuya rồi, ông đi nghỉ thôi ! Nằm ngay trên chiếu ấy. Nhà chỉ có thế !
Musashi cảm ơn, cởi áo ngoài ra làm gối, dựa song kiếm vào vách cạnh túi hành trang rồi nằm nghỉ. Giấc ngủ đến chập chờn. Qua tiếng muỗi vo ve, hắn nghe đâu đây tiếng mưa rơi trên mái tranh và tiếng rin rít của sắt đá cọ vào nhau. Tỉnh dậy, mồ hôi toát ra như tắm ướt cả lần áo lót.
Bên ngoài, ánh trăng vẫn vằng vặc. Từ hiên vọng vào nhiều tiếng xoèn xoẹt, dường như có người đang mài dao trên đá. Một con dao hay một lưỡi kiếm ? Musashi nhẹ nhàng ngồi dậy, đưa tay với thanh trường kiếm kéo lại gần mình. Tiếng mài dao dừng lại, tiếp theo giọng đứa trẻ hỏi:
- Ông tỉnh rồi à ?
Hắn cau mày. “Sao nó biết mình đã tỉnh ?” và hết sức ngạc nhiên về sự linh mẫn của thằng bé.
Ghé mắt qua khe vách, hắn thấy thằng bé bắt cá đang ngồi mài một lưỡi dao, loại dao dùng để phát cỏ của nhà nông, dài đến hơn thước. Bên cạnh nó là cái hũ sành đựng nước.
- Ban đêm mài dao làm gì vậy ?
- Ông sợ hả ?
Câu hỏi như nhát kiếm đâm vào tâm thức Musashi. Hắn yên lặng, tự hỏi hay thằng bé này là một con rái cá thành tinh ở dưới đầm hiện lên trêu chọc hắn. Ở những chốn đầm lầy, thiếu gì chuyện chồn, cáo, rái cá sống lâu năm thành tinh có thể đọc được những ý tưởng thầm kín của người ta rồi đội lốt người, hiện lên quấy phá.
Musashi đứng dậy bước ra hiên đến bên thằng bé:
- Ngươi mài dao làm gì thế ? Hắn hỏi lại.
Đứa trẻ chùi lưỡi dao và quần rồi giơ lên cao. Lưỡi dao loáng dưới ánh trăng. Nó đưa hai ngón tay sờ thử xem sắc hay nhụt, đoạn nói:
- Ông nghĩ dao này chặt người làm đôi được không ?
Musashi cau mặt:
- Còn tùy ...
Thằng bé ngẩng nhìn Musashi ra ý hỏi.
- Còn tùy cách sử dụng. Ngươi biết cách dùng nó không ?
- Biết chứ !
- Định chặt ai thế ?
- Cha tôi !
Câu trả lời khiến Musashi giật mình sửng sốt. Từ khi bước vào lều, hắn không ngờ đứa trẻ lại có ý tưởng ghê gớm đến thế !
- Chặt cha ngươi ra làm đôi ? Ngươi nói đùa không đấy ?
- Thật mà !
Musashi phẫn nộ kêu lớn:
- Ngươi có ý định giết cha ? Ngươi có biết thế là vô luân hay không ? Đến lang sói ở đồng hoang này cũng không thế !
- Tôi đâu có giết. Tôi chỉ cắt đôi ra thôi mà ...
- Thằng này điên rồi !
Musashi nhảy lại định giật con dao. Nhưng thằng bé kêu lên:
- Không ! Không ! Nếu không chặt ra thì làm sao tôi mang đi chôn được !
Musashi khựng lại:
- Thế cha ngươi chết rồi à ?
- Phải. Chết rồi ! Lúc sáng.
Musashi thở phào tựa người vừa trút được một gánh nặng. Nhìn ra xa, đồng cỏ hun hút dưới ánh trăng mơ hồ như trong truyện liêu trai. Hắn lắc đầu, không ngờ cuộc đời lại có những chuyện bi hài đến thế được !
- Thi thể để đâu ?
- Ở phòng trong, ông vào mà coi !
Musashi theo thằng bé vào phòng. Nó mang theo cái đèn đã khêu to ngọn đặt lên chiếu. Trên chiếu, xác một ông già mặt kimono mới, nằm ngay ngắn, tay để lên ngực, mái tóc bạc phơ cuốn gọn gàng trong chiếc mũ vải nông dân. Đầu chiếu, trên một cái kệ thấp bày bát cơm, bát nước và một đĩa gỗ đựng mấy con cá nướng, một cái lọ nhỏ cắm vài bông hoa dại còn tươi.
Trông đĩa cá, nhớ đến lúc hắn đòi mua những thứ ấy của thằng bé mang về làm lễ cúng cha, Musashi cảm thấy bẽ bàng. Nghĩ rằng hắn cũng đã chia sẻ một phần những lễ vật kia, Musashi chắp tay cúi đầu kính cẩn trước thi hài chủ nhân để tỏ lòng cám ơn và từ biệt.
Thằng bé mắt đỏ hoe. Nó không khóc, chỉ bậm môi. Musashi khen cho lòng can đảm ấy và liên tưởng đến hành động thực tế của nó, mài dao định cắt thi thể cha ra để mang đi chôn cho dễ, hắn không biết phải nghĩ thế nào. Trong những tâm hồn hoang dã, ý niệm về luân lý có khác với ý niệm của mọi người. Một hành động khác thường trong một cảnh huống khác thường, âu đành coi như vậy !
- Ngươi định chôn cha ngươi ở đâu ?
- Trên đồi. Chỗ ấy cao, không ngập nước.
- Không mướn được ai khiêng xác hay sao ?
- Không có tiền.
- Ta tặng một số tiền làm ma.
Đứa trẻ lắc đầu:
- Cha tôi không muốn thế. Ông không nhận tiền tặng của ai bao giờ, mà cũng không muốn lễ lạc gì ở chùa nên không cần tiền.
Xem thái độ của thằng bé và nghe những lời nó nói thì gia đình này chắc không phải gia đình nông dân và có một quá khứ muốn giấu. Tôn trọng ý muốn ấy, Musashi đề nghị giúp đứa nhỏ trong việc chôn cất.
Hôm sau, mới hửng sáng, thi thể ông lão đã được bó chặt lên lưng ngựa chở đi, đứa bé dẫn đường và Musashi theo sau.
Đồng hoang khá rộng, nhiều chỗ lầy lội chỉ mọc toàn một thứ cỏ lác. Gặp những chỗ như thế, ngựa chở nặng không qua được, Musashi phải vác thi thể ông lão lên vai, lựa chỗ đất rắn hoặc bước lên thân cây đổ mà đi. Xế trưa mới tới bãi tha ma trên một quả đồi trong một khu rừng thưa. Rải rác đây đó vài ngôi mộ, có ngôi chỉ còn là những nấm đất thấp lè tè, cỏ đã vàng cháy.
Tìm đến chỗ mấy ngôi mộ cũ có dựng bia, đứa bé ngỏ ý muốn an táng cha ở đấy.
Hai người hì hục đào huyệt xong, đặt thi thể ông lão xuống và lấp đất. Đứa bé cắm những bông hoa dại lên mồ rồi chắp tay cung kính vái. Nó nói:
- Ông bà và mẹ tôi chết đều chôn ở đây cả. Những mộ này là mộ các vị ấy.
- Sao không có danh tính gì khắc trên bia mộ ?
- Ông tôi không cho ! Cha tôi dựng những tấm bia đá này để đánh dấu. Theo lời kể lại thì lúc còn sống, ông tôi được nhiều nhà quyền quý đến thăm, mời giữ nhiều chức vụ.
Nhưng ông tôi không nhận, bảo rằng kiếm sĩ chỉ thờ một chủ. Nếu thất bại, không bảo vệ được chủ soái thì phải mai danh ẩn tích đi. Cho nên ông tôi về cày ruộng, không muốn lộ danh tính nữa.
- Ngươi biết tên tổ phụ ngươi là gì không ?
- Không. Cha tôi không cho biết.
- Cha ngươi tên gì ?
- Iori Misawa. Người ta thường gọi là Sanemon (ông San).
- Thế còn ngươi ?
- Tôi tên Sandou.
- Có anh chị em gì không ?
- Có. Có một người chị lớn nhưng không biết mặt vì khi tôi sinh ra thì chị tôi đã biệt tích rồi. Không biết giờ ở đâu !
- Bây giờ còn một mình, ngươi định làm gì ?
- Không biết nữa. Chắc vẫn bắt cá, trồng rau, chăn nuôi như trước.
Trên đường về, Musashi nhìn cảnh bình nguyên trải dài trước mặt. Hắn lấy làm lạ tuy ở đây không có cây to, nhưng đất đai chẳng phải không màu mỡ. Xem những bụi lau, bụi cói thì biết. Xanh biếc tốt tươi. Chỉ những chỗ nào xa bờ đầm thì cỏ mới úa vàng cằn cỗi. Vấn đề có lẽ là nước. Hoặc trời ít mưa hoặc không giữ được nước lâu.
Nếu biết chế ngự thiên nhiên, con người sẽ giàu mạnh. Không hiểu vì sao vùng bình nguyên này lại không được khai phá. Cư dân ở đây quá nghèo. Đất rộng dân thưa mà phải chịu cảnh cơ cực thì cũng lạ. Nhìn Sandou đi bên cạnh dắt ngựa, hắn tự nhủ:
“Như thằng bé này can đảm và tháo vát, nếu chưa khá được, chắc cũng vì còn nhỏ tuổi quá mà thôi !”.
- Sandou ! Ngươi muốn ở đây cả đời trồng rau, bắt cá không ?
Nó lắc đầu:
- Không !
- Ngươi ước muốn làm gì ?
- Làm kiếm sĩ. Tôi muốn được như cha tôi.
- Cha ngươi là nhà nông, đâu phải kiếm sĩ !
- Vừa là nhà nông, vừa là kiếm sĩ. Tôi vẫn thường xem ông luyện kiếm ở sau nhà.
Musashi không hỏi nữa, lẳng lặng đi bên Sandou. Những lời hắn dự đoán quả không sai. Hắn thấy thương thằng bé.
Lát sau, Sandou ngập ngừng hỏi:
- Ông khách ! Ông cũng là kiếm sĩ phải không ?
Musashi gật:
- Ngươi hỏi làm gì ?
- Cha tôi chết rồi, không còn ai thân. Ông cho tôi theo được không ?
Musashi không đáp, cứ lẳng lặng đi. Hắn đã đoán trước ý thằng bé nhưng phân vân quá. Jotaro là đồ đệ mà hắn cũng chưa làm được gì cho nó, lại không biết hiện giờ Jotaro ở đâu; nay nhận thêm Sandou nữa, trách nhiệm càng nặng, biết có chu toàn được không hay chỉ làm nó khổ ! Nhưng thấy thằng bé nhỏ tuổi mà can đảm, trong tình trạng tứ cố vô thân khẩn cầu mình, nếu không giúp, nó sẽ trông vào ai ? Nếu cứ sợ trách nhiệm thì không làm được gì. Cha mẹ sinh con, chưa chắc đã bảo đảm được đường đi của con mình ...Vả lại ai có thể khách quan để cả quyết được đường này đối với nó là tốt, đường kia đối với nó là xấu ? Sandou muốn trở thành kiếm sĩ ? Được ! Nếu ước vọng của nó chỉ có thế, ta có thể dẫn dắt nó và trong cảnh ngộ này, có lẽ ta chỉ làm được vậy thôi.
Mải suy nghĩ và bị giằng co bởi lòng thương người và trách nhiệm, Musashi vẫn chưa trả lời đứa bé.
- Nếu ông thuận, tôi sẽ dẫn ngựa và hầu hạ Ông. Ông chỉ phải dạy tôi cách đánh kiếm.
Musashi bật cười:
- Không phải chỉ có thế. Muốn trở thành kiếm sĩ, ngươi phải nhẫn nhục và chịu nhiều gian khổ.
Cho là Musashi không chịu thu mình làm đồ đệ, Sandou quỳ ngay xuống trước mặt hắn, khẩn khoản:
- Xin ông giúp tôi thành kiếm sĩ. Lúc còn sống, cha tôi vẫn ước mong như thế nhưng chẳng tìm được ai để nhờ cậy.
- Hừ ! Thôi đứng lên ! Trước khi quyết định, ngươi hãy cho ta biết ngươi có đủ ý chí và khả năng không đã !
Sandou mừng cuống quít:
- Dạ đủ ! Đủ !
- Khoan, để xem.
Rồi nhìn quanh, Musashi tìm được một cành cây gãy, nhặt đưa cho đứa bé:
- Cầm cành này đánh ta. Xem ngươi dùng gậy ra sao.
- Nếu đánh trúng, ông cho tôi theo chứ ?
- Cứ thử đi đã.
Sandou cầm cành cây múa tít xông vào. Musashi né tránh rồi luồn ra phía sau phát vào lưng nó khiến nó ngã sấp. Lồm cồm bò dậy, thằng bé lại nhảy tới dùng cành cây đâm vào bụng Musashi. Lần này nó chỉ đâm dứ. Cành cây chưa đến bụng, nó đã thu về phạt ngang chân địch thủ.
Thấy Sandou cũng biết biến chiêu và cách cầm côn của nó tuy vụng về nhưng không đến nỗi tệ, Musashi khen:
“Giỏi !”. Hắn đá cành cây bắn ra xa rồi thuận tay nắm thắt lưng thằng bé nhấc bổng lên. Sandou dãy dụa, tức giận mặt đỏ bừng nhưng không thốt một lời nào.
- Ngươi đã chịu chưa ? Có muốn học kiếm nữa không ?
- Vẫn muốn học.
- Để làm gì ?
- Để thắng địch thủ.
- Ngươi trong tay ta, thắng thế nào được !
- Ông khỏe và lớn hơn tôi nhưng tôi sẽ tập luyện để thắng.
Musashi cười ha hả:
- Ngươi nên nhớ trong khi ngươi tập thì ta cũng tập ...
- Nhưng ông nhiều tuổi hơn, ông già trước tôi. Tôi thắng ông được !
- Hừ ! Nếu ta vất ngươi xuống phiến đá kia cho ngươi dập xương mà chết, ngươi có sợ không ?
- Không sợ !
- Bướng thật !
Hắn ném Sandou xuống cỏ. Thằng bé đau nhưng vùng trở dậy nhặt cành cây xông vào nữa, lần này dáng quyết liệt.
- Thôi !
Musashi xua tay. Hắn nhìn Sandou lăm lăm cây gậy, cười mà bảo nó:
- Được rồi. Ta thu ngươi làm đồ đệ.
Về đến lều, trời tối mịt. Trên quãng đường còn lại, Sandou vui vẻ hết sức, nhất định mời Musashi ngồi lên lưng ngựa để nó dẫn đi. Cách xưng hô của nó với Musashi cũng đổi khác. Nó gọi Musashi là thầy và xưng con.
Tuy không được học hành nhưng Sandou tỏ ra lễ phép và cũng biết đôi chút đạo lý mà Musashi đồ chừng đã được cha nó dạy cho. Ngoài ra, về gia thế, nó không rõ gì hơn ngoài họ nó là Iori.
- Ông con trước khi chết đã đốt hết gia phả. Cha con lại không muốn tiết lộ lý lịch của tổ tiên nên đến đời con không còn biết gì nữa.
Musashi thở dài:
- Thật đáng tiếc ! Con là Sandou, nhưng đồng không phải là tên riêng mà chỉ có nghĩa là thằng San. Từ nay ta gọi con là Sannosuke, con có bằng lòng không ?
- Sannosuke là gì hả thầy ?
- Sannosuke là ngay thẳng. Ta muốn suốt đời con giữ cái chí khí ngay thẳng con vẫn có.
- Vậy con xin bái lĩnh.
Nói đoạn dập đầu xuống lạy tạ.
- Sannosuke ! Ngày mai chúng ta sẽ lên đường đi khỏi nơi đây. Đêm nay là đêm cuối cùng con sống dưới mái nhà này. Mười hai năm, chắc con có nhiều kỷ niệm. Hãy giữ những kỷ niệm ấy, đừng quên con thuộc dòng họ Iori.
Mắt Sannosuke mờ lệ.
- Thế con có được mang vật gì làm kỷ niệm trong nhà này không ?
- Được ! Con thích vật gì cứ mang, nhưng đừng cồng kềnh, cản trở bước đường phiêu lưu của con.
Sannosuke vào phòng trong, lấy cái đĩa gỗ đựng cá cúng cha cất vào bọc.




Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Hai T2 26, 2007 12:19 am
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ


CHƯƠNG 64

KHẨN HOANG











Tinh sương ngày hôm sau, hành trang của Sannosuke đã được gói gọn trong một cái đẫy vải. Nhưng nó bịn rịn mãi, hết đi ra lại đi vào, dường như không dứt ra khỏi được mấy luống hành và rau cải giồng trong vườn, lòng bâng khuâng nhớ tiếc. Musashi cũng đã dậy. Sannosuke nhóm lửa pha trà nóng bưng lên. Nhìn tiểu đồ gọn gàng trong bộ kimono mới màu chàm, chân đi dép cỏ, hắn chạnh lòng nhớ đến Jotaro. Trông Sannosuke như một con ếch nhỏ, gầy guộc. Thấy ánh mắt thằng bé thoáng vẻ lo âu, Musashi gọi nó đến gần:
- Sannosuke ! Bỏ nơi này đi, con có hối hận gì không ?
Nó khẽ lắc đầu:
- Không ! Con chỉ hơi buồn.
Nhưng vội tiếp ngay, giọng cả quyết:
- Con đã nhất định rồi. Con không hối hận.
- Vậy tốt. Mong con thành đạt. Bây giờ hãy dẫn ngựa ra buộc vào cây đằng kia rồi thu xẻng cuốc, búa rìu lại, phòng có lúc dùng đến.
- Thế thầy cũng đi chứ ? Để con dẫn ngựa tới.
- Cứ làm theo lời ta bảo đã !
Buộc ngựa xong và gom nông cụ lại rồi, Sannosuke trở lại đến bên thầy chờ sai khiến.
- Căn nhà này đã che mưa nắng cho con trong nhiều năm. Bây giờ bỏ đi, con hãy cám ơn và vĩnh biệt nó, đừng luyến tiếc.
Rồi Musashi lại tiếp:
- Ta sẽ đốt nó đi, con bằng lòng không ?
- Đốt đi ?
- Ừ. Nếu bỏ hoang, nó sẽ là nơi trú chân của quân cường đạo. Tủi vong hồn tổ phụ con và chắc cha con cũng không bao giờ muốn thế !
Sannosuke lặng thinh, nhưng lòng nó bồi hồi muốn khóc. Lát sau, nó gật đầu.
Khi Musashi bước ra, căn lều đã chớm bốc khói. Chỉ một loáng, ngọn lửa phừng phừng dâng cao, đỏ rực. Tàn than như những cánh bướm đen chao lượn trên không. Gió thổi ù ù giữa những tiếng nổ răng rắc của thân tre và thân sậy. Hai thầy trò đăm đăm đứng nhìn ngọn lửa thiêu dần túp lều cho đến khi cả mái lều sập xuống.
Sannosuke bỗng khóc òa. Musashi vỗ lưng nó, an ủi:
- Thôi, ta đi, con ! Nếu cứ bận tâm về dĩ vãng thì chẳng bao giờ làm được việc gì cả.
Thằng bé miễn cưỡng chùi nước mắt, nhặt đẫy vải đeo lên vai, lủi thủi theo thầy đến chỗ buộc ngựa. Ngoài nhìn đống tro nghi ngút khói, chỗ trước kia là căn nhà nó ở với người thân, không cầm lòng được, nước mắt Sannosuke lại trào ra.
- Con buộc nông cụ và những đồ dùng khác lên lưng ngựa, ta với con đi bộ. Cũng gần đây thôi.
- Đi đâu vậy thầy ?
- Đến đồi đằng kia. Ta sẽ dựng ở đó một căn nhà mới.
Sannosuke không hiểu rõ ý thầy, ngước mắt nhìn:
- Ta vừa đốt nhà cũ mà. Dựng nhà mới làm gì ?
- Nhà đó là của tổ phụ con. Chỗ ấy trũng dễ bị lụt lội. Ta đã có chủ ý. Căn nhà chúng ta sắp dựng đây sẽ là của chúng ta.
- Thế thầy định cứ ở đây mãi sao ?
Musashi gật đầu:
- Phải rồi. Chúng ta sẽ ở đây một thời gian.
- Thầy không đi đâu luyện tập và học hỏi nữa sao ?
- Ta sẽ luyện tập ngay tại đây.
- Ở đây ? Ở đây thì có gì mà luyện tập ?
- Tự ép mình vào kỷ luật, tập gian khổ, giữ tâm cho vững là căn bản của mọi thành công. Đường kiếm tinh thục chưa đủ, ta sẽ luyện cho con một nội lực dồi dào. Và ta sẽ dạy con biết đọc để sau này nếu ta không ở bên con được, con vẫn có thể học thêm để tăng kiến thức. Sannosuke ! Con có đọc được sách không ?
- Dạ, có biết đôi chút.
- Ai dạy ?
- Cha con. Cha con có dạy đọc và viết những chữ thông thường mỗi khi nhàn rỗi.
- Vậy tốt. Để khi ổn định rồi, ta sẽ tiếp tục dạy con học. Nào, bây giờ thì lên đường, đến khu đồi kia, gần rừng, vừa dễ đốn gỗ vừa cao ráo.
Musashi đi trước, để tâm quan sát địa hình. Sannosuke dẫn ngựa theo sau.
Nó ít nói vì ở nơi hoang dã từ nhỏ, ít trò chuyện nên cứ cung cúc đi, thảng thầy hỏi gì mới đáp. Gần chiều, tới một nơi tương đối khoảng khoát trên đồi, cả hai dừng lại.
- Chỗ này được đấy ! Musashi bảo. Ta dừng chân ở đây. Con nhóm lửa nấu cơm để ta đi một vòng xem xét.
Rồi tháo hành trang trên lưng ngựa xuống, Sannosuke nhanh nhảu:
- Con biết chỗ này. Bên kia rừng thưa có con suối, lội qua suối là một đường mòn dẫn đến xóm tiều. Ở đấy có chợ nhỏ.
- Vậy tiện lắm. Nhất là không xa suối. Nếu địa điểm tốt, sáng mai ta sẽ khởi công.
Lúc Musashi xem xét địa hình xong trở ra đã thấy đồ đệ ngồi canh nồi đậu đỏ nấu trên bếp. Bếp do nó tạm thời tạo nên trong lúc cấp bách bằng cách đào lỗ và quây đá xung quanh. Hắn mỉm cười khen thằng bé nhanh trí và nhiều sáng kiến.
Xong bữa ăn, trời vừa tối. Không đủ thì giờ làm việc gì khác, cả hai thầy trò đêm ấy ngủ dưới ánh sao, gối đầu lên những khúc cây nhặt về làm củi.
Hôm sau, trời mới tảng sáng, Musashi đã tỉnh dậy. Bộ quần áo ướt sương làm hắn rùng mình. Hắn tĩnh tọa vận khí cho huyết mạch lưu thông, đoạn vác rìu lên đồi đốn cây trong khi Sannosuke còn say ngủ.
Musashi có ý định lưu lại vùng này một thời gian ngay sau khi cùng đồ đệ mang xác Sanemon đến chôn ở đồi bên cạnh.
Hắn nghĩ:
Nếu thiền đạo, trà đạo và các sáng tạo mỹ thuật có tác dụng tốt đến tâm linh con người thì tại sao cày một thửa ruộng, trồng một khoảnh vườn lại không có ích ?
Khu hoang địa này chính là một thao trường lớn giúp ta luyện chí và nuôi sống ta không lệ thuộc vào người khác. Chỉ những người tự lực cánh sinh mới biết chân giá trị của sự tranh đua với ngoại cảnh.
Khi còn nhỏ, mẹ hắn dẫn hắn ra đồng nhiều lần, cùng cày cấy với các nông dân khác. Lúc đó hắn chỉ biết lao động cốt để mưu sinh, nhưng bây giờ hắn thấy, ngoài mục đích kiếm sống, sự lao động còn nhằm nuôi dưỡng tinh thần nữa. Nếu hắn thành công biến khu đất hoang này thành vườn ruộng với hoa màu thì quả hắn đã làm một việc tốt, góp phần vào sự hưng thịnh cho khu này. Nhưng điều quan trọng hơn cả là gián tiếp bảo cho những cư dân ở đây biết họ có thể thoát khỏi được nghèo đói, vươn lên hạnh phúc và tự do bằng ý chí và can đảm để tự giải thoát.
Cởi trần, da rịn mồ hôi đỏ au dưới nắng, Musashi cầm rìu bổ những nhát dữ dội vào thân cây bạch dương trước mặt. Vỏ cây bắn tung tóe, chỉ một loáng, ba bốn gốc đã bị đốn ngã.
Tỉa cành và róc vỏ xong, hắn gọi đồ đệ:
- Sannosuke, lấy dây buộc cành và vỏ để riêng ra làm củi. Chờ ta đốn xong vài cây nữa rồi gom lại dựng nhà.
Mùa thu sắp tàn, côn trùng dần dần im tiếng. Lá vàng rụng đầy đất. Hai thầy trò Musashi đã dựng xong căn lều nhỏ, mái lợp gianh, vách bằng những cành bạch dương ken xít nhau, trát đất. Tuy không đẹp nhưng vững chắc, đủ che cho hai người trước những ngọn cuồng phong mà hắn dự đoán sẽ xảy ra rất thường ở vùng này. Lạ i có cả cái kho nhỏ, một bên để chứa nông cụ, một bên làm chuồng ngựa.
Tạm xong chỗ ở, Musashi sửa soạn vỡ đất để ải, chờ gieo hạt.
Khu đồng hoang Hotengahara này quả là một nơi khó sống. Đất toàn sỏi đá, không giữ nước được, chỉ nắng một thời gian đã khô nứt nẻ. Đến mùa mưa, nước lũ chảy như thác kéo theo lớp mầu bên trên đổ xuống hằng hà sa số khe đá dưới chân núi. Không có sông lớn điều hòa việc canh nông, chỉ có một cái đầm độc nhất lại quá hẹp không đủ chứa nước cấy lúa.
Vấn đề chính rõ ràng bày ra trước mắt:trị thủy.

Nhưng vấn đề này một hai người không làm được, hay nếu có làm cũng chỉ hạn hẹp. Muốn mang lại sinh kế cho cả một làng hay một khu vực, phải có sự hợp tác của số đông. Musashi nhìn rõ viễn tượng ấy nên quyết định thuyết phục dân chúng tham dự vào một kế hoạch quy mô.
Nhưng thuyết phục thế nào ?
Đã nhiều năm nay, hắn quan niệm kiếm đạo theo một khía cạnh khác với quan niệm của đa số người đương thời. Đối với hắn, lấy sự trau dồi kiếm thuật làm mục đích tối hậu thì quá phù phiếm, vì lưỡi kiếm tự nó không giải quyết được gì. Trong tay một kẻ dù tài giỏi đến đâu nhưng không lý tưởng, lưỡi kiếm cũng chỉ là bạo lực. Kiếm đạo phải có mục đích hướng dẫn con người đến sự quân bình của tâm hồn, đến hạnh phúc. Và lưỡi kiếm chỉ là một phương tiện để tìm sự quân bình ấy mà thôi. Hai năm trước, Musashi đinh ninh nếu muốn áp dụng lý tưởng ấy tất phải có quyền hành, cho nên rắp tâm tìm minh chúa để phục vụ. Nhưng ngày nay, trong chốn đồng không mông quạnh này, quyền lực hay địa vị gì cũng vô dụng. Hắn phải tìm cách thuyết phục, vì thuyết phục chính là bước đầu của mọi công cuộc lãnh đạo. Từ nay, lưỡi gươm sắc đeo bên sườn, hắn sẽ dùng để bảo vệ người cô thế mà không làm cho họ sợ.
Những ngày sau đó, khí trời chưa lạnh, Musashi và đồ đệ chặt cây, đào rễ, cuốc đất, be bờ, làm việc cực nhọc từ sáng đến chiều, có hôm tận tối mịt mới về nghỉ.
Công khó của hai thầy trò không phải là không có kết quả:
một khoảnh đất rộng chừng năm sào đã thành hình, tạm bằng phẳng để sẵn sàng đón nhận hạt giống.
Dân ở xa mang sản vật đến xóm tiều bán hoặc cư dân trong vùng theo đường mòn xuống núi dừng lại tò mò nhìn hai người. Họ kháo nhau:
- Gã này điên ! Chắc mới ở đâu tới chứ ai cũng biết đất này mà trồng cấy gì được !
- Phí công vô ích.
- Thằng bé kia hình như là con Sanemon, trước ở khu dưới, sao bây giờ lại tới đây ?
Một hôm có kẻ đến tận chỗ Musashi làm, khuyên nhủ:
- Đất này cằn cỗi, giồng gì cũng uổng công thôi. Nếu có hoa màu thì chúng ta đã chẳng bỏ hoang.
Musashi chỉ cười. Khác với những nông dân kia, hắn tin hắn làm được.
Nếu thành công thì đây là một chứng cớ hiển nhiên:
ý chí con người đã thắng mọi trở lực và bằng thành quả này, hắn sẽ thuyết phục dân làng cùng hợp tác để thực hiện một công cuộc quy mô hơn.
Thấy bảo không được, dân vãng lai chẳng ai thèm khuyên nhủ nữa. Họ chế nhạo hắn, gọi thầy trò hắn là những thằng ngốc. Musashi không để tâm, nhưng Sannosuke tức lắm. Bữa kia, nó nhặt đá định ném. Hắn trừng mắt:
- Sannosuke ! Làm vậy ích gì ? Nếu không biết tự chế, ta không nhận con làm đồ đệ nữa !
Mặt thằng bé đỏ bừng. Nó vất hòn đá đi, nhưng đến bên gốc cây bưng mặt tấm tức.
Musashi nhìn nó, quay đi khẽ thở dài:
Tội nghiệp ! Nó cũng như ta, đơn độc trước bao khó khăn. Nó còn nhỏ tuổi quá !
Như thông cảm nỗi buồn của đứa trẻ, trời bỗng đổi khác. Gió thổi, cây rung ào ào, mây vần vũ tựa sắp có dông lớn. Bầu trời càng lúc càng tối, vài giọt mưa đã bắt đầu rơi lộp bộp trên những tàu lá to mọc xập xè dưới đất.
Musashi thu xẻng cuốc vác lên vai, gọi Sannosuke rồi rảo bước về lều. Vừa đến nơi, mưa đổ như trút. Một lằn chớp xẹt ngang, ngoằn ngoèo sáng rực, tiếp theo là tiếng sét nổ long trời lở đất. Lo lắng, hắn cao giọng gọi đồ đệ nhiều lần nhưng mưa và sấm chớp át tiếng hắn gọi.
Trong cảnh thịnh nộ của trời đất, Musashi dường như thấy cây đại bách sau chùa Shippoji và vẳng nghe giọng trách mắng nghiêm khắc của Takuan. Hắn mở mắt trừng trừng, tưởng trông thấy nhà sư trước mặt. Hắn muốn được như cây đại bách kia, hiên ngang vững chãi trước dông tố và được như nhà sư, có tấm lòng độ lượng không bờ bến. Nếu làm được cho Sannosuke và những người dân vùng này những gì Takuan đã làm cho hắn thì món nợ đối với Takuan chắc cũng nhẹ được đôi phần.
Musashi lại lên tiếng gọi đồ đệ. Không thấy bóng dáng nó đâu, hắn bắt đầu sốt ruột.
Mưa dần dần ngớt hột, gió thổi giật từng hồi và trời đã hé rạng. Musashi bước khỏi lều đi tìm Sannosuke, thấy nó thu mình dưới tàng lá, ướt như chuột lột và tơi tả như thằng bù nhìn giữ dưa.
- Sannosuke ! Sao không về nhà !
- Mưa này không lâu đâu thầy. Tạnh rồi đó ! Ta còn làm thêm được lúc nữa.
Không ngờ thằng bé bướng đến thế ! Thái độ và lời nói của nó vô tình dạy cho Musashi bài học kiên trì trước nghịch cảnh khiến hắn phải suy nghĩ.
Những ngày sau đó, trời bàng bạc, ảm đạm. Trận mưa tuy to nhưng ngắn không làm hư hại gì đến công trình khẩn hoang của hai thầy trò. Khu đất mới cuốc trở nên sẫm màu. Cỏ xanh hơn trước và trên từng không, đã có những đàn ngỗng thiên di, tiếng khàn khàn qua màn sương mỏng dội xuống lẫn với gió heo may gây gây lạnh.
Musashi tiếp tục làm việc cực nhọc trên thửa đất mới phá. Buổi sáng hắn luyện kiếm, dạy Sannosuke những chiêu thức căn bản của một kỹ thuật hắn phát huy và khai triển nhưng chưa quy vào hệ thống. Buổi tối dưới ngọn đèn dầu thông, hắn dạy đồ đệ đọc và viết.
Một hôm trời trở nên oi bức khác lạ. Hai thầy trò đang đánh luống trên thửa đất mới vỡ, bỗng nghe nhiều tiếng ầm ì từ xa vọng lại. Chim bay xào xạc. Ở phía chân trời, mây đen kéo tối sầm, rồi như những luồng khói dày đặc, ùn ùn đùn nhanh, chẳng mấy chốc đã che kín cả bầu trời. Sannosuke ngước nhìn, lo ngại:
- Lần này chắc có chuyện ...
Chưa hết câu, một cơn lốc ở đâu thình lình nổi dậy, cuốn lá khô cành gẫy bốc cao.
Những cánh chim bị lốc cuốn, chao đi chao lại kêu keng kéc sợ hãi.
- Lại sắp mưa lớn phải không, Sannosuke ?
- Vâng. Nhưng lần này dữ lắm. Ta về thôi, thầy !
Thấy đồ đệ nhiều kinh nghiệm về thời tiết, Musashi thường hỏi nó khi có điềm gì khác lạ. Lần này Sannosuke có vẻ vội vàng, chạy thẳng một mạch về nhà, mặc Musashi thu dọn đồ đạc đi sau.
Về đến lều, chưa kịp cất nông cụ, mưa lớn đã ập xuống. Sấm chớp liên tiếp xé bầu trời tối om. Những giọt nước bằng hạt ngô đập rào rào lên vách, gió thổi cột kèo ngả nghiêng kêu cót két. Ở những chỗ trũng, bong bóng nổi phập phồng.
Mưa như thế, tầm tã trong một thời gian thì ngớt nhưng chẳng bao lâu lại tiếp tục, dữ dội hơn trước. Khu vườn xung quanh lều bị nước mưa đào những rãnh nhỏ, kéo đất trôi đi, trơ lại chỉ còn đá vụn và cành gẫy lởm chởm. Gió càng lúc càng mạnh, mái lều tưởng chừng bị giật sập. Đã có những nút buộc bị long. Musashi đôn đáo chống chỗ này, che chỗ kia. Trời tối, hắn quên cả thắp đèn và không hiểu Sannosuke đi đâu.
Lo lắng, tức giận làm hắn bồn chồn khó chịu. Mãi khi trời tối mịt và gió tạm yên, hắn mới mang đồ nguội ra ăn và ngồi nghỉ.
Qua một đêm dài thao thức, nghe mưa gió bên ngoài ào ào như trút giữa những lằn chớp sáng rực và những tiếng sét vang dội bốn bề, tâm trạng của Musashi khi bị treo trên cành đại bách hơn mười năm trước lại hiện về. Trước sức mạnh vô cùng của vũ trụ, còn người thật nhỏ bé, bất lực. Và hắn liên tưởng đến Sannosuke, đến Jotaro, đến Otsu, những con người cô thế. Hắn mong cho trời chóng sáng.
Hôm sau, dưới bầu trời xám đục, mưa đã ngớt nhưng gió vẫn còn mạnh. Qua khe cửa, Musashi nhìn ra ngoài, giật mình vì cảnh vật đổi khác hẳn:
chỗ nào cũng mênh mông trắng xóa. Đây đó vài ngọn tùng rạp đầu xơ xác. Khoảng đất phía xa do hắn và đồ đệ khổ công cuốc xới, đắp bờ bị nước tràn ngập không còn dấu tích. May mà căn lều hắn dựng ở đồi cao và khá vững, chứ nếu không, chắc cũng bị nước cuốn đi rồi.
Tới trưa, chẳng thấy Sannosuke đâu, Musashi càng bồn chồn lo lắng.
- Thầy ! Thầy ! Con đã về !
Tiếng đồ đệ gọi từ phía đường mòn theo gió đưa đến khiến Musashi mừng rỡ hết sức. Trông ra, thằng bé đầu đội nón nan, mình khoác tơi lá, đang dẫn ngựa đi trên sườn đồi phía bên kia suối. Trên lưng ngựa chất hai, ba giỏ tre đậy kỹ. Dường như nó đang tìm cách lội qua suối.
Bấy giờ Musashi mới sực nhớ đến con ngựa và không ngờ Sannosuke đã lấy ngựa cưỡi đi từ bữa trước, lúc chưa bão.
Hắn bắc loa tay kêu lớn, gọi thằng bé:
- Khoan ! Đứng đó ! Để ta sang giúp !
Nói đoạn, vớ vội cuộn dây chão đeo vào người, băng ra suối.
- Đây ! Phía này thầy !
Sannosuke miệng gọi, tay vẫy rối rít:
- Chỗ này nhiều đá lớn dễ đi, con biết.
Musashi buộc một đầu dây vào gốc cây bên này suối rồi cầm đầu kia lội sang. Đến nơi, hắn buộc đầu dây ấy vào một gốc cây khác, đồng thời cột bụng ngựa và cả lưng thằng bé vào dây chão rồi bảo nó lần theo dây mà qua suối. Musashi kèm ngựa cho ngựa khỏi sợ. Nước suối chảy như thác. Tuy có dây giữ mà cả hai thầy trò và con ngựa cũng vất vả mới qua được. Cả ba ướt nhẹp, rét run, về đến nhà đốt lửa sưởi một lúc mới hoàn hồn.
- Sannosuke ! Ngươi đi đâu sao không nói trước ta biết ?
- Con đến xóm tiều mua thức ăn dự trữ.
- Bão xong rồi, dự trữ làm gì ?
- Chưa xong đâu thầy. Dù hết gió to nhưng còn mưa nữa. Khí hậu vùng này lạ lắm.
Mưa dai dẳng còn lâu, có khi lụt lội cả tuần trước khi có tuyết. Đến lúc tuyết tan lại lụt nữa. Nếu không dự phòng thì đói.
Sannosuke giở lớp vải sơn đậy các giỏ tre ra:
nào kê, nào đậu đỏ, nào gạo, lại có cả cá khô và thịt ướp. Nó cũng không quên mua cho thầy một gói trà.
Musashi nhìn đồ đệ, lòng biết ơn dào dạt. Thằng này nhỏ tuổi mà khôn ngoan, biết phòng xa quá đỗi. Nhưng nó liều lĩnh hết sức. Có điều chẳng biết nó lấy tiền đâu ra để mua những thứ này.
- Tiền ở đâu thế con ?
- Con đến đền Toku mua chịu và gửi lại cái hộp cha con cho làm tin. Cha con bảo họp đó quý lắm.
- Phải hộp gia bảo của nhà con không ?
- Con không biết nhưng chắc thế.
- Cha con để lại cho con những gì ?
- Cái hộp đó và một thanh kiếm ngắn.
- Nó lấy trong bọc ra một thanh đoản kiếm đưa sư phụ coi. Musashi trịnh trọng đỡ lấy thanh kiếm. Vỏ kiếm bằng gỗ bọc gấm đã sờn, không mang vết tích gì của người làm ra nó nhưng lưỡi kiếm xanh biếc. Gần sống kiếm có khắc hai chữ không rõ nét, dường như hai chữ đó đã bị mài mờ đi để những người sau không nhận diện được.
Musashi gật gù:
- Đây là một thanh kiếm quý, nhưng không phải dùng để chiến đấu.
Hắn nói thế, không muốn cho đồ đệ biết lưỡi kiếm kia chính là lưỡi kiếm chủ nhân nó chỉ mang theo để kết liễu đời mình khi cần thiết. Hắn có cảm tưởng cái hộp mà Sannosuke đã gửi lại làm tin ở đền Toku có một giá trị đặc biệt.
- Từ nay, con chớ giao cho ai những kỷ niệm do tổ phụ để lại. Để khi trời yên rồi, ta sẽ dẫn con đến chuộc.
- Con cám ơn thầy.
- Đêm qua ngủ ở đâu ?
- Ông thủ từ bảo ngủ tạm tại đền vì bão to quá, hôm nay mới về được.
- Đã ăn cơm chưa ?
- Chưa. Chắc thầy cũng chưa ăn ?
Musashi cười:
- Ừ, con đi nấu cơm đi. Ta thấy hình như nhà cũng không còn củi.
- Còn, còn chứ ...
Vừa nói, Sannosuke vừa hối hả đứng lên ra nhà kho, chỉ chỗ nó để dành củi đốt và cỏ khô cho ngựa.
- Đây này thầy ! Nhiều lắm, đủ để sưởi cả mùa đông nữa.
Lại thêm một lần Musashi thấy thằng bé quả biết lo xa. Tiên liệu là mọt đức tính của người chỉ huy. Về điểm này hắn thấy hắn còn thua đồ đệ.
Trong những ngày sau, mưa vẫn rả rích. Musashi mang sách ra bảo Sannosuke đọc những chương bổ ích và giảng dạy cho nó hiểu nghĩa lý trong sách. Những lúc học trò mệt mỏi, hắn chỉ dẫn cho nó cách vận khí và luyện tập ở những nơi chật hẹp. Sannosuke tỏ ra rất thông minh, mới vài tuần đã tiến bộ lắm. Musashi rất ưng ý.
Đến khi mưa dứt hẳn, mặt trời hé dạng và nước đã rút đi gần hết, hai thầy trò ra khỏi lều thăm mảnh đất khẩn hoang. Cả hai không còn nhận ra được mảnh đất ấy nữa vì nó chỉ còn là một vũng lầy nhão nhoẹt.
- Chỗ này không hy vọng trồng cấy gì như mình định được đâu. Sannosuke nói.
Thầy nên đi tìm chỗ khác thôi.
- Không sao, ta đã xem rồi. Chờ nước rút hết, đất màu tốt còn lại thì phải trồng được chứ.
- Thế ngộ mưa nữa thì sao ?
- Ta sẽ ngăn không cho nước chảy vào.
Vừa nói hắn vừa lấy tay chỉ:
- Đắp một con đê ngăn nước đến tận đằng kia, bao quanh thửa đất.
- Trời ơi ! Công trình quá ! Thầy với con làm thế nào được !
- Sannosuke ! Con chớ quên đây là nơi ta dùng làm thao trường để luyện tập.
Luyện tinh thần trong khi tập thể chất. Đừng bao giờ nản chí cả.
Thế là suốt mùa đông năm ấy, trừ những ngày tuyết rơi nhiều, thầy trò Musashi lại ra công đào xới, lấy đá đắp đê trước những cái nhìn chế giễu của cư dân trong vùng.
Nhưng đê mới xong được nửa, con tuyết tan đầu xuân đã tràn tới, kéo văng công trình khó nhọc của cả hai xuống chân núi.
Buồn rầu, Musashi ngồi trong lều trông ra, không biết đối phó thế nào với những tàn phá không cưỡng nổi ấy của thiên nhiên. Thầy trò nhìn nhau chẳng thốt một lời.
Bỗng Musashi sực nghĩ ra. Vô tình hắn đã quẩn quanh trong việc phá một thửa đất rồi san ra vuông vức như ở đồng bằng. Thảo nào không được. Vì ở đây là sườn đồi, thế đất phải khác. Hắn không thể giữ cho nước không chảy, hay giữ cho đất đứng yên không bị nước soi mòn. Nước là nước, đất là đất, sao hắn lại điên rồ đòi thay đổi bản chất của nó.
Phải thuận theo dòng nước và thế đất. Đừng ngăn nó chảy. Hãy lợi dụng sự di động của nước, đưa nó dần dần vào những thửa ruộng nhỏ, không cần vuông vức mà thuận với sườn đồi thấp dần từng bậc một, tất nước không còn đủ mạnh để phá đất nữa.
Nghĩ đến đấy, hắn sung sướng quá, đập tay vào đùi nói lớn:
- Thật là ngốc. Không biết thuận theo thiên nhiên, sao đòi thành công được ?
Rồi lấy sổ tay ra, hắn ghi một nhận xét:
“Làm ruộng cũng như làm chính trị, phải thuận với thiên nhiên. Nhưng trước hết, hãy tìm hiểu thế nào là thuận với thiên nhiên đã”.

Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Hai T2 26, 2007 12:21 am
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ

CHƯƠNG 65

SƠN QUỶ











Đền Toku thực ra là một thiền viện, cách xóm tiều chừng năm dặm. Lão ông thủ viện tính tình trầm mặc, trước cũng là kiếm sĩ nhưng nay ẩn ở chốn hoang vu này để tránh dòm ngó.
Ông vẫn giữ liên lạc với vài người bạn cũ phục thị trong dinh Toyotomi ở Cổ thành, nhưng mối giao tình cũng vì địa vị xã hội khác biệt mà không còn thắm thiết lắm.
Hôm ấy Sado tới chơi. Nagaoka Sado làm tham kiểm trong dinh sứ quân Hosokawa Tadaoki, giữ một chức vụ quan trọng coi việc tra xét danh sách những người được đề bạt và cố vấn cho sứ quân Hosokawa việc sử dụng những người được đề bạt ấy.
Trong các chuyến công du, Sado thường có khá đông người tháp tùng, nhưng lần này đến thăm người bạn cũ, ông chỉ đem theo hai kiếm sĩ tùy viên và một gia nhân thân tín.
Đã lâu không hưởng cảnh thanh nhàn, Sado tỏ ra hết sức thích thú khi được ngồi trong một mảnh vườn nhỏ xa thị thành, dưới gốc phong cành đã bắt đầu nảy lộc, nghe tiếng ếch kêu báo hiệu sự hồi sinh của vạn vật sau một thời gian đông miên đằng đẵng.
Trời xế chiều, Sado không để ý. Mãi khi gia nhân bưng trà ra, ông mới nói:
- Ồ ! Hóa ra ta ngồi quên trong cõi vô minh này cũng lâu rồi nhỉ.
- Xin đại nhân bảo trọng. Trời hãy còn lạnh ...
- Không sao ! Ông cười. Tấm thân này đã nhiều xông pha, xá gì chút lạnh cuối mùa. Chà ! Mùi hoa mai mới nở thơm thật dễ chịu. Mai chiếm xuân khôi ...Ngươi có ngửi thấy gì không ?
- Bẩm, tiểu nhân chẳng thấy gì cả.
- Chắc không ? Hay ngươi bị cảm hàn rồi đấy ?
Sado vừa nửa đùa nửa thật bảo kẻ hầu trà đứng cạnh.
Thình lình một tiếng quát lớn sau hàng giậu khiến ai nấy giật mình.
- Dòm ngó cái gì ? Có đi chỗ khác không ?
Tiếp theo là tiếng chân lui về phía bếp rồi vệ sĩ của Sado hớt hải chạy tới.
- Chuyện gì thế ?
- Bọn tiểu nhân không rõ, để hỏi chủ viện.
Chủ viện đến ngay không đợi gọi.
- Xin tha lỗi, gia nhân không biết làm kinh động đến tôn khách. Đó chỉ là một đứa trẻ trong xóm.
- Trẻ trong xóm ? Nó đến dò xét gì vậy ? Có chắc không hay là gian tế đấy ?
- Chắc. Thằng bé đó tên là Sandou. Nghe nói trước tổ phụ cũng là kiếm sĩ nên cứ thấy ai là kiếm sĩ thì thập thò nhìn ngó vì nó cũng muốn được như tổ phụ.
Sado gật gù:
- Trẻ con tò mò là sự thường, lão huynh đừng chấp. Nếu đúng thế thì gọi nó đến cho nó vài cái bánh. Biết đâu chẳng phải là đứa trẻ có khả năng, tập luyện nên người được.
oo Sannosuke vào bếp ném chiếc túi vải đến trước mặt mụ giữ kho:
- Mụ đổ kê vào đấy để tôi còn mang về, trời sắp tối rồi.
- Á ! Thằng này trịch thượng quá ! Mày làm như chúng tao nợ mày ấy.
- Đừng thấy viện chủ thương, cho mày ăn mà hỗn láo. Muốn xin cái gì thì phải nói cho có lễ phép.
Gã đầu bếp phụ họa.
- Tôi đâu có xin, tôi mua mà ! Tôi trả tiền bằng chiếc hộp quý cha tôi để lại và đã trao cho viện chủ rồi.
- Cha mày làm phu giữ ngựa mà để lại cho mày đồ quý gì ?
- Can dự gì đến chú ? Có đong kê đổ vào đấy hay không thì bảo. Viện chủ bảo tôi xuống đây lấy kê chứ không xin của chú.
Gã đầu bếp cười hinh hích:
- Thằng bé này hay giận quá ! Ừ, rồi chúng ta đổ kê vào bị cho. Nhưng này, ta hỏi thật, sao mày lại phải đem tiền của cha mày đi nuôi cái thằng khùng ấy ? Hai đứa đào xới thửa đất ấy thì trồng cấy gì được ! Tìm vàng hả ?
Sannosuke tức giận đứng sững, không nói được lời nào. Thấy có con cóc ẩn mình trong góc bếp, nó vồ lấy ném cái bốp vào mặt gã vừa nói rồi định quay đầu chạy.
Nhưng ngay lúc đó, lão viện chủ bước vào. Ông nắm vai thằng bé. Sannosuke sợ hãi giằng ra.
- Đừng sợ, ta đã nghe hết. Mụ già và gã kia không được trêu chọc nó nữa. Bây giờ bỏ chuyện ấy đi, ta dẫn nó lên gặp Sado đại nhân.
- Chắc nó lại làm điều gì xúc phạm đến Sado đại nhân chứ không sai.
Lão viện chủ cười:
- Không, các ngươi đoán lầm. Ngài chỉ muốn gặp nó và còn muốn cho nó bánh nữa.
Sannosuke đứng nép bên rào gỗ, tò mò nhìn Sado. Lần đầu tiên nó gặp và được nhìn thỏa thích một kiếm sĩ có danh vọng ở trong dinh. So với các Ronin khác và nhất là với thầy nó, Sannosuke thấy sự khác biệt cách xa nhau ghê gớm, từ y phục, cử chỉ đến dáng dấp.
- Lại gần đây. Ngươi tên gì, mấy tuổi ?
- Nô tài là Sannosuke, mười ba tuổi.
- Ngươi muốn trở thành kiếm sĩ phải không ?
Sannosuke gật đầu:
- Dạ phải.
- Tốt lắm. Vậy có muốn vào trong dinh ở không ? Ngươi sẽ giúp gia nhân làm việc vặt và ta sẽ cho lệnh dạy ngươi trở thành kiếm sĩ.
Sannosuke lắc đầu. Tưởng thằng bé nhút nhát, Sado nhắc lại và bảo nó ông có ý ấy thật chứ không phải nói đùa. Nhưng Sannosuke đáp:
- Nghe lão trượng nói ngài định cho nô tài ăn bánh ...
Lão viện chủ tái mặt:
- Sandou ! Không được hỗn.
Đoạn tiến đến dắt tay nó định lôi đi. Sado ngăn lại:
- Không sao ! Lão huynh ! Nó nói phải. Ta đã hứa thì phải giữ lời.
Bèn gọi gia nhân mang bánh tới cho Sannosuke. Sannosuke đổ cả vào bọc gói lại.
- Ngươi không ăn ở đây sao ?
- Không. Nô tài phải về, sư phụ đợi.
- A ! Ngươi có sư phụ hả ?
Nhưng Sannosuke không đáp, hối hả quay đi quên cả chào và cảm ơn người cho bánh.
Vốn tính độ lượng và yêu trẻ, Sado không để tâm, cho là thằng bé cứng đầu, không giống tính nết những đứa trẻ khác. Trái lại, lão viện chủ có vẻ e ngại, sợ làm mất lòng khách quý. Ông xin lỗi thay cho nó nhiều lần, uống tách trà rồi đàm đạo với Sado một lúc rồi mới lui gót.
Đến bếp, hỏi Sannosuke đâu thì được biết nó đã mang túi kê về rồi. Xa xa, vẳng tiếng kèn làm bằng lá nó mới cuốn, vừa đi vừa thổi phỏng theo một điệu nhạc cổ thường nghe trong các buổi tế lễ mà khi còn sống cha nó vẫn dẫn nó đi xem.
Trên đường về, từ Toku đến Hotengahara, chỗ hai con suối nhập lại thành một dòng sông nhỏ có cây cầu bắc ngang, bỗng Sannosuke giật mình, nhảy lui nấp vào bụi rậm.
Nó vừa trông thấy trên cầu ba cái bóng đen cao lớn, dáng điệu dữ dằn, tay cầm giáo, đang châu đầu vào nhau bàn bạc.
Từ trong bụi, Sannosuke banh mắt nhìn ra. Ba thằng quần áo lôi thôi lếch thếch, râu xồm, tóc búi quấn trong những cái khăn không phân biệt rõ màu, trông như quỷ.
“Đúng rồi”, Sannosuke nghĩ thầm. Và kỷ niệm hãi hùng của thời thơ ấu hiện lên, gợi trong trí nó nhiều hình ảnh ghê sợ khiến tim nó đập dồn dập.
Ngay từ nhỏ, mẹ nó đã dọa, nếu hay khóc đêm và không ngoan ngoãn thì sơn quỷ tới bắt đi. Sơn quỷ râu xồm, nanh dài, đeo bị và uống máu con nít. Đến khi khôn lớn, nó không tin những lời ấy nữa, nhưng ấn tượng sơn quỷ nanh dài, uống máu con nít vẫn để lại trong lòng nó một nỗi khiếp sợ không sao gột sạch.
Đã từ lâu, hàng trăm năm trước, trên triền núi Hitachi cách xóm tiều chừng vài chục dặm có một ngôi cổ miếu thờ sơn thần.
Không ai biết đó là thần gì nhưng khẩu truyền thần rất linh thiêng, nếu cúng bái hàng năm đầy đủ, thần sẽ phù hộ cho được mùa và không bị dịch tễ. Cho nên dân trong vùng luân phiên nhau mang lễ vật đến dâng cúng. Lễ vật gồm có dê, bò , lợn và các loại ngũ cốc. Vào những năm ngài đặc biệt ra oai, lễ vật còn gồm cả một thiếu nữ đồng trinh nữa.
Lễ vật thường được rước về đêm, dưới ánh đuốc chập chờn đến chân núi, qua nhiều tàng cây rậm và những khe đá ẩm ướt trơn như đổ mỡ. Nhưng đấy là chuyện xưa, khi dân xóm còn thưa thớt và chưa mấy người dám phiêu lưu đến gần ngôi cổ miếu. Sau này, những tiều phu đi kiếm củi phát giác sơn thần thực ra chỉ là một người hoặc con cháu của người đó, có lẽ là một tên cướp lẩn trốn trong rừng, lợi dụng lòng mê tín của dân xóm mà ra oai tác phúc. Lễ vật vì thế thưa và ít dần, vơi theo với lòng kính trọng.
Sau cuộc tranh chấp sứ quân, số binh sĩ thua trận đào tẩu nhiều, miếu sơn thần trở nên rộn rịp. Ban đêm người ta thấy có ánh lửa nhiều nơi trên triền núi, tiếng người kêu khóc và những bóng đen ra vào sân miếu. Từ đó cướp đổ xuống các xóm hẻo lánh bắt gia súc cùng với đàn bà con gái mang đi, không năm nào là không có, có khi một năm hai ba lượt.
Chúng vẽ mặt dữ tợn, mang đủ loại vũ khí, từ gậy, đinh ba đến đao kiếm. Ai chống cự liền bị giết tức thì. Dân làng gọi chúng là sơn quỷ. Mới năm trước, bọn này từ trên núi xuống cướp phá, đốt nhà, xúc thóc, bắt bò lợn dẫn đi lại còn giết ba thanh niên chống lại chúng. Trong ký ức của Sannosuke, biến cố ấy xác định sự có thật của bầy sơn quỷ nó từng được nghe kể trong thời thơ ấu và càng làm tăng nỗi kinh hoàng trong lòng nó.
Nấp sau bụi rậm, Sannosuke run lập cập. Nghĩ đến lời Musashi dặn trong cơn nguy biến đừng bao giờ để những xúc động, kể cả sự sợ hãi, làm chủ mình, nó cắn chặt hai hàm răng với nhau.
Ngoài kia, trên cầu gỗ lại thêm bốn năm bóng đen nữa, rồi chúng cứ tiếp tục đến, lúc hai lúc ba, chẳng bao lâu tổng số bọn cướp đã tới non hai chục đứa.
Sannosuke cố trấn áp sự sợ hãi, giữ cho đầu óc tỉnh táo để suy nghĩ tìm kế thoát thân, nhưng nó không tìm ra cách gì, chỉ ngồi yên không thở mạnh và mở banh mắt nhìn ra ngoài trong bóng tối chập choạng. Bọn sơn quỷ dường như không lưu ý gì đến người và cảnh vật xung quanh, ồn ào nhổ bọt, hỉ mũi và cãi vã. Nhờ đó Sannosuke biết đêm nay chúng đến ăn hàng ở xóm tiều.
Lúc sau khi trời tối hẳn, cả bọn bỏ đi. Sannosuke thấy nhẹ nhõm như vừa trút được gánh nặng.
Bước ra khỏi bụi cây, cành lá sột soạt, đột nhiên một tiếng quát làm nó giật bắn người.
- Ai ?
Kinh hoảng, Sannosuke vất túi kê xuống đất, co giò chạy thục mạng. Nó không ngờ bọn cướp còn để lại hai thằng ở đầu cầu để canh chừng. Thấy bóng người vụt ra ven suối, hai đứa vác giáo rượt theo. Sannosuke tuy nhanh nhẹn nhưng làm sao địch nổi những tên cướp lực lưỡng. Chẳng mấy chốc chúng đuổi kịp thằng bé, trói nghiến lại, mặc cho nó kêu cứu vang động cả khu đồi hoang tịch.
- Trói làm gì, thí cho nó một nhát.
Một tên nói.
Sannosuke hết hồn, không kêu nữa vì biết kêu cũng vô ích, có lẽ chỉ làm cho những tên cướp thêm tức giận.
- Không. Tao có cách này hay hơn.
Nói đoạn, một tên xách bổng Sannosuke lên. Thằng bé bồn chồn sợ hãi không biết chúng định làm gì mình. Nó không đạp, không giẫy, người mềm như sợi bún và bỗng thấy đũng quần ướt nhẹp.
Không đợi lâu, tên cướp xách nó ra bờ sông. Một tiếng “phọp”, Sannosuke bị quẳng xuống nước. Nước lạnh bắn tung tóe lên mặt. May mà chỗ ấy lòng sông cạn, nó chỉ nằm ngửa trên bùn, xung quanh cỏ lác, ếch nhái vô số nhảy tòm tọp.
Tên cướp lội ra, kéo Sannosuke đến chân cầu, buộc nó vào đấy.
- Ở đây chờ nước lên, mày về với tổ tiên con ạ !
Sau tiếng cười hềnh hệch chấm dứt lời đe dọa, tên cướp bỏ vào bờ. Cảnh sông cô tịch trong đêm lại trở lại cái hoang vắng cũ, giữa những tiếng côn trùng ri rỉ và lau khô xào xạc.
Sannosuke lấy lại bình tĩnh. Cơn sợ đã tan và nó có cảm giác như tự nhiên được giải thoát, mặc dầu vẫn bị trói chặt vào chân cầu. Không hiểu tại sao, có lẽ vì tên cướp không còn đó, có lẽ vì mùi bùn nước quen thuộc làm nó yên tâm hơn, hay có lẽ vì cả hai.
Sannosuke ngẩng nhìn trời. Trời cao vòi vọi, vài đốm sao lúc ẩn lúc hiện. Sannosuke nhìn mặt sông. Mặt sông lăn tăn gợn sóng, nước vỗ bờ ì ọp. Xung quanh nó, tạo vật thờ ơ đến lạnh lùng !
Nó thử vặn mình, rướn người. Sợi dây trói nó vào chân cầu gặp nước nở ra siết chặt vào bụng và đùi khiến nó đau đớn, nhăn mặt. Sannosuke cựa quậy những đầu ngón tay thấy dễ dàng hơn, bèn lần xuống bụng tìm mối dây buộc. Khó nhọc lắm mới cởi được nút ra thì các ngón tay cứng đơ, gần như tê dại. Nhưng nó mừng vô tả. Gió đêm thổi mạnh mà thân thể nó nóng ran, khích động như chưa bao giờ như thế.
Sannosuke vặn mình cho dây trói tuột đi rồi nương theo chân cầu trầm mình xuống. Nó sờ soạng, hy vọng tìm một vật gì nhất thời cắt được dây buộc cổ tay. Khi chạm phải hòn đá sắc cạnh tạm dùng được, nó kê sợ dây lên hòn đá cứa đi cứa lại. Một lúc lại dừng, nghe ngóng. Khi sợi dây đã có chiều hơi lỏng muốn dãn ra, nó sung sướng mất cả bình tĩnh, đưa tay cứa sợi dây nhanh hơn. Trong đêm vắng, nước đọng bì bọp vang dội. Ếch nhái im bặt, tiếng nước vỗ chân cầu nghe càng lớn.
Giật mình, Sannosuke dừng tay. Tim nó đập thình thịch trong lồng ngực như muốn vỡ. Nhớ lời sư phụ, Sannosuke hít vào thật sâu, vận khí chu lưu khắp cơ thể. Bốn bề vắng lặng, dường như hai tên cướp đã đi xa rồi. Một lúc, thấy huyết mạch điều hòa, nó mới yên tâm tiếp tục cứa sợi dây cho đến đứt rồi cúi xuống cởi dây trói chân. Đoạn, hít một hơi dài, nó đạp nhẹ vào chân cầu, lặn xuống nước và trườn mình ra xa. Bơi qua khúc sông hẹp đối với Sannosuke chẳng khó gì. Nó vẫn thường bơi như cơm bữa khi bắt cá ở đầm, tuy lần này cẩn thận hơn, không để gây tiếng động.
Sang đến bên kia sông, Sannosuke vẫn chưa hoàn hồn. Bám vào rễ cây, nó trườn lên bờ như một con rắn, chờ tới chỗ khuất không trông thấy cây cầu gỗ nữa, nó mới vội vã đứng lên hướng về phía đồng Hotengahara rảo bước.
Sau nó, về mạn xóm tiều, lửa cũng vừa rực sáng, chiếu đỏ chân trời và khiến những hàng cây ở gần hiện rõ nét như cắt.
oo - Thầy ! Thầy ơi ! Thầy có nhà không ?
Nghe giọng sợ hãi, cấp bách của đồ đệ, Musashi vùng dậy mở cửa. Nhìn thằng bé ướt nhẹp bùn đất, hắn trố mắt ngạc nhiên. Không đợi sư phụ hỏi, Sannosuke liến thoắng:
- Con ở đền Toku về. Bọn sơn quỷ đang phá xóm, đốt nhà ...
Musashi cau mày:
- Sơn quỷ ? Sơn quỷ nào ? Phải cướp không ?
- Dạ phải, phải. Nhiều lắm, đến hai chục đứa ... Xóm tiều ... Con suýt bị giết chết... Thầy mau đi cứu họ ...
Không đợi trò nói thêm, tuy chỉ là những câu nhát gừng, hỗn loạn, Musashi chạy bổ vào nhà trong, một loáng đi ra, song kiếm đã giắt ngang lưng, khăn trên đầu buộc vội.
- Thầy cho con đi cùng ...
- Không được ! Con ở lại con nhà !
Sannosuke trố mắt:
- Thầy chưa biết đường, để con chỉ ...
- Không cần ! Chỗ lửa cháy đằng xa kia chứ gì. Ta biết !
Nó năn nỉ:
- Nhưng con giúp thầy được nhiều việc, thầy cho con đi ...
- Không ! Nguy hiểm lắm. Vướng cẳng ta.
Thấy thầy sẵng giọng, Sannosuke đành cúi đầu vâng lệnh. Rồi tần ngần nhìn sư phụ bước nhanh về phía chân trời đỏ rực, lòng nó băn khoăn chẳng rõ ông có đủ tài đối phó với bọn quỷ dữ ấy không ! Nỗi lo âu bỗng dưng tràn ngập tâm hồn ngây thơ của nó.
oo Bọn sơn quỷ mới ra khỏi xóm chừng non một dặm thì Musashi cũng vừa tới. Chúng khoảng bảy tám đứa, mặt đỏ gay phần vì rượu, phần vì do ánh lửa từ những bó đuốc chúng cầm hắt tới, mồ hôi nhễ nhại, đánh hai chiếc xe bò lớn chở thực phẩm cao có ngọn, theo sau có đến chục phụ nữ tóc xõa, áo quần xốc xếch, tay bị trói giật cánh khuỷu, vừa đi vừa khóc mếu. Nói đi thì cũng không đúng vì họ bị trói thành một xâu, nếu chẳng may có kẻ ngã thì những người kia cũng ngã theo. Tên cướp đi cạnh hò hét, thúc đẩy, thỉnh thoảng lại pha trò tục tằn hoặc giơ roi hăm dọa. Kẻ nào tránh né thì cả xâu nghiêng ngả, nên có những lúc cả bọn phụ nữ phải bò. Dưới ánh đuốc bập bùng, đoàn người khốn khổ ấy trông chẳng khác gì tội nhân dưới địa ngục bị bầy quỷ sứ dẫn đi hành quyết.
Thấy một bóng người cao lớn chặn đường, cặp lông mày rậm bị chiếc khăn kéo ngược xếch đến thái dương, đôi mắt đỏ au như hổ phách, sát khí phừng phừng toát ra từ chân tóc, bốn tên cướp đi đầu khựng lại, quát:
- Ai ?
Yên lặng. Bóng người cao lớn kia vẫn tiến bước, tay để vào đốc kiếm. Bọn cướp nhất tề thoái lui. Musashi đảo mắt vọ, đếm đúng tám đứa. Bốn trước mặt, ba áp tải xe lương và một đứa đoạn hậu dẫn đám phụ nữ.
Một tiếng thét như sấm, ánh thép lóe sáng. Hai thây người gần nhất đổ xuống tựa củi mục, máu ở ngực và cổ họng chúng phun ra có vòi. Tiếng la hét thất thanh của đám phụ nữ cùng tiếng chân chạy loạn xạ.
- Mày là đứa nào ? Sao dám cản trở việc làm của chúng ta ?
Musashi cười gằn, lau máu kiếm lên áo rồi tra kiếm vào vỏ. Bây giờ hắn tay không, thách thức. Hắn không cần võ khí vì cầm chắc phần thắng. Biết địch thủ chỉ là những tên thảo khấu tầm thường, ô hợp, Musashi muốn một lần làm cho chúng phải nể sợ, cạch đến già. Đó là hành động khinh địch, Musashi biết, nhưng là một hành động có mưu tính.
- Ta là thiên sứ, trời sai xuống bảo vệ dân xóm này.
Tên cướp không tin, cầm giáo xỉa Musashi một nhát. Hắn né tránh và nhanh như cắt, bắt lấy cán giáo giật mạnh. Gã kia theo đà ngã chúi về phía trước.
Thuận chân, Musashi đá một cước như trời giáng vào hạ bộ nó. Cùng với tiếng thét xé ruột vì đau đớn, tên cướp tung lên rồi rơi xuống, đầu đập vào tảng đá, nằm ngay đơ như cán cuốc trên mặt cỏ.
Hai đứa khác xông tới. Một đứa định dùng dao quắm phạt ngang sườn, một đứa lấy gậy bổ lên đầu địch thủ. Musashi nhanh mắt vớ ngay cây đuốc cắm trên xe ném vào mặt một thằng. Trong lúc chúng đang lúng túng, cây giáo trên tay Musashi tựa lằn chớp phóng ra, xiên cả hai đứa làm một như xâu cá nướng.
Thủ pháp của Musashi xuất quỷ nhập thần, nhanh vô kể. Những đứa kia đã bỏ chạy từ bao giờ, còn lại một tên không tin ở mắt mình, đứng nhìn, mồm há hốc.
Musashi tiến đến, hai tay chắp lại giơ cao. Một tiếng rắc, đầu tên cướp vỡ nát, chết tươi, không kịp kêu. Máu ở mắt và miệng ộc ra loang thẫm cả râu và ngực.
Đám phụ nữ phía sau khóc như ri. Musashi bước đến, họ sụp lạy xin tha.
Hắn phải trấn an:
- Đừng sợ ! Ta không hại người vô tội. Ta đến giết bọn quỷ cứu dân xóm.
Bây giờ bọn phụ nữ mới vén tóc hé mắt nhìn lên. Thấy gã làm ruộng vẫn ở căn lều cùng với một thằng nhỏ tại đồng Hotengahara, họ vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Thật là chuyện không ngờ. Kẻ mà dân làng vẫn cho là đần độn, không ai lưu ý lại chính là ân nhân của cả xóm.
- Bọn chúng bao nhiêu đứa ? Sao chỉ có mấy thằng này thôi ?
- Chúng nhiều lắm, còn ở lại trong xóm.
Musashi cắt dây trói và bảo bọn phụ nữ đánh xe bò trở lại. Hắn về xóm trước xem tình thế ra sao và xử bọn sơn quỷ còn lẩn quất ở đó.
Đến nơi, lửa đã bớt. Mùi gỗ thông lẫn với mùi quần áo và thực phẩm cháy khét lẹt.
Trẻ con và những người già nhớn nhác tìm cha mẹ, con cháu, gọi nhau ơi ới. Nhưng thanh niên thì không thấy ai. Có lẽ họ đã trốn hết, sợ bọn sơn quỷ ra tay giết sạch. Nắm một cụ già lại hỏi, cụ sợ hãi lắp bắp chẳng ra hơi. Mãi sau, gặp nhiều người khác, giải thích mãi, Musashi mới được họ cho biết bọn chúng tập trung tại nhà trưởng xóm. Ở đấy có mấy thùng rượu sa-kê, chúng tiếc chưa bỏ đi, còn ngồi nướng gà vịt nhậu nhẹt. Musashi phóng đến. Trong nhà ồn ào như chợ vỡ. Ngoài cửa, một tên cướp cầm giáo ngồi canh.
Bò dưới hàng giậu thấp, Musashi đến gần, xuất kỳ bất ý phóng ngay quyền vào gáy nó. Chỉ kịp nấc lên một tiếng ngắn, nó gục xuống. Musashi giật cây giáo lẩn vào bụi rậm.
Trong gian phòng chính nhà trưởng xóm, trên chiếu trải xung quanh bếp, lố nhố nằm ngồi chừng hơn chục tên cướp, đứa nào cũng râu ria xồm xoàm, mặt mày dữ tợn.
Gần bếp, ngay dưới cửa sổ, một tên ý chừng đầu đảng, ngồi lầm lì, tay ôm hũ rượu lớn.
Gã cởi trần, khoác áo da beo màu vàng sẫm ngắn đến lưng, trên đầu thắt sợi dây chão thay khăn. Khắp nhà, la liệt hũ với bát cùng võ khí đủ loại. Thình lình một tên xô cửa bước vào. Tiếng ồn ào im bặt. Nhìn nét mặt và dáng điệu vội vàng sợ hãi của nó, cả bọn đoán ngay có sự chẳng lành. Quả nhiên đó là một trong những tên đi hộ tống xe lương bị Musashi đánh, kinh hoảng chạy về thông báo cho đồng đảng biết.
Còn bán tín bán nghi và đang vật vờ vì say rượu, chưa đứa nào nói gì thì một tiếng thét vang như sấm làm rung động vách ván của căn nhà gỗ. Tiếp theo là một bóng đen từ trên cửa sổ nhảy xuống. Phản ứng của tên đầu đảng nhanh nhất. Nó vớ con dao quắm đứng lên, nhưng không kịp nữa. Ngọn giáo trong tay Musashi đã phóng tới đâm suốt sau lưng, mũi giáo lòi ra trước ngực đến một tấc. Tên cướp ngã sấp xuống chiếu giữa những tiếng loảng xoảng của hũ, chén đổ vỡ.
Trường kiếm rút ra, Musashi tung hoành như cọp dữ trong đàn dê. Kiếm quang lóe tới đâu, thịt rơi tới đó. Thủ cấp lăn lông lốc trên sàn, mắt mở trắng dã đến nứt kẽ như còn giữ nỗi kinh hoàng của kẻ bị giết trước khi chết. Tiếng kêu, tiếng rú thất thanh, tiếng ằng ặc, phì phì của máu phun ra khắp chỗ trong hỗn loạn cùng cực.
Khi không còn một tên đứng vững, Musashi mới ngừng tay. Hắn lau kiếm, dựa lưng vào vách nhìn cảnh tàn sát trong phòng, lòng bỗng rung động, khẽ thở dài.
Trong giai đoạn lịch sử xáo trộn, ở một nơi hoang vu như thế này, không ai biết luật lệ là gì, hắn không còn cách nào khác là nhất thời dùng lưỡi kiếm của mình để bảo vệ kẻ cô thế.
Đoàn phụ nữ bị bắt giải đi cũng đã trở về, đẩy theo hai xe bò chở lương thực bị cướp. Cha mẹ, vợ con gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Lại nghe bọn sơn quỷ bị giết gần hết tại nhà trưởng xóm, dân làng kéo nhau đến tạ Ơn cứu tử.
Khi trông thấy ân nhân, họ ngạc nhiên vô cùng. Không ngờ chính là gã nông phu ở đồng Hotengahara. Nhiều người phục xuống lạy, một phần vì quá xúc động, một phần vì muốn tạ tội đã coi thường hắn trong bao lâu. Musashi bối rối, đỡ những người già dậy và bảo tất cả đứng lên. Hắn xin được coi như dân trong xóm.
Trong khi một số trai tráng bận lo việc thu nhặt xác bọn cướp chôn cất, Musashi cáo từ để trở về căn lều cỏ.
- Ta chắc thế nào cũng có những bọn cướp khác trở lại. Hãy họp nhau thành đội mà chống cự. Đào hào, rào giậu, canh phòng, chữa lửa. Mỗi đội có trách nhiệm riêng.
Hãy luyện tập cho giỏi, nhưng đừng vì thế mà sao lãng việc trồng cấy. Tay gậy, tay cuốc để sinh tồn, anh em hãy nhớ !
Đó là những lời cuối cùng Musashi nói với trai tráng ở xóm tiều đêm ấy.