Bạn đang xem trang 4 / 9 trang

Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Sáu T12 15, 2006 9:07 pm
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ



QUYỂN 3 : Hi no Maki


CHƯƠNG 27
PHÙ DU TRƯỚC GIÓ




Buổi kinh sớm vừa xong, toán lễ sinh ôm sách theo nhau đến học quán. Họ toàn là xử nữ được tuyển dụng vào đền Arikida phụ giúp việc tế lễ và ca múa nên ngoài phần vụ hàng ngày, còn phải học thêm cổ thi và nhạc lý. Trong những buổi lễ chính thức, toán thiếu nữ lễ sinh vận đồng phục áo trắng, quần lụa ống rộng màu huyết dụ gọi là hakama, nhưng ngày thường, đồng phục của họ là kimono ngắn tay và hakama bằng vải trắng.
Đền Arikida ở biệt lập một khu trên ngọn đồi cao, kiến trúc đơn sơ nhưng cổ kính, trong một khung cảnh u tịch. Đền ở xa các sơn đạo nên ít khách vãng lai. Nếu có ai muốn đến chiêm bái thì phải gọi cổng, thủ đền đích thân ra hướng dẫn vào đại sảnh.
Quanh đền lũy đất đắp cao quá đầu người, chỉ để một cửa nhỏ thông ra suối.
Hôm ấy, phụ trách việc quẩy nước vào đền là hai thiếu nữ lễ sinh tuổi chừng đôi tám. Cả hai mang gàu tre từ nhà bếp đi ra chuyện trò ríu rít, bước chân ngắn và mau vẽ thành những vệt dài trên cỏ ướt.
Đến cổng sau, vừa mở cửa, nàng nhỏ tuổi nhất giật mình lùi lại đưa tay lên miệng giữ tiếng kêu khẽ. Vì cái túi vải không biết của ai để đó từ bao giờ, theo đà cửa mở, lăn vào trong thềm đá.
- Mô Phật !
Cả hai nhìn chiếc túi vải chằm chằm. Túi bằng vải khô màu chàm đã bạc vì mưa nắng, miệng sờn rách, đổ nghiêng đè lên một thanh kiếm gỗ, vỏ đen bóng như mun.
- Túi này của ai ?
Hai thiếu nữ phân vân nhìn nhau. Cô lớn lẩm bẩm:
- Đồ ăn trộm. Chắc đồ ăn trộm rồi ! Kẻ nào đem vào đây giấu ...
Không ai bảo ai, họ thò đầu ra ngoài cổng nháo nhác nhìn quanh rồi bỗng nhiên ù té chạy về hướng bếp. Đến dãy nhà gỗ dùng làm phòng vãng lai cho khách, họ tranh nhau gọi:
- Chị ! Chị ! Ngoài cổng sau có vật gì lạ lắm !
Otsu bỏ dở quyển kinh đang chép, đặt vội xuống bàn chạy ra.
- Có cái túi vải của ai để ngoài cổng. Bọn tiểu nữ chắc là đồ ăn trộm.
- Sao không đem vào đưa cho lão quản ?
- Không biết bên trong đựng gì. Bọn tiểu nữ sợ lắm !
Otsu tò mò, định cùng ra cổng sau với hai thiếu nữ, nhưng thấy họ lộ vẻ hoảng hốt quá nên thôi. Nàng ân cần bảo:
- Vậy để ta coi. Các em vào làm việc khác đi vậy !
Nhìn chiếc túi vải nằm chơ vơ bên cánh cổng khép hờ, Otsu có cảm giác kỳ lạ.
Chiếc túi cũng cô đơn như nàng, cũng phiêu bạc như nàng. Chủ nó là ai, ở đâu, nàng không biết, nhưng trông cái màu chàm đã bạc, cái miệng túi đã sờn, nàng đoán chắc người mang nó cũng phong sương lắm. Otsu cúi xuống lấy tay nhấc thử thấy nặng quá, bèn dùng cây gươm móc vào miệng túi mà kéo lê trên cỏ.
“Nặng thế này mà cũng đeo được !”. Thế rồi động lòng trắc ẩn, nàng lại thương kẻ vô danh.
Đã hơn hai tháng nay, Otsu và Jotaro đến tá túc ở ngôi đền này sau khi lang bạt trên khắp các ngả đường đi tìm Musashi. Bấy giờ là mùa đông, nhiều sơn đạo tuyết phủ kín, sức nàng yếu đuối chắc không thể nào tiếp tục được. Nhân một buổi trọ tại lữ quán kia, nàng đem sáo ra thổi cho vơi niềm u uẩn thì được một khách quan chú ý.
Không ngờ khách lại là một người có chức vị trong đền Arikida, mời nàng về dạy nhạc cho các xử nữ. Ở hoàn cảnh tứ cố vô thân như nàng bấy giờ, thôi thì đâu cũng là nhà, khác gì cánh phù du mùa đông mặc cho gió đưa đẩy. Nàng gật đầu ưng thuận.
Thế là Otsu và Jotaro được vị khách quan kia dẫn về đền. Chỉ phiền một nỗi Jotaro lại là con trai, mặc dầu còn nhỏ tuổi, nhưng theo luật lệ không được phép ở cùng một khuôn viên với các xử nữ. Vì thế người tá điền giao cho nó việc phụ giúp lão làm vườn và buổi tối cùng ngủ chung trong vựa củi với lão.
Thời gian trôi qua, Otsu càng ngày càng yêu cảnh u tịch của ngôi đền. Thông reo gió sớm, giọng chim lảnh lót lúc ban mai, và những buổi chiều tà, tiếng vạc kêu sương gợi cho nàng biết bao hoài cảm. Có những lúc ngồi lặng trước cảnh yên tĩnh của thiên nhiên, Otsu ngơ ngẩn xuất thần mặc cho hồn phiêu diêu ngược dòng thời gian trở về những năm tháng cũ. Nàng tưởng như đương ngồi trên bực đá ở thềm chùa Shippoji, lòng lâng lâng không vương vấn. Những lúc ấy, Otsu lại đem sáo ra thổi:
thanh ba tinh khiết của tiếng trúc dâng cao, lòng nàng quyện vào những âm thanh đó mỗi lúc một say sưa làm nàng ngây ngất.
Đằng xa, một vệt khói xanh bốc lên trong khu vườn hoang. Otsu nhớ đến Jotaro, tội nghiệp thằng bé đã phải lao động cực nhọc ở cái tuổi mà trẻ con chỉ biết chơi đùa.
Chắc bây giờ nó đang nhặt cành khô và đốt lá. Nàng bắc loa tay gọi lớn:
- Jotaro !
Có tiếng đáp và lúc sau, Jotaro chạy tới. Bộ mặt đen đủi lém lỉnh của nó loang loáng dưới ánh nắng qua khe những cành cây trong vườn. Jotaro lấy tay quệt mồ hôi trán, toét miệng cười:
- Ngỡ là ai. Chị gọi em làm gì vậy ?
Đột nhiên, Jotaro nhìn thấy cái túi vải Otsu để bên cạnh:
- Cái này của ai thế ?
Vừa hỏi, Jotaro vừa giơ tay định kéo cái túi, nhưng Otsu ngăn lại:
- Không được ! Không biết của ai. Để ta gọi người mang lên giao cho lão quán.
Không được đụng đến đấy !
Bỗng từ xa, một lễ sinh chạy tới trước mặt Otsu:
- Xin mời chị về ngay. Viện chủ muốn gặp.
- Thế à. Ta về ngay đây. Nhân thể nhờ em mang cái túi này trao cho lão quản, để hễ có ai đến hỏi thì hoàn lại cho họ.
Jotaro nhìn cái túi vải và thanh gươm người thiếu nữ lôi đi, mắt nó buồn và môi bậm chặt. Nắng sáng rọi qua cành thưa, vài chiếc lá khô còn sót lại rủ bóng loang lổ lên mặt Jotaro khiến miệng nó trông như mếu. Otsu nhìn Jotaro lo lắng hỏi:
- Chuyện gì thế em ? Em nhìn gì vậy ?
Jotaro lắc đầu buồn bã:
- Không ! Em trông cái túi và thanh gươm, lại nhớ đến thầy em !
Nghe Jotaro nói, Otsu không nén được xúc động, mắt đỏ hoe. Nghe lời Takuan, nàng đã cố quên con người ấy, nhưng hình ảnh Musashi vẫn luôn luôn ám ảnh. Lời nói của thằng bé khơi dậy sự nhớ thương mãnh liệt làm Otsu đau khổ vô cùng.
Nàng có cảm tưởng nó như cơn đau răng, lúc bận quên đi thì thôi, nhưng hễ ai động đến thì nhức nhối. Nỗi đau nhọn sắc tựa gai đâm sâu vào vết thương chảy máu. Takuan chưa yêu, hay không biết yêu là gì, hiểu thế nào được tâm trạng của nàng lúc ấy. Nàng đưa tay áo lên chùi nước mắt, lầm lũi bước đi. Có lẽ nàng phải bỏ nơi này, dù gian nan đến mấy cũng chịu, chỉ cốt nhìn mặt người yêu, ghé đầu vào ngực người nàng thương nhớ. Vui buồn lẫn lộn, nước mắt lại trào ra, hình ảnh Musashi nhòe nhoẹt. Như trong giấc mơ, ảo tưởng làm Otsu quên cả thực tại khiến hai lần Jotaro phải chạy đến lo ngại hỏi:
- Chị ! Chị làm sao thế ?
Mãi khi thằng bé kéo áo, ngập ngừng:
“Chị giận em đấy à ?”. Otsu mới sực tỉnh. Nàng gượng cười với thằng bé:
- Không. Ta có tâm sự buồn. Thôi em đi làm đi, ta lên xem viện chủ bảo gì, đến bữa chiều sẽ lại gặp em.
Viện chủ Arikida gọi văn phòng của ông là Văn Mặc Viện, nơi ông vừa tiếp khách, vừa hội họp và nghiên cứu cổ thư để soạn thảo văn liệu cho đền. Sát với viện là một ngôi nhà gỗ dùng làm trường học cho các lễ sinh, đồng thời cũng là nơi dạy dỗ một số các trẻ nhỏ trong mấy quận lân cận. Ông có ý dạy cho phái thiếu niên biết về cổ sử Nhật, một điều mà các nhà giáo dục thời bấy giờ cho là vô ích. Nhưng ông, ông nghĩ khác. Đa số dân chúng thường có khuynh hướng liên kết quốc gia với lịch sử các triều đại, nên chỉ giữ lòng trung với một triều đại nào đó thôi mà quên mất lòng trung với quốc gia. Hưng vong của giai cấp, họ cho là hưng vong của cả dân tộc, họ chỉ biết xả thân cho giai cấp, vì vậy cảnh tương tàn phe phái làm quốc gia suy yếu. Cho nên ông đi tìm cái gốc, dạy cho trẻ hiểu đâu là nguồn, hy vọng sau này sự tha thiết với nguồn gốc sẽ đơm hoa kết trái để dân tộc còn mãi với thời gian.
Với lòng thành khẩn, kiên trì, ông san định lại cổ thư, phả vào đó luồng sinh khí mới để phái thiếu niên dễ cảm thông với cổ nhân hơn. Ông làm việc ấy cả mười năm rồi, tuy chưa đáng gọi là có kết quả gì đặc biệt nhưng dân trong vùng đã giác ngộ:
triều đại này suy vi, triều đại kia hưng thịnh thì đó cũng chỉ là những chuyển biến của quốc gia, tỷ như những ngôi sao lúc mọc, lúc lặn, ánh sáng mờ nhạt không thể bì với ánh thái dương, tiêu biểu cho dân tộc được.
Viện chủ Arikida vừa ra khỏi phòng học thì một lễ sinh đã đến trình với ông là Otsu đang chờ ở viện. Ông sực nhớ ra, có vẻ bối rối:
- Ờ, ta quên khuấy đi mất đấy.
Bèn vội vã vào văn phòng. Gặp Otsu, ông nhã nhặn xin lỗi:
- Để chị phải chờ, lão phu thật đắc tội. Chị tới đã lâu chưa ?
- Dạ, tiện nữ cũng vừa đến. Viện chủ cho gọi có việc gì ?
- Không quan trọng lắm, nhưng có đôi chút liên quan đến chị. Chị dùng trà đã.
Vừa hay, lão quản bước vào, nói nhỏ với viện chủ điều gì. Ông nghiêm sắc mặt, khẽ gật. Quay sang Otsu, ông hỏi:
- Chị có nghe lão quản vừa nói gì với ta không ?
- Dạ, tiện nữ đâu dám vô lễ.
- Một cái túi vải và thanh kiếm vừa được tìm thấy trong khuôn viên đền. Chắc không phải do khách thập phương đến chiêm bái để lại.
- Tiện nữ đã biết.
- Chị biết rồi ?
- Dạ ! Chính tay tiện nữ kéo vật đó từ cổng sau vào và đã nhờ một em lễ sinh mang giao cho lão quản.
Viện trưởng lặng thinh, nhìn Otsu, lúc sau mới nói:
- Chắc lại của một Samurai nào đó muốn chọc ghẹo người trong đền thôi.
- Viện chủ nghi có kẻ đột nhập đền xử nữ này chăng ?
- Có thể lắm. Nhân chuyện này, ta cũng muốn nói đến việc của chị.
- ...
- Thật là bất đắc dĩ. Chị hẳn hiểu ta không có ý gì ...
- Xin viện chủ giải thích thêm, tiện nữ quả không biết rõ.
Viện chủ Arikida thở dài, vẻ bối rối ra mặt:
- Chuyện không quan hệ, nhưng không nói thẳng để chị biết thì không được.
Nhiều người xầm xì về việc ta để chị ở trong đền cùng với các xử nữ. Chị biết đấy, vì tiếng tăm của viện ...
- Thưa viện chủ, tiện nữ đã làm gì ...
- Không ! Không ! Chị đừng giận. Ta không trách, trái lại còn rất cảm ơn. Chị đã giúp rất nhiều cho viện. Nhưng ... nhưng ... Ông bối rối gãi râu ... Chị đã từng trải, trên bước đường lịch lãm, hẳn không tránh được việc gặp gỡ phái nam. Chị tha thứ cho, hoàn cảnh chị không hợp với tiêu chuẩn của bản viện, nên có điều ...
Mặc dầu viện chủ đã rào trước đón sau, dùng những mỹ từ để che giấu điều khó nói, Otsu nghe vẫn khó chịu. Nàng bực bội. Quả thật, Otsu đã đi nhiều nơi, làm nhiều nghề độ nhật, lại luôn luôn mang hình bóng một người đàn ông trong tim, nhưng thật nàng vẫn còn là xử nữ. Bông hoa trên suối, theo dòng nước cuốn đi, ai biết đâu vẫn còn phong nhụy !
Hai hàng nước mắt trào ra, vừa thương phận mình, vừa giận người, Otsu cảm thấy tắc nghẽn ở cổ họng.
Viện chủ Arikida còn nói nhiều, nhưng nàng có nghe gì đâu. Nàng cũng chẳng muốn trần tình, chỉ ghê cho miệng lưỡi thiên hạ. Thôi thế cũng xong, lòng nàng tuy lưu luyến nơi này nhưng sự ra đi chẳng phải do nàng đề nghị. Phù du đâu quản gió đông, một lần nữa lưu lạc, biết đâu may mắn chẳng gặp người nàng mong ước ?
- Tiện nữ xin đa tạ viện chủ đã cho tá túc và không dám ở lại làm phiền quý viện thêm nữa. Vậy ngay từ bây giờ, xin bái biệt, viện chủ cho tiện nữ tạ lỗi để về thu xếp hành trang ....
- Ồ. Gì mà vội thế, chị !
Tuy nói vậy, nhưng ông vẫn đứng dậy mở tủ, lấy một ít vàng gói vào một phong bao nhỏ. Nhìn ra cửa, thấy Jotaro đứng lấp ló, ông vẫy tay gọi vào. Jotaro khép nép đến bên Otsu.
Viện chủ cầm phong bao đưa cho nàng:
- Có chút quà mọn, lão phu trả ơn chị ...
Nhưng Otsu từ chối. Nàng nói:
- Tiện nữ không dám. Đáng lẽ tiện nữ phải trả tiền ăn ở mới phải chứ đâu dám lấy công vài điệu sáo tầm thường ấy.
Khẩn khoản thế nào cũng không nhận. Sau viện chủ Arikida phải cười bảo:
- Chị bướng bỉnh quá. Thế lão phu muốn nhờ một việc, chị có chịu làm cho chăng ?
- Viện chủ cứ dậy, tiện nữ đâu dám từ chối.
- Làm việc này hộ lão phu cũng tốn công sức. Hay là để lão phu đưa tiền cho cháu Jotaro đây làm lộ phí, rồi cháu giúp lão phu. Chị chỉ giám sát thôi cũng đủ.
Nói xong, ông đưa phong bao cho Jotaro. Thằng bé giơ tay ra nhận liền, nhưng nghĩ sao, lại để xuống bàn quay lại hỏi Otsu:
- Em lấy nhé ?
Dáng điệu của nó khiến mọi người mỉm cười. Trước sự đã rồi, Otsu đành gật đầu và cảm ơn lão viện chủ.
- Điều lão phu muốn nhờ là xin chị cho phép cháu bé mang vật này đến biếu ngài Karasumaru Mitsuhiro ở Kyoto.
Ông với tay lên kệ lấy cái ống tre, rút ra một cuốn giấy trải trên bàn. Thì ra là một bức thủy thái họa khá lớn:
- Hai năm trước, ngài Karasumaru có cậy lão phu vẽ cho một bức tranh, ngài sẽ đề thơ bình chú để dâng lên hoàng thượng. Vì vậy lão phu không muốn giao cho bất cứ ai sợ tranh bị hư rách. Cậy đến chị xin hết lòng cẩn trọng cho.
Viện chủ giở dần bức tranh. Tranh họa một cảnh triều đình cổ. Vì lời bình chú chưa đề, nên Otsu không rõ đời nào, nhưng nhìn những nét thanh nhã và các chi tiết được ghi lại rất trung thực và chính xác, nàng thấy tác giả có óc nhận xét thật tinh tế.
Nó có vẻ đẹp riêng, tuy nhiên so với lối họa của Yagyu tiên sinh, nàng cho nét bút của viện chủ kém phần phóng khoáng.
- Chị ! Chị ! Lửa này vẽ đẹp quá, trông bập bùng như thật !
Jotaro vừa khen vừa toan giơ tay sờ vào chỗ vẽ.
- Jotaro ! Không được mó vào ! Xem thôi, sờ vào hư mất !
Trong khi mọi người mãi mê xem tranh, một gia nhân đến gần viện chủ ghé tai nói thầm. Viện chủ gật đầu, đáp lại:
- Thôi thế cũng được. Nếu người ta đã xác nhận được túi và gươm là của người ta thì trao cho họ cũng không hề gì. Nhưng giá bảo họ biên nhận thì hơn.
oo Nghe tin Otsu ra đi, toán lễ sinh trong viện xôn xao hẳn lên. Mấy tháng nay Otsu dạy sáo và nhạc cho họ, họ rất thích thú và quý trọng. Nàng luôn luôn như người chị cả tài hoa, không những từng trải việc đời mà còn khéo léo tế nhị, hướng dẫn họ trong mọi việc và cách cư xử hàng ngày. Đôi khi có sự bất hòa, nàng đứng ra dàn xếp, mọi người đều vừa lòng và hoan hỉ.
Tan giờ học, bọn lễ sinh kéo nhau đến phòng Otsu, ríu rít hỏi thăm:
- Chị đi thật đấy à ?
- Chị có trở lại không ?
- Sao chị lại bỏ đi. Chúng em nhớ lắm. Biết bao giờ mới lại có thầy dạy nhạc được như chị.
Nhiều thiếu nữ lộ vẻ rầu rĩ vì phải xa Otsu. Họ đến ôm nàng, cầm tay bịn rịn. Vài người giúp Otsu thu xếp hành trang. Hành trang nào có gì đâu, mấy bộ quần áo, gương lược linh tinh thu gọn vào vừa một gói Otsu đeo trên lưng. Cuộc đời lưu lạc sông hồ, mang nhiều theo càng thêm bận. Đối với Otsu, buổi ra đi hôm nay sao lạ kỳ, nàng phân vân vui buồn lẫn lộn. Một cảm giác vừa như lưu luyến vừa như được giải thoát đến xâm chiếm tâm hồn, Otsu thở dài nghĩ thầm:
“Sự thay đổi nào mà không nhiều sầu muộn ?”.
Cả đoàn lễ sinh theo Otsu ra khỏi phòng. Mắt mọi người đỏ hoe, vài thiếu nữ không cầm được xúc động, sụt sịt khóc.
Otsu cố lấy giọng bình tĩnh, khuyên giải:
- Thôi thì chẳng nên buồn phiền. Ở đời, ly biệt là sự thường. Có hợp thì có tan. Rồi một ngày ta sẽ gặp lại các em. Hãy bảo trọng lấy thân và trau dồi tài đức ...
Nàng nói mà trong lòng áy náy vì dư biết lần này ra đi là vĩnh biệt. Làm gì còn có cơ hội nào trở lại đây nữa.
Một lễ sinh đề nghị tất cả cùng đi tiễn Otsu ra tận chân cầu Isuzu. Gió đông thổi se sắt luồn vào tay áo ngắn, các nàng cảm thấy lạnh, nép vào nhau run rẩy.
Bước xuống thềm, Otsu đưa mắt nhìn Jotaro, đã thấy thằng bé ngồi chờ ở đó từ lúc nào. Nó trả lại đền bộ đồng phục trắng, mặc chiếc kimono ngắn cũ trước kia, vai đeo thanh kiếm gỗ dài cùng chiếc ống tre viện chủ giao cho nó mang đi. Trong túi vải nhỏ bên sườn còn chiếc mặt nạ và bộ áo để thay đổi.
Thấy Otsu, Jotaro phụng phịu:
- Sao chị lâu thế ?
Otsu cười, hỏi lại:
- Thế em làm gì trong lúc chờ ta ?
- Chả làm gì cả. Em ngắm cảnh đồi. À, em thấy một người trông giống thầy em lắm, đi về phía chân núi.
- Trời ! Em thấy Musashi sao ?
- Giống thôi, nhưng nhìn kỹ có lẽ không phải vì ông này đi khập khiễng.
Otsu thở dài, im lặng. Trong cuộc hành trình cùng với Jotaro, sự nhầm lẫn như vậy xảy ra rất thường:
khi thì người mang gươm cưỡi ngựa trên quan lộ, lãng nhân đội nón nan bên cửa lữ điếm, khi thì Samurai vừa bước xuống đò ... hai chị em trông ai cũng thấy Musashi, đến gần mới biết là không phải. Hy vọng lóe lên rồi vụt tắt, chuyện xảy ra có lẽ đến hàng chục lần, bây giờ Otsu không còn hồi hộp cuống quýt nữa. Nàng chỉ yên lặng an phận. Và thở dài.
Jotaro lon ton đi trước. Một thiếu nữ hỏi nhỏ Otsu:
- Em bé là con chị đấy à ?
Otsu ngạc nhiên nhìn thiếu nữ. Đột nhiên nàng hiểu, hơi đỏ mặt:
- Sang năm ta mới hăm mốt, làm sao có con lớn như vậy được !
- Thế mà người ta cứ đồn ...
Otsu nhớ lại những lời viện chủ nói, nhưng nàng tự trấn an ngay, nghĩ rằng Musashi chắc chẳng tin những lời dèm pha đồn đại ấy.
Đến cuối vườn, Otsu rẽ vào phía miếu thờ Đức Thái Dương thần nữ.
- Chị lầm đường rồi. Ra cổng phía này kia mà !
- Không, ta muốn vào lễ Đức Bà.
Đến trước cửa miếu, nàng chắp tay kính cẩn đọc một bài kinh ngắn và cúi đầu lâm râm cầu nguyện.
Đi một quãng, không thấy Otsu, Jotaro quay trở lại. Thấy nàng ở trước cửa miếu, nó đứng sững nhìn. Một lễ sinh bảo nó:
- Sao em không vào lễ với chị ?
- Em không lễ. Việc gì em phải lễ ?
- Đây là Đức Bà thần nữ, thủy tổ và cai quản muôn loài, không phải như những thần linh khác. Vào lễ đi, Đức Bà phù hộ cho.
- Không. Em không lễ. Ngốc thế !
Cả bọn sững sờ vì thái độ cục cằn khiếm nhã của thằng bé. Otsu lễ xong quay ra, thấy vẻ bất bình trên mặt họ, bèn hỏi nguyên do. Nàng cau mặt mắng Jotaro:
- Jotaro hỗn lắm nhé. Nếu em không tin thì cũng phải trọng tín ngưỡng của kẻ khác chứ. Nhưng em nên lễ là phải.
- Tại sao ?
- Vì Đức Bà là thủy tổ giống nòi ta, ta phải biết ơn và tôn kính. Vả lại có phải chính em đã nói với ta lúc ở cánh đồng hoang Hannya, em cũng cầu Trời lạy Phật cho thầy em thoát nạn mà. Em lạy Đức Bà đi, Ngài sẽ phù hộ cho chóng gặp thầy.
Jotaro cúi đầu, một lúc sau mới nói:
- Nhưng các cô này cứ nhìn em ...
- Ừ thì chúng ta sẽ quay mặt đi. Vào lễ đi.
Jotaro đến vội cửa miếu, chắp tay lại mấy cái thật nhanh rồi ù té bỏ chạy, chiếc ống quyển và thanh gươm đập vào lưng nó lịch bịch.

Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Năm T12 21, 2006 11:58 pm
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI
Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ

QUYỂN 3 : Hinomaki


CHƯƠNG 28
CÁI CHONG CHÓNG





Musashi ngồi yên lặng đợi đò ngang dưới mái hiên hẹp của một quán bán hải vị trông ra biển.
Ăn xong đĩa nghêu luộc mà người hắn nhờ đi mua dép cỏ vẫn chưa về, sốt ruột, hắn cởi miếng vải buộc vết thương ở chân ra. Chỗ đau đã xẹp nhiều, da xung quanh bàn chân bây giờ màu tím hồng và hơi nhăn. Không bị vướng víu khó chịu như trước, Musashi đứng dậy đi ra phía ghềnh đá vốc nước rửa. Buộc lại vết thương xong, trở về quán, hắn đã thấy dép và xà-cạp mới mua để ở đó từ bao giờ, bên túi hành trang chỗ hắn ngồi cũ.
Chủ quán nướng nghêu trong bếp, trông ra nhắc:
- Bác chân sào tìm khách quan đấy. Thuyền sắp rời bến rồi.
- Ồ vậy ư ? Để ta trả tiền và ra ngay bây giờ. Hôm nay ngày mấy rồi quán chủ ?
Chủ quán cười:
- Khách quan thật là hạnh phúc. Nghe hỏi, biết ngay chẳng nợ nần ai. Hôm nay hăm bốn, sắp hết năm rồi còn gì.
- Chà ! Thế mà ta cứ tưởng muộn, hăm bảy hăm tám gì đó !
Chủ quán lắc đầu:
- Thanh niên có khác, vô tư quá !
Musashi trả tiền xong, xỏ chân vào đôi dép mới, buộc vội dây xà-cạp rồi hối hả chạy ra bến. Hắn thấy dễ chịu quá, có thể đi bộ thêm được đến vài chục dặm. Từ tình trạng tàn tật bỗng nhiên trở thành khỏe mạnh, hắn yêu đời hẳn lên. Nhất là sự thành công của hắn trên đỉnh Đại Bàng sơn ngày hôm qua khiến hắn vô cùng tin tưởng vào ý chí mãnh liệt hắn có. Musashi hít mạnh một hơi dài:
không khí dường như nhẹ và thơm hơn, những bước chân trên cát của hắn vững vàng như những bước chân con tuấn mã.
Đò đã đầy người nhưng bác chân sào vẫn cố xếp cho hắn một chỗ ngồi gần mũi.
Biển lặng. Mặt nước trong xanh phẳng lỳ tựa tấm gương soi phản chiếu vài cụm mây lờ lững. Musashi nhìn về phía bến:
dẫy quán ven bờ, ngôi chợ cũ khuất dần trong tàn trắc xanh đen và xa xa là sơn đạo đi Matsuzaka, ngoằn ngoèo giữa những đám tuyết trắng chưa tan. Giá có thì giờ, có lẽ hắn cũng đi gặp Trúc Tử Hãn ở Matsuzaka, nhưng bây giờ thì muộn mất rồi. Hắn cần phải về Kyoto trước tết nguyên tiêu, nên tự hẹn sẽ tìm gặp vị kiếm sỹ này vào một dịp khác.
Vừa từ trên thuyền bước xuống, Musashi chú ý tới ngay một gã đàn ông trung niên đi trước, lưng giắt đoản côn, ngang hông đeo kiếm bao bằng da trâu. Gã trạc độ bốn mươi bốn hai, mày rậm, mắt lồi, mặt lại rỗ chằng chịt. Mớ tóc đỏ quạch buộc ngược về phía sau thành một túm, dáng điệu dữ dằn. Nếu không có thằng bé trạc độ trên mười tuổi vác túi đồ nghề thợ rèn theo sau thì ai cũng ngỡ là kẻ cướp.
Thằng bé má còn dính vệt than và mồ hóng, chắc là thợ phụ. Chân nó ngắn, đuổi không kịp bước của thầy nên thỉnh thoảng phải chạy. Chiếc túi vải gai đeo trên lưng to gần bằng mình nó kêu lịch kịch theo bước đi. Mỗi khi chạy, nó phải lấy tay đỡ túi cho khỏi va vào lưng. Đột nhiên thằng bé khựng lại la hoảng:
- Ý ! Thầy đợi con với. Con quên cái búa rồi !
Musashi phì cười. Nhưng gã đàn ông quay lại trừng mắt:
- Thật hay bỡn ?
- Dạ thật ! Con để quên trên thuyền.
- Hà ! Bây giờ mày lại quên cả đồ nghề độ nhật nữa. Muốn sống đi lấy ngay ! Bận sau mà quên nữa thì chết với ông !
Đứa bé líu ríu vâng lời, cắm cổ chạy.
Con đường từ bến tàu đến chợ chẳng thiếu gì quán bán các vật dụng linh tinh, nhất là đồ kỷ niệm. Thằng bé đi tìm búa quay trở lại không thấy thầy đâu, lo lắng nhìn quanh. Khi thấy gã đàn ông trong tiệm bán đồ chơi bước ra, tay cầm cái chong chóng bằng giấy sặc sỡ, mắt nó sáng lên vui sướng.
- Iwa !
Nghe gọi, thằng bé chạy vội lại.
- Mang cái này cho ta ! Có tìm thấy búa không.
- Dạ có. Con để trong túi rồi !
- Thầy mua cho bé Hồ nhi đấy à ?
- Ừ.
Hai thầy trò gã thợ rèn đi trước Musashi tuồng như dẫn đường cho hắn, vì hắn thấy hắn định rẽ phía nào thì họ cũng đã rẽ trước về phía ấy. Trông dáng điệu, y phục và những đồ nghề thằng bé mang theo, Musashi đoán mười phần chắc chín gã đàn ông là Tsujikaze Kohei, người thợ rèn xóm Ujii, nổi tiếng về ngón đòn với thứ võ khí cổ quái như cái hái do gã chế ra.
Muốn kiểm chứng và nhân thể tìm cơ hội làm quen, hắn rảo bước đến gần, niềm nở hỏi:
- Chào đại hiệp. Đại hiệp cũng đi Ujii đấy à ?
- Phải. Ngươi hỏi gì ?
- Phải chăng đại hiệp là Kohei ?
- Chính thị. Thế ngươi là ai ?
- Tại hạ tên Miyamoto Musashi, đi tìm thầy học võ. Mới đây qua quý xá, có được gặp lệnh khổn ...
- Á à ! Vậy ngươi đã gặp chuyết kinh đấy. Thế ngươi có phải là khách trọ Ở Yamada không ?
- Phải
Kohei mỉm cười ngạo mạn:
- Có người cho biết ngươi muốn tìm ta để học vài ngón sở trường. Vô ích ! Vô ích !
Thủ pháp của ta ngươi chẳng dùng được vào việc gì đâu.
- Sao vậy ?
- Vì vừa nhìn ra thì ngươi đã thành người thiên cổ rồi ! Ta phát lạc nhanh lắm !
Gã nói xong cười ha hả. Tiếng cười vang động cả khu rừng vắng. Musashi đã từng nghe vợ Tsujikaze thốt ra những lời như vậy, tuy lời không hẳn là thế, nhưng ý khinh miệt tương tự. Mụ vợ có vẻ hống hách, song chồng mụ xem ra còn kiêu căng hơn nhiều.
Hắn muốn dạy gã thợ rèn này một bài học ngay tại đây, nhưng nghĩ lại chẳng việc gì mà vội. Takuan đã cho hắn kinh nghiệm đầu tiên về cuộc đời:
đừng tưởng mình là nhất, gầm trời này thiếu gì kẻ hơn ta. Tự cao tự đại chỉ chuốc lấy những thất bại đau đớn. Trước khi thử sức với ai, hãy tìm hiểu và đánh giá kỹ địch thủ.
Nghe tiếng cười ngạo mạn của Tsujikaze vang động bên tai, Musashi chỉ lặng thinh. Lát sau hắn mới khiêm tốn:
- Tại hạ đã hiểu. Nhưng may mắn được gặp đại hiệp ở đây, tại hạ không muốn để lỡ dịp hạnh ngộ. Chỉ xin chỉ bảo cho vài điều về thứ binh khí kỳ dị.
- Ha ha ! Vậy ra ngươi cũng đã biết đến thứ võ khí ấy của ta sao ? Ai dạy ngươi biết ?
- Lệnh khổn đã chỉ cho một chiêu ...
- Được lắm ! Ta cũng thương ngươi thật lòng cầu học. Nếu chỉ muốn nghe ta nói thôi thì về nhà, ta nói rõ cho nghe.
- Đa tạ đại hiệp. Và cũng xin cho tá túc qua đêm.
- Được ! Nhưng ngươi phải ngủ trong bếp với thằng Iwa. Nhà ta không có chỗ dư.
Trời chiều đỏ rực, cả ba đến chân núi Suzuka. Xóm Ujii hiền lành nằm ở cuối con đường nhỏ, ráng hoàng hôn nhuốm hồng các mái tranh như trong một bức cổ họa.
Iwa chạy vội về nhà báo tin trước nên khi Tsujikaze đến ngõ đã thấy vợ bế con nhỏ ra cửa đứng đón, tay cầm chiếc chong chóng gió thổi quay tít.
Vợ Kohei vừa nựng con vừa chỉ vào chồng:
- Hồ nhi ! Bố kìa ! Bố đã về kìa !
Tsujikaze nhìn đứa bé, nét mặt tươi hẳn lên, vẻ thô lỗ kiêu căng biến mất. Gã bế đứa nhỏ trong tay, đong đưa rồi rúc đầu vào nách nó. Nó cười khanh khách. Tsujikaze cầm cái chong chóng dứ dứ trước mặt con. Nó nhoài người ra, tay quơ chân vẫy, và người mẹ cũng cười như nắc nẻ. Gã bế đứa nhỏ đi vào nha trong, vợ theo sau, để mặc cho Musashi đứng một mình ở ven cổng.
Cảnh gia đình êm ấm, tiếng cười rộn rã hồn nhiên của vợ con người thợ rèn làm hắn vui lây, nhưng sao hắn cảm thấy lẫn lộn một chút gì chua xót. Hình như trong tiềm thức, hắn đã được hưởng cảnh này. Kiếp này hay tiền kiếp, hẵn cũng không biết nữa.
Thấy trong nhà gần bếp lò có lửa, Musashi bỏ nón, tháo túi đeo lưng tiến đền gần ngồi sưởi. Cửa hàng vẫn thế, vẫn những nông cụ lặt vặt để trên kệ, vẫn những dây mồ hóng đen rủ lòng thòng từ trên trần xuống như thạch nhũ. Bên ngoài bóng tối phủ đầy. Ánh lửa bật bùng của khúc củi gần tàn chiếu bóng Musashi rung rinh trên vách.
Tsujikaze tắm gội xong sắp ăn cơm mới sực nhớ đến người khách trẻ. Gã gọi vợ:
- Dọn thêm phần nữa cho khách. Ở nhà ngoài ấy, ta ra bây giờ !
Vợ Kohei bưng khay rượu ra. Mụ đặt bình sa-kê lên hâm trên bếp than, liếc nhìn Musashi rồi đi vào trong nhà, lầu bầu khó chịu:
- Lần trước đã tới rồi, giờ lại tới nữa.
Tsujikaze đến ngồi bên bếp. Bộ mặt rỗ của gã trông hiền hậu hơn, không biết vì mới tắm xong hay vì ánh lửa không soi rõ hết những vết lồi lõm. Gã hất hàm hỏi Musashi:
- Uống chút rượu nhá ?
- Vâng, đại hiệp đã cho thì xin nhận.
Tsujikaze cầm bình rượu rót ra đĩa đưa Musashi. Hắn uống một hơi cạn, mím môi lại chép chép miệng. Rượu hơi chua nhưng hắn cũng cảm thấy dễ chịu.
Máu nóng chạy râm ran trong người. Hắn vui vẻ:
- Để tại hạ rót mừng đại hiệp một lần.
- Không sao. Ta có đĩa riêng đây rồi !
Cả hai im lặng ngồi nhìn lửa và những cục than hồng trong lò. Lúc sau, Tsujikaze mới hỏi:
- Ngươi năm nay bao nhiêu tuổi ?
- Hăm hai.
- Quê quán ở đâu ?
- Mimasaka.
Mắt Tsujikaze đột nhiên lộ vẻ chú ý. Gã quan sát Musashi từ đầu đến chân rồi nói:
- Lúc nãy ngươi bảo tên ngươi là gì nhỉ ?
- Tại hạ là Miyamoto Musashi.
- Hừ. Musashi. Viết như Takezo chứ gì ?
Vừa lúc ấy vợ Kohei mang thức ăn ra, một bát canh, một đĩa cá muối, một liễn cơm, mụ đặt cả vào cái khay lớn trên chiếu. Mụ nói với Musashi, không khách sáo:
- Ăn đi.
Musashi cúi đầu cảm ơn. Tsujikaze vẫn thắc mắc, nhưng gã làm bộ tự nhiên rót thêm sa-kê vào đĩa:
- Uống chút rượu nữa đã. Thế khi còn nhỏ người ta gọi tên ngươi là gì. Phải Takezo không ?
- Dạ phải.
- Tên đó ngươi giữ cho đến khi mười bảy mười tám chứ gì ?
- Đúng vậy.
- Năm mười bảy, ngươi có dự trận Sekigahara cùng với một thanh niên nữa cùng trạc tuổi ngươi phải không ?
Đến đây thì Musashi ngạc nhiên thật sự. Hắn chậm rãi đáp:
- Phải. Sao đại hiệp biết ?
Tsujikaze cười xòa:
- Ta biết nhiều chuyện vì ngày đó ta cũng dự trận Sekigahara. Thảo nào trông ngươi quen quen, có lẽ chúng ta đã gặp nhau ở trận tiền.
Bản tính trung trực, Musashi tin ngay và trong lòng chớm nở một mối hảo cảm với gã thợ rèn.
- Chắc đại hiệp thuộc cánh quân của Ukita ?
- Phải rồi. Ta ở gần đó nên đầu quân với các Samurai địa phương. Không may mà phe mình thua trận.
Hai người nhìn nhau, mỗi người một ý nghĩ.
- Thế người bạn đồng ngũ với ngươi bây giờ đâu ?
- Cũng không rõ vì đã lâu không gặp lại.
- Ngay từ sau trận chiến ấy sao.
- Không hẳn thế. Tại hạ với nó phải lẩn trốn một thời gian tại vùng chân núi Ibuki chờ vết thương lành thì chia tay. Về sau nó đi đâu, tại hạ không biết.
Tsujikaze gọi vợ lấy thêm rượu nhưng người đàn bà đã vào nằm với con ở trong phòng. Mụ nói vọng ra:
- Hết rượu rồi !
- Hết thì đi mua, ta muốn uống nữa.
- Sao bữa nay uống nhiều thế ?
- Có chuyện vui muốn uống, được không ?
- Bây giờ khuya rồi, tiệm đầu xóm đã đóng cửa, mua khó lắm.
Tsujikaze lộ vẻ tức giận, cao giọng gọi:
- Iwa !
Không nghe tiếng đáp. Gã gọi lần nữa, to hơn. Một lát mới thấy cửa sau mở, Iwa thò đầu ra hỏi, giọng ngái ngủ:
- Thầy gọi con ?
- Ờ, chạy đến nhà Onosaku vay bình rượu mang về đây ! Bảo nhà có khách.
Musashi đã say. Hắn không uống được nhiều nên gạt đi:
- Thôi thôi, nếu vì tại hạ mà đi vay rượu thì chẳng nên.
- Không được. Phải uống với ta thêm vài bình nữa. Vả lại ta chưa cho ngươi chút biết những điều ngươi hỏi ta mà.
Iwa mang rượu về. Tsujikaze đặt lên bếp. Trong khi đợi rượu nóng, gã thao thao kể lại những võ công đã trải ở chốn giang hồ, không quên thêm thắt cho câu chuyện được hứng thú. Rồi rượu rót ra, gã vừa uống vừa ép Musashi, thành ra tuy đã cẩn thận, đề phòng, hắn cũng không thể từ chối được.
Khi luận đến thứ võ khí cổ quái gã chế ra, Tsujikaze say, nói không còn gãy gọn. Tuy vậy Musashi chú ý theo dõi cũng hiểu được đôi phần:
nào cách dùng quả cầu sắt ném vào mặt địch thủ, dùng dây xích đoạt võ khí, dùng lưỡi hái móc tay chân ...Lại thuật phối hợp dây xích với quả cầu làm địch hoa mắt để dễ bề giương đông kích tây cùng các yếu quyết và phương vị của chân đứng, tay ném ...
Nghe những lời Tsujikaze dẫn giải, Musashi nghĩ thầm gã thợ rèn này cũng khá, đã cố công nghiên cứu và chắc khai triển được nhiều chiêu thức lợi hại. Người ta có hai tay, nếu lúc chiến đấu chỉ sử dụng một tay cầm kiếm thì uổng phí. Để rồ i có dịp hắn sẽ lưu tâm học thêm song kiếm.
Bình rượu mới mang về chẳng mấy chốc đã cạn. Cả hai cùng say mèm. Trong đời Musashi chưa bao giờ say đến thế. Tsujikaze lè nhè gọi vợ:
- Này mẹ nó ! Bế con vào ngủ ở phòng trong đi. Để giường cho khách.
Vợ Kohei không trả lời. Mụ nghe rõ lời chồng, song không muốn rời chỗ ấm.
Tiếng lè nhè của Tsujikaze lớn hơn:
- Nghe ta nói không ? Khách mệt rồi, phải để cho người ta nghỉ. Bế con vào phòng trong !
- Sau không để chú ấy ngủ ngoài đó ?
- Đừng nhiều chuyện. Ta bảo phải nghe.
Nói xong, gã chống tay đứng lên, đi vào phòng lôi vợ dậy. Tiếng gã thở khò khè.
Mụ Kohei cau có buộc lại tóc trong khi gã thợ rèn bế đứa nhỏ nói vọng ra:
- Ngươi nghỉ tạm đây nghe ! Nếu khát, có sẵn ấm nước trên bếp và trà ở đầu giường ấy.
Musashi ngồi bên bếp lửa, trí óc tan loãng không còn suy nghĩ gì được nữa.
Hắn với tay cầm ấm nước, rót một chén uống. Nước trà nguội ngắt, chan chát đắng làm hắn tỉnh đôi chút. Hắn nghe tiếng đàn bà văng vẳng:
- Vào trong phòng ngủ đi. Ta mang gối mới ...Trượng phu ta say chắc. Mai dậy trễ...làm bữa sáng nóng cho ăn.
Musashi lẩm bẩm “cảm ơn, cảm ơn” rồi đi vào trong phòng. Hắn quên cả cởi dép. Ngồi trên chiếu, hắn mới sực nhớ ra, đưa tay tháo dép, ngả mình lên giường và kéo chăn trùm kín mặt. Hơi chăn ấm lẫn với mùi sữa thơm thoang thoảng khiến đầu óc hắn lâng lâng. Trước khi nhắm mắt, hình như Musashi thoáng thấy mụ Kohei thổi tắt đèn và lẩn vào trong bóng tối sập xuống dầy đặc.
Musashi có cảm giác như ai đã dùng vòng sắt đánh đai vào đầu mình và siết chặt. Đầu hắn nhức vô cùng, mạch máu hai bên thái dương đập thình thịch. Muốn ngồi nhưng chân tay rời rã, hắn không còn làm chủ được những cử động của chính mình nữa. Ánh sáng từng vòng, vàng, đỏ, xanh lẫn lộn thi nhau nhảy múa trước mặt.
Giữa lằn biên giới của tỉnh thức và hôn mê ấy, Musashi bỗng thấy hiện ra một thiếu phụ, hắn không nhìn rõ dung nhan, nhưng dáng đi nhẹ nhàng như những vệt sương trên sóng nước.
“À ơi ...Cái ngủ mày ngủ cho say ...”. Điệu ru quen thuộc văng vẳng bên tai đưa hắn trở về dĩ vãng:
một căn nhà gỗ nhỏ, bức tường đá rêu phong với những dây leo, rễ bám chằng chịt mang nhiều chùm hoa tím nhỏ li ti. Cạnh hàng rào, rặng cây rậm rạp cành rủ la đà, mỗi khi đêm xuống, ôm ấp bao nhiêu bí mật. Mẹ hắn bế hắn trên tay, hát ru khe khẽ. Ngọn đèn trên vách, ánh sáng không đủ chiếu khắp gian phòng, nhưng cũng cho thấy những giọt nước mắt long lanh trên gò má mẹ hắn. Mặt bà hiện ra lờ mờ trong ký ức, trắng lắm mà lại phơn phớt xanh, như màu hoa lê mới nở.
Từ phòng trong, giọng ông Munisai, cha hắn, vọng ra giận dữ:
“Cút đi ! Cút về nhà mày đi !”. Mẹ hắn nấc lên, áp má hắn vào mặt. Những giọt nước mắt nóng hổi chả y vào miệng hắn, mằn mặn. Hắn cũng khóc theo. Khối óc thơ ngây ấy không đoán được chuyện gì đã xảy ra trong gia đình và ngay đến bây giờ hắn vẫn không hiểu tại sao cha hắn lại đuổi mẹ hắn đi. Hắn thấy mẹ Ôm chặt mình vào lòng, chạy ra ngoài. Gió thổi ào ào bên tai làm hắn khóc to hơn. Mẹ hắn càng ôm chặt. Đến một nơi hình như là bờ sông, hắn nghe tiếng mẹ hỏi trong nức nở:
“Takezo ! Con là con mẹ hay con cha?”. Mẹ hắn đặt hắn xuống ven sông, bên những hòn đá cuội. Bà lội ra giữa dòng, mặc hắn gào thét giữa bụi cỏ hoang, cạnh những đám bồ công anh hoa vàng lấm tấm. Cơn gió lạnh thổi, hắn rùng mình, mở mắt.
Musashi ú ớ trong miệng, khẽ cựa mình. Thiếu phụ ấy là ai, có phải mẹ hắn không ? Hắn cố vận dụng ký ức để nhớ lại nhưng vẫn không sao mường tượng được nét mặt của bà. Qúa mệt mỏi, Musashi lại em đi trong bóng tối.
Bóng người thiếu phụ hiện ra lúc xa lúc gần, lãng đãng. Bà giơ tay vẫy. Ô hay ! Sao đêm nay, hắn mộng thấy mẹ hắn luôn vậy ! Hắn gọi, nhưng tiếng gọi tắc nghẹn trong cổ họng. Hắn vùng vẫy, và đột nhiên mở mắt.
Cơn say đã tan. Miệng khô đắng, Musashi nằm yên nhìn lên trần. Lửa phòng ngoài tắt từ lâu, ánh than hồng hắt lên các vì kèo loang lổ mồ hóng mang một vẻ mơ hồ quái dị.
Trong cảnh tranh tối tranh sáng ấy, đột nhiên Musashi chú ý đến cái chong chóng giấy cắm trên trần. Mùi da thịt, mùi sữa thơm ngòn ngọt của đứa trẻ và mẹ nó còn như quyện vào chăn gối. Chiếc chong chóng quay nhè nhẹ. Chong chóng quay thì có gì lạ vì người ta làm chong chóng để cho ...nó quay. Nhưng muốn quay phải có gió. Musashi nằm yên, đoán chắc có người vừa mở cửa.
Quả nhiên, hắn nghe tiếng cửa khép nhẹ, rất nhẹ rồi những bước chân rón rén mỗi lúc một xa. Cái chong chóng thôi quay.
Trong một thoáng, Musashi ý thức ngay được nguy cơ sắp xảy ra. Hắn đã hiểu tại sao vợ chồng người thợ rèn lúc đầu tỏ vẻ lãnh đạm thờ ơ, sau lại vồn vã với hắn, để hắn ngủ trong căn phòng êm ấm kín đáo như thế này. Hắn đã hiểu tại sao người chồng nhất quyết đòi mua thêm rượu và phục cho hắn uống say. Hắn tự giận mình không cảnh giác sớm để suýt nữa thì mất mạng.
Musashi tỉnh rượu hẳn. Bản năng tự vệ thức dậy, hắn lắng nghe động tĩnh như một con sâu nằm dưới lá nghe thời tiết xung quanh. Hệ thần kinh bén nhạy của hắn căng thẳng cực độ. Musashi tự hỏi:
Đây là đâu, ổ đạo tặc hay hắc điếm ? Gã thợ rèn này có thù gì với mình ? Soát lại ký ức, hắn chắc chắn chưa bao giờ gặp gã này. Vậy lý do gì ... Nhưng bây giờ không phải lúc tìm hiểu, suy luận. Phải phản ứng ngay, khẩn cấp lắm rồi.
Musashi trườn mình xuống cuối giường, khều đôi dép xỏ vào chân, buộc quai, sửa lại chăn đắp cho ra vẻ vấn còn người nằm ngủ rồi len lén cầm thanh kiếm lẩn vào trong bóng tối dày đặc sau đống củi, than xếp hỗn độn.
Tàn nén hương, đã nghe tiếng chân người bước ngoài hiên và tiếng xì xào khe khẽ.
Cánh cửa lùa hé mở. Dưới ánh sáng lờ mờ của bếp than gần lụi, cái chong chóng quay tít.
Bên tấm màn cửa mỏng, đôi mắt trắng dã của một kẻ mặc y phục lối dạ hành ló ra, tay lăm lăm lưỡi kiếm tuốt trần. Theo sau là một người cao lênh khênh, cầm giáo. Cả hai men theo vách, đến trấn hai đầu giường. Gã thợ rèn vào sau chót, một tay cầm lưỡi hái, một tay giữ quả cầu.
Chúng đưa mắt nhìn nhau, rồi như cùng theo một mật hiệu, quát lớn:
- Takezo !
Đồng thời phóng chiêu ra như chớp xẹt. Giá Musashi còn nằm đó chắc trở tay không kịp mà có chết cũng chẳng toàn thây. Nhưng không một ai trông thấy phản ứng gì hết. Ba loại võ khí đã đánh vào quãng không, hay đúng ra, đã đánh vào một đống chăn gối bỏ không. Tiếng thét làm rung chuyển căn nhà gỗ chỉ đánh thức đứa nhỏ dậy làm nó khóc ré lên ở trong phòng.
Gã thợ rèn phóng cước đá tung chiếc chăn đắp. Không thấy Musashi, gã chửi thề một câu tục tĩu, chạy vội ra ngoài:
- Bọn ngươi đứng đây có thấy nó trốn không ?
- Không ! Sao ! Nó trốn rồi à ?
- Còn hỏi gì nữa ? Toàn đồ ăn hại, không được việc gì hết.
- Nhưng nó trốn đi đâu ? Bọn tiểu đệ canh ở đây ngay từ khi đại ca bảo, có thấy gì đâu !
- Kia kìa, cái cửa mở hé kia kìa. Đồ ngu, ở đó chứ đâu nữa !
Tsujikaze giận sùi bọt mép, đi đi lại lại bên bếp lửa như con thú dữ trong cũi.
Gã cao giọng:
- Anh em lại đây ! Tất cả ! Ta nói chuyện !
Mọi người tề tựu xung quanh gã, lố nhố có đến chục tên chứ không ít. Gã thợ rèn tiếp tục:
- Thằng này nguy hiểm lắm, tên Takezo. Nó khỏe vô địch. Trước đây năm năm, chém bào huynh ta là Tenma một kiếm vỡ sọ trên đồi Ibuki. Mà bào huynh ta thì các ngươi đã biết, đâu phải kém cỏi gì ! Bây giờ nó trốn rồi. Chỉ có hai đường về trấn, ta phải chia ra thành hai toán, đuổi bắt bằng được. Tên này có súng - gã chỉ một người vác cây hỏa mai - dẫn đầu toàn năm người đi về hướng nam, còn lại bao nhiêu theo ta qua cầu, hướng đền Arakida. Gặp nó, bắn phát súng làm hiệu, chúng ta sẽ đến giúp sức.
Mọi người y kế thi hành, rầm rộ ra đi, đuốc thông đốt khét lẹt. Tụi này chính là tay chân của Tsujikaze Kohei, em Tsujikaze Tenma, tên tướng cướp bị Musashi giết khi hắn còn ẩn náu tại nhà Oko trên đồi Ibuki năm nào. Kohei giờ tuy bên ngoài làm ra vẻ làm ăn lương thiện, nhưng vẫn cùng lâu la tụ tập giết người cướp của. Khách vãng lai vô ý sa vào ổ chúng thường bị thủ tiêu, xác vất cho quạ rỉa trong rừng sâu hoặc bên khe suối.
Đêm mỗi lúc một khuya. Căn nhà gỗ tối đen, vắng lặng, đìu hiu như cảnh vật xung quanh. Gà đã hai lần gáy, vẫn chưa thấy toán nào trở lại.
Mãi sau, lâu lắm, khi sương đã xuống mờ mờ bao phủ cả vùng rừng núi, khí hậu bắt đầu lạnh buốt và các vì sao cũng run rẩy ở trên cao, mới thấy chúng lục tục kéo nhau về. Đầu tiên là toán của tên mang súng hỏa mai, sau đến Kohei và đồng bọn. Chúng lẳng lặng mở cửa vào nhà, ngồi la liệt trên sàn, gây lửa cháy to thêm. Mệt nhọc và chán nản lộ trên nét mặt, Kohei là người đầu tiên lên tiếng:
- Thằng nào đi lấy rượu uống chứ !
Một kẻ chạy đi. Cả bọn lại đăm đăm ngồi nhìn ngọn lửa.
- Thằng đó thật hên. Nếu ta tóm được ...
- Đại ca chắc nó là Takezo không ?
- Sao lại không ? Ta đã hỏi kỹ lai lịch. Vả trông vóc dáng cao lớn và trạc tuổi thì đúng nó. Có lẽ hương hồn bào huynh ta đã run rủi cho nó tới ...
- Bây giờ đại ca tính sao ?
- Còn tính sao nữa ? Ta chỉ tiếc đã không ra tay ngay. Vì muốn ăn chắc nên gọi anh em đến giúp sức.
Tsujikaze rót hết chén này đến chén khác. Bình rượu lớn cạn dần. Mặt xám lại, đôi mắt lạc thần nhìn ngọn lửa như bị thôi miên, gã có vẻ muốn gục xuống chiếu.
Bọn đàn em xúm đến đơ, gã gạt tay ra, lè nhè:
- Thôi bọn ngươi về cả đi. Để mặc ta. Chưa say ...chưa say mà ...
Trời sắp sáng. Tiếng gà văng vẳng trong khe núi. Nhiều bóng người từ căn nhà lò rèn bước ra, lầm lũi tản mát trên các đường mòn trong xóm. Tsujikaze ngủ em trên chiếu rượu, tiếng ngáy vang làm rung động cả những dây mồ hóng rủ trên trần.
Ngoài hiên, lẩn sau bóng tối của đống than, gỗ chất cao lên đến tận nóc, một cái áo vải sơn đen bỗng nhiên chuyển động. Cái áo vươn cao từng chút, từng chút, rồi khuôn mặt đen nhẻm của Musashi lộ ra, đôi mắt long lanh như mắt vọ.
Thì ra Musashi vẫn còn đây, chưa lúc nào rời căn nhà gỗ. Sau khi bước khỏi giường, hắn đã cẩn thận mở hé cánh cửa hông, núp ngay sau đống than ngoài hiên, dùng chiếc áo vải sơn treo ở đó ngụy trang và lắng nghe hết mọi động tĩnh trong nhà.
Êm như ru, hắn rón rén đến gần bếp. Tsujikaze vẫn ngáy như sấm.
Musashi đứng lặng nhìn gã thợ rèn, mỉm cười thương hại. Trong cuộc gặp gỡ này, rõ ràng hắn thắng. Tuy nhiên, gã thợ rèn có một điểm đáng khen, đã vì mối thù giết anh mà ra tay. Vậy có nên giết gã không ? - Musashi tự hỏi - Nếu không, có thể còn nhiều hậu hoạn. Khôn ra thì phải giết. Nhưng một câu hỏi khác lại được đặt ra:
Gã có đáng giết không ? Musashi cứ phân vân mãi. Lúc sau, hắn nghĩ được một cách cho là hay nhất. Với tay lấy món võ khí quái dị treo gần đó, hắn bật nút bấm cho lưỡi bung ra, dùng giẻ bọc lại rồi đặt nó gần cổ gã thợ rèn, quả cầu một bên và lưỡi hái một bên.
Hắn giật lùi lại ngắm công trình của mình. Khi thức giấc, gã thợ rèn chắc phải ngạc nhiên lắm, nhưng lưỡi hái đã được bao lại rồi cũng như cái chong chóng đã bọc lại thì còn quay sao được ! Năm năm về trước, khi giết Tsujikaze Tenma, Musashi đang trong cơn say máu. Hắn như con thú hoang, giết là một bản năng tranh sống, nhưng nay, đứng trước gã thợ rèn nằm im vô hại dưới chân, hắn thấy thật vô ích. Và biết đâu, nếu giết gã, tiểu chủ nhân của chiếc chong chóng kia sẽ lại để cả đời mình đi tìm hắn trả thù cho bố. Oan nghiệt sẽ chập chồng, bao giờ mới dứt ?
Đứng trước căn phòng ấm cúng, mùi sữa mẹ còn như thoang thoảng từ trong chăn gối bay ra, Musashi cảm thấy ghen tức và hơi tiếc vì phải từ giã nơi này.
Hắn nói thầm trong bụng:
“Ta xin lỗi đã làm rộn. Xin cứ ngủ bình yên”.
Rồi nhẹ nhàng mở cửa bước ra.



Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Sáu T12 22, 2006 12:02 am
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI
Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ

QUYỂN 3 : Hinomaki

CHƯƠNG 29
CON NGỰA BAY




Đến đồn kiểm tra gần biên giới quận thì trời đã tối, Jotaro và Otsu vào nghỉ chân qua đêm tại một quán trọ. Hôm sau, mới hửng sáng, sương mù chưa tan, nàng đã đánh thức Jotaro dậy để lên đường sớm, tránh cái nắng gay gắt buổi trưa.
Đường đèo khấp khểnh, nhưng không khí tươi mát lúc ban mai làm hai người dễ chịu. Trên bầu trời trong phớt xanh, các vì sao thưa dần rồi những dải mây hồng ở đỉnh núi đằng xa bắt đầu vàng ánh lên như mới được rắc một lượt kim nhũ. Mặt trời hiện ra đỏ rực làm bừng sáng cả một khu sơn lĩnh.
Otsu đứng sững trước cảnh thiên nhiên mới tỉnh giấc, lòng nôn nao, rộn rã. Nàng cho rằng đây là một trong những lúc kỳ diệu nhất tạo hóa đã ban cho chúng sinh, kể cả những sinh vật nàng vẫn thường gọi là vô tri vô giác như cây cỏ. Tự nhiên nàng thấy sung sướng và hãnh diện được sống trên thế gian này.
Nhìn mặt trời to và đỏ như cái đèn lồng lớn do một bàn tay vô hình nào đó thắp lên, lừ lừ hiện ra khỏi rặng núi xanh lam, Jotaro vui mừng nhảy cẫng, vỗ tay reo:
- Đẹp quá ! Chị trông kìa, đẹp quá !
Otsu khẽ suỵt, bảo Jotaro đừng kêu lớn, dường như sợ sự vui vẻ thái quá của thằng bé làm mất vẻ trang trọng của cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Hai chị em đứng lặng ngắm cảnh mặt trời mọc, một lúc lâu Jotaro mới lên tiếng:
- Chị em mình là người đầu tiên đi trên đường ngày hôm nay đấy !
- Sao em biết ?
- Chị xem có ai đi trước mình đâu !
- Ừ nhỉ. Nhưng đi đầu thì ích gì ? Đường ngắn hơn chăng ?
- Không phải. Nhưng khỏi đi sau ngựa với cáng, đỡ hít bụi !
Otsu liếc nhìn Jotaro thấy thằng bé quả nhiên láu thật.
- Hơn nữa, đi đầu thích thú hơn chứ. Vì chẳng có ai trên đường, em có cảm tưởng như cả con đường thuộc về em, muốn làm gì thì làm, sướng lắm !
Otsu mỉm cười. Để chọc thằng bé, nàng nói đùa:
- Vậy sao em không tự coi như một tướng quân quyền uy, được mọi người trọng vọng đương cưỡi ngựa đi thị sát lãnh thổ của mình ? Ta đóng vai người hầu dắt ngựa.
Jotaro cười phụ họa:
- Ờ phải đấy ! Phải đấy ! Em làm tướng công, chị dắt ngựa. Chị đi trước đi !
Otsu ngó quanh không thấy ai, bèn bẻ cành tre làm roi chỉ sang hai bên đường, vừa đi vừa nhại giọng lính tuần vệ:
- Qùy xuống ! Tất cả quỳ xuống ! Jotaro tướng công đi tuần sát !
Jotaro tháo ống quyển trên vai, cười lên giả làm ngựa và cười như nắc nẻ. Nó nhảy chân sáo, dường như cái trò chơi giản dị này đã cho hai chị em những phút vui hồn nhiên và sung sướng thật sự.
Nghe tiếng léo nhéo bên ngoài, một ông già mở hé cửa ra nhìn. Otsu hơi thẹn, vất roi xuống đất, lầm lũi đi. Jotaro ngạc nhiên:
- Ô hay, sao chị làm thế ? Chị không sợ tướng công giận có thể phạt chém đầu à ?
- Thôi, không chơi nữa.
- Sao vậy ? Mình đang chơi vui mà !
- Thôi ! Kỳ quá ! Có người ở quán nhìn kia kìa. Chắc họ cho mình là hai đứa khùng!
Jotaro quay lại thấy một quán ăn nhỏ, vách ván đã cũ, bên một đống rơm lớn, người dân vùng sơn cước thường đắp lên dành cho gia súc ăn về mùa đông. Cạnh đó buộc một con ngựa.
Nhìn quán ăn, Jotaro bống thấy đói bụng.
- Chị, hay ta vào quán nghỉ đi.
- Vào làm gì ?
- Em đói ! Ta vào uống trà rồi lấy cơm nắm ra ăn.
- Khoan đã. Mới đi được vài dặm mà đã đói. Cứ thế này thì phải ăn năm bữa một ngày chắc.
Jotaro giận dỗi:
- Nhưng em chạy bộ chứ đâu được cưỡi ngựa như chị !
- Thì hôm qua ta mới thuê ngựa đi một lần, chỉ vì trời tối mà mình lại vội. Nếu em không bằng lòng thì hôm nay ta đi bộ với em cả ngày.
- Không ! Hôm nay đến phiên em cưỡi ngựa.
- Trẻ con không cưỡi ngựa được !
Jotaro phụng phịu:
- Nhưng em muốn tập !
- Để lúc khác. Hay chốc nữa, khi nào mệt hãy hay. Bây giờ còn đi được, thuê ngựa cưỡi phí tiền.
Jotaro không đáp mà cũng chẳng nói gì thêm. Nó cung cúc đi trước, bỏ mặc Otsu lẽo đẽo theo sau.
- Jotaro ! Em giận ta đấy à ?
Jotaro đứng lại đợi. Một lúc au, khi Otsu đến gần, nó mới nói:
- Chị thừa biết em đi bộ cả ngày cũng chẳng mệt. Đợi mệt thì bao giờ mới có ngựa cưỡi !
Otsu cười làm lành:
- Ừ thì cưỡi, nhưng một lần này thôi nhé !
Jotaro chỉ đợi có thế. Nó mừng rỡ chạy ngược lại, đập cửa quán rầm rầm. Chủ quán mở cửa thò đầu ra, thấy Jotaro, gắt:
- Cái gì mà ầm lên thế ? Hỏi gì ?
- Chị ta cần một con ngựa đi Minakuchi, bao nhiêu tiền ? Nếu giá phải chăng, ta mướn đến tận Kusatsu.
- Mày con cái nhà ai ?
- Con bố mẹ ta !
Jotaro vênh mặt đáp.
- Ta tưởng mày con bà La Sát !
- Chắc vợ lão là bà La Sát còn lão là ông Thiên Lôi. Sao lão dữ quá thế ?
- Dữ hay không dữ ta không cần biết. Ngựa ta không cho thuê.
Muốn thuê ngựa, Jotaro đành phải làm lành:
- Thôi, lão trượng cho cháu thuê đi. Cháu trả tiền đàng hoàng mà !
- Không được !
- Sao không được ?
- Không có mã phu đi kèm dắt về.
Vừa lúc ấy, Otsu tới. Nàng hỏi rõ sự tình, đề nghị xin trả tiền trước rồi khi đến Kinakuchi sẽ nhờ người dắt ngựa hoàn lại tử tế. Thấy Otsu có dáng nhu mì thực thà, chủ quán phân vân một lúc rồi nói:
- Thôi cũng được. Nể chị lắm đấy, xong việc nhớ trả lại ngựa cho lão.
Nàng hỏi giá, trả tiền rồi cầm cương dắt ngựa đi. Ra đến đường, Jotaro vẫn chưa nguôi cơn tức:
- Lão già dịch !
- Ô hay Jotaro ! Sao hỗn thế ? Lão ta có làm gì em đâu ?
- Chị không biết, lão coi em như rác, nhất định không cho thuê ngựa. Thế mà thấy chị đến lại bằng lòng ngay. Thấy con gái đẹp thì híp mắt lại ...
Otsu cười thầm trong bụng. Nàng cảnh cáo thằng bé:
- Này, nói nho nhỏ chứ. Con ngựa này nó nghe hết đấy. Nó dám hất ngã em để trả thù cho chủ nó lắm !
- Thật hả chị ? Để em thử ...
Dứt lời, Jotaro trèo lên ngựa.
- Em không biết cưỡi ngựa phải không ?
- Biết chứ ! Em thấy người ta cưỡi nhiều lần rồi !
- Thế sao em lại trèo đằng sau ?
Jotaro thẹn nói chữa:
- Tại cái bàn đạp này cao quá. Chị đỡ em chút !
Otsu xốc nách bế Jotaro ngồi lên yên. Con ngựa đi bước một, Jotaro hơi nghiêng ngả theo nhịp bước chân ngựa, nhưng nó hài lòng lắm. Mặt tươi rói, nó lấy vẻ nghiêm trang, một tay giữ bờm ngựa, một tay chống nạnh, nhìn Otsu mỉm cười.
- Chị đi trước đi.
- Nhưng em ngồi chưa vững, ta phải đi bên cạnh ...
- Không sao, em để chân được vào hai bàn đạp mà. Cái yên vải bố này tuy hơi ráp nhưng buộc chắc lắm !
Otsu đi trước, tay cầm cương. Tiếng lộp cộp của chân ngựa đạp trên đá lẫn với tiếng nhạc ngựa long coong bấy giờ đối với Jotaro thật là một tiết điệu vui tai lần đầu tiên nó được hưởng.
Mặt trời đã lên cao nhưng trên con đường đèo, nhiều chỗ sương còn đọng từng mảng mờ mờ xám nhạt. Đi được chừng một quãng khá xa, bỗng nghe phía sau có tiếng chân người vội vã và tiếng gọi lớn. Hai chị em nép vào vệ đường. Jotaro lo lắng hỏi:
- Hình như họ gọi chúng ta !
- Không biết có phải không. Chờ xem.
Lúc sau, thấy hiện ra mờ mờ trong màn sương một bóng người. Bóng đó rõ dần và khi còn cách Otsu một trượng thì cả hai nhận ra đấy là một người đàn ông trung niên, mặt rỗ và dữ dằn, chân quấn xà cạp, đi hài xảo bằng cỏ bện. Xung quanh gã còn như bọc một lớp sương gã kéo theo từ đêm, chiếc áo dày gã mặc bên ngoài ướt nhẹp.
Gã đàn ông đến gần Otsu, giật mạnh dây cương từ tay nàng làm Otsu chúi xuống suýt ngã rồi quát như sấm động:
- Tiểu tử này ! Xuống !
Con ngựa nghe tiếng quát giật mình lùi lại giơ hai cẳng trước hí một tiếng dài.
Jotaro sợ quá, suýt bị hất xuống đất, vội nắm chặt lấy bờm ngựa. Hoàn hồn, nó tức giận đáp:
- Bác này ! Làm gì kỳ vậy ? Ngựa của ta thuê mà !
- Mặc kệ, có xuống không ?
- Không ! Tráng sĩ là ai ?
- Ta là Tsujikaze Kohei ở xóm Ujii, bên kia ranh quận. Ta cần ngựa để đuổi theo một người tên Musashi. Hắn đi về phía này từ sớm. Đưa ngựa đây.
Gã nói nhanh như bắp rang, vừa nói vừa thở hổn hển. Trong sương sớm lạnh, những giọt nước nhỏ li ti đọng trên râu và chân tóc gã bắn ra cùng một lúc với hơi thở mờ mờ như khói. Trên cành khô, sương còn đọng giá, vậy mà cổ hắn bóng nhẫy mồ hôi, mạch máu ở hai bên cổ nổi cao lên như hai chiếc đũa.
Otsu đứng lặng tựa trời trồng, mặt tái mét, dường như bao nhiêu máu đã bị đất dưới chân nàng hút đi mất cả. Môi nàng run run, nàng muốn hỏi lại cho rõ những điều vừa nghe được, nhưng chẳng thốt ra lời nào.
- Tráng sĩ nói đi tìm Musashi à ?
Jotaro hỏi mà tay run lập cập, chân để vào bàn đạp không còn vững nữa.
Tsujikaze hình như không để ý đến dáng điệu kỳ lạ của cả hai người, chỉ gắt:
- Có xuống ngay không ? Nếu không ta nắm cổ lôi xuống.
- Không ! Ngựa này chị ta thuê.
- Mặc kệ chị mày. Ta nói tử tế vì thấy chúng mày chỉ là đàn bà con nít. Ta vội nên mượn tạm ...
- Chị ! Em nói có phải không ? Ngựa này mình thuê, sao cho ông ấy mượn được ...
Otsu muốn ôm lấy Jotaro. Điều nàng quan tâm nhất không phải là chuyện thuê con ngựa mà chính là không muốn cho gã này có phương tiện đi nhanh hơn, đuổi kịp được Musashi, gây khó cho chàng. Otsu bèn đáp ngay:
- Đúng vậy ! Ngựa bọn ta thuê. Tráng sĩ vội thì chúng ta cũng vội, không nhường cho tráng sĩ được !
- Em nhất định không xuống ! Chết cũng không xuống !
- À, tiểu tặc chó đẻ này ! Mày nhất định không xuống phải không ?
Vừa nói, Tsujikaze vừa nắm chân Jotaro định lôi nó xuống ngựa. Đây là cơ hội hãn hữu để Jotaro dùng đến thanh kiếm gỗ đeo trên lưng, nhưng trong lúc bối rối, nó quên mất. Vả cả hai tay nói còn bận ôm chặt cổ ngựa nên dù có nhớ cũng không làm gì được. Chỉ còn cách đánh miếng võ nó vẫn thường sử dụng là nhổ nước bọt vào mặt địch thủ. Nghĩ đến, làm liền. Jotaro bụm một bãi nước bọt lớn, ra sức bình sinh nhổ đánh bẹt một cái vào mắt Tsujikaze, đồng thời thuận chân đạp mạnh vào ngực gã. Tsujikaze bị tấn công bất ngờ, giơ tay ôm mặt. Mất thăng bằng, gã ngã ngồi xuống đất.
Gã chửi thề một tiếng tục. Vừa lúc ấy, Otsu rút thanh gươm ngắn nàng vẫn mang theo để tự vệ ra khỏi vỏ, xông tới đâm Tsujikaze. Gã lăn một vòng tránh. Otsu mất đà chúi về đằng trước, nhưng vẫn cảm thấy hình như múi gươm chạm phải vật gì. Otsu ngã sóng soài bên vệ đường, một tia máu phun vào mặt rồi tiếng con ngựa hí vang. Thì ra lưỡi gươm Otsu đâm trượt Tsujikaze nhưng lại chạm vào mông ngựa. Con vật giơ cao hai chân trước hí một tiếng dài nữa, lao đi như tên bắn. Trên lưng nó, Jotaro hết cả hồn vía, hai tay giữ chặt cổ ngựa, chân quặp vào bất cứ sợi dây gì nó khều được ở dưới yên, miệng la như mất cướp:
- Chị cứu em ! Chị ...cứu ...u ...u ...
Tsujikaze đuổi theo, định ghìm con ngựa lại nhưng không kịp. Ngựa bị đau, phóng ào ào xuống núi, bất kể cây cối, trở ngại ; trên lưng nó Jotaro đeo cứng, tựa như cái hình nộm mới bị đứt giây, vật vờ theo gió.
Tsujikaze lảo đảo trở lại chỗ Otsu ngã, thì không thấy nàng đó nữa. Nháo nhác nhìn quanh, chỉ thấy thanh gươm ngắn nàng dùng định đâm gã lúc nãy lăn lóc bên bụi gai, gã nhặt lên, ngắm kỹ, chùi vết máu rồi giắt vào thắt lưng. Một ý tưởng thoáng hiện ra trong trí. Gã đoán nàng này hẳn có liên hệ gì với Musashi, nếu tìm bắt được, dùng nàng làm cái mồi dụ hắn sa bẫy thì tốt lắm. Hay ít ra cũng biết hắn đi đường nào hoặc trốn ở đâu.
Bèn sục sạo khắp nơi. Đến một trang trại nghèo, không có ai, ngoài một bà lão còng đang quay tơ, gã chạy vào hỏi, kéo cả màn cửa, lật cả đống củi ra tìm, làm bà lão sợ chết khiếp. Không thấy Otsu, gã thất vọng giận dữ bước ra. Vừa đi khỏi ngõ, chợt thấy bóng một thiếu nữ thoáng lẩn vào rặng bách xanh um, Tsujikaze kêu một tiếng mừng rỡ, đuổi như bay, chẳng mấy chốc đã gần bắt kịp. Quả nhiên là Otsu.
Otsu sợ cuống cuồng, chân ríu lại, ngã lăn ra. Đám cỏ lún xuống như một cái hố.
Kinh hãi, nàng kêu thất thanh, may có cái rễ lớn đâm ngang, vội bám chặt lấy. Dưới kia là vực thẳm tối đen, sâu bao nhiêu nàng cũng chẳng biết. Otsu nhờ bám vào rễ cây lơ lửng trên vực. Sỏi, đá, đất đổ rào rào trên đầu. Ngẩng lên, thấy Tsujikaze đã tới, đôi mắt hung dữ chăm chú nhìn nàng. Gã cười gằn độc ác:
- Hà ! Thử xem cô em có thoát khỏi tay ta không nào !
Nhìn xuống, Otsu chỉ thấy tối đen. Nếu muốn khỏi bị bắt, nàng buông tay ra là xong, nhưng buông tay ra là chết. Tâm thần bất định, Otsu mê đi. Nàng nhìn thấy Musashi. Hình ảnh Musashi rõ ràng lắm, sáng như vầng trăng trong một đêm giông bão.
Tsujikaze không đợi phản ứng, quỳ xuống bờ vực kéo tay Otsu lôi lên. Otsu vùng vẫy kêu cứu, nhưng những tiếng kêu thất thanh của nàng chỉ làm gã thợ rèn giữ nàng thêm chặt. Gã lôi Otsu khỏi vực, vứt xuống cỏ như vứt một mớ giẻ. Giận dữ và tuyệt vọng ứ nghẹn cổ, Otsu ngất đi, trên gò má trắng bệch, xanh xao, vết gai cào còn rướm máu.
Tiếng gọi Tsujikaze và tiếng chân người rầm rập chạy trên triền núi. Gã thợ rèn bắc loa tay hét lớn:
- Hồ, Tích ! Xuống cả đây ! Ta ở dưới này !
Bọn lâu la ào ào đổ dốc như đàn lợn rừng đuổi mồi, thở hồng hộc, đao kiếm đeo bên sườn chạm nhau loảng xoảng. Đến gần chủ soái, chúng khựng lại, ngạc nhiên nhìn Otsu nằm thiêm em trên cỏ. Tsujikaze kể qua tự sự rồi ra lệnh:
- Trói nó lại. Còn chúng bay, có được tin tức gì của thằng đó không ?
- Có. Lão chủ điếm trà bảo sáng nay có một kiếm khách đến mua cơm sớm lắm rồi đi ngay. Chắc là hắn. Hắn đi về phía quận Tsuchi. Nhưng không hề gì, đi đường nào cũng thế, vì hai đường Fusuka và Tsichi sẽ gặp nhau ở ngã tư Ishibe. Nếu ta nhanh chân đến trước mai phục ở Ishibe thì thế nào cũng gặp.
- Được rồi. Ta đi tắt đến đấy ngay bây giờ. Bọn ngươi canh chừng con bé đừng để nó chạy thoát.
Nghĩ một lúc, gã nói tiếp:
- Sẽ gặp nhau ở Yasugawa. Bọn ngươi cứ đường thẳng mà đi, nhớ để ý đến những thằng cao lớn có dáng dấp lãng tử.
Dứt lời, Tsujikaze xốc lại áo, chạy như bay lên núi. Một loáng đã không thấy bóng dáng đâu nữa.
Trên đường đồi khấp khểnh, con ngựa phi nước đại vùn vụt, vó nện lộp cộp, bụi cát bay mù. Vết thương ở mông nó cùng những tiếng kêu thét của Jotaro hình như kích thích nó chạy nhanh hơn. Gió thổi ù ù, mấy lần Jotaro tưởng bị hất ngã vì những cành cây thấp chắn ngang, nhưng nhờ nhanh trí, nó cúi xuống tránh được.
Jotaro càng kêu, ngựa càng chạy khỏe. Khản cổ, lạc giọng, tiếng kêu của nó sau chỉ còn là những tiếng rên đứt quãng. Nó ôm chặt cổ ngựa, áp má vào bờm, nhắm chặt mắt mặc cho số phận. Dần dần Jotaro nhận ra rằng nếu mình cứ nằm bò trên lưng ngựa rồi nhấp nhỏm theo đà ngựa chạy thì đỡ ê đít, nhưng chẳng thú vị gì. Nhớ lúc trước khi đòi cưỡi ngựa, nó mong làm sao được ngồi trên lưng một con tuấn mã, giật cương cho phóng như bay, băng rừng băng suối mới thật sướng ! Bây giờ có sướng gì đâu, chỉ thấy sợ.
Loáng một cái, đã đến làng Mikumo. Thấy có người đi ngược chiều, Jotaro tiếp tục kêu cứu. Nhưng ngựa chạy nhanh, người bộ hành tưởng là khoái mã của quan quân, nép vào vệ đường tránh vạ. Qua làng, gà kêu quang quác, chó sủa râm ran, vài người hé cửa nhìn nhưng chẳng ai giúp được gì. Tâm lý chung, chẳng ai muốn dính vào những chuyện không đâu, nhất là lại nguy hiểm như chuyện ghìm một con ngựa bất kham, không chết người cũng bị thương tật.
Đường đèo vắng vẻ. Nắng đã lên cao, người ngựa mồ hôi nhễ nhại. Xa xa một cây sồi cổ thụ vươn cành thấp xòe ra che cả lối đi. Jotaro nhìn thấy. Sống chết ở lúc này. Nó chuẩn bị. Khi lá sồi vừa chạm mặt, Jotaro lập tức níu ngay lấy, đánh đu lên như con nhái bén bám cành tre, cả người lủng lẳng đong đưa cách mặt đất chừng ba thước. Ngựa tiếp tục phóng đi, dường như không chú ý gì đến kỵ mã tí hon bất đắc dĩ vừa rời khỏi lưng nó.
Jotaro nhìn xuống đất. Sâu thăm thẳm, nó không dám bỏ tay ra, chỉ vùng vẫy co chân cố quắp lấy cành đu lên, định bụng sẽ chuyền vào thân cây. Không ngờ cành nhỏ gãy cái “rắc”, kéo theo nó ngã lăn ra đất.
Jotaro ngạc nhiên thấy không đau đớn gì, chỉ hơi ê ẩm. Đứng dậy phủi quần áo, sực nhớ đến Otsu, nó vội chồm lên, chạy ngược lại con đường đã qua, mắt tìm nháo nhác. Cứ chạy một quãng nó lại dừng lại gọi:
- Chị ! Chị ! Chị ở đâ ...âu ...
Sự bấn loạn lộ trên nét mặt ngơ ngác của nó.
- Không biết cô ấy có thoát được không ? Nếu bị thằng giặc đó bắt thì khổ quá !
Jotaro lo lắng, tự trách đã không bảo vệ được người thiếu nữ yếu đuối. Mồm nó méo xệch, vừa đi vừa lấy tay áo chùi nước mắt. Bỗng có người từ ven rừng bên trái đi đến. Tới gần thì ra là một thanh niên, tuổi chừng hăm bảy hăm tám, da ngăm ngăm đen, vận y phục lữ hành, chân đi giầy cỏ, lưng đeo kiếm. Thanh niên nhìn Jotaro hỏi:
- Bé này con cái nhà ai, phải ở làng Mikumo không ? Sao lại vừa đi vừa khóc ?
- Cháu lạc mất chị em !
- Cô ngươi là ai ?
- Otsu ! Đại hiệp ở phía rừng lại có thấy chị em không ? Chị em trạc hai mươi tuổi, nhỏ nhắn, vận áo chẽn ...
- À ...à ...có ! Nhưng tay bị trói, có hai nông dân lực lưỡng dẫn đi.
- Đi với hai nông dân ? Không ! Chúng cháu bị một tên mặt rỗ cướp ngựa. Chị em mặc áo chẽn trắng chấm đen ...
- Vậy đúng rồi. Ta chắc đây là bọn Tsujikaze. Hắn làm thợ rèn ở quận gần đây, nhưng nghe nói thỉnh thoảng có tụ tập lâu la đi ăn cướp.
- Thế thì cháu phải đi ngay cứu chị em mới được !
- Khoan ! Cả hai chị em người đi chung với nhau hay sao ? Câu chuyện thế nào kể ta nghe.
Jotaro bèn thuật lại. Thanh niên gật đầu:
- Vậy chúng làm loạn quá rồi, chẳng coi quan quân ra gì nữa. Nhưng bọn chúng dữ lắm, chớ nên khinh xuất. Ngươi còn bé, không làm gì được đâu, để ta giúp ...Otsu...phải tên chị ngươi là Otsu không ?
Tự nhiên Jotaro thấy tin người thanh niên lạ mặt. Nó gật đầu, ngây thơ hỏi:
- Đại hiệp bắt chúng giao chị Otsu lại cho cháu hay sao ?
Thanh niên mỉm cười:
- Ừ, để ta xem. Cứ đợi ở đây, nấp vào bụi đằng kia, đừng làm ồn lên, thế nào chúng cũng đi qua. Ta sẽ liệu.
Jotaro nghe lời, chạy vào ẩn trong bụi nhìn ra thấy chàng thanh niên theo đường dốc đi xuống núi.
Đợi mãi mà không thấy gì, hơi sốt ruột, nó thầm nghĩ tráng sĩ kia muốn đánh lừa nó, chỉ nói vậy cho qua rồi chuồn êm chứ chắc gì cứu được Otsu. Jotaro định bụng nhảy ra, tự mình đi tìm lấy. Đột nhiên nghe tiếng chân lạo xạo trên lá khô, nó dừng lại.
Bóng ba người hiện ra:
hai nông dân dáng lực lưỡng, râu ria xồm xoàm kèm một thiếu nữ mặc áo trắng bị trói tay đi ở giữa.
Đúng là Otsu rồi không còn hồ nghi gì nữa. Jotaro định cất tiếng gọi, bỗng sực nhớ đến lời khuyên của chàng thanh niên, khựng lại kịp. Nó còn nhỏ quá, không những không giúp ích được gì cho cô nó mà còn nguy hiểm nữa.
Đợi cả ba đi khuất, Jotaro mới len lén bò ra theo hút, vừa đi vừa lẩn vào các thân cây mọc rải rác trong rừng thưa.
Thình lình, chàng thanh niên ban nãy, lần này đội nón nan che kín mặt, tay cầm gậy ra vẻ một khách bộ hành đi đường xa, ở chân núi hiện ra. Thanh niên vừa đi vừa nói khá lớn, dường như cốt để cho Otsu và hai kẻ kia nghe rõ:
- Ghê quá ! Thật đáng sợ !
- Chuyện gì mà đáng sợ ?
- Dưới chân núi có một tên kiếm khách giang hồ tự xưng Musashi đứng chắn lối, gặp ai cũng nhìn, kiếm tuốt trần, mắt dữ tợn trông phát khiếp.
- Thật hả. Thế sao ngươi đi thoát ?
- Hắn gọi ta lại, hỏi tên tuổi. Khi biết ta là Tsuge Sannojo thì cho đi. Hắn nói hắn chỉ cần tìm giết Tsujikaze Kohei và lâu la của gã thôi. Không biết thù hằn gì mà ghê thế !
- Hai nông dân lực lưỡng đưa mắt nhìn nhau. Otsu mặt trắng bệch, run rẩy muốn ngất tại chỗ.
- Nhà ngươi có chắc như vậy không ?
- Thì chính mắt ta nhìn thấy, chính tai ta nghe, sao lầm được. Các bác phải cẩn thận, nên đi đường khác !
Nói xong gã chống gậy lầm lũi đi, miêng còn lẩm bẩm:
- Không biết thù hằn gì mà ghê thế !
Hai tên lâu la của Tsujikaze kéo Otsu vào ngồi bên đường bàn nhau khe khẽ.
Lúc sau, một đứa trở lại canh chừng Otsu, đứa kia chạy theo gọi Tsuge Sannojo.
Chúng ta muốn nhờ ngươi giúp một tay.
- Sao phải nhờ ta giúp ? Tsuge Sannojo đáp. Các bác là đàn em Tsujikaze hả ?
- Không. Chúng ta muốn bắt tên cướp hỗn láo đó !
- Chịu thôi. Ta không giúp được. Trông dáng dấp nó khỏe lắm, bốn người chưa chắc địch nổi chứ đừng nói ba. Nhất là lại còn cô này vướng chân vướng cẳng, làm gì được ?
- Thế ngươi bảo bây giờ phải làm sao ?
- Theo ta nghĩ thì chỉ có cách này là thượng sách. Trói cô bé vào gốc cây đằng kia rồi hai bác với ta xuống núi tìm mẹo mà bắt nó. Xong việc trở lại dẫn cô bé này đi.
Hai tên gật gù cho là phải. Bèn sẵn dây, trói Otsu vào gốc cây. Một tên còn cẩn thận xé vạt áo bịt miệng để nàng khỏi kêu cứu.
- Thôi được rồi. Đi mau mới kịp.
Dứt lời, cả ba theo nhau xuống núi.
Jotaro chờ cho cả bọn đi khuất mới chạy ra. Nó ôm lấy Otsu, nước mắt tràn đầy má:
- Chị ! Chị !
Đôi mắt Otsu cũng sáng lên vui mừng nhưng nàng chỉ ú ớ. Bấy giờ Jotaro mới sực nhớ, vội cởi miếng giẻ bịt miệng và dây trói Otsu ra. Hai chị em ôm nhau. Jotaro khóc tấm tức, Otsu vỗ lưng nó nhè nhẹ. Trong đời Jotaro, chưa lúc nào nó thấy sung sướng bằng lúc ấy. Nó lẩm bẩm một câu cảm ơn đức Phật linh thiêng học mót được khi còn ở đền Arakida. Otsu nghe, thấy sai, cười thầm trong bụng, định sửa lại cho nó, nhưng lại thôi. “Ồ, hà tất ! Miễn lòng thành thực thì đức Phật ngài cũng chứng giám”.


Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Sáu T12 22, 2006 12:07 am
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI
Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ

QUYỂN 3 : Hi no Maki


CHƯƠNG 30
BƯỚM ĐÔNG



Akemi tung chăn ngồi dậy. Phòng trọ vắng vẻ, ánh chiều nhạt dần. Bóng một cành thông thấp thoáng lay động in lên khugn giấy vàng úa trên song cửa, và con chim gáy sau nhà cũng thôi không còn buông những tiếng kêu cúc cu đều đều buồn bã.
Một mình trong phòng, Akemi cảm thấy cô đơn tràn ngập. Vết thương Seijuro để lại trong lòng nàng thật sâu đậm, Akemi càng nghĩ càng tủi thân, khóc rấm rứt.
Thôi thế là hết. Tấm thân giữ gìn bấy lâu nay, giờ đây hoen ố, nàng biết làm sao giải thích cho người yêu trong mộng.
Vừa thoát chết, Akemi mất hết can đảm, không dám nghĩ đến chuyện ra bãi biển lần nữa. Với tay lấy cái lược chải sơ mái tóc, thắt lại chiếc “obi” rồi bò ra khỏi chiếu nằm, nàng kéo cửa lùa rón rén bước khỏi phòng trọ.
Gió lạnh bên ngoài làm Akemi dễ chịu. Cơn nóng trong người đột nhiên giảm bớt, nàng có cảm tưởng như vừa được uống một chén nước lạnh.
Như con chim mới sổ lồng còn e sợ không dám vỗ cánh bay cao, Akemi dựa lưng vào hàng hiên, ngồi suy nghĩ. Đi đâu ? Về đâu ? Mẹ nàng đã bỏ đi theo Toji, nàng chẳng tìm làm gì, mà ví dù có tìm được, nàng cũng quyết không để cho mẹ bán mình lần nữa. Tứ cố vô thân, cánh bướm mong manh lạc giữa mùa đông, biết nơi nào an toàn mà nương tựa. Akemi kéo vạt áo lau nước mắt, đứng dậy:
Thôi thì cũng liều ! Và men theo hàng giậu thấp, lẻn ra cửa sau trốn.
Ở bến đò, người đi lại tấp nập, gồng gánh chen đẩy. Akemi nhìn đám đông, trông ai cũng thẹn, tưởng như họ đều đã biết rõ cảnh ngộ mình. Giống như chim bị tên sợ cây cong, nàng né tránh hết mọi người và ngồi ẩn trong một bụi rậm chờ trời tối.
Những ngày cuối năm, tại bến đò chỗ nào cũng đông nghẹt khách vãng lai thuộc đủ mọi giai tầng xã hội:
tăng lữ, Samurai, thương nhân, kẻ chợ người quê, chen nhau mua sắm hoặc đáp thuyền về quê quán.
Akemi chẳng biết đi đâu. Bầu trời xám nặng như chì, nước sông cuồn cuộn chảy.
Lòng nàng còn nặng gấp mấy bầu trời, mà khối nước của dòng sông kia giá đem rửa những vết nhơ trên thân thể nàng thì cũng khó mà sạch. Mối tình u uẩn của nàng, tuy Musashi không hay biết, nhưng đã ăn sâu vào tâm khảm người thiếu nữ. Nó là bông hoa dại, khi ở đồi Ibuki mới còn là nụ, theo năm tháng nay đã đến độ mãn khai, được chăm bón bằng thương yêu, mong nhớ và cảm phục. Thân nàng dù bị dày xéo, bông hoa yêu đương vẫn nguyên vẹn. Nàng chỉ tiếc nó chẳng được hoàn toàn như lòng mong ước.
Nghĩ đến Musashi, Akemi sực nhớ đến lời chàng nhắn Matahachi qua miệng tên tiểu đồ:
chân dưới chân cầu Gojo, ngày nguyên đán. Một tia hy vọng lóe lên, Akemi lau vội nước mắt. Tay run run, nàng lấy trong bọc ra cái túi đựng số bạc vụn dành dụm bấy lâu nay, lẩm nhẩm tính, rồi cả quyết theo chân bọn khách thương bước xuống thuyền đi Kyoto.
Đối với Akemi, Kyoto chẳng xa lạ gì. Ở bến tàu bước lên, trời đã chạng vạng tối.
Nàng không muốn về xóm cũ, nơi có quán Yomogi của mẹ nàng khi trước, sợ gặp người quen, nên theo đường nhỏ vòng ra phía cổ thành đến khu Teramachi. Ở đó nhiều đền miếu, Akemi hy vọng tìm được ngôi chùa nào có vị trụ trì nhân từ cho nàng tá túc qua đêm, rồi sáng hôm sau hãy tính.
Giữa hàng liễu úa, cành rủ lưa thưa, Akemi lủi thủi đi. Gió sông thổi lạnh căm, nàng xuýt xoa run rẩy kéo vạt áo giữ hơi ấm.
- Cô em ! Này cô em, đi đâu vội thế ?
Akemi giật mình quay lại. Một người vừa gầy vừa cao, không đoán được tuổi, quần áo rách rưới bẩn thỉu, theo chân nàng từ bao giờ. Râu tóc gã lởm chởm gớm ghiếc, bên hông đeo song kiếm, dáng điệu nửa hành khất, nửa giang hồ lãng tử. Akemi hơi sợ, cắm cúi đi, chân bước nhanh hơn.
- Cô em ! Giải “obi” của cô tuột rồi đó, có muốn thắt lại, ta giúp !
Nàng không nói gì, chỉ rảo bước. Qua mấy năm sống ở Cổ thành, nàng nghe đồn có nhiều tên du đãng nghèo đói thường hay la cà ở các quán rượu, hoặc núp tại các khu đường vắng chờ khách cô thế đi qua xông ra ăn cướp. Akemi đoán tên này chắc cũng thuộc vào loại ấy.
- Xinh đẹp như vậy sao không bới tóc cho cao, đến những nơi thanh lịch chứ ở chỗ hoang vắng này làm gì ? Hay chán cảnh gia đình rồi bỏ nhà đi hoang đấy ? Để ta đưa về...
- ...
- Em nên cẩn thận, đêm khuya thân gái, thiếu gì đứa vô lại rình mò, nó bắt đem bán cho lái buôn, gái Kyoto có giá lắm ! Ở Edo bây giờ nhiều thanh lâu, hay em về ở với ta, mình tính kế làm ăn ...
Gã cười hô hố, lúc đe dọa lúc dụ dỗ. Akemi bực mình vì những lời lải nhải, gắt:
- Ngươi là ai ? Đi đi, ta không dễ gì dụ dỗ.
- Á à ! Nói thật đó. Ta thương cô em, thật tình muốn giúp ...
- Cút đi !
Bị mắng, gã chỉ cười, hàm răng khấp khểnh cáu bẩn trông gớm chết.
- Cút đi ! Không ta ném hòn đá này thì bỏ mạng.
Tuy bên ngoài nói cứng nhưng trong lòng Akemi sợ lắm. Ven đường cây cỏ um tùm. Thấy lẩn trong những bụi cây cỏ ấy, vài gốc tùng trắc mọc hoang, lùn tè, trong bóng tối, mới dâng, có thể tạm làm chỗ ẩn thân được, Akemi cúi xuống vờ nhặt hòn đá, vung tay ném, gã kia né tránh. Thừa dịp tốt, Akemi lẩn ngay vào bụi rậm. Trên cao, nền trời sẫm xuống dần. Vài ngôi sao mới mọc lấp lánh. Tiếng ễnh ương lẻ loi kêu trong đám cỏ. Con đường mòn ven sông vắng vẻ mờ mờ sau màn sương mỏng xanh lam, nhẹ như khói.
Akemi cúi rạp người, như một con chồn, lủi giữa các bụi cây thấp. Chỗ này chắc xưa kia cũng là vườn tược của đền chùa chi đây, bây giờ hoang phế, nhưng thỉnh thoảng vẫn còn di tích những lối đi lát gạch. Nàng thở thật khẽ, cố di chuyển nhẹ nhàng như bơi giữa biển lau sậy.
Đột nhiên, một bóng người từ trong bụi cây vụt nhảy ra đẩy nàng ngã sấp. Akemi chỉ kịp kêu một tiếng ngắn, bóng đen đã đè lên người nàng, ôm chặt, một tay bịt miệng, một tay giật dải thắt lưng. Akemi vùng vẫy, chân đạp tay tát.
Thì ra gã du đãng lúc nãy. Nó thông thuộc đường lối khu này nên nấp sắn một chỗ đón đầu, chờ đợi.
Gã thở hổn hển. Mùi rượu và mùi hôi thối từ miệng gã xông ra nồng nặc làm Akemi muốn ngất xỉu. Những sợi râu ngắn cứng đâm vào má, vào cổ nàng như những cái gai nhọn sắc. Akemi đau muốn kêu cứu nhưng những tiếng kêu chỉ là những tiếng ú ớ trong cổ họng.
Tên này gầy mà sao khỏe quá, nàng dùng tay cố đẩy mặt gã ra khỏi mặt mình nhưng không nổi. Trong lúc bối rối, bất ngờ một ngón tay nàng thò vào lỗ mũi nó. Nàng chọc mạnh một cái.
- Á !
Tiếng kêu ngạc nhiên đau đớn của tên du đãng làm Akemi giật mình. Gã lăn người sang bên, hai tay ôm mặt.
- Đồ chó đẻ ! Ông giết mày !
Akemi ngồi dậy, chống hai tay giật lùi về phía sau. Thấy chỗ rắn, nàng đoán chừng là một hòn đá, dựa lưng vào đó thở hổn hển. Akemi kinh hãi tột độ. Vạt áo nàng rách toạc một miếng, để lộ lần áo lót bên trong và phần ngực trần, trắng nõn dưới ánh sao đêm. Akemi chỉ kịp làm một phản ứng tự nhiên:
kéo vạt áo kia che lại rồi hai tay giữ chặt lấy ngực, tự vệ. Nàng lắp bắp:
- Ngươi ...ngươi muốn gì ?
Gã kia đã đứng lên, cười gằn độc ác. Nhìn người thiếu nữ yếu đuối trước mặt, không cách gì thoát khỏi nanh vuốt của gã, gã khoái trá, đi đi lại lại, tựa như con mèo vờn con chuột trước khi ăn thịt.
- Muốn gì ? Hề hề ...Muốn gì thì nàng biết đấy !
Và chồm tới định đè sấn nàng xuống.
Akemi nhanh mắt, lăn một vòng tránh được. Gã vồ hụt, ngã sóng soài. Cái ngã này làm gã đau điếng, vì sau tiếng “hự” va vào đá, không thấy gã trở dậy nữa.
Akemi lóp ngóp đứng lên, hai tay giữ áo, chạy thục mạng. Trong đêm tối, như một bóng ma, tà áo trắng bay phần phật giữa những bụi đỗ quyên và tử dương hoa đã tàn và lá xơ xác.
Akemi vừa chạy vừa kêu:
- Trời ơi ! Cứu tôi ! Cứu tôi với !
Tiếng kêu đứt quãng của nàng lạc trong hơi gió. Trong cái hoang tịch của cánh đồng Teramachi đêm đó, mảnh trăng hạ tuần cũng chưa mọc. Một tiếng cú rúc xa xa nhại lời kêu cứu của nàng và càng làm tăng thêm vẻ hoang vu, vắng lặng.
Tên côn đồ tỉnh dậy, giận uất người. Nghe tiếng kêu của Akemi, gã loạng choạng đuổi theo, miệng lầm bầm chửi rủa. Gã đuổi theo mỗi lúc một nhanh, những tiếng chửi tục tằn càng ngày càng gần lại và tiếng chân chạy nặng nề của gã làm Akemi rối ruột. Bước chân Akemi không còn vững, nàng thở hồng hộc, đến bên một vũng lầy thì kiệt sức quỵ xuống. Lá lau khô cứa vào mặt vào môi, nàng thấy xót và ở miệng có vị mằn mặn.
Akemi thở dốc tuyệt vọng. Lạnh, lạnh quá. Máu trong người nàng dường như chảy đi đâu hết. Akemi nhìn những ngôi sao lấp lánh đằng xa như trong giấc mơ, nhỏ dần, nhỏ dần rồi bóng tối chụp xuống toàn thân nàng, đen và sâu thăm thẳm. Nàng không còn biết gì nữa.
oo Tiếng gọi văng vẳng bên tai làm Akemi sực tỉnh. Chân tay nàng lạnh giá và trên mặt hình như có ai lấy nước lã vã vào. Akemi mở mắt lờ đờ nhìn xung quanh. Một bóng đen đang cúi xuống, giật tóc mai nàng và gọi khe khẽ:
- Này cô ! Cô ! Tỉnh dậy !
Akemi cựa mình, thở dài. Tiếng người kia vui mừng:
- Mô Phật !
Và tiếp theo, giọng ái ngại:
- Cô khát không ?
- Đây là đâu ? Phải bãi biển Symiyoshi không ?
Bóng đen lắc đầu:
- Hãy còn mê sảng. Giá có lửa sưởi thì tốt.
Đoạn cởi áo ngoài đắp lên mình Akemi. Nhưng nàng vùng dậy, hốt hoảng:
- Không ! Không !
Ngươi đừng sợ ! Tên đó chết rồi !
Và lấy tay chỉ người nằm cách đấy chừng một thước.
Akemi nhìn xác chết, giật lùi lại rồi nhìn người ngồi bên cạnh không hiểu. Giữa bóng đen âm u của những lùm cây rậm rạp, nàng không phân biệt được người đó thuộc thành phần nào trong xã hội, nhưng theo giọng nói, đoán chừng thuộc loại trung niên trở lên, và nghèo khổ. Tấm áo người ấy vừa đắp lên mình nàng làm bằng vải gai, chỉ những người bần cùng hoặc giai cấp đạo sĩ mới mặc.
- Lão ...lão là ai ?
- Ta là Tanzaemon đi khất thực qua đây, nghe tiếng chị kêu cứu, chạy lại thì đúng lúc tên côn đồ này định làm hỗn. Ta đập gậy lên đầu nó, tưởng đâu dọa cho nó bỏ, nào ngờ trúng chỗ phạm làm nó chết tốt.
- Mô Phật. Đa tạ lão trượng đã cứu tiểu nữ.
- Thế còn chị ? Nhà ở đâu ? Đêm hôm khuya khoắt đến chỗ này làm gì ?
- Thưa lão trượng ...
- Gọi ta là đạo sĩ. Ta là kẻ tu hành.
- Thưa lão đạo sĩ, tiểu nữ không có nhà và cũng không thân thích. Tiểu nữ ở xa đến, trời tối, không tìm được nơi quán xá nào hợp với túi tiền nên định vào khu Teramachi, xem cảnh chùa nào rộng cho tiện nữ ở qua đêm thì tá túc. Không ngờ ...
- Chị thật bất cẩn. Vùng Kyoto bây giờ nhiễu nhương lắm, bọn đãng tử hoành hành khắp nơi, đàn bà con gái ban ngày còn không dám ra chỗ vắng, huống chi ban đêm.
Nghe giọng nói và xem cách xử sự của đạo sĩ, Akemi yên tâm phần nào. Tuy nhiên nàng vẫn dè dặt:
- Gần đây có ngôi chùa nào không, lão đạo sĩ ?
- Không ! Ngôi chùa gần nhất cũng cách đây chừng một dặm. Chị sức còn yếu, không đi nổi đâu. Hay chị đến ngụ tạm chỗ ta ở ?
Akemi không nói gì, lòng lo lắng. Biết rõ ý nghĩ của nàng, đạo sĩ trấn an:
- Ấy là ta khuyên như thế, còn tùy chị quyết định.
- Thưa, thế nhà lão đạo sĩ ở đâu ?
Lão già mỉm cười:
- Ta cũng như chị, không có nhà. Ta ở nhờ một ngôi đền gần đây, cùng với một lão khất cái nữa. Nếu chị chẳng chê là hủ lậu thì cứ tự tiện.
- Đa tạ lão đạo sĩ.
- Vậy chị ngồi nghỉ, chờ ta một lát. Ta đọc bài kệ vãng sinh và lấy đá lấp cái xác kia lại, kẻo để quạ rỉa tội nghiệp.
Khi đạo sĩ làm xong việc thì trời đã khuya. Mảnh trăng lưỡi liềm vàng úa nhô lên khỏi đám tùng bách đen sẫm. Một con chim đêm bay ngang, cánh vỗ phành phạch, tiếng “quác” buông khô khan trong đêm tối vắng lặng.
Lão đạo sĩ đưa cho Akemi mượn cây thiền trượng chống tạm, rồi cả hai, kẻ trước người sau, theo con đường hẹp đi sâu mãi vào cảnh hoang dã.
Đến một nơi lau sậy rậm rạp cao quá đầu người, đạo sĩ dừng lại nói:
- Sắp đến rồi !
Nhưng Akemi nhìn trước nhìn sau chẳng thấy nhà cửa gì cả, chỉ thấy bốn bề lau lách mọc đầy, tiếng côn trùng ri rỉ trong đám cỏ. Nàng ngạc nhiên hỏi:
- Lão đạo sĩ ở đây sao ?
- Sau rừng kia là ngôi đền ta ở. Đối với chị chắc chẳng đủ tiện nghi, nhưng đối với ta thế cũng đủ.
Đi hết rừng lau, quả nhiên thấy một căn nhà. Một căn nhà gỗ hoang tàn, đổ nát hơn là một cảnh đền miếu. Lão đạo sĩ trèo lên thềm. Hàng lan can gỗ nghiêng ngả từ khi Matahachi bị lão dùng thế nhu đạo hất ra ngoài, vẫn còn nguyên đó, không sửa chữa.
Lão già kéo tấm liếp sang bên, đàn dơi thấy động bay tới tấp. Akemi giật mình, do dự không dám bước vào.
- Không sao đâu, bên trong ấm hơn nên dơi làm tổ. Chúng sinh cả, mình trọng nó, nó chẳng hại mình. Ta với nó sống hòa hợp chẳng bên nào cảm thấy phiền lụy. Để ta mồi chút lửa cho ấm.
Đạo sĩ nói đoạn đánh đá vào bùi nhùi, bẻ cành khô gây lửa. Chẳng bao lâu, gian phòng sáng hẳn lên, ngọn lửa vàng tươi bập bùng, nổ lách tách, tàn bắn ra xung quanh như những chiếc pháo bông nhỏ xíu.
- Chị có sợ ta giống như tên côn đồ lúc nãy không ?
Akemi lắc đầu. Đạo sĩ Tanzaemon này hình dung kỳ dị, nhưng phong cách nhân hậu, vả dưới ánh lửa trông lão già lắm, có lẽ đến ngoài sáu mươi. Râu tóc bạc nhiều, da mặt nhăn nheo, dáng dấp mang một vẻ gì phiền muộn, chắc ở tuổi thanh niên lão gặp nhiều đau khổ.
Nàng đưa mắt nhìn quanh phòng. Cảnh bần hàn không còn có thể nào hơn được, nhưng những đồ dùng cần thiết hàng ngày lão thu góp để hỗn độn làm nàng ngạc nhiên:
hai cái nồi đất, một cái đã mẻ miệng, cái hỏa lò, vài chiếc bát đĩa, mấy đôi đũa cắm trong cái ống tre treo trên vách. Gần đấy là một manh chiếu cũ, một cái gối cáu bẩn.
- Để ta đi nấu cháo. Chắc chị cũng đói rồi.
- Cảm ơn đạo sĩ, tiểu nữ không đói. Chỉ thấy sốt và mệt.
- Cảm hàn rồi đấy. Chị ra chỗ kia nằm nghỉ đi. Nghỉ là cách tốt nhất giữ sức khỏe chống bệnh. Đợi ta nấu cháo xong, ăn bát cháo nóng là khỏi.
Akemi cảm động. Nàng thấy lão đạo sĩ này dễ thương quá và đột nhiên nhìn căn phòng dơ bẩn của lão không còn ghê tởm nữa.
Lão đạo sĩ đổ gạo, nước vào nồi, bắc lên bếp rồi lấy ở góc nhà ra một mảnh gỗ. Lão tìm được ở đâu mấy cọng hành lá, rút dao găm ra, dùng mảnh gỗ làm thớt thái hành trên đó. Thái xong, lão trút vào bát, lau thớt đặt sang bên, lẩm bẩm:
- Để làm cái khay cũng tiện.
Akemi xin phép đi nằm nghỉ. Đạo sĩ mỉm cười:
- Vẽ. Mệt thì đi ngủ. Có cái màn rách đắp tạm, khi nào cháo được ta gọi dậy ăn.
Akemi không nề hà, nàng ngả mình xuống chiếu, định quơ tấm màn đắp thì một con vật gì nhảy vụt ra. Akemi giật mình ôm mặt kêu lớn. Lão đạo sĩ chồm dậy:
- Gì thế ? Cái gì thế ?
- Không biết vật gì trong đống chăn nhẩy ra.
- Chắc là chuột.
- Không phải. Nó to như con mèo, màu vàng ...
- Vậy chắc là con sóc. Khu này nhiều sóc và cầy cáo ...Thảo nào ta thấy gạo vương vãi.
Akemi vẫn còn lo sợ, đảo mắt nhìn quanh:
- Kia kìa ! Nó kia kìa ! ...
Lão đạo nhìn theo tay chỉ, trông lên cái kệ xiêu vẹo gần nóc nhà, thấy có đôi mắt tròn xoe, long lanh nhìn xuống không chớp. Đôi mắt nấp sau pho tượng Phật cụt đầu, loang lổ và ám khói mang một vẻ gì vừa tinh nghịch vừa chế nhạo làm pho tượng trở nên sinh động một cách kỳ dị. Lão vỗ tay, dậm chân, đôi mắt bỏ bức tượng chạy sang bên.
Thì ra đó là một con khỉ nhỏ. Nó đánh đu vào xà nhà, đuôi quắp lên xà gỗ, bỏ thõng mình đu đưa, nhe răng kêu khèn khẹc, da mặt nhăn nheo như quả táo phơi nắng.
- Cái con quỷ này không biết ở đâu đến. Từ trước ta có thấy nó bao giờ đâu ?
- Trong rừng không có khỉ à ?
- Đây là rừng lau, làm gì có. Chắc của ai nuôi đi lạc. Không sao đâu, ngươi cứ nằm nghỉ. Để cho nó vài cái hạt dẻ. Chúng sinh cả, chẳng nên đuổi nó làm gì !
- Nó phá lắm đấy !
- Trông thì cũng có vẻ thuần rồi, không ngại.
Lão đạo sĩ đem mấy quả thông và hạt dẻ ra để lên kệ rồi ngồi xuống mở nồi cháo ra khuấy nhè nhẹ. Mùi cháo nóng bốc lên thơm nức, tỏa khắp gian phòng. Lão hít hà, nuốt nước bọt ừng ực. Trông lão bấy giờ sung sướng, bồn chồn, tưởng như nồi cháo hoa kia chứa đựng tất cả cái tuyệt đích của khoái lạc trong cõi nhân sinh mà lão sắp được hưởng.
Chuông chùa Kiyomi từ xa vọng đến. Năm cũ sắp qua, năm mới gần kề, trong tháng này, chùa nào cũng thỉnh chuông lúc sang canh như để cảnh tỉnh chúng sinh ôn việc đã qua, tránh cảnh trầm luân trong biển u mê, hư vọng. Tiếng ngân nga theo gió thoảng đưa, êm êm như những tiếng vỗ về từ cõi cao cả xa xôi nào vọng tới, thay lời đức Phật từ bi xoa dịu nỗi đau khổ trong lòng người thiếu nữ. Akemi lắng nghe tiếng chuông, thiêm em dần rồi đắm mình vào giấc mộng.
- Đồ súc vật ! Bỏ ta ra !
Tiếng kêu thất thanh của Akemi trong giấc chiêm bao khiến đạo sĩ giật mình bỏ dở bài kinh. Lão đến bên chiếu, lay thiếu nữ. Nàng ngồi dậy ngơ ngác. Nỗi sợ hãi còn như ngưng lại trên đôi mắt lạc thần và trên đôi môi run rẩy trắng bệch của Akemi.
- Sao vậy ? Chuyện gì kinh động ngươi quá vậy ? Nói ta biết, họa chăng ta giúp ngươi được gì chăng ?
Akemi khóc òa. Đạo sĩ khẽ vỗ lưng nàng:
- Chuyện gì rồi cũng qua. Cứ nói đi. Nói đi thì vơi được sầu khổ. Ngẫu nhiên ta gặp ngươi, âu cũng là tiền định. Biết đâu những kinh nghiệm của ta chẳng giúp ngươi được phần nào.
Akemi lắc đầu thổn thức.
- A di đà Phật ! Xin đấng Vô Lượng cứu vớt chúng sinh.
- Đạo sĩ có thương con không ? Đạo sĩ khuyên con phải làm gì bây giờ ?
Thì ngươi phải nói cho ta biết chuyện gì chứ ?
Akemi cắn môi. Nàng đã tự nhủ không hở chuyện này cho ai biết nhưng sao đêm nay, cái đêm gần hết năm, chấm dứt một chặng đường trong cõi vô thủy vô chung, nàng không còn can đảm một mình mang gánh nặng tội lỗi và khổ đau ấy trên vai nữa.
Nàng muốn làm lại tất cả. Cũng như cây cỏ sang xuân đâm chồi nảy lộc, nàng thấy cần phải trút bỏ hết mọi ưu phiền cũ để cho dòng nhựa mới luân lưu trong cơ thể.
Nghĩ thế, Akemi lau nước mắt. Và nàng kể hết cho Tanzaemon nghe cuộc đời của mình, những chuyện xảy ra từ khi còn thơ ấu trên đồi Ibuki, phải vâng lời mẹ lột xác chết trên bãi hoang bán lấy tiền cung phụng mẹ, rồi gặp Takezo, theo mẹ mở trà thất, sông những năm sa đọa ở Kyoto, bị Yoshioka Seijuro cưỡng hiếp, nàng tự tử và được cứu sống ra sao, nhất nhất thuật lại. Nhiều đoạn không dằn được xúc động, Akemi nức nở.
Lão đạo sĩ ngồi nghe, không nói gì chỉ thỉnh thoảng lắc đầu. Nước mắt Akemi thấm ướt vạt áo gai trên đùi lão. Thương cho Akemi bao nhiêu, lão không khỏi không ghen tức với Seijuro. Ôi chao ! Lòng trần còn nặng, dứt đi thật khó. Nhìn đầu Akemi gục trên gối mình, phô làn da gáy trắng ngần, mịn màng. Tanzaemon giơ tay vuốt nhè nhẹ. Lão tự nhủ lòng:
“À thì ra da thịt này hắn đã làm chủ !”.
Mùi thơm da thịt quyện mùi phấn sáp thoang thoảng đưa lên ngây ngất. Hơi thở Tanzaemon nặng nề hơn. Đã lâu lắm lão không ngửi mùi này, bây giờ gần Akemi, lòng ham muốn của lão trỗi dậy. Tấm thân suy nhược tưởng khô cằn, giờ đây sống lại.
Một ý tưởng tội lỗi vụt hiện. Nhưng lão vẫn ngồi yên, vẻ trầm mặc, mục quang dán vào làn gáy đầy, trắng có những sợi tóc đen mướt chải thẳng hàng của Akemi. Trong phút hôn mê của lý trí ấy, màu trắng dường như mở rộng mãi ra, bao bọc lấy lão làm lão ngộp thở.
Một tiếng “kịch” ở đằng sau. Lão đạo sĩ quay lại. Con khỉ đã ngồi đấy từ bao giờ, loay hoay đang tìm cách mở nồi cháo. Đạo sĩ như tỉnh giấc, đẩy đầu Akemi ra, đến bên bếp lửa. Tưởng có người đến đuổi, con khỉ chạy vội ra hiên. Lão quỳ xuống, đầu cúi rạp, miệng lẩm bẩm chẳng hiểu là một đoạn kinh, một bài sám hối hay một lời cảm tạ.
Lúc sau, lão quay vào, Akemi vẫn còn phủ phục trên chiếu. Lão ôn tồn nói:
- Con ạ, đời người là bể khổ. Nhưng cái khổ của con so với cái khổ của bao nhiêu người khác vẫn chưa phải là to lớn. Đức Phật từ bi thương xót tất cả, cứu vớt tất cả. Con chỉ là nạn nhân của dục vọng. Quan trọng là tấm lòng. Tấm lòng con trong trắng thì con vẫn trong trắng. Múc cháo ăn đi con, cháo có lẽ khê rồi đó.
Nói xong, lão đạo sĩ nhặt bồ đoàn, cầm gậy lặng lẽ bước ra cửa. Đêm tàn, trăng lụn. Một tiếng vạc trên từng không vọng xuống, báo hiệu bình minh sắp rạng.
oo Cuối đông, vùng hoang địa quanh khu Teramachi lạnh buốt. Sương mù chỗ xanh lam, chỗ trắng đục, trên những ngọn lau khô còn vương vất chưa tan mặc dầu bấy giờ là cuối giờ thìn sang giờ tỵ.
Một tiếng “choét” sắc, gọn, vài cái lông rơi lả tả, tiếng vỗ cánh bay đi của con chim cắt. Thế là hết. Cuộc đời một sinh vật vừa được cáo chúng. Cắt tha mồi bay đến đậu trên cườm tay của Kojiro. Hắn giơ con mồi lên, quay gọi Seijuro:
- Đại huynh ! Bữa nay mình đi săn thế là hên đấy chứ ! Mới sáng mà đã được chú chim gáy này rồi. Cắt này khá lắm !
Con chó săn theo sau, cất tiếng sủa vang, đuôi ve vẩy.
Kojiro bỏ mồi vào bị đeo bên hông, lấy tay đập nhẹ nhẹ lên đầu chim cắt, đậy chiếc mũ da nhỏ xíu che mắt nó lại rồi tiếp tục len lỏi giữa hàng lau.
Hôm qua cũng gần chỗ này đây, con chó cắn đuôi con khỉ khiến nó bỏ chạy.
Không biết bây giờ đâu, đệ đoán nó trốn ở trong tàn cây đằng kia thôi ...
Không nghe trả lời. Ngạc nhiên, Kojiro ngoái cổ nhìn, không thấy Seijuro đâu, bèn quay trở lại.
Nửa tháng nay, ngụ tại võ đường Yoshioka, Kojiro chẳng có việc gì làm, bày trò tiêu khiển, thường cùng với chưởng môn nhân Yoshioka mang cắt đi săn bắn. Bữa trước qua đây, chẳng may con khỉ của hắn sợ hãi bỏ đi, bữa nay hắn muốn trở lại tìm.
Seijuro chẳng có lòng dạ nào đi săn, chỉ vì cần đến võ tài Kojiro mà hắn phải chiều. Hai tuần chung sống với gã thiếu niên, nhiều khi hắn bực mình thấy rõ sự trưởng thành không đi đôi với tuổi trẻ. Kojiro ưa rong chơi, tính nết phóng đãng gần như buông thả, y phục sặc sỡ không ra thế nào. Seijuro đôi khi dùng lời bóng gió nhắc nhở, Kojiro chỉ cười, không để ý.
- Tiểu đệ còn trẻ, để khi nào lập gia đình, sống vào khuôn phép cũng còn kịp chán.
Nhìn Seijuro cau có, buồn rầu ngồi trên tảng đá, Kojiro đến bên vồn vã:
- Đại huynh trong người không được khỏe chăng ?
- Không, tại hạ vẫn bình thường.
Một lát lại nói:
- Dạo này ta với thiếu hạ làm điều đó thật lầm.
- Điều gì ?
- Đi săn. Cứ rong chơi mãi chẳng luyện tập, ngày nguyên tiêu gần đến rồi, sao đủ sức địch với hắn !
Kojiro cười để lộ hàm răng trắng bóng:
- Không sao. Theo ý đệ, ta chẳng nên lo lắng vô ích.
- Nhưng thiếu hạ phải biết hắn là tay ghê gớm, chẳng nên khinh thường. Binh pháp có nói không bao giờ được khinh địch. Trước khi tranh đua, phải chuẩn bị và tập luyện kỹ càng.
- Đệ biết chứ. Nhưng bây giờ trễ rồi. Cách tốt nhất là giữ cho lòng bình thản thoải mái. Thắng địch tùy thuộc nhiều yếu tố ...
Tuy nói thế, nhưng trong thâm tâm Kojiro coi thường Seijuro lắm. Hắn cho Seijuro hẹp hòi, không biết nhìn xa trông rộng và thiếu những dự phóng tương lai.
Tài năng lại kém cỏi, mấy lần thử so gươm với Seijuro, hắn lấy làm lạ một người như vậy mà giữ chức chưởng môn một môn phái danh tiếng. Chả trách gì Yoshioka càng ngày càng lụn bại.
Theo ý riêng hắn, có lẽ em Seijuro là Denshichiro nhiều khả năng hơn, nhưng nghe nói Denshichiro rượu chè be bét, lại vô trách nhiệm, việc gì cũng phó mặc ông anh nên chưa chắc Denshichiro bảo vệ được gia phong. Vả có muốn tìm cũng khó. Hạc nội mây ngàn, biết tung tích hắn đâu mà tìm về cho kịp.
Kojiro lắc đầu, thương hại Seijuro và cả phái Yoshioka. Nếu chưởng môn nhân Yoshioka đọc được những điều Kojiro đang nghĩ, chắc hắn mất tinh thần lắm.
Có tiếng chó sủa dữ dội đằng xa. Kojiro nói:
- Chó thấy mồi rồi. Để đệ ra xem sao.
- Thiếu hiệp cứ đi săn, nếu muốn. Ta về đây !
Kojiro sửng sốt định nói gì, nhưng nghĩ lại thôi. Hắn mặc kệ Seijuro, theo hướng chó sủa, vạch lau xăm xăm đi tới.
Tiếng chó sủa mỗi lúc một gần. Đến nơi, thấy con chó săn đứng trước thềm một căn nhà đổ nát, vươn mình sủa dữ dội. Hắn đá con chó một cái, ghé mắt nhìn vào trong nhà tối như hũ nút. Hắn giơ tay kéo liếp. Con chó nhảy xổ vào nhanh như tên bắn. Tiếng kêu thét hãi hùng, tiếng chó sủa ủng oẳng, đồ đạc đổ vỡ rầm rầm lẫn với tiếng la hét thất thanh của một thiếu nữ làm căn vách ván rung rinh như sắp sập.
Trong cảnh tranh tối tranh sáng, Kojiro nhìn con chó đè lên hình thù một người nằm trên chiếu. Mõm nó ngoạm vào cánh tay người ấy, lắc đi lắc lại định rứt đứt tay áo. Con khỉ lông vàng của hắn nhảy choi choi trên cái kệ gỗ, nhe răng kêu khẹc khẹc.
Không suy nghĩ, Kojiro nhẩy xổ đến, hai tay nắm hai hàm răng con chó bửa mạnh. Một tiếng rắc, tiếp theo là những tiếng ằng ặc, máu tuôn xối xả, bắn cả vào mặt mũi hắn. Con chó dẫy đành đạch, máu lẫn với rãi rớt phun ra ướt đầm mảng lông cổ trước ngực. Một lát sau thì tắt thở hẳn.
Kojiro quỳ bên Akemi nằm thiêm em. Hắn vạch tay áo nàng lên, vết răng chó cắn sâu vào tận trong thịt, máu loang ướt cánh tay trần. Áng sáng bên ngoài hắt qua khe liếp hé, trông nàng như một đóa phù dung bị xéo nát.
Kojiro ghé miệng hút máu từ vết thương ra, nhổ đi mấy lần, rồi xé vạt áo buộc lại. Hắn lượm xác con chó vất ra sân, đoạn xốc Akemi lên vai.
Gió lạnh bên ngoài làm hắn rùng mình. Hắn kéo vạt áo che cho người thiếu nữ.
oo Đến khuya, lão đạo sĩ trở về. Cảnh hoang vắng của căn nhà thê lương hơn và tự nhiên lão linh cảm có một chuyện gì ghê rợn vừa xẩy ra. Lão hốt hoảng gọi:
- Chị ! Chị còn đấy không ?
Không có tiếng trả lời. Chỉ thấy lão hành khất già ở phía sau lê bước tới.
- Nàng bị bắt đi rồi.
- Ai bắt ?
- Một tráng sĩ cao lớn còn trẻ lắm, mặc áo đỏ viền xanh, đeo trường kiếm.
- ...
- Chà ! Con người mới khỏe và đẹp làm sao ! Đẹp trai hơn ta và lão nhiều ! Sức lão chẳng giữ được nàng đâu !
Nói xong như rất vừa ý về câu pha trò đó, lão hành khất cười hềnh hệch.



Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Sáu T12 22, 2006 12:15 am
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI
Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ

QUYỂN 3 : Hi no Maki

CHƯƠNG 31
TÌNH HUYẾT NHỤC





Seijuro về đến võ đường, mặt cau có. Hắn ném con cắt cho một đệ tử bảo nhốt vào lồng rồi ngồi phịch xuống ghế.
- Kojiro tráng sĩ không về cùng với tiểu chủ ư ?
- Không. Nhưng chắc hắn cũng sắp lại.
Seijuro vào nhà tắm thay áo rồi ra ngồi ở đại sảnh.
Võ đường đóng cửa từ ngày hăm lăm, phần lớn võ sinh đã tản mát về quê ăn Tết cả. Những tiếng đao kiếm không còn rộn rã như mọi ngày và lò sưởi cũng không nhóm vì tiết kiệm than củi. Không khí lạnh lẽo càng thêm giá buốt và làm tăng vẻ rộng lớn của gian đại sảnh. Sàn gỗ đen im lìm. Đây đó vài giá binh khí đứng trơ trọi. Seijuro bước vào, nhận ngay thấy cái cảnh hoang vắng ghê người ấy. Ngồi bên chiếc bàn thấp, hắn bất giác thấm thía nỗi cô đơn của chính lòng mình và sự bất lực của cả môn phái. Hắn rùng mình, mất hết ý chí chiến đấu. Sự trụy lạc trong tâm hồn của Seijuro còn đáng sợ gấp mươi lần sự trụy lạc của võ phái hắn đang đảm trách.
Seijuro rung chuông gọi đệ tử hầu cận. Chẳng thấy ai tới, hắn uể oải đứng dậy vén màn cửa nhìn ra ngoài.
Bên kia vườn, trước gian nhà gỗ dùng làm văn phòng của viên tổng quản, vô số người ngồi đứng lố nhố. Đủ các hạng. Thợ mộc, thợ nề, lái buôn, chủ tiệm rượu, thấp thoáng có cả bóng phụ nữ. Họ là những khách thương và phu phen bấy lâu nay vẫn thường cung cấp nhu yếu phẩm hoặc sửa chữa võ đường đến đòi nợ cuối năm. Ai nấy nếu không bồn chồn thì cũng lo lắng, vẻ giận dữ hiện ra nét mặt.
- Không biết bao giờ ông quản mới đến ? Nợ bác nhiều không ?
- Cũng đến vài ngàn.
- Của tôi thì số nợ năm trước coi như xong, nhưng năm nay chưa được đồng nào cả.
- Lúc sinh tiền Kempo lão gia, đâu có bao giờ phải chầu chực thế này. Chẳng biết các ngài trong ấy ăn tiêu ra sao mà ông quản này chậm chạp đến thế ?
Họ hỏi han nhau, trao đổi những lời than phiền. Tuy thế một phần lớn vẫn còn giữ lễ độ. Danh vọng các bậc tiền bối Yoshioka còn để lại trong lòng họ một sự tôn kính mà hậu duệ của phái, dù hèn kém, chưa làm mai một.
Mãi đến trưa, khi mặt trời đứng bong, một toán chừng sáu bảy người, dẫn đầu là Ueda, mới khệnh khạng đến. Ueda nhìn đám chủ nợ, thấy toàn là thứ dân, bèn lên tiếng hách dịch:
- Tổng quản đi vắng, chưa về.
Quả thật, tổng quản Toji đã trốn rồi, ẵm luôn cả số tiền hắn quyên được của những đồ đệ và thân hữu, cùng với Oko đi biệt tích. Một chủ nợ đứng lên trần tình:
- Anh em tiểu nhân bất đắc dĩ phải đến đây. Năm cùng tháng tận rồi, xin các ngài trong quý phái trả nợ cho. Nếu không được hết thì cũng chi cho mỗi người một ít để bọn tiểu nhân lo trang trải nợ nần.
- Đúng rồi ! Bọn tiểu nhân không đợi lâu hơn được nữa.
Người khác nói.
- Nếu ngài không trả được thì cho bọn tiểu nhân gặp chưởng môn.
Ueda ghé tai đồ đệ nói nhỏ. Hắn chạy đi, lát sau trở lại thì thầm:
- Tiểu chủ bảo nói tiểu chủ không có nhà.
Ueda cau mặt. Tiến thoái lưỡng nan, hắn phân vân không biết xử trí ra sao, nhưng vì thân danh là một trong mười cột trụ của phái, hắn cao giọng:
- Bản chưởng môn không có nhà. Để thư thả, ta sẽ hoàn trả chu tất.
- Thư thả là đến bao giờ ? Hôm nay cuối năm rồi, không trả ngay không được !
Nghe giọng nói có vẻ hỗn xược, Ueda nóng mặt:
- Đứa nào nói không được ?
Mọi người im thin thít.
- Ta đã nói trả là trả. Bây giờ các ngươi về đi, ta còn nhiều việc khác.
Nhưng chẳng ai nhúc nhích. Một chủ nợ than phiền:
- Vay thì năn nỉ, trả thì khó khăn, còn lên mặt mục hạ vô nhân, không biết nhục !
- Đứa nào nói đấy.
- Ta nói !
Ueda đứng dậy, xăm xăm đến bên người vừa cất tiếng, xuất kỳ bất ý, thoi cho một quả. Mọi người ồ lên một tiếng kinh ngạc và bất nhẫn. Ueda nắm cổ áo người đó nhấc bổng lên ném ra cửa.
- Trông đấy ! Đứa nào còn nói hỗn sẽ biết tay ta !
Rồi đưa mắt cho đàn em:
- Dồn chúng nó ra cổng trước, đóng cửa lại !
Đồ đệ Yoshioka nhất tề xắn tay áo, mặt hầm hầm. Mọi người nhìn nhau cung cúc bước ra. Khỏi bờ mới quay lại chửi mắng thậm tệ Ueda và đồng bọn.
Seijuro ngồi trong sảnh, nghe tiếng ồn ào đã biết chuyện gì rồi nhưng vẫn cúi mặt làm ngơ. Vấn đề chi tiêu trong nhà, hắn chẳng bao giờ lý tới, mặc quản gia lo liệu.
Từ khi Toji bỏ đi, tất cả mọi việc đều do Ueda quán xuyến, cho nên thấy đàn em làm bậy, hắn cũng chẳng nói năng gì. Bản tính rụt rè, ưa hưởng thụ, hắn sợ, không muốn làm mất lòng kẻ tay chân.
Ueda bước vào thấy Seijuro vẫn còn ngồi thờ thẫn bên chiếc bàn thấp.
- Tiểu chủ, có chuyện gì không vui thế ?
Nhìn bọn thuộc hạ, Seijuro vững dạ. Hắn đáp:
- Không. Chẳng có chuyện gì. Sắp đến ngày rồi phải không Ueda ?
- Sắp rồi ! Bọn tiểu đệ đến đây cũng vì việc ấy. Tiểu chủ phải tính chỗ và giờ hẹn đi chứ, để còn thông báo cho nó biết, không chần chờ được nữa đâu.
- Ờ ...ờ ... chỗ nào tiện nhỉ. Ngươi nghĩ cánh đồng Rendaiji phía bắc Cổ Thành có được không ?
- Chỗ đó được. Đệ nghĩ chẳng còn chỗ nào hơn. Thế còn ngày giờ, tiểu chủ định ra sao ?
- Ngươi tính nên hẹn trước hay sau ngày hạ nêu ?
- Đệ cho là càng sớm càng tốt. Đừng để nó kiếm cớ trốn mất.
- Mùng tám được không ?
- Mùng tám là kỵ nhật lão tiền bối tổ khảo, tiểu chủ quên rồi sao ?
- Ừ nhỉ, vậy vào ngày mùng chín đi. Đầu giờ thìn, bấy giờ sương chưa tan, mình dễ xoay sở.
- Dạ. Bọn tiểu đệ sẽ cho yết bảng ngay tối nay dưới chân cầu.
- Vậy tốt !
- Tiểu chủ sẵn sàng cả rồi chứ ?
- Dĩ nhiên, dĩ nhiên !
Nói thế nhưng Seijuro không an tâm. Tuy Musashi chỉ là một tên kiếm khách, nhưng gần đây có tin đồn đại gã đã giao đấu với nhiều cao thủ võ lâm và đều thắng cả. Seijuro hơi sợ. Hắn không muốn tự nhận mình tư chất kém cỏi, không đủ khả năng bảo vệ danh dự một môn phái lớn, mà chỉ cho là hiện giờ tâm không tĩnh, một phần vì tình hình tài chính của Yoshioka kiệt quệ quá, một phần cũng vì Akemi. Trong vụ Sumiyoshi, Akemi cự tuyệt hắn làm lòng tự ái của hắn thương tổn, hắn càng nghĩ càng giận. Lại Toji bỏ đi. Tất cả những biến cố ấy khác nào những mũi thương ác độc đâm thủng lòng tự tin của hắn, giảm nhuệ khí của hắn không ít.
Seijuro gọi người hầu, hỏi tin Kojiro. Thấy trình Kojiro chưa về, hắn ngạc nhiên. Nắng xiên khoai đã đổ dài bóng những gốc tùng, bách cao lớn sau nhà mà người hắn mong đợi tiếp tay vẫn còn mãi mê săn bắn làm hắn khó chịu, cảm thấy như bị phản bội.
Ueda trở lại, theo sau là một đệ tử mang tấm bảng gỗ mới cắt, chữ viết còn đen nhánh nét mực chưa khô. Seijuro nhìn tấm bảng, lẩm nhẩm đọc:
“Cáo yết Musashi lãng nhân kiếm khách, Phúc đáp yêu cầu của ngươi, bản phái quyết định ngày giờ gặp gỡ như sau:
Địa điểm:
Đồng Rendaiji, phía bắc Cổ Thành Ngày giờ:
đầu giờ thìn, ngày mùng chín tháng một xuân năm mùi.
Bản chưởng môn sẽ hiện diện. Nếu vì lý do gì ngươi không đến, bản phái giành toàn quyền điếu mạ ngươi trước công chúng. Phần bản phái, nếu không giữ lời hứa, xin quỷ thần tru diệt.
Làm tại sảnh đường Yoshioka ngày quý đông năm Ngọ
Chưởng môn:Yoshioka Seijuro”.
Seijuro đọc xong, gật gù:
- Được đấy !
Lời văn rõ ràng trong cáo thị làm hắn hết do dự. Ít nhất, tình thế đã ngã ngũ rồi, hay có lẽ bây giờ hắn mới ý thức được như vậy.
Ueda ra lệnh cho đồ đệ mang bảng ra cắm ngay dưới chân dưới chân cầu Gojo và trở vào ngồi cùng Seijuro bàn các việc sắp tới.
oo Dưới chân đồi Yoshida, Musashi len lỏi giữa những ngôi nhà nghèo nàn của các Samurai vọng tộc nhưng ít tiền. Những Samurai này phần lớn mang tư tưởng bảo thủ, cầu an, không ưa hay không thể làm được những việc xuất chúng, đành cam phận sống tầm thường như mọi người.
Musashi vừa đi vừa đảo mắt đọc những tấm bảng gỗ nhỏ đề tên gia chủ treo trước cửa mỗi nhà. Hắn tìm gia đình người dì, vì hắn chỉ còn có bà dì này với Ogin, chị hắn, là hai người thân duy nhất. Dì hắn lấy chồng Samurai, phục thị dưới trướng Tôn Điền. Có điều hắn không ngờ chú dượng hắn cũng chẳng giàu có gì, tư thất ở hỗn độn trong khu gia cư thanh bạch này, tìm được thật khó. Nhà nào cũng nhỏ chỉ hai gian, chen chúc nhau, co ro như sợ cái lạnh mùa đông, nấp sau mấy thửa vườn hẹp xơ xác, cây cối khẳng khiu, tuyết trong trận bão vừa qua vẫn còn đọng trên cành cây gầy guộc.
Cửa đóng kín mít. Ngày ba mươi Tết, tuy có đôi nhà trang trí trúc và cành thông theo tục lệ cổ truyền ở trước hàng hiên, nhưng thiếu hẳn cái không khí rộn rịp ngoài đại lộ.
Đi mãi không tìm được nhà, mà tứ bề vắng vẻ không biết ai hỏi thăm, Musashi tự nhủ:
“Chắc di mẫu ta dọn đi nơi khác rồi”. Bèn đi ngược trở lại. Đến gần chợ, sương chiều phủ kín khắp nơi nhưng phố xá ngày Tết vẫn còn tấp nập. Đèn đường nhòe nhoẹt rung rinh giữa những vòng ánh sáng vàng úa. Khách bộ hành mang xách đi lại vội vàng, lúc ẩn lúc hiện.
Một phụ nữ đứng tuổi bước ngang trước mặt Musashi. Đột nhiên hắn có cảm giác kỳ lạ, hình như đã thấy người này ở đâu rồi. Những nét quen thuộc lắm. Người đàn bà đi đã xa mà hắn vẫn còn ngẩn ngơ nhìn theo. Đứng một lúc, hắn sực nhớ :
nét mặt này là nét mặt của mẹ hắn, hắn vẫn mường tượng trong giấc mơ. Đúng rồi, chắc bà đó là di mẫu hắn. Tuy không gặp dì mười năm nay, nhưng cái vẻ mặt và cái dáng đi ấy, hắn không sao quên được.
Musashi chạy theo gọi. Bà kia dừng lại, nhìn hắn ngạc nhiên tột độ, nhưng trong khóe mắt nhăn nheo và trong tròng mắt bắt đầu mờ đục vì cuộc sống khó khăn, thoáng một niềm nghi kỵ:
- Ngươi là Musashi, con ông Munisai phải không ?
Đến lượt Musashi ngạc nhiên. Hắn tự hỏi không hiểu sao dì hắn lại gọi hắn là Musashi mà không là Takezo. Trực giác bén nhậy của hắn cho biết rõ ràng hắn không được tiếp đón nồng nhiệt. Nhưng vẫn thành thật đáp:
- Vâng, con là Takezo, dòng họ Shinmen.
Bà dì nhìn Musashi từ đầu đến chân, không một lời mừng rỡ:
“Ồ ! Con đã lớn thế này rồi cơ à !” hoặc “con đấy ư, lâu lắm dì chẳng gặp con” ... Bà chỉ lạnh nhạt nói:
- Mày đến đây làm gì ?
- Thưa di mẫu, cũng không có lý do gì đặc biệt. Nhân đi qua Kyoto, con tạt vào thăm di mẫu và chúc di mẫu cùng di trượng sang năm mới an khang.
Hắn nhìn nét mặt, chân tóc bà dì. Nhiều nếp nhăn ở đuôi mắt, vành môi, chân tóc cũng đã bắt đầu nhuốm bạc. Nếu mẹ hắn còn sống, bà cũng tuổi này và chắc còn nhiều vết nhăn hơn. Giọng nói hẳn cũng thế.
Bà dì tỏ vẻ không tin:
- Mày đến thăm ta ư ?
- Dạ, con cáo lỗi đã không báo trước.
Bà giơ tay đuổi Musashi:
- Vậy bây giờ đã gặp ta rồi thì thôi, đi đi !
Kinh ngạc về lời nói quá vô tình ấy, Musashi giận dữ:
- Tại sao di mẫu lại đối với con như thế ? Nếu di mẫu đuổi con, con xin đi ngay chẳng dám làm phiền, nhưng con muốn biết tại sao. Hay con đã làm điều gì để di mẫu phật ý. Ít nhất di mẫu cũng cho con biết chứ !
Dường như hối hận vì thái độ lạnh nhạt của mình, bà đi quay đi, không trả lời vào câu hỏi. Bả nói lảng:
- Ừ, thôi đã đến đây thì về nhà, chào dượng mày một câu. Ta là dì mày, cũng không muốn mày đi khỏi nơi này rồi đem lòng oán giận ta.
Musashi theo bà về nhà. Hắn đợi ở phòng ngoài chờ bà vào báo cho dượng hắn biết. Tiếng ho khan và thở khò khè của một người bị bệnh suyễn ở phòng trong vọng ra cùng với lời nói bực tức:
- Sao ? Con ông Munisai à ? Nó đến đây làm gì thế ? Sao bà để nó vào nhà mà không báo cho tôi biết trước ?
Tiếng dì hắn nói thầm những gì không rõ, rồi tiếng lục đục của người ở trên giường bước xuống tìm dép. Sau cùng, cánh cửa lùa mở và ông Kaname bước ra, mắt hấp háy.
Kaname là dượng hắn, dáng thấp lại hơi gù, hai vai so lại vì bệnh hoạn. Nhìn Musashi, ông tỏ vẻ khinh rẻ ra mặt, một sự khinh rẻ thường thấy ở những người tình thành nhìn bà con thô lỗ của họ Ở quê ra thăm:
- Thằng Takezo đấy à ? Mày đến làm gì thế ?
- Con nhân có việc đi qua Kyoto, đến thăm di trượng.
- Láo !
- ...
- Mày trí trá lắm, ta lạ gì. Đừng tìm cách dối gạt. Ở Mimasaka người ta đuổi mày nên mày trốn lên đây chứ gì ?
Musashi đứng sững. Hắn không ngờ dượng hắn lại có thái độ như vậy.
Dưới ánh đèn lờ mờ, dì hắn ngồi lặng thinh trong góc phòng, đầu hơi cúi.
- Mày giết người, dụ dỗ con dâu người ta, làm bại hoại gia phong, thật đáng xấu hổ, bây giờ còn đến đây định bêu xấu chúng ta nữa ư ?
Nói xong dượng hắn thở hổn hển. Dường như câu nói dài và sự tức giận làm ông mệt nhọc, ông giơ tay đỡ ngực. Musashi buồn rầu, tuy biết bị hàm oan nhưng trước cảnh ấy không giữ được lòng thương xót.
- Thưa di nương di trượng, con biết đã làm nhiều điều không phải, nhưng bấy giờ con còn dại. Bây giờ xin sửa đổi.
Ông lão hình như không để ý đến lời hắn nói. Ông ngồi xuống chiếu tiếp tục mắng nhiếc:
- Dân làng ruồng bỏ mày, chắc mày phải bỏ đi cũng vì thế. Gieo gió gặt bão, ông Munisai dưới mồ hẳn không được nằm yên.
Musashi thấy di trượng, di mẫu tỏ ra phiền lòng và giận dữ quá, bèn cáo thoái:
- Thôi, con chỉ đến để chào di trượng và di mẫu. Bây giờ xin cho con được kiếu ...
- A ! Không được ! - Ông Kaname giận dữ cắt ngang - Mày không đi bây giờ được. Mày biết ai đợi mày ngoài ấy không ? Mụ Honiden. Mày mà gặp mặt mụ thì phiền lắm.
- Ô ! cụ Osugi đến đây ư ?
- Chứ gì nữa. Tháng trước mụ tới đây, kể cho chúng ta nghe hết về mày. Nếu không phải vì tình huyết nhục thì ta đã trói mày giao cho mụ ấy rồi. Nhưng mày là cháu, chúng ta nghĩ tình đối với ông Munisai và mẹ mày nên giữ mày lại. Mày nên đợi đến khuya hãy trốn đi.
Musashi buồn phiền khôn tả, biết có trần tình cũng vô ích nên chỉ ngồi cắm mặt xuống đất. Những lầm lỗi của hắn trong tuổi thiếu thời không ngờ đã bị cụ Osugi thổi phồng lên và đã gieo vào lòng di mẫu và di trượng hắn một ấn tượng xấu xa đến thế.
Dì hắn nhìn hắn thương hại, bảo hắn ra nhà sau nằm nghỉ. Một mình trong bóng tối, dựa lưng vào đống củi, một lần nữa, Musashi lại thấm thía nỗi đơn độc của mình. Hắn cởi cây gươm đeo bên sườn, vuốt nhẹ lên bao gỗ nhẵn bóng. Cảm giác mát rượi của vỏ gươm làm hắn thoải mái như những lời an ủi của người bạn cố tri.
Musashi ngồi đã lâu, không một ai hỏi han gì. Không khí trong vựa củi ẩm ướt lạnh tanh. Đói, mệt và buồn ngủ, hắn em đi lúc nào không biết.
Tiếng chuông giao thừa đổ hổi làm Musashi bừng thức giấc. Năm mới rồi, năm mới rồi đấy ! Giấc ngủ vừa qua đã đem lại cho hắn sự sảng khoái. Tâm trí lâng lâng thư thái, những bắp thịt sau một thời gian nghỉ ngơi như được dãn nở thêm ra và một luồng sinh lực mới chu lưu khắp thân thể.
Musashi đứng dậy vươn vai. Chuông chùa vẫn thong thả buông những tiếng ngân nga, uy nghi đĩnh đạt, đủ một trăm lẻ tám tiếng cho một trăm lẻ tám mê vọng của người đời, mỗi tiếng là một lời nhắc nhở họ về tính chất phù ảo của kiếp nhân sinh.
Musashi tự hỏi có bao nhiêu người trong đêm nay, cái đêm trừ tịch này, đã nói được:
“Ta đã làm xong điều ta phải làm, ta chẳng có điều gì hối tiếc”. Riêng đối với hắn, mỗi tiếng chuông lại làm hắn rùng mình nghĩ đến những tư tưởng, những hành động xấu xa hắn đã phạm phải trong năm qua, năm trước và những năm trước nữa.
Không năm nào không có những điều hắn không hối tiếc. Người đời thay vợ đổi chồng, đối đãi với tổ tiên, cha mẹ, anh em, con cái, ai dám tự hào đã không có điều gì xúc phạm ?
“Ta vẫn tự nhủ:
nhất định không mong nhờ ai điều gì mà sao vẫn còn hy vọng ở họ lòng thương yêu ? Thật là ngu xuẩn và dại dột. Ta phải quyết tâm và ghi điều này lên giấy mới được !”. Musashi mở hành trang, lấy ra một mẩu nến, đánh lửa thắp lên rồi rút ra quyển sổ giấy đã vàng trong đó hắn ghi những điều nhận xét về võ công, về địa lý cũng như những ý tưởng hỗn độn của hắn trên bước đường giang hồ, kèm theo với cây bút nhỏ. Hắn nhổ nước bọt vào cái nghiên con, mài mực, viết câu khai bút:
“Ta muốn không có điều gì phải hối tiếc”. Nhưng viết thôi, không đủ, hắn cần tìm một câu ngắn, gọn, ý nghĩa súc tích như một thành ngữ để có thể nhắc đi nhắc lại hàng ngày. Có thế hắn mới không quên. Bèn sửa:
“Ta sẽ không hối tiếc những điều ta làm”. Nhưng vẫn chưa vừa ý, hắn lại sửa lần nữa:
“Không làm những gì phải hối tiếc”. Musashi lẩm nhẩm nhắc đi nhắc lại câu này giữa những tiếng chuông lớn ngân nga và những tiếng chuông nhỏ đổ hồi báo hiệu một năm mới vừa điểm.
Cửa lùa xịch mở. Dì hắn thò đầu vào và nói, giọng run run thì thầm:
- Takezo ! Mày ở đây không được nữa rồi. Mụ Honiden đến ngoài kia và đòi chúng ta phải điệu mày ra. Chúng ta đã nói mày không có đây nhưng mụ không nghe. Đầu năm, đừng để xảy ra chuyện không hay.
Giọng bà dì hạ thấp hơn:
- Takezo, trốn đi mau. Dượng mày đang giữ mụ ngoài nhà khách.
Bà lẻn vào, cầm nón đội lên đầu Musashi và đẩy hắn ra phía cửa bếp.
Hắn vừa đi vừa khoác vội túi hành trang lên vai:
- Con ân hận và xin lỗi đã làm phiền di mẫu.
Bà tạt vào bếp lấy năm cái bánh dầy nhỏ, gói vào vuông vải trắng dúi vào tay hắn.
Musashi cung kính giơ bánh lên ngang trán tỏ dấu cảm ơn và đi vội ra cửa:
- Con xin vĩnh biệt di mẫu.



Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Sáu T12 22, 2006 12:22 am
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI
Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ

QUYỂN 3 : Hi no Maki

CHƯƠNG 32
DƯỚI CHÂU CẦU GOJO






Như cánh chim bạt gió, Musashi lầm lũi đi trong đêm tối, dưới trời giá buốt. Chiếc nón nan mong manh không đủ che đầu, gió lạnh lùa qua lần khăn mỏng quấn quanh trán, hắn phải cắn chặt hai hàm răng cho khỏi và vào nhau kêu lập cập. Hơi hắn thở ra trắng tựa khói, vướng vào hàng lông tơ trên mép chẳng mấy chốc đã đọng thành những giọt sương nhỏ li ti.
“Chà, lạnh dữ !”. Trước nay, lạnh như thế này đối với hắn có nghĩa gì đâu, sao đêm nay hắn run rẩy như chiếc lá ? Chắc chẳng phải vì cái lạnh bên ngoài mà vì lòng hắn nhu nhược. Như đứa trẻ nhỏ thích được mẹ ôm ấp nâng niu, hắn vẫn còn trông cậy vào tình thương của người khác. Trong thâm tâm, hắn chưa gạt bỏ được sự mong ước nắm một bàn tay trắc ẩn, nghe một lời âu yếm, hay nhận một cử chỉ vuốt ve, hắn vẫn còn bị tình cảm ràng buộc. Sự thất vọng vừa qua tại nhà người dì đã như một gáo nước dội vào dập tắt tất cả những mong ước ấy làm hắn lạnh tê, nhưng đồng thời cũng khích động lòng tự ái của hắn không ít. Hắn chẳng trách người dì và ông chú dượng, chỉ giận mình chưa đủ trưởng thành để sống một đời tự lập. Tự lập ! Trong cơn phẫn nộ với chính mình, Musashi nói to như hét:
- Tự lập ! Ta phải sống cuộc đời tự lập ngay tự trong lòng ta !
Tiếng kêu giận dữ phát xuất từ tâm khảm hắn vang lên tựa sấm động bên tai.
Trong giờ khắc trang nghiêm của buổi nguyên đán, giữa những tiếng chuông chùa dõng dạc uy nghi, tiếng kêu bi thiết ấy là lời hứa long trọng với chính mình, Musashi sung sướng như người vừa được giải thoát. Hắn bước nhanh hơn, hơi thở dồn dập, một thay đổi sâu xa đương làm đảo lộn cả tâm hồn và thể chất hắn.
“Kiếm đạo không phải là con đường dành cho những kẻ yếu hèn, không lý tưởng.
Người mang kiếm không lý tưởng chỉ là kẻ ăn mày lang bạt. Sự khác biệt giữa một kẻ ăn mày lang bạt và một hiệp sĩ giang hồ nằm trong đáy lòng mình chứ không ở nơi nào khác”. Musashi vừa lòng với những suy tư ấy. Hắn bước những bước dài, mạnh trên đường cỏ ướt sương và không còn thấy tê cóng trên đầu ngón chân như trước nữa.
Hồi lâu, cảnh trí xem chừng đổi khác. Rặng liễu ven đường nhiều thêm ra và nhà cửa cũng thưa dần. Dưới chân Musashi đã có những vũng nước đóng váng. Đôi lúc, hắn phải tránh đường mòn, đi lên bờ cỏ cho khỏi ướt chân.
Ngoài xa, một dải sương trắng đục mờ mờ, có lẽ là sông Kamo. Không ngờ hắn đến bờ sông Kamo chóng đến thế ! Trời còn tối lắm. Lau sậy và cỏ lác mọc rậm rạp ven sông càng làm cho bờ sông tối thêm, hắn không phân biệt được đâu là bờ, đâu là nước nữa.
Musashi men theo rặng liễu đến chỗ lũng cao. Trời chưa sáng, vả hẵn cũng không gấp nên quyết định ngồi nghỉ chân trên lũng. Nhìn quanh, vô số cành lá gãy, lá khô, hắn nhặt gom lại thành đống, mồi lửa đốt. Gió sông thổi ào ào, mấy lần lửa đã bắt lại tắt ngấm. Kiên nhẫn, hắn lấy nón che, thả từng chiếc lá làm mồi, đến khi lửa bốc cao, hắn xoa hai tay vào nhau khoan khoái và cởi hài xảo hong bên đống lửa. Ngọn lửa theo gió thổi tạt vào mặt nóng rát. Musashi lùi lại, bỗng tay chạm vào một túi nặng đeo bên mình. Sực nhớ đến mấy chiếc bánh dì hắn cho lúc sang canh, cơn đói ở đâu kéo đến khiến hắn ứa nước rãi. Hắn tháo túi, lấy bánh ra bày trước mặt, dùng cành khô xiên từng chiếc hơ lên lửa.
Bánh dầy gặp lửa phồng to tựa quả cam, vàng ngộm, nhắc hắn nhớ đến những ngày Tết nguyên đán xưa, khi còn nhỏ, hắn cũng nướng bánh ăn như thế này. Bánh dầy nhạt, không tẩm đường và cũng không có muối, nhưng dẻo và thơm, càng nhai càng có vị. Bất giác, hắn so sánh những chiếc bánh thuần hậu với cuộc đời hành hiệp hắn đang theo đuổi, đạm bạc mà cao khiết.
Musashi vui vẻ, vừa ăn bánh vừa ngó ngọn lửa bập bùng. Cơn gió thổi, ngọn lửa rạp sang bên rồi lại tỏa ra cháy xuê xoang hơn trước. Những tiếng nổ lách tách reo vui, một chút vui nhỏ trong niềm vui lớn sáng tạo của vũ trụ.
“Năm nay ta ăn một cái Tết nguyên đán của riêng ta ...giang hồ lãng tử như ta mà cũng có bánh ăn đầu năm thì chắc Trời Phật chẳng để ai đói lòng. Này sông Kamo là bạn, băm sáu ngọn Hải Nhai Sơn làm bối cảnh trang trí cho cây tùng xanh tốt ngoài kia !
Thật là hùng vĩ ! Ta phải làm cái gì mới được ! Ờ ờ ...ăn xong, ta sẽ xuống sông tắm gội cho thân thể thanh khiết đợi ánh sáng đầu tiên của năm mới.” Musashi lần ra bờ sông, cởi bỏ quần áo, xếp cùng với hành trang bên gốc liễu rồi nhảy xuống tắm. Nước lạnh quất vào da thịt làm cho bắp thịt hắn săn lại nhưng Musashi thấy sảng khoái vô cùng. Hắn vùng vẫy bơi lội, bọt nước bắn tứ tung chẳng khác gì một loài thủy cầm đang đùa nghịch.
Musashi vừa tắm xong, chân trời phía đông cũng vừa hửng sáng. Hắn bước lên bờ, linh cảm làn dương quang mới hé chiếu trên lưng, quay lại thì đúng lúc mặt trời vừa ló.
Xúc động trước vẻ đẹp bao la của cảnh vật, bóng tối lui dần dưới bầu trời rạng rỡ, sông dài, trời rộng trải thênh thang, Musashi cứ để nguyên thân thể trần truồng như kẻ cổ sơ, dạng chân giơ tay hít một hơi dài bầu không khí trong lành buổi ban mai vào ngực.
Giây phút huyền diệu ! Đột nhiên, hắn cảm thấy tâm hồn lâng lâng bay bổng, bừng lên một sự cảm thông với vô cùng và hòa đồng cùng vạn vật. Hắn không còn là hắn nữa, hắn là cái cây, là đám mây, là ngọn núi. Hơi thở của hăn, những tế bào trong cơ thể hắn chỉ là những mắt xích của vô cùng, ảo giác mà thôi, hiện ra rồi lại tan loãng vào thiên nhiên để mà luân lưu mãi. Không ngờ trong giây phút linh thiêng này, hắn vừa lý hội được cái nghĩa sắc, không của nhà Phật.
Musashi lau khô mình, sắp sửa mặc quần áo thì vừa hay nhìn lên lũng cao, thấy bóng một bà già bên đống lửa. Bà đó không ai khác hơn là cụ Osugi.
Cụ Honiden Osugi trông thấy hắn cũng không khỏi kinh ngạc:
- Đúng rồi ! Đúng hắn rồi !
Mới kêu được có thế, bà đã hụt hơi vì xúc động, hai tay giữ ngực rồi sụp xuống.
Chân tay run rẩy, bà thều thào:
- Lạy Trời lạy Phật, vong hồn cậu sống khôn thác thiêng run rủi cho ta gặp thằng ác tặc đây rồi !
Từ khi cậu Gon gặp nạn chết đi, bà luôn luôn đem theo trong mình một cái túi nhỏ đựng vài sợi tóc và lóng xương của người em bạc mệnh như một giải bùa để những khi trái gió trở trời, hoặc gặp chuyện gì phiền não, bà mang ra cầu nguyện. Tuy cậu mới chết chẳng bao lâu, nhưng không ngày nào bà không khấn vái vong linh cậu. Bà nguyền sẽ trả mối thù cho dòng họ đến hơi thở cuối cùng, giết cho bằng được tên đại gian đại ác, cho dù có phải tan xương nát thịt cũng cam lòng.
Nghe đồn có bảng cáo thị dưới chân đường Gojo của Yoshioka phái hẹn Musashi tỉ võ ngày nguyên tiêu, cụ Osugi không ngần ngại, vội vàng đến Kyoto xem hư thực. Bà chỉ sợ trễ, Musashi mà chết dưới tay Yoshioka rồi thì còn đâu để bả trả hận. May sao Trời Phật và đức Quan Âm bồ tát đã chứng giám lời cầu xin thành khẩn của bà, lại nhờ vong hồn cậu Gon linh thiêng, bà bắt gặp nó ở đây.
Thấy ánh lửa ven sông, bà đinh ninh cho là lửa của kẻ ăn xin nào đó đốt lên sưởi ấm, không ngờ lại chính là Musashi. Khi nhìn dáng dấp cao lớn của người dưới nước bước lên, dám khinh thường cái lạnh, tắm sông về mùa này, bà không còn hồ nghi gì nữa.
Musashi trần truồng là một dịp rất tốt cho bà tấn công, chờ lúc hắn đang mãi bận quần áo, xuất kỳ bất ý xông ra đâm cho một nhát, tất hắn tránh không kịp.
Nhưng bộ Óc già nua của bà không cho thế là phải. Bà nhắm mắt chắp tay cảm ơn Thần Phật, tin rằng Thần Phật sẽ phù hộ bà cho đến lúc chết. Mà có Thần Phật phù hộ thì lo gì bà không giết được nó ?
Khi cụ Osugi mở mắt ra, Musashi đã mặc xong quần áo. Túi hành trang trên vai, song kiếm giắt lưng, thoắt cái hắn đã nhảy qua vũng nước lớn, rảo bướ c đi về phía dưới chân cầu Gojo.
Cụ Osugi há hốc miệng, không ngờ hắn nhanh quá đến thế. Rút kiếm ra rồi, bà lại tra kiếm vào vỏ, chạy theo. Bà cũng khôn ngoan không lên tiếng thách thức, chỉ men theo hàng liễu và lẩn sau những bụi lau sậy, dõi bước chân hắn.
Bóng chiếc cầu gỗ đã bắt đầu hiện ra lờ mờ trong sương sớm cùng với những mái nhà rêu màu xám nhạt. Còn một thôi nữa thì đến chân cầu, Musashi bước nhanh. Hắn dư biết cụ Osugi đang đuổi theo nhưng hắn không quay lại. Vì quay lại, tất nhiên phải đối đầu với bà. Hắn phải tự vệ nhưng lại không muốn làm bà lão bị thương. “Thật là khó xử !”. Hắn tự nhủ thầm, và mỉm cười:
“Thật là một đối thủ lợi hại!”.
Nếu như hắn vẫn là thằng Takezo xưa kia, khi còn ở Miyamoto thì dễ quá:
hắn chỉ đấm cho một quả, bà sẽ nằm liệt giường hàng tháng. Nhưng nay hắn là người khác rồi.
Thực ra Musashi chẳng ưa gì cụ Osugi, nhưng hắn không căm thù bà như bà căm thù hắn. Hắn cho rằng lòng căm thù của bà sinh ra từ một điều ngộ nhận.
Hắn muốn trần tình, nhưng cái thế không cho phép. Chắc chắn hắn nói thế nào bà cũng chẳng nghe, bà vẫn nổi tiếng là người bướng nhất làng. Chỉ Matahachi nói, may ra bà mới để vào tai, vì thực ra ngoài Matahachi, còn ai có thể chứng minh chính con bà đã viết thư từ hôn với Otsu ?
Đến đầu cầu đường Gojo, Musashi chậm bước. Dịp may để cụ Osugi đuổi mau hơn. Trăm thước. Năm chục thước. Ba chục thước. Trông dáng đi của Musashi, sao bà ghét lạ ! Đến những vết chân hắn in trên đất, bà cũng ghét cay ghét đắng. Bà ngoảnh mặt đi, nhổ bọt, rồi không giữ nổi kiên nhẫn, hét lớn:
- Takezo !
Nhưng Musashi không chú ý, làm như không nghe tiếng.
- Takezo ! Mày điếc à ? Sao không nghe ta gọi ?
Musashi vẫn điềm tĩnh tiến bước.
Cụ Osugi tức uất, hai tay nắm chặt, cổ bạnh ra, chạy lên chặn đường hắn.
- Đứng lại !
Musashi giả vờ ngạc nhiên:
- Chà ! Ai như cụ Osugi ? Sao bà lại ở đây ?
- Tiểu tặc gian ác, đừng vờ vịt ! Sao ta lại ở đây ! Đáng lẽ ta phải hỏi mày câu ấy.
Ta đã để mày chạy khỏi tay ta trên sơn đạo chùa Phổ Quang, bây giờ không thể cho mày trốn thoát được. Ta phải lấy đầu mày !
Mặt cụ Osugi đỏ gay, gân cổ nổi lên như chiếc đũa. Giọng bà the thé phun ra từ cái miệng nhăn nheo có hàm răng vổ, thưa làm Musashi thấy sợ hãi hơn là tiếng thét xung trận của một đối thủ lợi hại.
Sự sợ hãi của hắn bắt nguồn từ hồi nhỏ, khi hắn và Matahachi đang mãi hái trộm dâu trong vườn thì bị bà bắt được. Bấy giờ hắn tám chín tuổi gì đó. Tiếng hét của bà làm hắn sợ hãi quá chừng, bỏ chạy mà trống ngực đập thình thịch. Thời gian trôi qua, cường độ của sự sợ hãi giảm bớt nhưng âm hưởng tiếng hét vẫn còn vang dội bên tai làm hắn giật mình khó chịu.
Phần cụ Osugi, tuy bây giờ Musashi đã thành niên, nhưng ấn tượng một đứa bé hỗn láo và man dại vẫn còn ghi trong ký ức. Khi Matahachi đăng lính, rồi Otsu, con dâu tương lại của bà bỏ đi, bà đều quy tội cho Musashi dụ dỗ. Vì những lời đàm tiếu trong làng, sự tức giận của bà mỗi ngày một tăng và nay trở thành thù hận.
Bây giờ, tất cả kỳ vọng của bà trước khi nằm xuống là được cắt đầu Takezo cáo gia tiên để trả mối hận đó.
Cụ Osugi giơ tay quệt mép, nhổ bọt vào gan bàn tay rồi rút kiếm đánh soạt:
- Takezo ! Thằng vô lại du đãng kia ! Rút kiếm ra nếu không đừng trách ta không báo trước.
Tích xưa, chuyện con bọ ngựa đá xe không biết có từ đời nào nhưng so vớ i cảnh này thì thật hợp. cụ Osugi chân tay khô đét chẳng khác gì càng bọ ngựa, mắt lồi, da mặt nhăn nhúm, chiếc áo chẽn bà mặc ngắn đến lưng, gió thổi phồng lên như hai cái cánh. Còn Musashi chẳng nói chẳng rằng, lừng lững như cỗ xe vững chãi, đưa mắt nhìn lão bà bọ ngựa múa kiếm chạy quanh. Cảnh tượng thật nực cười, nhưng Musashi không cười được. Hắn chỉ thấy thương.
Khi cụ Osugi đến gần, giơ kiếm định đâm, hắn không tránh, giơ tay nắm chặt lấy khuỷu tay bà.
- Thôi mà, bà bớt giận để con nói.
Giọng hắn cầu khẩn. Đang đà, cụ Osugi ngã xô vào người hắn. Hắn nhẹ nhàng đẩy ra.
- Bà hiểu lầm con rồi !
- Mày đừng tìm cách lừa gạt. Ta từng này tuổi đầu, ăn hơn mày bốn mươi cái Tết, mày chỉ đáng con cháu ta, chuyện gì ta phải nghe mày nói ?
Mặt bà đỏ gay, bọt sùi ra bên mép qua hai hàm răng vổ và thưa. Musashi lắc đầu:
- Bướng quá sức ! Thật chẳng hổ danh dòng Honiden.
- Tiểu tặc đừng hỗn. Ta không nghe những lời tán tụng của mày đâu. Bỏ tay ta ra !
- Bà hãy nghe con giải thích ...
- Không ! Không giải thích gì cả. Đọc kinh sám hối đi là vừa, trước khi ta chặt cổ mày !
Cụ Osugi vùng vẫy giằng tay ra, dáng điệu hung hăng như con gà chọi.
- Bà không nghe con nói thì con phải đoạt thanh kiếm này.
- Hứ ! Đoạt đi ! Nó là đồ gia bảo nhà ta. Mày giết ta mới lấy được. Đừng hòng !
- Xin bà bớt giận. Tuổi bà đã cao, giận dữ không tốt. Hãy để Matahachi nói bà rõ.
- Á ! Mày nói gì thằng Matahachi ?
- Con có hẹn hôm nay gặp Matahachi ở chân cầu. Nó biết rõ chuyện, bà đợi nó nói hết cho bà nghe.
- Xì ! Chỉ láo ! Thật xấu hổ, mày có phải con ông Munisai dòng họ Shinmen không ? Ông ấy có dạy mày khì phải chết thì chết cho đĩnh đạt không ? Đừng tìm cách gạt ta để rồi trốn như lần trước !
Mắt bà long sòng sọc ngước nhìn Musashi. Thấy hắn lặng thinh, bèn giật mạnh tay, nhưng vì dùng quá sức, bà bắn ra xa, ngã ngồi xuống. Musashi định đến nâng dậy song bà đã đứng lên kịp, cầm gươm xông tới:
- Nam mô quan thế âm bồ tát !
Cụ Osugi vừa niệm kinh vừa phóng ra một chiêu. Kiếm chiêu vừa run lại vừa chậm. Musashi khẽ nghiêng mình né tránh. Bỗng thấy nhói bên mí mắt, hắn đưa tay lên sờ. Không có máu, chỉ thấy cay và hơi ngứa.
Cụ Osugi quay lại tấn công lần nữa. Hắn nheo mắt nhìn. Mắt bên trái hắn cay như xát ớt, nước mắt chảy ra ràn rụa, hắn không hiểu tại sao.
- Nam mô a di đà Phật !
- Nam mô quan thế âm bồ tát !
Mỗi câu niệm Phật lại kèm theo một chiêu kiếm. Cụ Osugi điên cuồng chạy xung quanh Musashi, phóng kiếm đâm chém liên tiếp. Đôi dép da trâu dưới chân bà kêu lép nhép, mà hắn chỉ nghiêng mình tránh né.
Musashi phiền lòng quá. Nếu muốn, hắn chỉ giơ tay bà sẽ ngã ngay nhưng thấy bà yếu, hắn không nỡ. Mắt hắn bị thương, bây giờ cộm và ngứa. Hắn muốn giải quyết vụ này cho chóng xong mà chưa biết phải làm thế nào.
Đột nhiên, cụ Osugi giả chạy quá đà, quay ngược lại dùng thế hồi mã chém một nhát vào đầu Musashi. Musashi giơ tay đỡ. Soạt ! Lưỡi kiếm cắt đứt miếng áo ngoài và chạm vào cườm tay hắn. Cụ Osugi thấy đã chém trúng địch thủ, mừng rỡ nhảy lên:
- Mô Phật ! Phen này mày chết với ta !
Musashi cau mặt. Từ trước hắn vẫn coi thường bà lão, không quan tâm điều thắng bại, nhưng bây giờ biết là lầm. Binh thư cũng như kinh nghiệm đều dậy không bao giờ được khinh địch. Theo luật giang hồ, như vậy là hắn bại rồi. Vết thương ở cườm tay tuy nhẹ, nhưng chứng tỏ hắn đã bất cẩn, một điều hết sức tránh trong khi giao đấu.
Musashi hét một tiếng, chờ cho Cụ Osugi đến gần, vòng tay ra sau lưng bà điểm mạnh một cái. Bà lão ngã sấp, kiếm văng sang bên. Bà không đứng dậy được nữa, mặt nhăn nhó. Musashi dùng cầm nã thủ pháp khóa tay bà lại, đồng thời móc vào nẹp áo xách bà lên như xách con mèo. Tay kia hắn nhặt thanh gươm, cầm lăm lăm.
Cụ Osugi rên rỉ:
- Thằng này hỗn, thằng này hỗn ! Mày làm gì ta vậy ? Ối chao, đau ! Bỏ ta ra !
Không còn Thần Phật gì nữa hay sao ? Takezo. Thằng súc sinh này, mày hỗn quá!
Cụ Osugi giẫy đạp như điên, mồm la bai bải. Mặc ! Musashi làm như không nghe gì hết. Hắn giơ bà ra xa để bà khỏi đạp vào chân hắn rồi lầm lũi đi về phía cầu.
Đang phân vân không biết xử trí ra sao, bỗng xa xa gần bờ sông có chiếc thuyền nhỏ neo bên gốc liễu. Thuyền dường như bỏ trống. Một ý nghĩa thoáng hiện. Hắn xăm xăm xách cụ Osugi đến bên thuyền, tìm dây trói chặt chân tay bà lại.
- Trời ời ! Takezo, mày làm gì ta thế này ? Mày định trôi sông ta hay sao ?
Ừ giết ta đi, mày làm nhục ta quá rồi !
Musashi không đáp. Nét mặt hắn đăm chiêu, vẻ buồn và hối hận thoáng lộ trên khóe mắt.
- Qúa lắm rồi ! Thật không còn Thần Phật trời đất gì nữa ! Takezo ! Sẵn gươm kia sao mày không cho ta một nhát ?
Musashi nhẹ nhàng đặt bà lão lên thuyền.
- Bà nằm tạm đây, con đi tìm Matahachi.
Rồi hắn bỏ đi.
Nhưng cụ Osugi không chịu. Bà la hét, gọi tên Musashi chửi rủa, dùng hai chân bị trói đạp lung tung khiến chiếc thuyền nhỏ chòng chành tưởng sắp lật.
Đi một quãng, nghĩ thế nào, Musashi quay trở lại. Hắn tìm giây chão buộc chặt hai đầu thuyền vào gốc liễu. Lại nhặt thanh kiếm gia bảo nhà Honiden tra vào bao rồi cẩn thận đặt lên thuyền bên bà lão.
Lần này hắn bỏ đi hẳn, giữa những tiếng mắng nhiếc và câu nói sau cùng nghe được của cụ Osugi:
- Takezo ! Mày nói theo kiếm đạo mà ngu quá, có biết gì về kiếm đạo. Lại đây ta dạy cho, thằng tiểu tặc ...
Musashi mỉm cười, lẩm bẩm:
- Để rồi sẽ học sau.
oo Mặt trời đã lên cao, đỏ chói trên bầu trời xanh nhạt không vẩn mây. Musashi tưởng như những tia nắng mới của vầng thái dương xuyên thấu tâm can.
Hắn nghĩ đến điều dân gian thường tin tưởng:
mỗi năm vào ngày mồng một, đúng lúc bình mình, tia sáng đầu tiên của mặt trời sẽ làm tiêu tán con sâu tư kỷ nó đục khoét tâm ta và ràng buộc ta vào những ham muốn ti tiện. Ai bắt gặp tia sáng đó, suốt năm sẽ hưởng hạnh phúc, an vui.
Musashi phanh ngực áo, hít một hơi dài. Hắn hy vọng.


Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Sáu T12 22, 2006 12:30 am
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI
Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ

QUYỂN 3 : Hi no Maki

HỒI 33
CỐ NHÂN





"Rendaiji, bắc Cổ Thành, đầu giờ thìn tháng mạnh xuân, ngày mồng chín ...”.
Musashi vẻ tư lự, lẩm nhẩm đọc ngày giờ và điểm hẹn cáo yết trên bảng gỗ dựng dưới chân cầu rồi thong thả lui vào một chỗ khuất đứng ngó mông lung.
Thấy mắt còn cộm, hắn đưa tay dụi, không ngờ chạm phải một vật cứng dính gần cổ áo. Rút ra xem, ra là một cây châm nhỏ bằng sắt giống như cái kim khâu nhưng không có lỗ chỉ, một đầu nhọn, đầu kia hơi loe buộc vài sợi tơ ngắn.
- À ra cái này đây !
Musashi không ngờ bà già ghê gớm thế ! Trên bước đường giang hồ, hắn đã từng nghe nói nhiều đến thuật phóng châm của một số phụ nữ. Hắn không tin mấy, mặc dầu cho rằng thuật đó không hẳn là vô căn cứ. Nhưng dù có thật đi chăng nữa, chắc cũng chỉ là một tiểu kỹ của những kẻ yếu thế, gặp lúc cùng thì dùng để tự vệ, hắn chẳng quan tâm. Song qua kinh nghiệm vừa rồi, Musashi thấy thuật phóng châm quả là một đòn nguy hiểm không thể coi thường. Cây châm nếu được phóng trúng vào con ngươi và chiêu kiếm của bà già nhanh hơn chút nữa thì trong lúc lúng túng dụi mắt, hắn đã bị khốn rồi. Hơn nữa, nếu cây châm lại được tẩm thuốc độc, kết quả còn đáng sợ gấp mấy ! Nghe nói người sử dụng tuyệt kỹ này có thể giấu rất nhiều châm trong tay áo hoặc trong miệng rồi xuất kỳ bất ý phóng ra có khi hai ba cái một lúc. Châm phóng bằng miệng phải luyện tập công phu và nếu không phải tay lão luyện, không dám dùng châm độc.
Chẳng biết cụ Osugi đã sử dụng tuyệt kỹ nào, nhưng may cho hắn, châm của bà không tẩm độc chất, hắn chỉ thấy mí mắt ngứa xoàng và hơi cộm. Hắn vận khí thấy kinh mạch vẫn điều hòa không có triệu chứng gì tỏ ra bị ngộ độc thì yên dạ. Musashi mở bọc định lấy lọ thuốc bột rắc vào chỗ ngứa, thình lình nghe sột soạt phía sau lưng.
Một thiếu nữ đã đứng đó tự bao giò, tay cầm giải lụa trắng đưa cho hắn, nói:
- Chớ dụi. Càng dụi mắt càng ngứa thêm. Takezo, chàng hãy lấy giải lụa này mà buộc !
Musashi ngạc nhiên:
- Cô là ai ? Sao biết tại hạ ?
Thiếu nữ không đáp, chỉ đăm đắm nhìn. Lát sau thấy hắn vẫn đứng im như phỗng thì ra vẻ bối rối. Không giấu được vẻ buồn đượm chút tủi thân, nàng cúi đầu nói khẽ:
- Takezo ...à ...à ...Musashi ! Chàng thật không nhận ra em sao ?
Musashi nhìn kỹ. Thiếu nữ này chắc thuộc hạng quyền quí trong xã hội.
Lối trang phục xa xỉ, áo bằng hàng lụa đắt tiền thêu hoa chim, nhưng nếp áo xô lệch.
Cửa tay và thân áo nhiều chỗ đã rách, vạt áo loang lổ những vết bùn dường như chưa được gột rửa kỹ. Da mặt nàng hơi xanh dưới lớp phấn thoa vội. Đôi môi nàng mọng, tô son đỏ thắm run run như sắp khóc hay định nói điều gì song cố giữ.
Trông nàng như con chim non bị bão, vậy mà trong cái tơi tả ấy, diện mạo thiếu nữ vẫn còn giữ được một vẻ đẹp lạ kỳ. Những đường cong của môi, của má, của cằm nàng mang một sức quyến rũ đặc biệt, đầy nữ tính. Musashi so sánh thiếu nữ đứng trước mặt với Otsu. Hai người xấp xỉ cùng trạc tuổi như nhau, nhưng Otsu đẹp thanh cao, trang nhã và quý phái còn nàng này cũng đẹp nhưng đẹp cách khác. Ở khóe mắt bờ môi có một vẻ gì nồng nàn nó lôi kéo, thu hút người khác phái như một thứ nam châm hút sắt. Thiếu nữ trông quen lắm, hình như hắn đã gặp ở đâu rồi mà không tài nào nhớ ra được.
Sự im lặng của Musashi làm thiếu nữ càng bối rối thêm. Sau cùng không nhịn được nữa, nàng òa lên khóc, giang tay ra ôm chặt lấy hắn:
- Takezo.
Cử chỉ tự nhiên và tiếng kêu xuất phát tự đáy lòng có một cái gì khích động làm bừng dậy trong tiềm thức Musashi những kỷ niệm cũ tưởng đã quên lãng từ lâu.
Văng vẳng, hắn nghe đâu đây tiếng nhạc khánh leng keng như khi ở trên đồi Ibuki, hắn còn là tên lính bại trận phải trốn tránh trong vựa củi của một căn trại đổ nát.
Và hắn sửng sốt kêu lớn:
- Akemi ! Ồ Akemi ! Nàng đã lớn từng này rồi đấy !
Nụ cười sung sướng nở trên môi, Akemi gật đầu, trong khi mắt vẫn còn long lanh hai hàng lệ:
- Phải rồi ! Chàng đã nhớ ra người cũ ! Hơn năm năm rồi còn gì ...
Nàng ôm chặt lấy Musashi hơn và nói như trong giấc mộng:
- Em đợi mãi mới có ngày nay. Takezo, chàng có nhớ em không ?
Musashi chẳng biết trả lời sao. Đối với hắn, những ngày ẩn nấp trên đồi Ibuki là một giai đoạn kỳ thú trong cuộc đời trôi nổi của hắn. Mang ơn Oko, thanh mộc kiếm đen bóng như mun vẫn còn đeo bên sườn đây là kỷ niệm Oko tặng, nhưng hắn cũng không quên vì người phụ nữ đa tình ấy mà Matahachi đã bỏ đi, gây cho hắn không biết bao nhiêu phiền lụy với gia đình nhà Honiden. Còn Akemi, nàng chỉ là một cô bé ngây thơ ngẫu nhiên gặp trong những ngày đầu của cuộc đời phiêu bạc, rồi tan biến với thời gian, chẳng để lại một cảm tình gì sâu đậm trong lòng hắn. Đột nhiên bây giờ nàng lại hiện ra, đôi vai thổn thức, ánh mắt dậy thì đam mê trông hắn như van lơn, như cầu khẩn. Hắn biết trả lời sao đây ?
Musashi không muốn làm phật lòng người thiếu nữ đáng thương kia, nhưng cũng không muốn nói dối. Bèn đánh trống lảng:
- Sao nàng biết ta ở đây mà tìm ? Nàng còn ở Ibuki không ? Mẹ nàng đâu rồi ?
Nghe hỏi đến mẹ, Akemi như bị tổn thương, chỉ thổn thức mà không đáp.
- Còn Matahachi nữa ? Ngày đó Matahachi cũng bỏ đi với mẹ con nàng mà.
Bây giờ còn ở chung với mẹ nàng không ? Ta có hẹn gặp Matahachi ở đây hôm nay, nàng biết chứ ?
Mỗi câu hỏi lại nhưng một mũi dao đâm sâu vào vết thương phiền muộn của Akemi. Áp mặt vào ngực Musashi, nàng chỉ biết nức nở lắc đầu.
- Matahachi đâu, Akemi ? Chuyện gì vậy ? Nàng không trả lời ta thì ta biết làm sao mà giúp nàng được ?
Akemi nói qua nước mắt:
- Matahachi không đến đâu. Em đâu có nhắn cho ông ấy biết.
Musashi gỡ tay Akemi ra, nhìn thẳng vào mặt nàng. Nước mắt chan hòa nhòe nhoẹt cả son phấn. Hắn lấy tay áo lau mặt cho nàng. Akemi giữ chặt tay hắn, muốn kể rõ mọi chuyện từ khi bỏ Ibuki đi ra sao và thổ lộ hết tâm sự với Musashi nhưng có một cái gì làm nghẹn cổ họng. Nàng chỉ đứng lặng nhìn hắn, nước mắt chứa chan.
oo Trời đã sáng rõ. Tiết trời đầu năm bỗng ấm hẳn. Nắng xuân chan hòa loang loáng trên những cành tùng xanh biếc, vẽ loang lổ từng miếng ánh sáng màu nâu tươi trên nền đất ẩm. Gần bờ sông, ở một vài chỗ cỏ còn ướt, tia nắng rọi qua những giọt sương đọng trên lá chiếu thành những vòng hào quang ngũ sắc óng ánh như những chiếc cầu vồng nhỏ.
Người đi trên cầu mỗi lúc một đông:
phụ nữ mặc áo mới hoa sặc sỡ, thoa cài đầu lóng lánh dưới ánh nắng mai; đàn ông đứng tuổi trang nghiêm trong những bộ y phục sẫm hồ bột cứng nhắc. Họ đến chùa hoặc đi thăm bạn hữu ngày nguyên đán. Lẩn trong đám đông ấy, Jotaro cũng lên cầu, mắt nhớn nhác nhìn ngược nhìn xuôi tìm sư phụ.
Bỗng Jotaro reo lên một tiếng vui mừng. Nó vừa trông thấy Musashi.
Nhưng này, ồ, lạ quá ! Sao thầy nó lại ôm trong lòng một thiếu nữ ? Mà thiếu nữ này không phải Otsu. Ai thế nhỉ ? Jotaro nhăn mặt khó chịu. Nó nheo mắt, lấy tay che nắng nhìn cho rõ. Đúng rồi ! Người đứng dưới chân cầu là Musashi, sư phụ nó.
Cái dáng dấp cao lớn, ngang tàng, đôi song kiếm giắt bên hông, túi hành trang màu chàm đã bạc vì sương nắng, Jotaro không thể lẫn. Nhưng Otsu đâu ? Mà thiếu nữ kia là ai, sao thầy nó lại ôm nàng vào lòng giữa chỗ đông người qua lại như thế này mà không biết ngượng ?
Nó thường được dạy dỗ người tự trọng phải biết kềm chế dục tính, không bày tỏ tình cảm một cách thái quá trước công chúng, sao vị tôn sư khả kính của nó lại có thái độ tồi bại như vậy ? Jotaro mím môi, vừa mừng vừa giận, lại ghen hộ cho cô Otsu. Nó muốn chạy đến níu áo thầy. Đã lâu không gặp, thầy nó thấy nó chắc vui lòng, nhưng còn thiếu nữ kia, nó e dè không dám. Jotaro tuy nhỏ, nhưng cũng đã biết thế nào là tế nhị, không muốn làm người khác phải lúng túng.
Ít lâu nay, Jotaro và Otsu tạm nương náu trong khuôn viên lâu đài của Karasumaru Mitsuhiro. Khi hai chị em mang tranh của viện chủ viện Arakida đến làm quà, Karasumaru thấy Otsu đang trong cảnh lưu lạc, người thân không có mà năm cũ sắp hết, bèn ngỏ ý lưu lại. Jotaro và Otsu bằng lòng ngay vì nghĩ không còn nơi nào an toàn hơn nữa.
Mới tối hôm trước, tin rằng thế nào Musashi cũng có mặt tại dưới chân cầu Gojo ngày nguyên đán, Otsu đã sắp sẵn bộ y phục nàng ưng ý nhất và tính những chuyện gì cần phải nói với chàng. Mới canh ba, Otsu đã dậy gội đầu chải tóc thật kỹ, lòng rộn ràng vui sướng như đứa trẻ sắp sửa được đi trẩy hội. Jotaro cũng đòi đi cùng, song Otsu không muốn. “Lần này ta để em cùng đi, nhưng lần này ta muốn gặp thầy em nói câu chuyện riêng. Thế nào em cũng gặp thầy mà, nhưng đến sau đi, ta và thầy em hứa sẽ đợi”.
Jotaro phụng phịu. Nó lơ mơ hiểu cảm tình của Otsu đối với thầy nó, có điều nó không biết tại sao một thiếu nữ đẹp, tài hoa và khôn khéo như Otsu lại cứ khóc mỗi khi nhắc đến Musashi. Chắc có điều gì làm nàng phiền muộn lắm nên nó thương và bằng lòng để nàng có cơ hội giải bày tâm sự với thầy nó.
Jotaro ngó nháo nhác tìm quanh. “Kỳ thật ! Không lẽ cô Otsu không biết đường ?
Đáng lý ra phải đến đây lâu rồi chứ ! Hay lại tạt vào đền chùa nào cầu khấn gì chăng ?”.
Nó đi ngược đám đông quay trở lại, lòng bồi hồi lo lắng.
Trên cầu, khách vãng lai càng lúc càng tấp nập. Musashi kéo Akemi đến một chỗ khuất nẻo hơn.
Dưới gốc liễu ngay bờ sông, chỗ mọi ngày đàn sếu trắng vẫn thường đến đậu chờ mồi, hôm nay chẳng thấy có con nào. Một thanh niên còn trẻ lắm, y phục sặc sỡ, đứng ngay ở đó, lưng dựa vào cành liễu cỗi có đầu cành vặn vẹo sà trên mặt nước giống con rắn lớn. Gã thanh niên khoanh tay trước ngực, mắt chăm chú hướng về phía Musashi và Akemi.
Bên Musashi, thiếu nữ vẫn sụt sùi, giọng thành khẩn kể lể nỗi niềm. Nàng đã quyết rũ bỏ hết lòng tự ái, không giấu Musashi điều gì, chỉ mong mối tình vô vọng nàng ấp ủ bấy lâu nay được đáp ứng.
Tội nghiệp cho nàng ! Những lời kể lể ấy chẳng biết có lọt tai chàng thanh niên lãng tử kia không mà chỉ thấy hắn ừ hử hoặc gật đầu cho qua hay trả lời gióng một.
Mối tình thơ dại đẹp bao nhiêu cũng chỉ như đám bọt nước kia tung lên trắng xóa dưới chân cầu. Mà chân cầu thì hờ hững. Mà bọt nước thì tan đi, còn gì đâu dấu vết ?
Như linh cảm thấy mình đang bị dò xét, Musashi chú ý nhìn quanh. Mục quang hắn quét từ gần ra xa, soi mói những bụi sậy xơ xác ven bờ, kín đáo dừng ở từng tảng đá. Sau cùng, nó ngưng lại, chăm chú vào gã thanh niên trang phục sặc sỡ đứng bên gốc liễu.
Musashi mắt nâu. Lúc sinh tiền, ông Munisai vẫn bảo hắn:
“Thằng Takezo này mắt nâu, không như mắt ta, đen. Chắc nó giống cụ tổ cữu cũng có đôi mắt sắc như thế, tàn nhẫn lắm !”. Bây giờ, dưới ánh nắng chênh chếch, mắt Musashi hồng lên rồi đỏ rực như hổ phách.
Hắn nhìn gã thanh niên. Gã thanh niên cũng nhìn lại hắn. Hai làn mục quang chạm nhau tưởng chừng tóe lửa.
Binh pháp có dạy trước khi lâm trận, hãy xét khả năng địch thủ trên đầu kiếm.
Đúng vậy, hai gã này đang thủ thế với nhau, không phải bằng kiếm mà bằng mắt. Như hai con dã thú gờm gờm nhìn nhau trước khi xông vào nhau cắn xé.
“Hừ !”. Gã thanh niên bên gốc liễu nghĩ thầm. “Chắc thằng này là Musashi đây. Một địch thủ ta phải cẩn thận !”.
Musashi càng lúc càng chú mục. Mắt hắn lộ hung quang xoáy về phía thanh niên thách đố. Và gã thanh niên không vừa, dường như gật đầu chấp nhận.
Bây giờ cường độ mục quang của cả hai không phải do mắt phóng ra nữa mà tự tâm khảm phát xuất. Nó là cường độ của ý chí, của quyết tâm không cần lời nói và cũng không gì lay chuyển.
Cả hai tuổi tác tương đương, Musashi chỉ hơn gã kia chừng hai tuổi, cùng ở vào cái tuổi ngang tàng, không biết e sợ là gì, đầy tự tin và ngạo mạn đến liều lĩnh. Hai cá tính đó đối nhau, tất không khỏi va chạm. Và như hai con thú dữ, bản năng của chúng đều ngầm bảo chúng:
đối phương trước mắt là một kẻ thù nguy hiểm và đáng sợ !
Một lúc, thanh niên y phục sặc sỡ quay mặt đi, tránh tia mắt của Musashi, khẽ nhếch mép. Musashi thấy rõ nụ cười ngạo mạn ấy, nhưng hắn tin chắc trong trận vừa rồi, hắn đã thắng.
Cúi nhìn thiếu nữ đứng trước mặt, Musashi để tay lên vai nàng:
- Akemi !
Thiếu nữ ngước trông lên, lệ còn hoen má.
- Người đó là ai ?
Akemi ngạc nhiên, nhìn về phía Musashi hất hàm chỉ. Bỗng giật mình.
- Người đó có vẻ biết nàng. Hắn đã theo nàng đến đây để dò xét ta phải không, Akemi ?
Akemi lau nước mắt:
- Em không rõ, nhưng người đó em chỉ mới biết đây. Y là ân nhân của em.
- ...
- Hai hôm trước em bị chó cắn, nhờ y cứu và gọi thầy thuốc đến chữa cho mới được thế này.
- Thế bây giờ nàng ở với hắn phải không ?
Akemi cúi mặt.
- Tên hắn là gì ?
- Sasaki Kojiro. Người ta còn gọi là Ganryu.
- Ganryu ?
- Phải. Ganryu là ngoại hiệu của y. Sao ?
- Ta nghe cái tên quen lắm, hình như trong giang hồ đã có nhiều người nhắc đến tên hắn.
Musashi lại đưa mắt nhìn về hướng Kojiro đứng và hỏi:
- Có phải hắn sử dụng một cây trường kiếm hỗn danh là cây sào phơi không ?
- Em không biết, nhưng thanh kiếm của y quả có dài hơn kiếm thường.
Thấy Musashi nhìn mình, Kojiro mỉm cười, đôi má lúm đồng tiền.
Một điều lạ, Musashi cũng mỉm cười đáp lại, nhưng nụ cười của cả hai chẳng giống nụ cười của đức Phật khi thấy đệ tử mình là A Nan bóp cánh hoa trong tay. Nụ cười Sasaki ngạo mạn và mỉa mai; nụ cười của Musashi ẩn một ý chí tranh đấu mãnh liệt, đầy thách thức.
Akemi đưa mắt nhìn hết người này đến người kia, không hiểu. Musashi khẽ vỗ vào vai nàng:
- Akemi, thôi bây giờ hãy về phòng trọ đi. Ta sẽ lại thăm nàng sau.
Akemi khóc nấc. Hắn phải cầm tay an ủi:
- Đừng ngại. Ta sẽ lại thăm nàng mà !
- Takezo ! Thật nhé, em đợi.
Musashi gật.
- Em trọ Ở thương điếm Hải Âu, trước thiền viện đường Quan Ngoại.
Musashi lại gật.
Dường như không được hài lòng về thái độ của hắn, Akemi nắm tay Musashi bóp chặt, giọng run run qua hai hàng lệ:
- Nhé ! Takezo ! Chàng nhớ đến nhé ! Nhớ đấy !
Kojiro cất tiếng cười vang, trở gót. Akemi vừa bước đi vừa ngoái lại.
Musashi tần ngần đứng một mình dưới chân cầu, nhìn theo hai người, lòng buồn vô hạn.
oo Len lỏi giữa dòng người đi lễ tết đầu năm, Jotaro tìm mãi không thấy Otsu. Trên cầu hẳn là không có rồi. Nó chắc như thế vì đã đi lên đi xuống mấy lượt. Chỉ còn góc phố đằng kia, chỗ ngã ba cầu tiếp giáp với đường lên đền thờ đức Quan Âm là chưa tới.
Nó đến nơi, đang đứng ngơ ngác nhìn lên đền thì nghe tiếng gọi khẽ:
- Jotaro !
Quay lại, thấy Otsu ngồi nấp sau chiếc xe bò chở cỏ. Jotaro vui mừng quá sức, chạy ngay lại ôm chầm lấy nàng, vội vàng thế nào suýt đâm phải chiếc càng xe.
Hôm nay Otsu bới tóc cao, có thoa phân và bôi sáp môi đỏ. Nàng trang điểm trau chuốt, nhưng không được tinh luyện lắm. Nàng lại mặc bộ kimono mới có thêu những bông mẫu đơn trắng trên nền lụa nõn màu hoa đào cho hợp với cảnh tươi đẹp mùa xuân và lòng nàng bấy giờ.
Otsu giơ tay đón Jotaro vào lòng. Nhưng nó kéo nàng đứng dậy, liến thoắng:
- Sao chị lại nấp ở đây. Chị theo em, sư phụ đằng kia kìa. Không ra ngay, sư phụ bỏ đi mất.
- Không ! Em vào đây với ta, ta không ra đâu !
Jotaro ngạc nhiên, mở to mắt nhìn Otsu:
- Sao vậy ?
- Đừng hỏi tại sao. Em ngồi đây với ta.
- Chà ! Sao chị kỳ quá vậy ? Chị nói bao nhiêu lần là muốn gặp sư phụ, bây giờ thầy em ngoài kia, chị lại trốn nấp ở đây. Chị mặc đẹp thế này để ngồi dưới gầm xe bò hả ?
Lời nói ngây thơ của thằng bé như roi quất những vết hằn đau đớn trong lòng Otsu. Nàng lắc đầu, mắt rưng rưng lệ:
- Jotaro ! Em đừng nói thế, đau lòng ta. Em mà cũng tàn ác với ta đến thế ư ?
Jotaro ôm lấy vai Otsu. Nó không dám để đầu gần tóc nàng sợ hư mái tóc chải công phu. Thấy vạt áo Otsu ướt, nó biết nàng đã khóc nhiều:
- Em xin lỗi, em không có ý ấy. Nhưng em không biết tại sao ...
Otsu lau nước mắt:
- Tìm hiểu làm gì, em !
- Thế chị có trông thấy sư phụ Ở dưới chân cầu không ?
Otsu gật đầu.
- Vậy em biết rồi nhé ! Chị ghen phải không ? Chị trông thấy thầy em ôm người con gái ấy chứ gì ?
Otsu thấm nước mắt, lắc đầu.
- Chị không biết gì hết, chỉ biết khóc thôi. Mình nghi ngờ thì phải đến hỏi cho ra lẽ chứ ! Đi ! Đi với em mau lên, không sư phụ em không còn ở đó nữa.
Jotaro cầm tay Otsu kéo ra khỏi chỗ nấp. Nàng giằng lại. Thằng bé phân vân một lúc rồi rảo bước lên cầu đứng trông xuống, không thấy thiếu nữ kia đâu. Bỗng nó reo lên như chợt nhớ ra điều gì, chạy ngược lại chỗ Otsu:
- Akemi ! Phải rồi ! Đi mau chị, Akemi không còn ở đấy nữa !
- Akemi là ai ?
- Là cô gái đứng nói chuyện với sư phụ đó. Em nhớ ra rồi. Một lần em gặp cô ấy giặt áo ở ven sông, có nhờ cô ấy chuyển lời nhắn ông Matahachi mà. Đúng rồi ! Đúng rồi !
Otsu lính quýnh theo Jotaro. Khi nhìn rõ không còn Akemi ở đó nữa, nàng mới yên dạ. Nhưng nàng cũng trở lại chỗ cũ sửa lại mái tóc và nếp áo xô lệch, thoa thêm chút phấn lên mặt.
- Trời ơi ! Chị ! Giờ này mà chị còn làm dáng thì trễ mất !
Jotaro vừa kêu vừa dậm chân xuống đất bành bạch.
Quả nhiên, Musashi đã không còn ở dưới chân cầu. Biết chắc Matahachi không tới, hắn vội vàng men theo bờ sông, đến chỗ buộc thuyền giữ cụ Osugi.
Bà già thấy hắn đến, đưa mắt nhìn lo sợ. Musashi rút đoản kiếm, nhưng hắn chỉ nói:
- Matahachi không đến.
- Bây giờ mày giết ta phải không ?
- Không. Con cởi trói cho bà để bà đi tìm Matahachi hỏi cho ra lẽ, dẫn hắn về nhà. Con nghĩ như thế hơn là bà tìm cách cắt cổ con.
Musashi vừa nói vừa cười. Hắn đưa mũi kiếm cắt dây trói. cụ Osugi lúng túng ngồi dậy:
- Ta biết phải làm gì. Ta không cần mày khuyên !
Thời gian bà cởi được hết dây trói thì Musashi đã đến chỗ khúc sông hẹp, nhảy qua các ghềnh đá sang bờ bên kia, lẩn vào những bụi lau sậy mất dạng.
Trên lũng cao, Jotaro thoáng thấy bóng thầy. Nó kêu lớn:
- Chị ! Chị ! Ở dưới lũng, sư phụ Ở dưới lũng gần bờ sông !
Jotaro ba chân bốn cẳng đổ dốc. Nó còn nhỏ, nhanh như con sóc. Nhưng Otsu vướng áo, chỉ bước được những bước ngắn. Đến gần bờ sông nàng ngừng lại, lên tiếng gọi.
Trên mặt sông rộng, tiếng nàng bay bổng vang xa. Cơn gió thoảng đưa đôi lúc dội lại nghẹn ngào tha thiết như tiếng hò trong đêm vắng.
- Otsu !
Âm thanh nhọn hoắt, the thé bỗng làm nàng giật mình. Ngoảnh lại, cụ Osugi đã đứng chỉ cách chỗ nàng chừng vài chục bước. Otsu kinh hãi vô cùng. Trong lúc thảng thốt, toàn thân như bị tê liệt, nàng đứng sững. Khi hoàn hồn, cụ Osugi đã tiến tới gần ? Bấy giờ Otsu mới kịp phản ứng. Tim nàng đập mạnh, máu dồn lên mặt, Otsu quay phắt đầu, cắm cổ bỏ chạy.
Cụ Osugi nhìn theo, gọi:
- Otsu ! Đứng lại ! Ta muốn nói câu chuyện !
Trong bộ Óc đa nghi của bà, dần dần hiện ra một ý nghĩ. Bà đã hiểu tại sao Musashi lại trói bà bỏ lên thuyền. À thì ra hai đứa nó có hẹn với nhau, nó trói mình lại để tự do gặp nhau. Chắc con này đã làm gì phật lòng thằng kia nên nó bỏ đi. Ta biết mà, chúng nó lừa ta thế nào được. Con Otsu này thật bất trị !
Trong thâm tâm, cụ Osugi còn ghét Otsu hơn Musashi. Nó đáng lẽ là con dâu bà mà thành ra vì nó mà gia đình bà mất cả thanh danh. Bà cất giọng giận dữ:
- Otsu !
Tiếng kêu chưa dứt, bà đã bị một cái đạp vào bắp chân suýt ngã. Jotaro đứng đằng sau, hai tay chống nạnh:
- Bà là ai, làm gì mà lại đuổi cô Otsu ?
- A ! Thằng ranh con, mày ở đâu tới ?
Otsu chạy được một quãng, không thấy chân người đuổi theo, bèn dừng lại thở.
Nhìn về phía sau, xa xa, thấy Jotaro và cụ Osugi đứng đối diện nhau tự a hai con gà chọi, nàng hơi lo. Otsu chẳng lạ gì tính bà lão, già nhưng còn hung hăng lắm mà Jotaro thì nàng thừa biết, nó loắt choắt nhưng nhanh nhẹn vô cùng. Nếu cả hai cùng xông vào quần thảo nhau, tất Jotaro rút cây kiếm gỗ ra. cụ Osugi cũng đến phải dùng thanh gươm gia bảo. Dám một hay có khi cả hai bị thương hoặc vong mạng cũng chưa biết chừng.
- Ranh con, mày đi cùng với con Otsu phải không ?
- Phải ! Bà là ai ?
- Ta là mẹ nó !
Jotaro giật mình. Bà già này là mẹ Otsu à ? Sao không bao giờ thấy Otsu nói đến. Nhưng nghe xưng danh, Jotaro cũng khựng lại, không dám hỗn.
- Thế sao bà lại đuổi cô Otsu cháu ?
Thấy thái độ thằng bé đổi khác, bản tính quỷ quyệt của cụ Osugi nổi dậy. “Phải dùng mưu mới được”, bà tự nhủ. “Đối với thằng Takezo có lẽ nó chẳng tin ta đâu, nhưng con Otsu và thằng nhỏ này, chắc lừa không khó. Mình cứ vui vẻ tử tế dụ chúng vào tròng, sau làm thịt mấy chốc !”. Nghĩ đoạn, bà làm bộ tươi cười:
- Ờ ! Tại ta bảo nó không nghe. Nhưng mẹ nào chả thương con, ta muốn gọi nó về, để nó lang bạt tội nghiệp.
- ...
- Thế còn cháu ! Sao cháu biết Otsu ? Cháu con cái nhà ai ?
Jotaro thấy bà lão vui vẻ, lại ngồi xuống bên gốc cây nói năng hòa nhã, cũng nhẹ nhàng đáp lại:
- Tên cháu là Jotaro. Cháu không có nhà, gặp cô Otsu cùng đi tìm sư phụ.
- Ồ ! Vậy ư ? Cháu ngoan quá. Cháu lên mấy rồi ?
- Thưa mười hai.
- Ta muốn nhờ cháu một việc, cháu làm giúp ta được không ?
Jotaro phân vân. cụ Osugi kéo tay áo chấm nước mắt rồi nói giọng buồn bã:
- Otsu là con dâu ta đấy. Từ ngày nó bỏ đi, ta thương nhớ lắm, mấy lần bảo nó về mà nó chẳng nghe.
Cụ Osugi sụt sịt:
- Ta nhờ cháu đến bảo Otsu lại đây ta nói chuyện !
Jotaro mủi lòng. Bà này chắc nói thật. Nếu cô Otsu không muốn về thì trở lại nói chuyện với bà lão một lúc cũng chẳng hề gì. Bèn nói:
- Thật hả bà. Thế để cháu đi gọi !
Cụ Osugi vui vẻ gật đầu, nhìn Jotaro chạy đi, cười thầm trong bụng.
Lát sau, Jotaro dắt Otsu trở lại. Tuy còn nghi hoặc, nhưng nghe lời Jotaro, Otsu thấy đây cũng là dịp tốt để nói cho cụ Osugi biết hết mọi sự, hầu đánh tan những hiểu lầm từ trước.
Bà già cười hí hí:
- Otsu đấy à ? Sao gặp ta con lại chạy ?
Otsu phủ phục xuống đất:
- Bà tha lỗi cho con.
Cụ Osugi đưa tay đỡ Otsu dậy, bảo nàng ngồi cạnh:
- Con dâu ta có lỗi gì đâu ! Lỗi ở thằng Matahachi cả. Trước ta giận con lắm, nhưng nay ta biết, ta thương con. Dễ đã đến năm năm rồi đấy nhỉ, từ bấy đến nay, bao nhiêu nước chảy qua cầu ...
- Nếu bà biết như thế thì may cho con lắm.
Cụ Osugi giơ tay lên má, đập mạnh:
- Chà ! Cái con muỗi quỷ này. Mới nắng lên đã thấy muỗi ! Ở, nhưng mà này Otsu ạ ! Ta là mẹ thằng Matahachi, có tha lỗi cho con thì cũng phải dàn xếp để đẹp lòng nó chứ. Mặc dầu nó bỏ con đi với người khác nhưng nay đã biết hối trở vể. Ta muốn con về nhà, rồi cả hai vợ chồng con ngồi trước mặt ta để ta khuyên bảo. Như thế ta mới yên lòng làm mẹ.
Otsu muốn nói một lời phản đối, nhưng nghĩ có lẽ chưa phải lúc. Nàng chỉ ấp úng:
- Dạ, con hiểu.
Cụ Osugi cũng đoán biết ý nghĩ thầm kín của Otsu. Đã khôn lại ngoan, bà chặn ngay:
- Nếu con không muốn chung sống với nó nữa thì ta tưởng đây cũng là dịp tốt, trước mặt ta, nói thẳng cho nó biết. Như thế thì dứt khoát và ta nghĩ, vậy có lẽ lợi cho tương lai của con hơn.
Otsu thấy bà lão nói phải. Nhưng chưa vững tin, nàng hỏi vặn:
- Thưa bà, nếu con bằng lòng thì biết tìm Matahachi ở đâu ?
Cụ Osugi cười:
- Dễ quá mà. Ta lạ gì chỗ nó ở. Nếu con bằng lòng, ta chỉ cho người đến gọi vài ngay là nó trở về ngay. Nó là con ta, ta bắt nó làm gì nó chả phải làm ?
Một con cáy càng đỏ tía từ trong cái hốc nhỏ ở bờ sông bò ra. Jotaro rình chộp ngay được. Nó cầm con cáy rón rén bước đến đằng sau cụ Osugi bỏ nhẹ lên khăn đội đầu.
Otsu muốn chắc có kết quả, đề nghị:
- Con xin tiếp tay bà, đi tìm Matahachi.
Cụ Osugi nắm ngay lấy cơ hội:
- Vậy còn gì bằng. Thế con đến trọ cùng với ta. Năm nào đến Kyoto ta cũng ở trọ tại một quán nhỏ trên đồi Sĩ Miên. Ở đó tĩnh, lễ Phật không ai làm rộn mà lại rẻ tiền, con ạ !
Cụ Osugi thấy nhột sau lưng giữa hai lần áo. Ngoái tay ra sau, bà vớ được con cáy giơ lên.
- Con quỷ này, sao lại bò vào áo ta được kìa !
Jotaro đứng sau gốc liễu, bưng miệng cố nín cười. Otsu cúi mặt vờ như không thấy nhưng cũng mỉm cười. Thằng bé tinh nghịch quá !
Cả ba người, Jotaro, Otsu và cụ Osugi, rời bờ sông theo đường mòn ra đại lộ.
Otsu bảo cụ Osugi đi trước. Nàng muốn lui lại phía sau nói với Jotaro vài lời để nó biết chuyện và trấn an nó:
- Em cứ trở về chờ ta ở khuôn viên lâu đài tướng công Mitsuhiro. Nếu ngài có hỏi thì bảo một hai hôm ta sẽ trở lại. Ta phải đi dàn xếp việc riêng nhé !
- Dạ ! Chị đừng ngại. Em sẽ chờ cho đến khi nào chị về.
- Nếu em rỗi, thử dò xet tin tức Musashi hộ cho ta.
- Thế lúc sáng sao thấy sư phụ, chị lại trốn.
Otsu thở dài:
- Ta dại quá !
Đến đầu cầu trời đã gần trưa. Người đi lại trên cầu vẫn tấp nập. Một đám đông lố nhố đứng vây quanh tấm bảng gỗ dựng ở dưới chân cầu, bàn tán:
- Miyamoto Musashi, tôn huynh có biết là ai không ?
- Có, tại hạ có nghe nói. Chắc tay này cũng phải là một tay cao thủ mới dám đơn thương độc mã chống với phái Yoshioka chứ.
Jotaro cũng chen vào đọc bảng cáo yết. Tin Miyamoto Musashi - một Ronin - đương đầu với phái Yoshioka được truyền đi nhanh như mồi thuốc súng !



Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Sáu T12 22, 2006 12:35 am
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI
Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ

QUYỂN 3 : Hi no Maki


CHƯƠNG 34
ĐỒNG CỎ ÚA






Rendaiji là một đồng cỏ, trước kia dành cho hoàng cung dùng làm mục trường nuôi gia súc. Đồng rộng bao la nhưng không bằng phẳng, đồi nọ tiếp đồi kia trải dài đến tận chân núi. Đây đó vài khu rừng phong thưa, lẫn với nhiều gốc tùng cổ thụ điểm những nét xanh đen trên nền cỏ úa. Đường mòn ngang dọc khắp nơi, ngoằn ngoèo ẩn hiện giữa những hàng lau già xơ xác mà hoa lau muộn từ cuối thu năm ngoái vẫn còn bạc phau, nghiêng ngả.
Vào thế kỷ trước, đồng này có một cái giếng lớn lộ thiên, nước luôn luôn trong và ngọt nên mới có tên là đồng Rendaiji (guếng lớn). Giếng sau bị cạn không hiểu vì lẽ gì, cỏ cũng kém xanh dần, thành ra đồng bị bỏ phế. Hoàng cung sai người mang gia súc đi chăn nơi khác, từ đấy đồng Rendaiji trở thành hoang địa.
Đồ đệ Yoshioka khoảng chừng hai chục người tụ tập dưới chân đồi từ sáng sớm, gần sơn đạo đi Nara. Sau vài ngày nắng dịu đầu năm, tiết trời bỗng trở lại lạnh. Gió đông bắc thổi nhiều, chúng ngồi sát vào nhau quây quần bên đống lửa, mặt ai nấy đăm chiêu tư lự. Về phía nam cổ thành, đỉnh núi Vân Sơn, tuyết phủ trắng phau, lấp lánh giữa những cành phong trơ trụi. Thỉnh thoảng một tiếng chim sớm lảnh lót vang lên nhưng rồi tắt phụt, thê lương như cánh đồng hoang phế.
Chúng ngồi như vậy dường đã lâu lắm, chẳng ai nói với ai câu gì. Bỗng Ueda lên tiếng phá tan bầu không khí yên lặng:
- Mấy giờ rồi ?
Bọn đàn em cùng ngửng lên nhìn trời, đồng thanh đáp:
- Dễ đến cuối giờ thìn.
- Sương tan gần hết rồi. Sao không thấy tiểu chủ đâu nhỉ ?
- Tiểu chủ bảo cứ ngồi đây chờ. Chắc cũng sắp tới !
Một người nóng ruột, chạy ra phía sơn đạo, nhìn xuống dưới dốc. Đường đất đỏ vắng tanh, gió thổi rạp đầu những ngọn bông lau hiu quạnh. Bóng một con sóc đen vụt qua, lẩn vào bụi cây, êm và nhẹ như chiếc lá rụng. Ueda bồn chồn. Hắn sửa lại y phục, xắn cao tay áo, buộc cổ tay bằng hai sợi dây da cho gọn rồi nói:
- Ta nóng ruột quá ! Giờ hẹn qua đã lâu ...
- Huynh trưởng có nghĩ là tiểu chủ ở phía gần giếng không ? Mình hẹn gặp nhau ở khu Rendaiji mà !
- Có thể lắm. Đứa nào chạy ra đó coi xem sao !
Nhưng chẳng ai động tĩnh, vì chẳng ai muốn một mình làm chuyện nguy hiểm ấy mà Ueda xem ra cũng không có chủ ý gì nhất định. Cả bọn vẫn ngồi lẳng lặng nhìn ngọn lửa lụi dần, khói đen cuồn cuộn bốc cao rồi tản theo chiều gió. Một đứa nói bâng quơ:
- Không biết tiểu chủ bảo đợi ở đây hay bên ấy ?
- Ở đây ! Chắc chắn ở đây !
Xác nhận xong, Ueda đưa mắt nhìn thuộc hạ:
- Thằng Musashi đó bây giờ ở chỗ nào thì mình không biết, nhưng tiểu chủ bảo mình đợi ở đây thì cứ đợi ở đây. Chúng ta không thể phân tán ra nhiều nơi được, nguy hiểm lắm. Vả cũng không nên đi tìm, giang hồ sẽ bảo mình ỷ chúng hiếp cô, còn gì là danh dự của bản phái ?
Ngồi yên một lúc, hắn lại tiếp:
- Mà thằng đó là cái gì mà mình phải quan tâm ? Chẳng qua chỉ là một tên nhà quê có chút sức mạnh. Dù nó có học mót được vài đường kiếm thì cũng khó mà địch được tiểu chủ ...
Tuy một số trong bụng không đồng ý vì đã chứng kiến trận đấu kiếm năm trước giữa Miyamoto Musashi và môn đệ bản phái tại võ trường Yoshioka, nhưng lời nói của Ueda tựa như liều thuốc an thần, nếu không làm phấn khởi bọn đàn em thì nhất thời cũng giữ vững được tinh thần của chúng.
Vẻ mặt đa số bây giờ trông tươi hơn. Chúng bàn tán xôn xao:
- Ueda lão huynh nói phải lắm ...
- Phải rồi ! Chúng ta nên nhớ trong cuộc tỷ võ này, tiểu chủ sẽ cho thằng ấy một bài học để nó câm cái mõm chó má của nó lại, đừng huênh hoang khoác lác nữa.
- Lần này võ lâm thế nào cũng có người theo dõi. Ta phải cẩn thận lắm mới được.
Nếu không trực tiếp trợ giúp tiểu chủ ta cũng nên đi theo để cổ võ ...
- Tiểu chủ đã căn dặn đợi ở đây. Dù sao cũng cứ chờ lệnh đã.
Mặt trời lên cao. Giờ thìn qua từ lâu, sang đến giờ tỵ, rồi cuối tỵ mà Seijuro vẫn chưa đến. Miyamoto Musashi cũng chẳng thấy tăm hơi đâu. Vẻ lo lắng hiện trên nét mặt của cả bọn.
Dọc theo sơn đạo đi Nara, ở ven suối cũng như trong các lùm cây rải rác đã thấy lỗ nhố bóng người. Đấy là những kẻ hiếu kỳ nghe nói có cuộc tỷ võ thì đến coi cho biết.
Tiếng bàn tán theo gió thoảng đưa đến tai bọn đồ chúng Yoshioka:
- Miyamoto Musashi đâu ?
- Không biết ! Cả Seijuro hình như cũng không có mặt.
- Lạ nhỉ ! Thế đám ngồi kia là những ai ?
- Nếu không phải là phe bên này thì cánh bên kia. Đến để ủng hộ chứ gì ?
- Lạ ! Tỷ kiếm gì mà đối thủ chả thấy đâu, chỉ thấy có người cổ võ.
Ueda và thuộc hạ nghe những lời bàn tán tiếng còn tiếng mất không rõ ràng nhưng cũng đoán được ý chính. Hắn bực lắm, định bảo một tên đàn em ra đuổi bọn đó đi nhưng nghĩ thế nào lại thôi. Dù sao, những điều họ nói ra đều là sự thật. Vả chăng, họ cũng khôn ngoan đứng ở phía xa, nấp sau bụi cây nói lén, mình đến dọa nạt chỉ tổ mua cười cho thiên hạ. Đám người hiếu kỳ mỗi lúc một đông thêm, thấp thoáng có cả bóng phụ nữ.
Jotaro cũng là một trong số những kẻ hiếu kỳ đó. Nó đội nón nan rộng vành, chữ “giường cho thuê” viết trên đó nay đã nhạt màu, trông lờ mờ không rõ nét. Chân nó đi đôi hài xảo cũ, lưng đeo kiếm gỗ, dài như cái đòn gánh, bên hông lủng lẳng túi hành trang vải thô lớn trông thật tức cười, nhưng ra phết giang hồ lãng sĩ lắm. Jotaro len lỏi đi từ toán người này đến toán người khác, chú ý nhìn khắp mặt phụ nữ.
“Quái nhỉ, chị Otsu đâu sao không thấy ? Cô cũng đã đọc bảng cáo yết rồi mà !
Hay là bà cụ già lại không cho đi !”.
Hôm nay Jotaro ra đây, hy vọng thế nào cũng tìm được sư phụ. Nó không sợ sư phụ nó gặp nguy hiểm vì nó đã mấy lần chứng kiến tài năng của ông, khi ở cánh đồng Hannya cũng như khi giao đấu với ba cao thủ nhà Yagyu. Nó tin tưởng vào sức mạnh cũng như những chiêu kiếm thần tốc của thầy nó, những chiêu kiếm mà Jotaro ước mong một ngày nào rảnh rỗi, thầy nó sẽ truyền thụ lại cho nó. Điều làm Jotaro lo lắng nhất là sự không có mặt của Otsu. Nó không biết nàng đang gặp những trở ngại gì.
Trong trí tưởng tượng ngây thơ và phong phú của nó, Jotaro hình dung ra Otsu bị yếu đau không ai săn sóc. Bà già kia tuy nói là mẹ nhưng không làm nó yên tâm. Không hiểu sao Jotaro linh cảm bà tìm cách lừa dối và ly gián cô cháu nó. Thâm tâm, Jotaro coi bà già kia nhưng một con mẹ phù thủy nham hiểm hiện ra để bắt cô Otsu đi, như trong các chuyện thần tiên nó đã thường được nghe kể, những bà lão mũi khoằm răng vổ bắt các thiếu nữ xinh đẹp đem đi giết chết. Nghĩ đến Otsu bị giết chết, Jotaro sợ hãi quá chừng. Nó kêu lên một tiếng nhỏ rồi tự trấn an:
“Chắc không có chuyện ấy đâu !”.
Nhưng rồi nó vẫn lầm bầm nguyền rủa bà già độc ác.
Mãi suy nghĩ không để ý, Jotaro đâm sầm vào một thanh niên cao lớn. Nó giật mình, lí nhí một lời xin lỗi. Thanh niên kia nhìn nó từ đầu đến chân, nói:
- Hà ! Bé con ! Mấy hôm nay sao ta không thấy mày ở đầu cầu đường Gojo ?
Jotaro ngạc nhiên, trố mắt:
- Tráng sĩ là ai, sao gặp cháu ở đó ?
Nhưng nói xong, nó đã sực nhớ ra ngay người vừa gọi nó:
- À, phải rồi. Tại hôm nay tráng sĩ không mặc áo đỏ nên cháu không nhận ra !
Thanh niên mỉm cười:
- Ờ ! Hôm đó ta gặp mày đi với một thiếu nữ kia mà. Thiếu nữ đâu rồi ?
- Đấy là cô Otsu.
- Thiếu nữ đó tên Otsu à ?
- Dạ phải.
- Có bà con gì với Miyamoto Musashi không ?
Nghe hỏi, Jotaro bực mình, đáp lơ lửng:
- Dạ, dạ ...
- Dạ dạ cái gì ? Nàng là em họ Miyamoto Musashi phải không ?
- Dạ không.
- Em gái ?
- Cũng không phải.
- Vậy bà con ra sao ?
- Cô Otsu yêu Miyamoto Musashi.
- Vậy là ý trung nhân hả ?
- Cháu không biết. Musashi tiên sinh là sư phụ cháu.
Lần đầu tiên Jotaro gọi Miyamoto Musashi bằng tiên sinh vì cô Otsu đã dạy nó phải trọng thầy. Nó vênh mặt nhìn gã thanh niên. Gã nhìn lại nó, quắc mắt:
- Thảo nào mày ra đây. Sư phụ mày đâu, sao không thấy. Mọi người đang chờ.
Jotaro tức giận thật sự:
- Sao tráng sĩ hỏi vậy ? Cháu không biết, cháu không cùng đi với sư phụ.
Chợt một bọn ba người chạy đến, dẫn đầu là Ueda. Nhìn gã thanh niên, hắn reo lên:
- Kojiro ! Chà ! Bữa nay mới thấy đại hiệp đấy !
- Ueda huynh ! Tại hạ cũng vừa tới.
Ueda mừng rỡ dắt tay thanh niên đến bên đống lửa. Đồ đệ Yoshioka đứng cả dậy thi lễ.
Thấy mọi người vây chung quanh một trang thanh niên dáng cao lớn, đeo trường kiếm, khách bàng quan truyền miệng nhau ra vẻ hiểu biết:
- Chắc là Miyamoto Musashi. Trông người khí phách đấy chứ !
- Chắc không ?
- Thì còn ai vào đấy nữa ?
- Ờ, dáng dấp hiên ngang thế kia. Phải cái y phục hơi diêm dúa !
- Không ! Không phải Miyamoto Musashi đâu. Jotaro vội cải chính. Miyamoto Musashi gì mà ăn mặc như kép tuồng vậy.
Mọi người cười ồ, chưa rõ thằng bé này là con cái nhà ai thì Jotaro đã phưỡn ngực đáp:
- Ta là học trò của Musashi tiên sinh !
Đám đông xúm lại hỏi han, Jotaro hãnh diện tả hình dáng sư phụ, nhưng đến khi bị hỏi sư phụ đâu, sao không đến, nó lúng túng chẳng biết trả lời làm sao. Mọi người bán tín bán nghi, nghểnh cổ nhìn. Có kẻ kiên nhẫn chờ, có kẻ chán nản bỏ về không quan tâm đến vụ tỷ thí nữa.
Kojiro đến ngồi bên Ueda. Từ sau ngày nguyên đán, hắn không còn lui tới võ đường Yoshioka, mà Seijuro thì buồn bực có ý giận ông khách kém nhã nhặn và vô tâm nên cũng chẳng sai người đi tìm. Phần Kojiro, hắn chẳng chú ý đến cuộc tranh chấp nữa, vì kể từ khi gặp Miyamoto Musashi dưới chân cầu đường Gojo, đối phó với tia mắt đầy hung quang và quyết liệt của gã, Kojiro đã biết kết quả ra sao rồi. Nhìn bọn đồ đệ Yoshioka, kể cả những tay trụ cột trong phái như Ueda chẳng hạn, ngồi ỳ ra bên đống lửa chờ lệnh, Kojiro đem lòng thương hại. Hắn đã định chẳng nói ra nhưng không dằn được bất nhẫn:
- Miyamoto Musashi không đến, thật là phúc cho Yoshioka lắm. Các vị còn ngồi đây làm gì. Sao chẳng chia nhau ra đi đón tiểu chủ các vị dẫn về võ đường thôi, kẻo mà mất mạng sớm !
Mọi người ồ lên một tiếng. Có người giận quá định cất tiếng thóa mạ thì Kojiro đã chặn ngang:
- Tại hạ nói như vậy cũng chỉ có ý mưu cầu an lạc cho chưởng môn quý phái chứ chẳng có hậu ý gì khác. Trong cuộc giao đấu này, Seijuro không thủ thắng được. Nếu y không bị Miyamoto Musashi giết thì cũng mang thương tật suốt đời.
Ueda đứng phắt dậy, tay để vào đốc kiếm, trừng mắt hét lớn:
- Thằng con nít này, sao dám buông những lời ngông cuồng quá sức, không coi ai ra gì cả ?
Kojiro cười khẩy:
- Tại hạ biết những lời nói thẳng của tại hạ sẽ làm quý vị mếch lòng. Trung ngôn nghịch nhĩ. Nếu quả thật các vị không ưa, tại hạ xin rút lại lời nói ấy vậy ! Có điều, tại hạ cũng xin kiếu, không thể tiếp tay các vị được !
- Ai nhờ ngươi tiếp tay ?
- Thì Yoshioka Seijuro và cả các vị nữa. Các vị đã mặc nhiên có thái độ ấy !
- Láo !
- Vậy nếu không thì tại sao các vị lại đãi ngộ tại hạ như đã làm trong mấy tuần nay?
- Đó chỉ là vì lòng hiếu khách. Chúng ta muốn xử tốt với ngươi. Thế thôi !
- Ha ha ! Nếu chỉ có thế thì tại hạ cám ơn ! Nhưng này, tại hạ cảnh cáo:
nếu các vị bỏ ngoài tai lời tiên đoán của tại hạ, các vị sẽ hối không kịp. Miyamoto Musashi không phải con người tầm thường. Y rất nguy hiểm. Nguy hiểm không những cho chưởng môn các vị mà còn cho cả phái Yoshioka nữa. Tại hạ đã có dịp nhìn đôi mắt y, quyết liệt vô cùng mà cũng tàn nhẫn vô cùng ...
- Thôi ! Đủ rồi ! Giờ này không phải lúc để ngươi nói những lời làm nhụt nhuệ khí bọn ta !
Nhưng Kojiro làm như không nghe tiếng. Hay hắn chẳng coi những lời ấy vào đâu. Hắn tiếp, còn cay độc hơn nữa:
- Những kẻ trong cảnh suy tàn thường không chịu nhận lời nói thẳng.
Và chế giễu:
- Tấm cáo thị các vị cho cắm dưới chân cầu là bảng cáo phó của phái Yoshioka !
Thật đáng buồn tại hạ phải chứng kiến cảnh trụy lạc của một môn phái vẫn được coi là có nhiều hảo thủ.
Ueda nhổ bọt vào Kojiro và soạt một tiếng, đã rút kiếm ra khỏi vỏ.
Đồ chúng Yoshioka cũng nhất tề đứng dậy, đao kiếm cầm tay, mặt đằng đằng sát khí.
Nhưng như cắt, Kojiro phóng cước đá đống lửa bắn tung, xoay mình một vòng. Người ta chỉ thấy tấm thanh bào của hắn rung động, lưỡi kiếm dài như cây sào phơi đã lăm lăm trong tay, sáng lấp lánh và lưng hắn đã dựa vào gốc cổ thụ gần đó.
Kojiro cười gằn. Hiển nhiên nếu bọn Yoshioka cùng xông lại công kích thì hắn đã sẵn sàng.
Nhìn cục diện đột nhiên biến chuyển, người tinh ý biết ngay gã thanh niên tuy trẻ người mà mánh lới thâm độc. Hắn đã dùng những lời khiêu khích để, trước mặt bọn đồ đệ Yoshioka và bao nhiêu khách bàng quan gần đó, có cơ hội chứng tỏ tài năng. Nếu cần, hắn sẽ ra tay tàn sát hầu làm lu mờ và áp đảo cả phái Yoshioka lẫn Miyamoto Musashi.
Thật là một hành động cao ngạo và liều lĩnh, nhưng là một sự liều lĩnh có tính toán.
Kojiro chậm rãi đưa tay kiếm lên ngang mặt, mũi kiếm trỏ thẳng về đằng trước.
Giữa lúc ấy, tiếng một thiếu nữ vang lên lanh lảnh từ phía sơn đạo:
- Kojiro !
Mặt gã thanh niên vẫn lạnh như tiền. Gã chăm chú nhìn bọn Yoshioka, không bỏ sót một cử chỉ. Ueda đứng trước mặt hắn, hai tay nắm chuôi kiếm, lưỡi kiếm chênh chếch chúc xuống, mũi kiếm chĩa vào hông địch thủ. Thế kiếm thật vững vàng, thủ không sơ hở mà lúc công chỉ cần xoay nhẹ cườm tay, mũi kiếm đã sát bên sườn, làm địch thủ lúng túng.
Tiếc thay, thế kiếm không thi triển được, vì đột nhiên hàng ngũ Yoshioka rối loạn.
Một môn sinh vừa chạy tới vừa kêu thảng thốt:
- Các vị hãy dừng tay ! Ueda lão huynh ! Mau đi cứu tiểu chủ. Nguy lắm.
Mọi người quay cả lại. Môn sinh này tên Miike Jurozaemon, là võ sinh mới nhập môn được Seijuro cho theo hầu để sai vặt. Miike Jurozaemon vừa chạy đến trước mặt Ueda đã phục xuống. Gã thở hổn hển:
- Ueda lão huynh ! Tiểu chủ nguy rồi !
- Làm sao ? Chuyện gì ? Tiểu chủ bây giờ ở đâu ?
Đứng trước cảnh bối rối của nội bộ Yoshioka, Kojiro không nói và cũng không có hành động gì. Hắn thong thả tra kiếm vào vỏ rồi lui ra xa chừng và i trượng đến gặp thiếu nữ vừa gọi tên hắn:
- Akemi ! Nàng đến đây làm gì ?
Thiếu nữ chẳng những không đáp còn hỏi ngược lại:
- Miyamoto Musashi đâu ?
Kojiro trừng mắt:
- Akemi, ta đã bảo nàng không được đến đây, sao còn đến ?
- Ngươi là gì của ta mà có quyền cấm ?
- Câm mồm ! Về ngay nhà trọ đường Quan Ngoại chờ ta ở đấy !
- Không về ! Ta muốn gặp Miyamoto Musashi, ngươi đừng tìm cách ngăn cản, vô ích!
Kojiro khó chịu. Càng bảo, Akemi càng bướng mà người hiếu kỳ, thấy to tiếng xúm lại mỗi lúc một đông. Hắn đấu dịu:
- Thôi được. Tùy nàng muốn làm gì thì làm. Để ta đến nghe tin tức Seijuro xem sao.
Đồ chúng Yoshioka với Ueda quây xung quanh Miike Jurozaemon mới nghe được vài câu đã mặt cắt không còn hột máu, rầm rập kéo nhau chạy về hướng bắc như đàn mãnh thú trốn lửa cháy rừng. Kojiro cũng đi theo. Hắn đoán sơ sơ chắc Seijuro trúng thương nặng, nhưng không hiểu Miyamoto Musashi thế nào. Dù sao, Seijuro cũng là chưởng môn nhân một phái, tất phải thi triển một vài chiêu kiếm. Hai cọp đánh nhau, cọp này thương tích nặng thì cọp kia cũng chẳng vẹn toàn. Cứ đến xem sao, tùy cơ ứng biến, nếu diệt được cả hai thì càng tốt. Nghĩ đến đây, Kojiro khoan khoái, cười thầm trong bụng.
Ueda và bọn thuộc hạ chạy chừng một quãng khá xa đến ven bờ giếng cạn.
Cỏ cháy vàng loang lổ bao quanh, loạn thạch đủ cỡ đủ màu, ngổn ngang xếp thành vô số hình cổ quái. Tới chân một đồng đất nổi lên như cái gò, cỏ gianh cao tới vai, Miike Jurozaemon vạch cỏ cúi xuống gọi:
- Tiểu chủ !
Đồ đệ Yoshioka kẻ trước người sau cũng vừa tới. Nhìn Seijuro nằm dài thiêm thiếp, mặt gục trên đám cỏ khô, chúng vừa kinh ngạc vừa đau lòng. Seijuro mặc kimono hoa xanh, tay áo xắn cao buộc bằng hai sợi dây da màu nâu thẫm, đầu quấn giải lụa trắng viết hai chữ “Yoshioka”. Hắn như bất tỉnh, không còn cử động gì, hơi thở thoi thóp. Trên đầu cũng như ngực áo không có vết máu, nhưng sắc mặt Seijuro trắng bệch, môi tái nhợt mang vẻ đau đớn vô hạn.
- Còn thở mà !
Một người để tay lên mũi Seijuro, hơi thở nhẹ như tơ, không đủ làm rung động sợi chỉ mảnh.
- Còn, nhưng yếu lắm.
- Đỡ tiểu chủ ngồi dậy !
Miike Jurozaemon quỳ xuống cùng với một tên đồ đệ nhấc tay Seijuro lên định quàng vào vai mình thì Seijuro choàng mở mắt. Mắt hắn lạc thần, da mặt co rúm lại, mồ hôi ra lấm tấm trên trán.
- Ôi chao, đau !
Hắn chừng muốn kêu to, nhưng người ngoài nghe tiếng hắn như tiếng dế. Đôi con ngươi lờ đờ nhìn phía trước. Hai giọt nước mắt hiện ra lăn dài trên má. Seijuro rướn người lên, đầu ngoẹo sang bên rồi im lặng, bất động. Hắn đã hôn mê mất rồi !
- Phải kiếm cái gì làm cáng khiêng tiểu chủ về. Ngươi chạy đi mời y sư ngay, nói tiểu chủ bị nội thương nguy kịch lắm.
Ueda vừa ra lệnh vừa cởi áo đắp lên mình người chưởng môn thất thế. Đồ chúng hối hả chạy đi chặt cành cây, Ueda cạy miệng Seijuro bỏ vào mấy viên chỉ thống đơn rồi quỳ bên cạnh nghe động tĩnh.
Một lúc sau, sắc mặt Seijuro đã bớt nhợt nhạt, bắp thịt bên mép giật liên hồi.
Ueda thở dài như vừa trút được gánh lặng:
- Tiểu chủ ! Tiểu chủ có nhận ra đệ không ?
Seijuro từ từ mở mắt. Hắn khẽ chớp hai hàng mi như nhận biết người vừa gọi rồi nhắm mắt lại.
Cáng được mang đến, làm bằng hai cành phong xỏ vào tay chiếc kimono bằng vải dày của một tên đệ tử. Mọi người xúm lại nhấc Seijuro để lên cáng, cánh tay phải hắn lủng lẳng tựa một vật thừa sắp rời khỏi thân thể. Seijuro cau mặt nghiến răng không kêu la nhưng ai cũng thấy rõ hắn đang cố vật lộn với sự đau đớn. Mồ hôi ở chân tóc và trên mép chảy rỏ giọt, Ueda phải dùng khăn thấm bớt. Nhiều người quay mặt đi không dám nhìn cảnh ấy, vì nó thương tâm quá và sợ xúc phạm đến vị tiểu chủ họ hằng kính trọng.
Bốn người khiêng chiếc cáng bước đi, theo sau là đồ chúng Yoshioka lặng lẽ và buồn thảm như một đám tang.
Nhờ mấy viên thuốc, Seijuro đã tỉnh đôi chút. Hắn rên khe khẽ:
- Đau quá ! Trời ơi đau quá ! Đứa nào chặt tay này đi cho ta ! Đau quá.
Phu cáng đi nhanh hơn. Đường đất đỏ gập ghềnh. Seijuro càng nhăn mặt:
- Chặt tay này đi ! Trời ơi ! Ta bảo đứa nào chặt tay này đi hộ ta nếu không ta chết mất !
Một đệ tử chạy trở lại nói với Ueda:
- Ueda lão huynh ! Tiểu chủ đau quá không chịu nổi, bảo phải chặt tay đi. Bây giờ làm thế nào ?
- Đồ ngu. Tiểu chủ đau nhưng không chết. Nếu chặt tay mà không có thuốc rịt thì máu chảy ra hết, tiểu chủ sẽ chết ngay. Thôi đi đi, đừng có nhiễu sự. Tốt hơn là ngươi ba chân bốn cẳng chạy về võ đường bảo y sinh đem thuốc cầm máu đến đây lập tức để rồi ta liệu !
Thấy có người lố nhố trong những bụi cây đằng xa, Ueda bực tức bảo:
- Gọi anh em đuổi những tên kia đi. Đừng để tiểu chủ làm trò cười cho chúng !
Bọn đồ đệ chạy đi rồi, Ueda vẫy Miike Jurozaemon lại. Jurozaemon tưởng huynh trưởng mình quở phạt, len lén đến bên dập đầu xin lỗi.
- Ngươi đi với tiểu chủ từ sáng sớm phải không ?
- Dạ.
- Tiểu chủ gặp Miyamoto Musashi ở đâu ?
- Dạ, vừa tới chân gò thì Miyamoto Musashi xuất hiện.
- Miyamoto Musashi đi một mình hay với nhiều người khác ?
- Dạ, hắn đi một mình.
- Chuyện xảy ra thế nào, kể lại ta nghe ! Tiểu chủ biết chúng ta chờ ở gần sơn đạo mà !
Thấy Ueda ôn tồn, Miike Jurozaemon bớt lo.
- Trước khi đến đồng Rendaiji, tiểu chủ có nói nếu vạn nhất tiểu chủ bị bại về tay Musashi thì phải đem xác tiểu chủ đến chỗ các huynh trưởng chờ ở đồng bên cạnh. Tiểu chủ không muốn đệ cho ai biết trước khi cục diện ngã ngũ. Tiểu chủ nói có những lúc người lãnh tụ phải biết nhận trách nhiệm và không muốn cho võ lâm chê cười mình đã dùng những hành động nhơ nhuốc và hèn hạ để thủ thắng. Tiểu chủ có vẻ buồn nhưng rất dũng cảm và tự tin.
- Rồi sao nữa ?
- Lúc Miyamoto Musashi đột xuất, hắn hơi mỉm cười. Đệ tử trông rõ lắm tuy lúc bấy giờ sương chưa tan hẳn. Hai bên cúi chào nhau, không ai nói một lời. Bỗng có tiếng thét, thanh kiếm của tiểu chủ bắn tung lên, tiểu chủ ngã chúi xuống cỏ, còn Miyamoto Musashi nhảy lùi lại, đứng trên một phiến đá trong đám loạn thạch, tóc dựng đứng.
- Sao lúc bấy giờ ngươi không nhảy vào đỡ tiểu chủ ?
- Dạ, vì nhanh quá. Vụt một cái, không đầy nháy mắt. Sau đó, tên kia nhìn đệ tử, mắt hắn đỏ như rực lửa, đệ tử sợ quá. Quay lại, không thấy hắn đâu nữa !
Miike Jurozaemon kể xong như trút được gánh nặng. Ueda mắt đăm đăm nhìn về phía xa, vẻ tư lự. Chòm râu lão lốm đốm bạc, gió thổi dạt quấn cả vào mang tai.
Kojiro đứng bên Akemi dưới gốc thông già, nhìn bọn đệ tử Yoshioka khiêng chủ soái đi qua. Một niềm trắc ẩn hiển lên thay cho nụ cười khinh mạn trên môi hắn, nhưng nghe tiếng rên rỉ của Seijuro, hắn cau mặt.
Hắn bước đến bên cáng. Đồ đệ Yoshioka khựng lại thủ thế. Kojiro tới gần khẽ gọi:
- Yoshioka đại huynh !
Seijuro nhọc mệt hé mắt. Nhìn thấy Kojiro, hắn nở nụ cười héo hắt:
- Trễ mất rồi !
Kojiro trông bàn tay phải xám ngoẹt của chưởng môn nhân phái Yoshioka, lắc đầu:
- Gẫy xương bả vai. Thế là cánh tay này bị phế bỏ ...Đại huynh chẳng nên nằm, máu dồn lên óc không tốt.
- Ối chao ! Đau ! Giá ai cắt cánh tay này hộ ta ...
- Trước sau gì thì cánh tay này cũng phải bỏ. Nếu tâm phế không bị chấn động tất còn cứu vãn được. Đại huynh còn cánh tay trái, thiết nghĩ nên bảo tồn lấy tính mệnh và giữ vững hào khí. Khi bình phục sẽ tìm cách rửa hận.
Seijuro chớp chớp mắt, ra vẻ đồng ý.
- Bây giờ đừng để tâm đến nỗi đau vật chất nữa ...
Seijuro cau mặt:
- Túc hạ ...túc hạ ...không ở địa vị ta ...
- Tại hạ biết lắm chứ. Nhưng phải khắc phục. Quan trọng là nỗi đau tinh thần.
Đại huynh phải nghĩ đến danh dự và lòng kỳ vọng của môn phái, của cha ông. Có thể nào đại huynh cứ nằm thế này cho môn đệ khiêng về Kyoto, dưới mắt khinh rẻ và chế giễu của mọi người được à ?
Seijuro quay hẳn đầu sang nhìn Kojiro. Ánh kiêu ngạo lóe lên trong khóe mắt nhưng tắt ngay. Hắn rên rỉ.
- Nếu cần, tại hạ xin giúp ...
Tiếng Seijuro thều thào:
- Phải rồi ! Các người để ta xuống. Túc hạ đỡ ta ...
Kojiro giơ tay dìu Seijuro. Hắn rú lên:
- Trời ơi ! Đau ! Chết mất. Cho ta mượn lưỡi kiếm. Ueda đâu, chặt cái tay vô dụng này đi !
Nhưng Kojiro đã rút cây chủy thủ trong áo:
- Nếu đại huynh không ngại ...
- Ờ ! Túc hạ giúp ta ...
Xoẹt ! Cánh tay Seijuro đứt lìa đến tận bả vai. Máu tuôn xối xả. Hắn gục xuống ngất đi.
Vừa hay hai khoái mã mang thuốc phong tới như bay. Đồ chúng xúm quanh rịt thuốc rồi lấy vải buộc chặt vết thương. Seijuro tỉnh lại, muốn một mình trở về võ sảnh đường Shijo, nhưng mới đi được vài bước đã quỵ xuống. Đồ đệ vực hắn lên ngựa, cắt y sinh ngồi giữ. Hắn cũng chẳng con hơi sức đâu mà phản kháng nữa.
Kojiro trở lại bên gốc thông, đến bên Akemi:
- Nàng nhìn rõ không ? Chắc nàng vui lòng lắm !
Akemi mặt tái xanh, nghẹn họng không nói nên lời. Nàng thấy hắn tàn ác và bất nhân. Chưa kịp phản ứng, Kojiro đã tiếp:
- Nàng vẫn nói nếu trả thù được y, sẽ sung sướng lắm. Bây giờ y như thế, nàng đã toại nguyện chưa ?
Akemi nhướng mắt nhìn Kojiro. Không hiểu sao, lúc này nàng thấy ghê tởm hắn. Xem ra, tâm địa hắn còn đáng khinh và đáng sợ hơn Seijuro nữa. Seijuro đã làm hại đời nàng, nhưng không đến nỗi là một con người độc ác. Tên Kojiro này, dưới cái lớp vỏ trẻ trung dễ thương, thật là giống ngạ quỷ nham hiểm. Hắn không phạm những điều lầm lỗi mà thế nhân thường phạm, không gian dối, không ăn cắp, không tà dâm, nhưng là một con quỷ gian ác có những ý nghĩ lệch lạc, thấy người khác đau khổ thì thích thú, khoái chí. Hắn còn nguy hiểm hơn những kẻ tội lỗi thường tình nhiều. Akemi muốn chạy trốn, thoát khỏi sự kềm tỏa của giống ác quỷ này nhưng không đủ can đảm.
Kojiro kéo tay nàng, nàng líu ríu theo sau. Con hoàng hầu trên vai Kojiro quay lại nhe răng kêu khèng khẹc chế giễu. Nàng muốn mắng nó nhưng không thể. Akemi có cảm tưởng nàng và con khỉ kia cùng chung số phận. Nàng ghét Seijuro và Kojiro nhưng hai người đó sao cứ thu hút nàng như ngọn lửa thu hút những con thiêu thân đến gần để đốt chết.



Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Sáu T12 22, 2006 12:39 am
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI
Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ

QUYỂN 4 : Fu no Maki

CHƯƠNG 35
HƯƠNG TRÀ







Miyamoto Musashi men theo bờ suối tìm đường ra khỏi đồng Rendaiji. Lau sậy cao quá đầu người, dầy chi chít, hắn phải vạch lối mà đi, chân đạp lên những lớp lá khô nghe rào rạo.
Một con chim nhỏ trong bụi bay vụt lên, bụng trắng phau như bụng cá thoáng quẫy trong đám rong trước khi lẩn đi biệt tích.
Musashi không ngờ cuộc tỷ đấu dễ dàng và kết thúc nhanh như vậy. Quay nhìn gò đất cao gần đám loạn thạch, hắn lẩm bẩm:
“Mình mới phóng một chiêu, sao y không đỡ. Lẽ nào chưởng môn một danh phái mà tồi tàn đến thế !”. Nhưng nghĩ cho cùng, hắn chẳng lấy làm lạ. Ở đời kẻ bất tài thường hay huênh hoang. Khi may mắn được thừa hưởng cái hào quang của đảng tộc để lại, họ được đàn em đua nhau xu nịnh, lâu ngày lộng giả thành chân, họ tưởng mình có tài cán thật. Sống trong ảo tưởng như thế, đến khi hữu sự, họ không ngờ mình quá kém và đã phải trả giá đắt sự ngu dại của mình. Trường hợp Yoshioka Seijuro này là một. Y không huênh hoang nhưng nhu nhược. Vì không có một khả năng gì đáng kể, y đã làm cho chính bản thân và cả môn phái y thân bại danh liệt.
Rút mộc kiếm ra xem kỹ, Miyamoto Musashi không thấy một vết máu, một chỗ trầy nào. Lưỡi kiếm đạo đen như mun vẫn bóng mịn, chuôi kiếm nằm trong tay hắn chắc, gọn. Hắn có cảm tưởng lưỡi kiếm với thân thể hắn là một, sinh động, vững vàng, sẵn sàng đương đầu với mọi thử thách.
Nhớ lại lúc mới gặp nhau, Seijuro hơi giật mình. Phản ứng đó tuy rất nhẹ nhưng không qua được tia mắt sắc bén của Miyamoto Musashi. Hai bên cúi chào. Dáng điệu Seijuro rụt rè, có đôi chút hoa mỹ, rõ ràng là phong thái của người chỉ tập luyện trong võ sảnh, ít bôn tẩu giang hồ. Dưới mắt Miyamoto Musashi, những chi tiết nhỏ nhặt ấy đã tố giác võ công và ý chí của Seijuro.
Sau đường kiếm độc nhất làm Seijuro quỵ ngay tại chỗ, Miyamoto Musashi thất vọng vô cùng. Hắn mong đợi một đối thủ khá hơn, ít nhất cũng thi triển được vài cao chiêu để hắn mở rộng kiến thức và không uổng công chuẩn bị. Nhưng đối thủ ấy đã không nhiệt thành, mà ngay đến lòng tự tin cũng không có. Nếu biết trước, có lẽ hắn đã tìm cách hủy bỏ cuộc gặp gỡ. Hắn chỉ muốn có cơ hội thử nghiệm tài năng chứ đâu phải muốn tìm hư danh trong cuộc tranh chấp.
Miyamoto Musashi bất giác sinh lòng lân mẫn:
“Thật đáng tiếc !”. Nhưng đã muộn.
Mũi tên bắn đi không thu về được nữa. Hắn thở dài, ngồi xuống tảng đá bên bờ suối, cúi đầu thành tâm cầu cho Seijuro không đến nỗi tử thương. Và rút quyển sổ nhỏ, lẳng lặng ghi niềm hối tiếc đầu tiên trong năm về một hành động hắn cho là vô ích.
Trời gần trưa, Miyamoto Musashi lầm lũi đi. Con suối cạn về mùa đông, giờ đây tuyết tan, đã có nước chảy róc rách. Gặp phiến đá chắn ngang, nước phân ra hai dòng, đổ bọt trắng phau, kéo theo cành gãy lá khô bít cả một quãng lòng suối.
Tần ngần nhìn nước chảy miên miên, Miyamoto Musashi liên tưởng đến cuộc đời hắn, những trở ngại hắn đã vượt qua như phiến đá kia ngăn chặn dòng nước và rồi còn bao nhiêu trở ngại trong tương lai nữa.
Dòng nước chảy đi đâu ? Có lợi ích gì cho ai không ? Nhìn dòng nước, hắn nhớ đến lời Lão Tử trong Đạo Đức Kinh đọc được khi còn ở thạch thất:
“Bậc thượng thiện giống như nước, làm lợi cho vạn vật mà không tranh. Bản thể của Đạo cũng như nước, không làm gì cả mà kỳ thực không có gì là không do cái làm của nó mà ra”. Trước đây, hắn không hiểu ý ấy, bây giờ có lẽ đã lý hội được phần nào.
Bước chân Miyamoto Musashi rào rạo trên đường sỏi làm một bà lão đang lúi húi hái rau giật mình ngửng đầu lên. Bà lão người bé nhỏ, tay xách giỏ tre đan, mặc một bộ kimono đơn giản, bên ngoài khoác chiếc áo ngắn màu nâu sẫm. Y phục bà là y phục của người thế tục, nhưng bà lại trùm trên đầu một vuông khăn xám như các ni sư. Bà già có dáng thanh tú của những người sống ở thị thành, quen nhàn nhã từ tấm bé.
Miyamoto Musashi xuất hiện thình lình khiến bà mở to mắt kinh hãi. Một tay để lên ngực, những ngón tay nhỏ, trắng xanh run run, mặt bà tái đi. Chuỗi tràng hạt đeo bên mình theo nếp áo rung động.
Miyamoto Musashi cũng không ngờ chỗ này có người, nhưng trấn tĩnh được ngay.
Hắn tươi cười hỏi:
- Lão bá làm gì thế ?
Bà già không trả lời, ngó trước ngó sau, quay đầu chạy, chiếc giỏ tre rớt xuống cỏ bà cũng không biết. Bà vừa chạy vừa kêu:
- Koetsu ! Koetsu !
Miyamoto Musashi chẳng hiểu sao bà lão lại sợ mình đến thế, đứng ngẩn ngơ nhìn theo. Rồi cúi xuống nhặt chiếc giỏ tre lên. Trong giỏ toàn một thứ rau khúc, chắc do bà già hái được từ sớm. Sợ bỏ đi thì uổng, hắn xách lẵng rau rảo bước theo sau.
Đến một khu rừng thưa trên sười đồi thoai thoải, chợt thấy bóng hai người đàn ông, một người ngồi trên tấm vải thay chiếu trải lên cỏ và một hình như đang lúi húi nhóm lửa. Vài sợi khói lam tỏa nhẹ lên cao trong bầu thinh không trong vắt. Khung cảnh thật yên tĩnh và êm đềm một cách lạ !
Miyamoto Musashi đến gần. Bên tấm vải, bày la liệt những đồ dùng để uống trà, nào khay, nào chén, nào ấm sành. Trên bếp lửa lại treo sẵn một cái ấm sắt đun nước. Rõ ràng đây là cuộc du ngoạn của một nhóm người thấy trời đẹp, cảnh trí vui tươi thì dừng lại pha trà thưởng thức.
Người đàn ông ngồi trên tấm vải dường như đang vẽ tranh. Ông trạc ngũ tuần, nước da mịn và trắng hồng nhưng tóc đã lốm đốm bạc. Nhìn Miyamoto Musashi, ông không tỏ vẻ gì ngạc nhiên. Dáng điệu vẫn bình tĩnh và ung dung, ông lên tiếng:
- Có chuyện gì thế, tráng sĩ ?
- Vãn bối mang hoàn lại giỏ rau.
Ông vội bỏ bút, cúi đầu thi lễ:
- Giỏ rau này của gia mẫu. Người đã có tuổi, chắc bỏ quên. Xin đa tạ tráng sĩ.
Miyamoto Musashi vội quỳ xuống:
- Vậy té ra là lệnh đường. Vãn bối thật đắc tội, đã làm lão bá sợ hãi. Vãn bối đột nhiên đi tới, lão bá kinh hãi đánh rơi giỏ rau nên vãn bối mang lại trả chứ không có chuyện gì.
Vừa hay người lão bộc dẫn bà cụ đến. Trông thấy giỏ rau, mặt bà tươi hẳn lên.
- Mẫu thân ! Tráng sĩ đem trả giỏ rau đây này !
Bà cụ cúi đầu cảm tạ:
- Già thật hồ đồ quá. Xin cảm ơn tráng sĩ.
Người đàn ông trung niên tự giới thiệu:
- Tiện danh là Koetsu, nhà ở ngõ Honami.
Nghe tên Koetsu, Miyamoto Musashi ngạc nhiên. Trên giang hồ, hắn đã nghe nhiều người nhắc đến tên này. Ông không phải là kiếm sĩ, nhưng nổi danh suốt một dải trung nam nước Nhật là một nhà luyện kiếm vô song. Học lực về kiếm phổ của ông uyên bác, đức hoàng đế có khi còn phải triệu ông vào cung để hỏi xuất xứ và tiểu sử của những thanh kiếm lạ. Riêng về tài năng này, giới học giả và kiếm sĩ cầm quyền rất khâm phục. Nghe nói trước đây, đại danh Toyotomi Hideyoshi, thân phụ Hideyori, đã viết di chúc dặn người thừa kế phải trích ra hàng năm ba ngàn gia. lúa để tặng gia đình ông chi dụng.
Với số lợi tức ấy, ông thừa sức sống phong lưu. Căn nhà ông ở tại ngõ Honami của tổ phụ để lại, rộng như một trang trại, thiết bị đủ thứ dụng cụ để đúc và mài dũa gươm quý.
Nhưng quan trọng và đầy đủ nhất, phải kể cái thư khố đựng toàn sách chuyên môn về kỹ thuật luyện kiếm và kiếm phổ do tổ phụ Ông sưu tập và truyền lại. Không những thế, Koetsu còn là một nghệ sĩ tài hoa về nhiều phương diện. Ông làm đồ gốm và đồ sơn mài, vẽ tranh thủy mặc, viết bút thiếp và hiểu biết rất sâu rộng về cổ họa Nhật.
Honami Koetsu vang danh khắp nơi đến nỗi nhiều kẻ hậu sinh quá ngưỡng mộ Ông, khi đi qua ngõ Honami, tự động xuống ngựa để tỏ lòng cung kính.
Tuy vậy mà nếp sống của ông rất giản dị. Ông không ưa lụa là, cái ăn cái mặc chỉ vừa đủ cần thiết. Cùng với bà mẹ già xấp xỉ bảy mươi, ông thích du ngoạn đó đây, hòa mình với thiên nhiên và như hôm nay, dùng nơi hoang vu này làm bối cảnh cho một buổi uống trà và vẽ tranh để di dưỡng tính tình.
Lần đầu diện kiến, nếu ông không xưng danh, có lẽ Miyamoto Musashi không ngờ con người trung niên có cái dáng quan chức ngồi kia lại là Koetsu, nhà kiếm học và nghệ sĩ tài danh lừng lẫy.
Miyamoto Musashi hỏi lại:
- Phải chăng tiên sinh chính là nhà luyện kiếm nổi tiếng tại ngõ Honami ở cố đô.
Koetsu mỉm cười:
- Đa tạ tráng sĩ quá khen. Lão phu chẳng qua nhờ phúc trạch mà nên, có tài cán gì. Tiện danh bất quá chỉ được một số ít bằng hữu biết đến.
Đoạn tươi cười nói với bà mẹ:
- Lúc nãy, mẫu thân có vẻ kinh hãi. Con thấy tráng sĩ đây rất thuần nhã, có gì đáng e ngại đâu !
Bà lão vui vẻ, lấy tay che miệng:
- Nói ra thì xấu hổ. Lúc bấy giờ nhìn tráng sĩ đột nhiên xuất hiện, ta thấy sát khí bừng bừng, nên sợ quá. Già này hồ đồ, tráng sĩ thứ lỗi.
Trực giác hết sức linh mẫn của bà lão khiến Miyamoto Musashi kinh ngạc. Bà đã nhìn rõ hơn, hay đúng hơn, cảm thấy nội lực phi thường toát ra từ thân thể hắn, y như là trước kia, Ozoin lão tăng ở vườn rau chùa Quanh Minh đã cảm thấy. Gần một năm rồi, công lực sung mãn ấy vẫn chưa kiềm chế được, trách gì chẳng làm cho bà sợ hãi.
Koetsu có lẽ cũng có được sự cảm nhận mẫn nhuệ như thế, nhưng ông điềm tĩnh hơn và có lẽ ông đã chỉ chú ý đến khía cạnh tốt, cái phần thiện trong con người Miyamoto Musashi mà thôi. Ông giơ tay mời:
- Tráng sĩ vừa chiến đấu xong, hãy lưu lại nghỉ một chút cho thoải mái. Trời trong và đẹp như thế này, cảnh trí lại tịch mịch, vội gì ?
Miyamoto Musashi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Thế ra ông cũng đã rõ mình vừa tỷ kiếm với Seijuro. Sao ông không có phản ứng gì. Có lẽ ông cho đó là những sinh hoạt của một giới khác với giới của ông chăng. Hắn nghĩ thế, nhưng không để lộ ra, chỉ vắn tắt cảm ơn rồi tháo dép ngồi xuống:
- Vãn bối tên Miyamoto Musashi ở Mimasaka..
- Lão phu cũng đã đoán biết vậy.
Bà cụ thân mẫu cũng ngồi xuống hỏi han gia cảnh và sở học của hắn. Bây giờ bà vui vẻ tươi cười, coi Miyamoto Musashi như một đứa cháu nên hắn thích thú vô cùng. Hắn đem tâm sự ra kể, những thất vọng và kinh nghiệm đã trải qua cùng những ước mơ hắn thường ấp ủ.
Không biết cơ duyên nào đưa đẩy cho hắn gặp hai mẹ con nhà kiếm học Koetsu ngày hôm nay, nhưng hắn có cảm tưởng hai người này cảm thông với hắn từ bao giờ và tự nhiên hắn tin cậy họ. Không phải vì Koetsu danh vọng lẫy lừng mà hắn có cảm tưởng ấy. Giá ông đừng xưng danh, có lẽ hắn còn thấy thoải mái hơn.
Bà cụ hỏi con trai:
- Con thử đoán xem Musashi bao nhiêu tuổi ?
Koetsu nhìn Miyamoto Musashi, mỉm cười đáp:
- Khoảng hăm lăm hăm sáu.
Miyamoto Musashi vội chữa:
- Vãn bối năm nay mới hăm ba.
- Chà ! Thế ra lão phu trông tráng sĩ già hơn tuổi ! Chắc phong sương nhiều cho nên thế ! Nhưng không sao, những vết phong sương ấy là chứng tích của sự từng trải đấy!
Mọi người cười ồ, vui vẻ.
Chuyện vãn hồi lâu, Koetsu ngỏ ý muốn ra bờ suối vẽ tranh còn bà cụ giúp người lão bộc làm bánh lá khúc.
Một mình Miyamoto Musashi ngồi ngó mông lung ra phía xa. Trời đã quá trưa.
Nắng không còn thịnh nhưng khí hậu ấm áp. Tuy nhiên mới là đầu xuân, cây cỏ chưa xanh tốt, du ngoạn lúc này quả hơi sớm. Hắn nghĩ hai mẹ con Koetsu phải là người yêu thích thiên nhiên lắm, bị bó cẳng suốt mùa đông không ra ngoài được nên mới vội vàng thế. Riêng đối với thanh niên hiếu động như hắn, ngồi mãi cũng chán. Hắn bèn đứng dậy đi quanh.
Một gốc mai già khẳng khiu mọc nghiêng bên bờ suối. Đầu cành, có bông mai độc nhất nở, trắng muốt, rung rinh theo gió. Hắn nhìn cành mai, thấy đẹp vô cùng, đứng sững ngắm không biết chán. Không biết cái cảnh “trúc phong, mai vũ” như thế nào, nhưng bông mai độc nhất trong cái khung cảnh hoang vu ngày đầu xuân này khích động hắn lạ thường.
Men theo bờ suối, đến gần chỗ Koetsu ngồi, Miyamoto Musashi lẳng lặng nhìn nhà nghệ sĩ dùng ngọn bút lông ghi lại những nét động của dòng nước đương chảy.
Ông vẽ nhiều lần, nhưng có lẽ không lần nào vừa ý nên tranh để la liệt bên cạnh.
Vẽ xong một bức, cho là chưa được, ông lại vẽ lại, không nản chí.
Hừ, Miyamoto Musashi nghĩ thầm. Vẽ cũng không phải là dễ. Ngọn bút trong tay nghệ sĩ chỉ là dụng cụ, cũng như thanh gươm trong tay kiếm sĩ. Quan trọng là cái tâm, phải để tâm mình hòa hợp với thiên nhiên thì mới diễn tả được thiên nhiên. Phải cảm thông trước đã. Cũng như hắn, khi chiến đấu, kiếm và tâm hợp nhất thì mới đạt tới mức siêu hóa. Ông vẽ nước chảy mà vẫn coi nước là đối nghịch thì không thể nào thành công được.
Miyamoto Musashi lững thững trở về chỗ cũ. Sợ nhàn rỗi quá thành ra u trệ, hắn ngỏ ý cáo từ hai vị chủ nhân. Koetsu giữ lại:
- Tráng sĩ lưu lại chút nữa, chờ uống trà với lão phu. Trà là thứ di dưỡng tình tình tốt nhất.
Nghỉ một lúc ông lại nói:
- Vả lại theo thiển ý, động là cao điểm của tĩnh. Tráng sĩ muốn giữ cao điểm mãi cũng không thể được. Có động thì có tĩnh. Tĩnh bây giờ để chuẩn bị cho cái động về sau.
Chắc tráng sĩ hiểu ý lão.
- Đa tạ tôn ý. Nếu quả vãn bối không làm phiền gì thì xin ở lại.
Koetsu thu xếp giấy bút và đậy nắp bình mực. Vàng, bạc ánh lên cùng với xà cừ cẩn trên nắp bình lóng lánh làm Miyamoto Musashi chú ý. Hắn xin phép cầm xem.
Nắp bình mực sơn then bóng lộn, vẽ hai bông Sumigiku bên một hàng giậu nhỏ. Nét vẽ xương kính, cánh bố cục chặt chẽ. Tuy là tranh tĩnh vật nhưng hai bông hoa sinh động lạ thường, nhờ cách rắc bột vàng và bạc, điểm những miếng xà cừ và cách mài sơn tuyệt khéo.
Koetsu nhìn Miyamoto Musashi. Hắn không giấu lòng thán phục, hai tay bưng bình mực trả chủ nhân và nói:
- Đẹp quá ! Tác giả tạo nên bảo vật này là ai, tiền bối có biết không ?
- Bảo một mình lão phu làm thì không đúng hẳn, vì cũng còn một người nữa là Vương Tích đề thơ và tự tay viết thủ bút, cho nên phải nó Vương tiên sinh và lão phu cùng làm mới phải.
- Vương Tích có liên hệ gì với Vương Trung, quan nhiếp chính đại thần tiền triều không ?
- Vương tiên sinh chính là trưởng tử quan đại thần Vương Trung.
- Chả trách được ! Vãn bối có được nghe đại danh ngài là người viết bút thiếp nổi tiếng nhất kinh thành.
Thân mẫu Koetsu đặt bộ đồ trà lên chiếu vải, nói:
- Già chẳng có gì đãi tráng sĩ, chỉ lưu tráng sĩ lại dùng trà.
Đoạn, mở nắp hộp, lấy trà cho vào bát, dùng gáo tre đong nước sôi, đánh trà nổi bọt. Cử chỉ của bà gọn gàng và chính xác, chứng tỏ bà rất thành thạo. Những ngón tay nhỏ nhắn thoăn thoắt lướt trên các đồ dùng, nhẹ nhàng linh hoạt mà vẫn thanh lịch tự nhiên một cách lạ. Tuổi đã thất tuần, dáng điệu bà không có vẻ già, vẫn nhanh nhẹn, trang nhã và kín đáo, thật đáng tiêu biểu cho vẻ đẹp phụ nữ cùng lứa tuổi.
Càng nhìn hắn càng thấy cảm mến. Nói theo ngôn ngữ kiếm đạo thì những thủ pháp của bà hoàn toàn, không chỗ nào sơ hở. Khi bà giơ cao chiếc gáo nhỏ đong nước vào bát, hắn có cảm tưởng nhìn một tay kiếm tuyệt luân vừa xuất thủ. Hắn nghĩ thầm:
“Đó mới chính là đạo, đó mới là tinh hoa của nghệ thuật, luôn luôn tìm sự tận thiện, tận mỹ !”.
Miyamoto Musashi ngồi yên quỳ gối, hai tay để lên đùi, trịnh trọng ngắm bà lão bưng trà và xếp bánh ra đãi khách. Ở giữa chốn hoang vu, những chiếc bánh mướt xanh như ngọc thạch trên tấm lá màu nõn chuối đã được cắt vuông vắn để trong cái khay sơn then, trông sao mà ngon mắt thế ! Hắn tưởng mình đang ngồi trong trà thất của một đại gia mà chủ nhân, tuy ưa thích cảnh thiên nhiên nhưng vẫn còn lưu luyến với những nghi lễ của trà đạo. Hắn đâm ngại.
Nhìn Koetsu và bà thân mẫu uống trà, đĩnh đạt, thư thả, hắn lúng túng:
- Vãn bối sinh trưởng nơi cô lâu, không rõ lề lối uống trà ở kinh đô, chẳng biết phải làm thế nào ?
Bà cụ cười mà nói:
- Già này thật mến cái tính ngay thẳng của tráng sĩ ! Thì có gì quan trọng đâu !
Nghệ thuật uống trà chẳng bí mật hay phiền toái gì. Tráng sĩ sinh trưởng ở nhà quê thì cứ uống như người nhà quê ...
- Lão bá nói như vậy, ra uống trà dễ lắm sao ?
- Dĩ nhiên ! Chân lịch sự phát xuất tự trong lòng. Nếu ta quá chú trọng đến cái vỏ bề ngoài thì mất thú đi. Muốn tận hưởng hương vị của trà, cứ để cho lòng ta thoải mái tự nhiên. Cũng như khi sử kiếm, tráng sĩ đâu có giữ cho thân mình quá gò bó. Làm thế, sự hòa hợp giữa kiếm và người không còn nữa, phải vậy không tráng sĩ ?
- Dạ thưa phải.
Bà già lại cười, tiếng trong như thủy tinh:
- Ấy đấy ! Già này lại lộng ngôn rồi. Tráng sĩ tha lỗi, đáng lẽ ta chẳng nên bàn về cách sử kiếm là một môn ta chẳng biết gì cả ...
- Nhưng Miyamoto Musashi đã cúi đầu, hai tay nâng bát trà lên:
- Vãn bối xin thất lễ.
Vị trà đắng ngắt. Dù có lịch sự đến đâu, hắn cũng không thể cho là ngon được.
Không hiểu tại sao bao nhiêu người đua nhau ca tụng cái hương vị mà họ gọi là thanh lương ấy. Chắc trong cách pha trà, uống trà phải có những điều gì khác cao quý, hắn còn ít tuổi chưa tìm ra hoặc chưa biết thưởng thức, chứ nếu không, sao nó lại được coi như một triết lý sống và được nâng lên hàng trà đạo ? Hắn nghĩ đến Yagyu và Takuan, hai người trọng cách uống trà lắm. Takuan tán dương đức tính thâm trầm của nó, còn Yagyu thì dành những năm tàn của mình trong việc nghiên cứu trà đạo.
- Tráng sĩ dùng thêm chút nữa ?
- Đa tạ lão bá, xin đủ.
Miyamoto Musashi miên man nghĩ đến vị dật sĩ dùng kiếm cắt cành mấu đơn dạo nào và đột nhiên chú ý nhìn bát trà trước mặt, hắn ngạc nhiên và khích động đến cùng cực. Không biết lúc đó hắn có thốt ra tiếng kêu nào không ?
Cầm chiếc bát sành lên ngắm nghía, mắt hắn sáng rạng rỡ:
chiếc bát cân đối, màu men tươi, không tì vết, nét vẽ sắc sảo, giản dị mà không tầm thường. Dưới trôn bát, chú ý nhìn những vết bay gọn gàng, vững mạnh của người nghệ sĩ đã tạo ra nó, hắn như lại được nhìn thấy một lần nữa sự tinh vi, sắc bén khác thường của đường kiếm Yagyu.
Thật là sản phẩm của một vị kỳ nhân, hàm chứa niềm giao cảm huyền diệu giữa tâm linh và vật chất. Hắn không hiểu tại sao, chỉ cam thấy như vậy. Có lẽ trực giác của hắn bén nhậy hơn trực giác của những người khác chăng ? Miyamoto Musashi vuốt ve thành bát. Hắn muốn được tiếp xúc lâu hơn nữa với mỹ tác tuyệt kỹ này.
- Tiền bối ! Vãn bối không biết gì về cách uống trà và những đồ dùng để uống trà, nhưng đây là một chiếc bát hết sức tinh xảo. Ai làm ra nó hẳn phải là một nghệ sĩ siêu đẳng.
- Sao tráng sĩ lại nói thế ?
Lời Koetsu dịu dàng nhưng nghiêm trang. Ông nhìn chàng thanh niên, hình như trên mặt ông thoáng một chút kiêu hãnh.
- Vãn bối không giải thích được, chỉ nói ra điều mình cảm thấy.
- Tráng sĩ cảm thấy đích thực những gì ?
Musashi suy nghĩ một lát rồi nói:
- Vãn bối không thể nói rõ được. Nhìn những vết bay dưới trôn bát thì cảm thấy có một cái gì phi thường làm khích động vãn bối vô cùng.
- Hừ ...
Koetsu là một nghệ sĩ tài hoa, ai cũng biết. Ông lại nhã nhặn nữa nên ai cũng mến yêu. Nhưng dưới cái lớp vỏ nhã nhặn ấy, ông vẫn tự cho không mấy người hiểu được nghệ thuật của ông. Miyamoto Musashi này chắc gì hơn những người khác. Ông cắn môi:
- Những vết bay ấy thế nào ?
- Mạnh và sắc. Rất sắc.
- Có thế thôi ư ?
- Không ...Còn nữa, còn có một cái gì cao cả và táo bạo như muốn vươn lên, thoát ra ngoài khuôn sáo.
- Gì nữa ?
- Người làm nó có một kinh nghiệm và hiểu biết sâu xa về mỹ thuật nên đã đem sở học và tài thiên phú ra tạo nên chiếc bát, toàn thể đẹp thanh thoát như thế này. Trông thì giản dị mà thật ra rất cầu kỳ. Nhìn những vết bay quét ngược, vãn bối còn thấy người này kiêu ngạo, mục hạ vô nhân, có thể rất danh tiếng mà cũng có thể cô đơn lắm. Tiền bối mua bát này ở đâu hay có biết ai đã tạo ra nó chăng ?
Koetsu cười ha hả:
- Biết ! Tên người tạo ra nó là Koetsu. Nhưng lão phu chỉ làm đồ gốm để tiêu khiển những khi rảnh rỗi mà thôi.
Miyamoto Musashi nghe đồn nhà chuyên môn về kiếm học này nhiều tài năng, nhưng không ngờ môn gì ông cũng hơn người. Hắn hơi hối đã nói thẳng ra những điều hắn nghĩ, vì có vài ý xúc phạm. Hắn lúng túng:
- Vì tiền bối hỏi nên vãn bối thưa thực. Tiền bối tha lỗi nếu có điều gì chẳng lọt tai.
- Chà ! Chàng thanh niên này khách sáo quá ! Có gì mà không lọt tai ? Xem ra tráng sĩ cũng ưa đồ gốm lắm nhỉ ?
- Trước vẻ đẹp, ai mà không xúc động. Tuy nhiên, vãn bối chẳng biết gì mấy về đồ gốm.
- Dĩ nhiên rồi. Tạo nên một tác phẩm đắc ý, có khi phải dùng đến kinh nghiệm cả đời người. Làm sao mong tráng sĩ biết nhiều về kỹ thuật ấy được ? Nhưng tráng sĩ quả có khiếu thẩm mỹ, một sự hiểu biết về mỹ thuật thiên bẩm. Luyện kiếm đã giúp tráng sĩ phát triển khiếu này, có đúng không ?
Ông dừng lại, không nói thêm mà Miyamoto Musashi cũng không hỏi gì nữa.
Trời sắp chiều. Hai chiếc bánh nhỏ không đủ dằn bụng một thanh niên đang tuổi lớn. Thể chất và tinh thần hắn đều cần đến những thực phẩm bổ dưỡng hơn, tuy nhiên hôm nay dừng chân trên khu đất hoang dã này, hắn đã được dịp thưởng thức hương vị thanh đạm của một nếp sống xa lạ đối với hắn. Có lẽ hắn còn phải học hỏi nhiều ở Koetsu và mẹ ông. Miyamoto Musashi quay lại cáo từ hai vị chủ nhân:
- Bây giờ cũng đã muộn. Xin nhị vị cho vãn bối được kiếu. Vãn bối đa tạ lòng yêu mến của nhị vị và những lời chỉ bảo hai vị đã ban cho.
Bà lão nhìn Miyamoto Musashi trìu mến:
- Nếu có dịp nào tráng sĩ qua ngõ Honami, xin nhớ ghé thăm tệ xá.
- Phải đấy ! Koetsu tiếp. Chúng ta sẽ nói chuyện nhiều.
Ông thêm:
- Có nhiều thứ lão phu tin chắc tráng sĩ sẽ rất ưa thích.
Đi một quãng xa, Miyamoto Musashi còn quay lại nhìn hai người ngồi trên tấm vải.
Con đường gai góc hắn quyết theo chắc không bao giờ đưa đến cảnh giới bình yên như hai người đang sống.
Nét mặt đăm chiêu, hắn lặng lẽ đi trong đồng cỏ hoang như một chiếc bóng.




Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Bảy T2 03, 2007 11:25 pm
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ

QUYỂN 4 : Fu no Maki

CHƯƠNG 36
CÓ QUÁ NHIỀU KOJIRO






Trong quán rượu ven đô, mùi cá nướng nồng nặc bốc lên lẫn với mùi củi đun khét lẹt.
Quán rượu tồi tàn:
nền đất nện, mồ hóng với bụi lâu năm đóng lem nhem trên vách. Vài cái ghế đẩu đặt không hàng lối xung quanh một tấm ván mộc kê làm bàn trên đôi ngựa gỗ. Sát bếp, chiếc tủ cũ đựng đủ thứ linh tinh, nào đũa tre, bát sành, khay trà, chén ấm phần nhiều đã sứt mẻ, thô kệch.
Ngoài kia ráng chiều đỏ khé. Về phương đông, ngọn tháp chuông chùa Kiyomi đen sẫm nổi như cắt trên nền trời sáng rực tựa có đám cháy. Vài con quạ bay lượn quanh tháp:
những đốm đen nhỏ li ti như những tàn than gió thổi bốc cao trong bầu trời dữ dội.
Trong quán, hai gã đàn ông trung niên dáng khách thương ngồi uống rượu. Bốn gã khác xúm nhau đánh cò quay ở một góc. Cò quay là thanh gỗ có cái đinh đóng lên mặt tấm ván có viết chữ và vẽ những hình thô sơ. Chiếu bạc tuy nghèo nhưng cũng đủ làm khích động người chơi. Họ nói to, cãi nhau, vỗ đùi, đập tay cười ha hả.
Tít trong cùng, một du tăng cúi đầu ngồi yên lặng dường như không quan tâm gì đến việc chung quanh. Gần bếp là một bóng đen dựa lưng vào đống củi ngáy khò khò.
Bóng đen ngồi ngược sáng, lại bị đống củi khá lớn che khuất nên chẳng ai để ý.
Bỗng tiếng một khách thương gọi to, hách dịch:
- Quán ! Mang thêm rượu !
Sau tiếng “dạ” khan, tiếng chén hũ va chạm lách cách, chủ quán bước ra, hai tay bưng khay rượu. Chủ quán vừa lùn vừa mập. Giải khăn rằn ri vắt trên vai buông dài tới gối không làm cho gã trông cao hơn chút nào. Người ta vẫn thấy gã giống như quả dưa bở.
- Tối quá ! Sao không có đèn đóm gì cả thế này quán chủ ? Chẳng biết rượu đưa vào mồm hay vào mũi nữa.
Bọn đánh bạc cười ồ, quay ra phụ họa:
- Ờ phải đấy, tối quá rồi ! Đốt lửa lên chứ.
Lật đật đặt khay rượu lên bàn, chủ quán cơi lửa trong bếp cho bốc cao hơn rồi mang ra một đĩa đèn dầu thông đặt lên giá gỗ. Ngọn lửa vàng khè tỏa khói đen khét lẹt.
Gian quán ấm hơn. Câu chuyện bắt đầu râm ran vui vẻ. Hai gã khách thương nói chuyện làm ăn:
- Năm ngoái đi đòi nợ Yoshioka. Con mẹ nó, đã không lấy được đồng nào còn bị nắm cổ tống ra ngoài. Tổ cha quân khốn kiếp.
- Bác không tính kỹ. Ta ấy à, chỉ mất một lần, thấy không trả được thì thôi liền không bán chịu nữa.
- Ai biết đâu ! Tưởng võ đường bề thế như vậy, ngờ đâu toàn đồ ăn quỵt !
Rồi như sực nhớ ra điều gì, gã hạ thấp giọng:
- Này ! Nghe nói Seijuro chết rồi phải không ?
- Ủa vậy hả ? Sao bác biết ?
Gã chưa kịp đáp đã có tiếng cắt ngang:
- Đâu có ! Chưa chết !
Mọi người cùng quay lại nhìn về phía kẻ vừa nói, ai nấy đều tỏ ra khích động hết sức.
- Phải, chưa chết. Chính mắt ta trông thấy người ta khiêng hắn từ đồng Rendaiji về. Máu loang ra tận áo ngoài, hắn vẫn còn rên rỉ. Nghe đâu gãy tay, chắc tàn tật suốt đời rồi. Võ công thế là bị phế !
- Đáng kiếp ! - Gã khách thương nhổ đánh bẹt bãi nước bọt xuống đất - Nó ăn quỵt thì trời phạt nó !
- A di đà Phật ! Vị du tăng bỗng lên tiếng. Các vị đừng nói thế phải tội. Những việc xảy ra kiếp này đều là quả nghiệp kiếp trước. Có nhiều căn duyên lắm. Nếu chỉ vì ăn quỵt mà suốt đời tàn phế, chẳng hóa ra hình phạt của Trời Phật nặng quá ru ?
- Dù sao, như vậy cũng là rồi đời phái Yoshioka.
- Như bảng cáo yết nói thì hắn tỷ kiếm với Miyamoto Musashi. Bác biết Miyamoto Musashi là ai không ?
- Nghe đồn là một tay kiếm khách giang hồ còn trẻ mà công lực ghê gớm lắm.
Hắn đả bại Seijuro bằng một kiếm, cái mới làm cho Yoshioka thêm nhục.
Cả quán im lặng bùi ngùi. Tin ấy như gợi ở họ một chút tình thương xót. Họ đăm đăm nhìn lửa cháy, sau mới có người lên tiếng:
- Thế đồ đệ Seijuro tính sao ?
- Còn tính sao nữa. Phải trả thù chứ, mất mặt quá mà !
- Yoshioka còn ai nữa mà trả thù ?
Chủ quán từ trước vẫn dỏng tai nghe, đứng trong bếp nói vọng ra góp chuyện:
- Còn chứ ! Còn Denshichiro !
Đang uống rượu, khách bỗng ho sặc sụa phun cả rượu ra ngoài. Khách dằn mạnh chén lên bàn, cười hăng hắc:
- Con mẹ nó ! Denshichiro thì làm gì được ! Thằng đó ngỗ nghịch, rượu chè bê tha, vùng này ai còn lạ ! Nó chỉ dựa tiếng tổ phụ để lừa đảo vay mượn.
- Ấy thế mà là tay khá nhất đấy - Chủ quán đáp, giọng nghiêm trang - Hắn tuy là út nhưng có khí phách và võ nghệ lại còn cao hơn Seijuro, phải cái ham hưởng lạc quá!
Bóng đen bên đống củi ngồi đã lâu không động tĩnh, bỗng cựa mình. Bóng đen này vào quán từ chiều, ít nói, gọi rượu uống say túy lúy mà chủ quán không thắc mắc.
Gần đây thiếu gì những bậc kỳ nhân, cao thủ chán cảnh bon chen hoặc bị thất sủng, đi phiêu bạc giang hồ qua lại vùng này như cơm bữa. Gặp những người tính tình kỳ lạ, chủ quán cũng cho là thường. Vả cũng ngại, lỡ dây vào tay hung hãn thì chỉ thiệt thân, cho nên cùng lắm mới dám hỏi vài câu cần thiết.
Nhìn áo bóng đen sắp chạm vào lửa trong bếp, gã đến bên lay dậy:
- Khách quan ! Khách quan !
Bóng đen mở mắt đỏ ngầu nhìn. Gương mặt hốc hác, ánh lửa bập bùng soi hai má trũng sâu càng làm đôi gò má cao thêm. Bóng đen đáp buông sõng:
- Gì ?
- Khách quan ngồi tránh ra một chút. Lửa bén vào áo bây giờ !
Bóng đen vén áo, đổi cách ngồi. Dưới ánh lửa sáng, bây giờ mặt bóng đen trông rõ từng nét, phô ra một gương mặt còn trẻ, nhưng gầy và da mặt đen xạm. Nhìn kỹ thì là Matahachi, nhưng một Matahachi chán nản và bệ rạc vô cùng, trán hằn nhiều vết nhăn, mắt lờ đờ đục ngầu đờ đẫn vì rượu.
Chủ quán hơi giật mình, hỏi giọng lo lắng:
- Khách quan sao vậy ? Trong mình có được khỏe không ?
- Không. Ta không sao.
- Trông khách quan xanh quá.
- Đã bảo không sao mà ! Đem cho ta bình rượu nữa.
Nói xong, Matahachi gục đầu xuống ngực. Hắn thấy nóng, chẳng biết vì ngồi lâu gần lửa hay vì uống nhiều rượu. Bèn phanh áo ra nhưng vẫn không hết bực bội. Lòng hắn chán nản và buồn rầu không kể xiết.
Từ Osaka, nghe tin Miyamoto Musashi sẽ tỉ đấu với Seijuro, hắn lần mò tìm tới để xem cuộc đấu ra sao và cũng hy vọng gặp thằng bạn cũ. Nhưng đến nơi đã muộn. Trên đường đi, ở quán, điếm nào cũng thấy có người nói đến tin Seijuro bị thương hoặc chết và tài sử kiếm thần tốc của Miyamoto Musashi. Matahachi đã cạn tiền, lại thấy mình thua kém bạn quá sức, càng tỏ ra buồn phiền ganh tị. Lòng đố kỵ đưa đến sự căm ghét, hắn mong phái Yoshioka trả thù.
“Yoshioka đông người, toàn những tay cao thủ. Thằng Takezo kiêu ngạo quá, thế nào cũng có lúc bị hạ. Ai cũng cho nó là kiếm sĩ, nhưng kiếm sĩ thì làm cóc gì. Cốt là có tiền. Có tiền mới hơn người. Ta sẽ làm ra tiền bất cứ bằng cách gì. Nó với ta còn trẻ, con đường còn dài, ai biết sau này ai sẽ hơn ai !”. Nghĩ đến đây, Matahachi cảm thấy tinh thần phấn khởi hơn đôi chút. Nhưng sao miệng hắn khô và đắng quá. Hắn liếm môi:
- Khát quá !
Bèn đứng dậy vịn tay lên vách men ra chỗ để khạp nước múc uống ừng ực. Chiếc gáo tre run run trên tay, nước lạnh làm hắn dễ chịu. Nỗi buồn rầu dường như tiêu tan, hắn thấy trong người sảng khoái hơn, bèn đến bên cửa vén màn bước ra, chân vẫn còn loạng choạng.
Trong bếp, chủ quán đảo mắt nhìn quanh, ngạc nhiên không thấy khách. Nhìn ra ngoài, sương buông mờ mờ. Đằng xa, bóng một người chân nam đá chân chiêu, nghiêng ngả đi trong màn sương giữa những hàng cây âm u như ẩn như hiện.
- Khách quan ! Khách quan !
Không có tiếng trả lời. Bóng người cứ lầm lũi đi. Chủ quán chạy theo:
- Khách quan ! Khách quan chưa trả tiền !
- Hả ? Cái gì ?
- Khách quan quên ...
- Quên gì ? Chẳng quên gì hết !
- Khách quan quên chưa trả tiền rượu.
- Vậy hả ? Nhưng ta không có tiền !
- Không có tiền !
Chủ quán tức giận lập lại.
- Ừ. Không có ! Không có một đồng dính túi.
- Nói bậy ! Không được ! Không tiền sao dám vào quán ?
Chủ quán đổi giọng, nhảy tới nắm áo Matahachi. Nhưng hắn nhanh chân đã nhảy lùi lại mấy bước, thò tay lấy cái hộp đựng kim đơn trong bọc ném tới trước mặt người chủ quán. Hộp kim đơn này hắn đoạt được của người thanh niên lẹm cằm chết trên đồi Mokoyama ngày trước.
- Này giữ lấy ! Ta trả tiền rượu đó !
Không may, cái hộp đập trúng ngay vào mặt chủ quán. Gã ôm mặt kêu váng lên.
Mọi người chạy ùa ra bao quanh lấy Matahachi.
Cũng như phần đông các sâu rượu khác, thấy kẻ nào uống quỵt thì phẫn nộ làm như kẻ đó làm mất danh giá của giới lưu tinh, hai khách thương cũng xông ra hoa tay múa chân chửi rủa rầm rĩ.
Matahachi sợ hãi tỉnh rượu nhưng vẫn làm ra vẻ anh hùng, hắn để tay vào đốc kiếm hét lớn:
- Chúng mày biết ta là ai không ?
Có tiếng cười gằn, chửi thề:
- Là đồ ăn quỵt chứ còn ai nữa !
- Ta là Kojiro, thuộc kiếm phái Chujo, đồng đạo với Ito, học trò Kanemaki Jisai.
Matahachi nêu một hơi những danh tính hắn cho là lừng lẫy võ lâm, hy vọng làm bọn kia phải sợ hãi mà tháo lui. Không ngờ chỉ nghe tiếng cười và chế giễu đáp lại:
- Đó là những tên chó nào, chúng ta không cần biết. Anh em ! Xông vào bắt lấy nó!
Một kẻ nhảy đến định ôm Matahachi. Hắn rút gươm đánh soạt, thuận tay chém một nhát. Lưỡi gươm hớt qua tay kẻ kia, máu tuôn xối xả. Gã bèn lùi lại kêu ầm ĩ:
- Trời ơi ! Nó chặt cụt tay ta rồi !
Nghe tiếng kêu, trông máu chảy, cả bọn sợ hãi tưởng đâu chính máu mình tuôn ra.
Không ai bảo ai, tất cả cùng tản ra xa đến hàng trượng.
Matahachi được thể vác gươm xông tới, đâm dứ người này một chiêu, chém giả kẻ kia một nhát. Cả bọn hè nhau chạy như vịt.
- Ha ha ! Chúng mày tưởng ta không phải Kojiro chăng ? Kojiro là ta đây ! Vô địch ! Vô địch !
Hắn vung kiếm veo véo, chém dọc phạt ngang, đắc ý như chưa bao giờ được thế, rồi ngửa mặt nhìn trời cười khanh khách, răng trắng bóng dưới ánh sao. Đột nhiên lòng hắn buồn rười rượi, miệng cười mà hai hàng lệ chứa chan. Hắn vụng về tra kiếm vào vỏ, loạng choạng bước.
Dưới đất, chiếc hộp sơn then nằm trơ trọi. Miếng xà cừ cẩn trên nắp hộp phản chiếu ánh sao, lóe sáng như con đom đóm.
Tò mò, lão du tăng nhặt cái hộp lên. Lão ngạc nhiên, tay mân mê chiếc hộp sơn then rồi trở ngược lại quán, ghé vào chỗ ánh sáng gần cửa, quan sát kỹ.
- Hừ ! Hộp này là hộp đựng kim đơn của sư huynh ta đây mà. Triện son đóng dưới đáy còn rõ. Nhưng ông chết rồi, sao cái hộp lại ở đây ?
Bèn chạy theo Matahachi:
- Kojiro ! Kojiro !
Matahachi vẫn thản nhiên đi. Trong cơn chán nản, hắn chẳng nhớ tên mình đã mạo nhận là gì nữa. Cho đến khi lão tăng ở đằng sau kéo áo hắn mới sực tỉnh:
- Đại sư muốn gì ?
- Ngươi có phải là Kojiro không ?
Giọng vị tăng nghiêm nghị khiến Matahachi chột dạ:
- Phải. Ta là Kojiro.
- Ta muốn hỏi một câu, ngươi phải nói thật.
- ...
- Ngươi lấy hộp kim đơn này ở đâu ?
- Hộp kim đơn nào ?
Matahachi làm bộ lơ đãng.
- Hộp này.
Vừa nói, lão tăng vừa giơ chiếc hộp sơn then cẩn xà cừ ra trước mặt, tay kia nắm chắc cây thiền trượng. Chiếc nón nan hất ngược về phía sau, gương mặt lão dưới ánh sao tuy trông không rõ nhưng rắn rỏi, gương mặt của một tráng niên chứ không phải của một người tu hành đã có tuổi.
Matahachi giật mình:
- Ngươi là ai ?
- Không cần nói tên ... Hãy trả lời câu ta hỏi:
Hộp này ngươi lấy ở đâu ?
- Không ở đâu cả. Ta vẫn mang trong mình từ trước.
- Nói láo ! Ngươi không thú nhận hả ?
Matahachi ra vẻ ngây thơ:
- Thú nhận cái gì ?
- Ngươi không phải là Kojiro !
Câu nói vừa dứt, cây thiền trượng đã vụt đánh véo một cái. Tránh không kịp, Matahachi bị trượng đập trúng, ngã lăn quay. May không trọng thương, hắn bật dậy cắm đầu chạy.
Du tăng đuổi, nhặt gậy phóng theo. Chiếc thiền trượng lướt qua tai hắn rớt xuống đất. Matahachi kinh hãi, gia tăng cước lực. Hắn cứ chạy như thế, chạy thục mạng, chẳng biết phương hướng trời đất gì nữa. Đằng sau, nhà sư đuổi theo phóng gậy liên tiếp. Theo những ngõ hẻm ngoằn ngoèo, may mắn hắn mấy lần tránh được chiếc gậy phóng tới.
Đến một chỗ cỏ rậm cao, nhà cửa thưa thớt, quay lại nhìn không thấy ai, hắn mới liều ngồi xuống thở dốc. Matahachi bị một phen vừa mệt vừa sợ. “Ghê quá ! Cây trượng thật lợi hại. May nhờ mấy cái hẻm mình mới tránh được. Chẳng biết tên hòa thượng giả đó là ai, có thù gì với mình. Thời buổi này, quả không còn biết tin ai nữa !”.
Matahachi khát quá. Bả vai đau, hắn đưa tay nắn, không thấy có triệu chứng gì gãy xương, chỉ ê ẩm, chắc bầm bắp thịt vai thôi. Mừng thầm, hắn đi sâu vào trong ngõ, chú ý tìm nước. Gặp cái giếng lộ thiên, thành xây đá ong cao tới bụng, lại sẵn gầu để gần, hắn thả gầu xuống múc nước uống một hơi rồi lấy nước vã vào mặt.
Mồ hôi nhễ nhại, nước lạnh làm hắn rùng mình khoan khoái. Đã khát, Matahachi ngồi nghỉ, dựa lưng ngay vào thành giếng. Nhìn lên trời, sao thưa lấm tấm. Sương chiều tan từ bao giờ. Mảnh trăng thượng tuần nhô lên khỏi đầu hồi căn nhà gỗ, chiếu ánh sáng mờ đục trên mái ra. tồi tàn vào những khung cửa sổ nhỏ xíu dán giấy.
Đám mây đen kéo qua mặt trăng trông như hình người, rìa đám mây vàng úa. Matahachi mường tượng nhìn thấy bộ mặt hấp hối của người thanh niên lẹm cằm, đôi mắt lạc thần, cái miệng méo xệch trông thật ghê sợ và dòng nước rãi lẫn máu trào ra bên khóe mép. Hắn lấy tay dụi mắt, lắc lắc đầu như để xua đuổi hình ảnh thương tâm vừa hiện ra. Hắn hối hận đã tiêu hết cả số tiền của người chết, nhưng tự hứa khi nào thành công sẽ hoàn lại đủ số cho gia đình kẻ bất hạnh và sẽ dựng cho y một bia mộ bằng đá nữa.
Liên tưởng đến tờ chứng thư đề tên Kojiro, hắn đưa tay vào bọc tìm cuộn giấy dầu, thấy nó vẫn còn ở nguyên đó thì yên dạ. Dù sao, tờ chứng thư và cái tên giả cũng đã giúp hắn rất nhiều. Mấy tháng gần đây, hắn thường lang thang đến các nhà giàu xứ quê, trưng tấm chứng thư ra hoặc dùng cái tên Kojiro bịp những anh ngốc nghếch muốn học võ để kiếm bữa ăn và chỗ ngủ qua ngày.
“Tấm giấy này thế mà đắc dụng đáo để !”. Hắn tự nhủ, “Tội gì mà bỏ !”. Matahachi nhìn những căn nhà tồi tàn trong xóm. Dân khu này nghèo quá, nhà cửa xập xệ, đổ nát, mái ra. lồi lõm chắc đã lâu không được lợp lại, chẳng biết có đủ che mưa che nắng không. “Nhưng họ cũng còn hơn ta, ít nhất họ cũng có một chỗ trú !”. Hắn nghĩ vậy.
Qua khung cửa sổ, một gia đình đang ngồi ăn cơm. Hai vợ chồng, mấy đứa con cùng bà mẹ già quây quần xung quanh cái liễn sành độc nhất đựng món ăn trong ngày !
Người nghèo hình như lại càng thương nhau hơn, hắn nhận thấy vậy. Nghĩ đến mẹ già hắn đã giận dữ bỏ lại một mình trong cái quán nhỏ bên bờ biển vào một chiều lộng gió, hai hàng nước mắt hắn lại chực tuôn rơi. Hắn thế mà nhiều tình cảm lắm. Bà cụ nóng tính nhưng thương hắn vô cùng. Hắn còn kém cả những người nghèo kia, tuy nghèo mà vẫn nặng tình người và vẫn còn được xum họp. Bất giác, hắn đưa tay lên chùi nước mắt !
Matahachi nhớ lại lời mẹ dặn, những khi buồn rầu hay thất vọng hãy đến cầu đức Phật Bà Quan Âm, ngài sẽ phù hộ cho qua cơn đau khổ. Mẹ hắn thường lui tới cửa Phật. Tối nay chẳng biết ngủ nhà ai, hay là hắn cũng đi tìm một ngôi chùa nào đó để tá túc, nhân thể lễ Phật cầu xin và biết đâu lại gặp được mẹ.
Men theo những ngõ tối trong xóm, Matahachi bị hai ba con chó đói theo sau gầm gừ, thỉnh thoảng sủa những tiếng vu vơ. Quen với sự xua đuổi, hắn cũng chẳng thèm để ý, cứ mặc kệ.
Hết ngõ hẻm, ra chỗ thoáng, đến ven một cái miễu nhỏ với nhiều lùm cây rậm rạp, âm u, đen sẫm, lại có đàn chó nữa vây quanh một gốc cây lớn.
Sao nhiều chó thế. Chúng chạy lui chạy tới, sủa ẩm ĩ. Con thì quào chân trước vào thân cây định trèo, con tung mình nhẩy lên. Mấy con chó theo hắn cũng bỏ đi nhập bọn với lũ chó dưới gốc cây, thi nhau sủa, hú vang động cả một vùng.
Tò mò, Matahachi đến gần nhìn lên. Trên cây dường có người mà hình như là một thiếu nữ. Hắn nhặt hòn đá ném đàn chó. Chúng cúp đuôi chạy tản ra xa, nhưng vẫn quay đầu lại sủa. Chẳng bao lâu lại trở lại xúm quanh Matahachi, sủa còn dữ dội hơn trước. Matahachi nhặt đá ném lia lịa. Chẳng ăn thua gì. Đàn chó đuôi cúp vào bụng, nhe nanh gầm gừ. Matahachi trông rõ lông chúng dựng đứng, thân hình gầy guộc, xương sườn phô ra từng rẻ như sóng gợn.
Nghe nói tụi chó đói này khó đuổi lắm. Muốn trị chúng, phải bắt chước chúng đi bốn chân và sủa như chúng. Matahachi bèn quỳ xuống thử hành ngay ý định, nhưng cũng không kết quả. Tiếng sủa của hắn lạc lõng chẳng giống tiếng sủa của lũ chó thật kia chút nào. Một lúc, hắn bỗng thấy mình khôi hài và trơ trẽn. Mình làm cái gì thế này ? Ít ra cũng là một kiếm sĩ mang song kiếm, sao lại quỳ mà hú như chó ? Thiếu nữ trên cây nhìn xuống còn coi mình ra gì nữa ? Bèn vùng dậy, rút trường kiếm phóng một chiêu vào con chó gần nhất. Chiêu kiếm trượt. Chó vụt chạy. Lại phóng chiêu nữa vào con chó thứ hai. Lần này trúng, con chó ngã lăn ra, kêu oẳng một tiếng, giãy đành đạch. Những tiếng thở hằng hặc, rồi khò khè của con vật sắp chết làm đồng loại nó sợ hãi chạy xa nhưng vẫn không ngớt sủa.
Matahachi dậm chân đuổi xong con này đến con khác, một lúc sau chúng mới tản hết. Quay lại gốc cây nhìn lên, Matahachi vẫn thấy thấp thoáng còn bóng người.
- Ai ở trên đó, xuống được rồi đấy !
Không nghe đáp. Chỉ thấy tiếng nhạc khánh mơ hồ kêu lanh canh như giọt nước rơi vào vại sành.
- Ồ, ai như Akemi ! Phải Akemi không ?
- Ai đấy ?
- Matahachi. Nàng không nhận được tiếng ta sao ?
- Ồ, Matahachi. Thúc thúc đi đâu thế ?
- Nàng làm gì trên ấy. Sợ chó hả.
- Không !
- Vậy xuống đi.
Ở trên cây, Akemi đưa mắt nhìn bốn phía. Trăng suông mờ mờ. Cây cỏ chỗ nào cũng như phủ đầy sương khói, nhưng trong những bụi rậm ở ven đường dẫn đến miếu, giá có ai ẩn nấp thật khó mà biết.
- Thúc thúc đi đi. Đừng đứng đấy, nó thấy. Nó đang tìm tiểu nữ.
- Nó là ai ?
- Một người thúc thúc không biết đâu. Năm ngoái nó giúp tiểu nữ nhưng tiểu nữ không ngờ nó làm thế chỉ để lợi dụng. Nó hành hạ tiểu nữ đủ điều. Không chịu nổi tiểu nữ phải trốn đi.
- Ai ? Toji hả ?
- Không phải. Người đó thì tiểu nữ chả sợ. Ối ! Kìa, nó đã tới kia kìa ...Chạy đị..Thúc thúc chạy đi ...Nó thấy thì khốn.
Akemi rối rít, luống cuống. Từ trên cây tiếng nhạc khánh vang xuống nhanh và rõ mồn một:
lanh canh, lanh canh ...rồi bỗng ngưng hẳn. Có lẽ nàng đã tìm cách buộc chặt chùm khánh nhỏ vào tay áo.
- Đừng sợ ! Sao phải chạy ? Ta không bảo vệ được nàng ư ?
Vừa khi ấy, một bóng đen hiện ra trên đường hẻm. Matahachi mặc kệ Akemi trên cây, xốc kiếm xăm xăm đi tới.
- Ai ?
Tiếng hét đồng thanh cùng thoát ra một lúc trên cửa miệng hai người. Bóng đen vừa tới nhìn lưỡi kiếm tuốt trần còn dính máu trên tay Matahachi, hỏi lớn:
- Ngươi là ai ? Muốn gì ?
Matahachi lặng thinh. Lúc nãy, nghe giọng nói cuống quýt của Akemi hắn có đôi chút e ngại, nhưng bây giờ nhìn kỹ bóng đen mới đến, hắn thấy không có gì đáng sợ.
Bóng đen cao lớn thật nhưng dáng điệu không hiên ngang, quần áo sặc sỡ như con nít, chắc chẳng tài cán gì. Nhà sư vừa rồi còn làm hắn hoảng chứ với tên thiếu niên này hắn đâu ngán ! Bèn lấy bộ mặt khinh mạn, cười khẩy mà không đáp.
Bóng đen quát hỏi lại:
- Ngươi là ai ?
Matahachi cười trêu cợt:
- Ta ấy à ? Ta là người.
- Ha ! Là người ! Một tên vô danh. Được lắm, nếu danh tính ngươi xấu xa, nói ra phải hổ thẹn ...
- Đừng láo ! Ta không muốn nói chỉ vì chẳng muốn xưng danh với đứa tiểu tốt.
- Này, hãy giữ mồm miệng, đừng để ta nổi giận. Bây giờ thì chờ đấy, ta đến chỗ kia kéo con bé trên cây xuống đã.
- Ha ha ha ...Matahachi cười khanh khách - Ngươi tưởng dễ lắm sao ? Ta là dượng nó, động đến nó ta băm nát thịt.
Bóng đen nhìn Matahachi từ đầu đến chân, gằn giọng:
- Hừ ! Ra thế đấy ! Nhà ngươi muốn chơi trò hiệp sĩ ? Nhưng này, ta bảo thật:
cây sào phơi trên lưng ta đây đã lâu chưa được uống máu ai. Nó khát lắm đó. Mà ta cũng cần thử xem nó còn sắc không. Bấy giờ thì cẩn thận, ngươi chạy không kịp đâu !
Matahachi nghe mà không lường được tầm nghiêm trọng của câu nói. Hắn không ngờ bóng đen đứng trước mặt hắn tuy nhỏ tuổi nhưng là một kỳ tài trong võ lâm, kiếm thuật tinh vi và thần tốc đến độ chỉ một cái vẫy tay nhẹ, chưa đầy nháy mắt, đã có thể chém bay đầu hắn lăn lông lốc. Vì không ngờ nên hắn vẫn lên giọng kẻ cả:
- Khoan ! Chú bé hãy nghĩ kỹ. Bây giờ còn kịp, tạ lỗi đi, ta sẽ cho chạy thoát.
Chậm chút nữa đừng trách ta tàn nhẫn.
Bóng đen mở tròn mắt ngạc nhiên. Không biết tên này là ai mà có thái độ mục hạ vô nhân ngu xuẩn đến thế. Nhưng thấy trò chơi hay hay, tính trẻ nít nổi dậy, hắn chỉ buồn cười không giận. Lại cũng tò mò muốn trêu chọc địch thủ, bèn đổi giọng lễ phép:
- Cám ơn các hạ. Nhưng biết tạ lỗi ai, ít ra các hạ cũng phải cho tại hạ biết quý danh tính là gì chứ ? Đó là lề luật võ lâm, chắc các hạ rõ.
- Cũng được. Nhưng ta nói tên, ngươi chớ có giật mình.
Bóng đen cười như nắc nẻ:
- Dĩ nhiên, dĩ nhiên ! Nhân thể các hạ cũng nên cho biết thuộc môn phái nào ?
Kiếm sĩ mà lắm mồm như tên này chắc chẳng đáng sợ. Matahachi càng đánh giá địch thủ thấp hơn nữa.
- Ta theo Chujo kiếm pháp.
Bóng đen sửng sốt:
- Chujo kiếm có chiêu thức gì đặc biệt ?
- Tất nhiên phải có. Như chiêu Mãn Thiên Hoa Vũ và Trảm Nhạn Kiếm chẳng hạn.
- A !
Thấy bóng đen thốt kêu có vẻ ngạc nhiên, Matahachi cho là mình đã áp đảo được tinh thần địch thủ. Bèn hỏi ngược lại:
- Còn ngươi ? Theo môn phái nào ?
- Khoan ! Những thế kiếm vừa rồi như Hoa Vũ và Trảm Nhạn ngươi được ai truyền thụ ?
- Sư phụ ta chứ còn ai nữa.
- Tôn sư tên gì ?
- Kanemaki Jisai ! Toda Seigen Kanemaki Jisai.
Bóng đen tỏ ra phân vân cực độ:
- Thế ngươi có biết Ito Yagoro không ?
- Dĩ nhiên là biết. Ito là sư huynh ta, tuy đồng môn nhưng thuộc hàng tiền bối vì niên kỷ y cao hơn ta nhiều. Sao ngươi hỏi thế ?
Bóng đen lờ đi như không nghe tiếng. Gã nghiêm giọng:
- Vậy tên ngươi là gì ?
- Kojiro.
- Là gì ?
Matahachi vênh mặt:
- Thằng này điếc. Ta là Kojiro !
Bóng đen trừng trừng nhìn Matahachi.
- Tại sao ngươi nhìn ta như vậy ? Ngạc nhiên lắm chăng ?
- Có lẽ.
- Vậy cút đi cho rồi, đứng đấy làm gì nữa ?
Bóng đen vẫn không rời mắt khỏi Matahachi. Bỗng gã phá lên cười, tiếng cười thoải mái nhưng đầy vẻ chế giễu. Gã đã hiểu.
- Này các hạ, từ khi bôn tẩu giang hồ đến nay, chưa bao giờ ta được chứng kiến một chuyện quái gở như chuyện này ! Ha ...ha ...ha ... ! Thật là hãn hữu. Bây giờ ta biết tên các hạ rồi, vậy bằng hữu hãy đoán tên ta là gì ?
Matahachi chột dạ. Nhưng hắn vẫn tin Kojiro thật chết rồi, gã lẹm cằm rỗ mặt có bản chứng thư hắn còn giữ trong bọc đây, không thể nào là tên này được. Hắn nói cứng:
- Ai biết tên ngươi là gì ? Ngươi định nhạo ta chăng ?
- Không. Ta hỏi đứng đắn. Tên ta là gì ?
- ...
- Nếu ngươi không biết, ta sẽ nói cho biết. Tên ta cũng là Sasaki Kojiro, ngoại hiệu Ganryu.
Nói xong hắn cười ha hả. Matahachi mồ hôi vã đầy trán.
- Ha ha ! Ta với ngươi thế là cùng danh tính. Vậy hãy kết làm bằng hữu.
Rồi tiến đến bên Matahachi, giơ tay vỗ vai hắn. Nhưng Matahachi nhảy vội ra xa, vung gươm chém xuống.
“Vù !”. Lưỡi gươm của Matahachi bị cước của Kojiro đá bắn tung và trong tay gã ỡ cây sào phơi ữ đã được rút ra từ bao giờ, hàn quang lấp lánh.
Kojiro cười gằn:
- Ngươi mà chạy là mất mạng !
Tiếng gã sắc như dao, nhọn như kiếm xoáy vào tai Matahachi. Mồ hô Matahachi thấm ướt áo trong, toàn thân hắn run lẩy bẩy. “Xoẹt” ! Cây trường kiếm tựa con rắn bạc phóng tới bay qua đầu hắn. Hắn cảm thấy đau nhói sau lưng, đồng thời một sức mạnh vô hình đẩy hắn bắn đi, rơi xuống như chiếc lá gió thổi bay lúc trời giông bão.
Hắn lăn ra đất bất tỉnh.
Thanh trường kiếm của Kojiro đã được tra vào vỏ.
Đến dưới gốc cây lớn, Kojiro nhìn lên. Chẳng có ai. Akemi lại một lần nữa vuột khỏi tay gã.
Xa xa, tiếng chó tru vọng lại dưới ánh trăng suông.
Kojiro đi sâu vào trong miếu. Tàng cây ẩm ướt, âm u dưới ánh trăng khuya, sương mờ đục khiến miễu có không khí rờn rợn như trong truyện liêu trai.
Tìm mãi không thấy Akemi, Kojiro trèo lên cây thông cao, ngồi dựa lưng vào thân cây, đảo mắt nhìn tứ phía. Gió đêm thổi nhẹ rì rào đưa hắn vào giấc mộng. Thế là con chim non tưởng như đã nhốt được trong lồng, giờ đây bay mất. Kojiro nhớ lại những giờ khắc êm đềm bên cô bé. Nàng đa cảm và đam mê, nhưng cũng bướng bỉnh làm sao ! Đôi mắt ngây thơ che giấu những ý nghĩ phức tạp gì, hắn không rõ, nhưng quả đã huyễn hoặc hắn, làm hắn như ngây như dại. Hắn dâng cả tình yêu nồng nàn nhất của tuổi trẻ cho cô bé. Vậy mà trời ơi, sao nàng không hiểu ? Hay trong cơn say mê, có lẽ hắn đã quá thô bạo, có những hành động khiến con chim non ấy phải sợ hãi chăng ? Nhưng biết làm sao khác ? Bản tính hắn thế. Ngay từ khi hãy còn là môn sinh của Jisai, Kojiro đã tỏ ra là một thiếu niên tàn nhẫn, lì lợm.
Lúc giao đấu, hắn chỉ cần thủ thắng, không quan tâm gì đến phương cách mà hắn chẳng phân biệt thế nào là phải, trái nữa, cho nên nhiều lần đã dùng những thủ thuật đê hèn mà không biết.
Một bữa kia, bấy giờ hắn mới nhập môn, vì có thái độ khinh bạc nên bị bạn đồng môn lớn tuổi ghét, xúm lại đánh cho một trận thừa sống thiếu chết bên bìa rừng. Một người trong bọn thương tình cứu tỉnh, đem về rịt thuốc cho, nhưng hắn đã thừa cơ đoạt gươm của người ấy, xuất kỳ bất ý giết chết ân nhân tại đương trường không hối hận.
Chuyện đó tới tai tôn sư. Ông không nói nhưng cũng không đuổi Kojiro đi, vì tiếc một môn sinh có tài. Hơn nữa, lại có chủ ý coi sự lì lợm của Kojiro là đức tính kiên trì cần thiết cho người học kiếm. Bọn đồng môn cũng dần lảng tránh, không ai muốn tranh thắng với Kojiro làm gì vì thắng hắn là tự chuốc lấy thù hận cả đời.
Chẳng biết rồi đức tính kiên trì ấy đi đôi với bản năng tàn ác, ưa áp chế của Kojiro sẽ đưa hắn tới danh vọng, chức vị gì trong võ lâm, nhưng ở tình trường, hắn thất bại. Không tiếp xúc nhiều với nữ phái, hắn thiếu kinh nghiệm nên vẫn chưa hiểu tại sao Akemi không ưa hắn.
Ngồi trên cây, mãi suy nghĩ miên man, Kojiro không để ý đến một bóng đen đang đi tới miễu.
Nhìn xác người nằm sóng soài trên cỏ, bóng đen tiến lại gần lật lên. “A ! Thằng uống rượu quỵt đây mà ! Sao nó lại nằm đây ?”. Thì ra gã du tăng đuổi theo Matahachi khi nãy.
Nghe tiếng kêu, Kojiro bừng tỉnh. Hắn đưa mắt nhìn xuống nhưng vẫn giữ im lặng. Du tăng vạch áo Matahachi ra xem và lẩm bẩm:
“Không sao ! Thân thể còn nóng, chắc mới bị điểm huyệt”. Bèn liên tiếp phóng chỉ, giải những huyệt đạo khả nghi bị bế tắc. Quả nhiên lát sau, Matahachi đã cựa quậy được, miệng ú ớ.
Du tăng vực Matahachi lên vai, đem đặt dưới gốc cây, đá cho một cước rồi lại bồi thêm nhát gậy để nạn nhân mau tỉnh. Đức Phật bao dung ngài trông thấy cảnh ấy chắc cũng không bằng lòng về cách hành xử của người đệ tử.
- Đứng dậy !
Matahachi lờ đờ mở mắt, ngơ ngác nhìn không biết đang ở âm ty hay dương thế.
Nhà sư rút trong bọc ra sợi dây lòi tói, bẻ quặt hai tay gã về phía sau thân cây buộc chặt lại, rồi như một phán quan lên án tội nhân, y chống nạnh đứng trước mặt gã, nghiêm khắc hỏi:
- Hà, thằng này ! Nhận ra ta là ai không ? Ngươi làm ta đuổi theo hụt hơi.
Matahachi lặng thinh, nét mặt đờ đẫn.
Nhà sư nắm tóc gã, đập đầu vào gây nghe cộp cộp.
- Ngươi lấy hộp kim đơn ấy ở đâu ? Khai thật, không ta giết chết !
Matahachi không nói, chỉ lặng lẽ cúi đầu. Hình như gã vẫn chưa ý thức được rõ ràng cảnh huống gã đương phải chịu.
- À, thằng này gan ! Này gan !
Nhà sư đưa hai ngón tay thọc vào mũi Matahachi cấu mạnh. Gã thét lên một tiếng đau đớn, nước mắt ràn rụa. Nhìn gã thở hổn hển, nhà sư mới buông tay. Dưới ánh trăng, hai dòng nước đen ở mũi trào ra rỏ giọt xuống ngực áo. Matahachi liếm môi cảm thấy mằn mặn.
- Có nói không ?
- Dạ dạ ...Xin đại sư nhẹ tay, tiểu nhân xin nói ...Giọng Matahachi lạc đi, lắp bắp. Số là ...số là ...mùa hè năm ngoái khi tiểu nhân còn làm phu vác đá ở công trường Mokoyama ...
Và gã đem chuyện gặp tráng sĩ mặt rỗ kể lại, lúc tráng sĩ ấy bị ném chết ra sao, trước khi chết gã lấy túi tiền thế nào, nhất nhất tường thuật đầy đủ.
- Trong túi tiền còn có hộp kim đơn và một chứng thư ...
- Bản chứng thư ấy bây giờ ở đâu ?
- Dạ, ở áo tiểu nhân.
Lão tăng thò tay vào bọc Matahachi, lôi cuộn giấy dầu mở ra. Trăng mờ không để lão trông rõ nét chữ nhưng dấu triện son lớn đúng là triện của Chujo kiếm phái kèm theo thủ bút của Toda Seigen Kanemaki Jisai.
- Tiểu nhân thật đắc tội. Vậy xin hoàn lại bản chứng thư, còn tiền thì phần đã trót tiêu hết, phần bị lừa, không có ngay được, xin đại sư cho khất, tiểu nhân sẽ trả sau.
- Những điều ngươi nói có thật không ?
- Dạ, tiểu nhân đâu dám nói dối.
Trút hết những điều u uẩn giữ trong lòng bấy lâu nay, Matahachi cảm thấy nhẹ nhàng như người có vết thương nung mủ vừa mới vỡ. Gã khoan khoái cho là đã thoát nạn, hay ít ra cũng tưởng thế.
Lão tăng yên lặng, nét mặt tư lự. Lát sau mới lên tiếng:
- Nhà ngươi tên gì ?
- Dạ, Matahachi.
Đột nhiên nghe soạt một tiếng, ánh bạc lóe lên, nhà sư đã lăm lăm cây đoản kiếm.
- Đại ...đại sư làm gì thế ? Định giết tiểu nhân chăng ?
Du tăng thong thả gật đầu:
- Phải ! Ngươi phải chết.
- Tiểu nhân đã nói hết sự thật và hoàn lại bản chứng thư. Đại sư không tin sao ?
Du tăng điềm tĩnh:
- Tin ! Nhưng ta ở vào cái thế khó xử. Kusanagi Tenki là huynh trưởng ta. Tenki là danh tính của tráng sĩ rỗ mặt ngươi đã gặp. Còn ta tên Ichinimiya Gempachi, tuy mặc tăng bào nhưng ta chính là một kiếm sĩ được ủy thác cho đi điều tra về cái chết của Tenki.
Matahachi cuống quýt lo sợ. Gã van lạy:
- Đại sư ...à ...à ...đại hiệp ! Xin đại hiệp tha mạng. Tiểu nhân biết đã làm bậy, nhưng quả thật không giết Tenki, chỉ đoạt số tiền và mạo danh để kiếm sống. Đại sư ...
đại hiệp cởi trói cho, tiểu nhân xin làm giấy cam kết ...
Gempachi thở dài. Hình như y cũng có đôi phần xúc động và phân vân, nhưng nghĩ một lúc y vẫn lắc đầu:
- Ta chẳng quan tâm đền tiền bạc và cũng rất tiếc phải giết ngươi. Trước khi gặp ngươi, ta đã đến lâu đài Fushimi dò la tin tức, quả đúng như lời ngươi nói, huynh trưởng ta bị ném đá chết.
- Dạ, đúng như vậy.
- Nhưng gia đình ông không tin như thế đâu ! Tenki là một kiếm sĩ kinh nghiệm, tài ba vào bậc thượng thừa, sao lại có thể chết về tay những người thợ tầm thường được ?
Ông chết không chiến đấu thì còn ra thể thống gì nữa ?
- Dạ dạ. Xin đại hiệp xét kỹ, tiểu nhân không giết Tenki.
Gempachi mỉm cười:
- Ngươi không giết nhưng Kojiro giết. Ta mang cái đầu ngươi và bản chứng thư này về để làm tin ...
Matahachi sợ run người. Gã thều thào:
- Tiểu nhân tên là Matahachi, không phải Kojiro !
- Ngươi phải giúp ta. Vả chăng ngươi sống cũng bằng vô dụng mà thôi. Uống rượu đã không có tiền trả thì lấy đâu mà tự chu cấp trong cái xã hội nghiệt ngã này được. Ta cho ngươi nằm xuống nghỉ ngơi để khỏi chết vì đói khát. Rồi ta sẽ gửi tiền về giúp đỡ cha mẹ ngươi trong việc ma chay, hơn nữa còn dựng cho ngươi cái bia mộ bằng đá ...
Matahachi nghe không chịu nổi. Gã tức giận rống lên:
- Đại ... đại hiệp ... Ta không cần tiền ! Không muốn chết ! Thả ta ra ! Ai cứu ta với!....Cứu ta ... t ... a ... a ...
Tiếng kêu của gã vang xa trong đêm tịch mịch cùng với tiếng chó tru ở bìa rừng dội lại. Gempachi cười hăng hắc:
- A di đà Phật ! Muốn hay không, ta cũng sẽ cho ngươi tiêu diêu miền lạc cảnh.
Hãy cứ coi đây như là chuyện được, mất ở đời !
Nói đoạn, y lùi ba bước, thanh đoản kiếm nắm chắc trong tay sẵn sàng đâm tới.
- Khoan !
Tiếng thét đột nhiên, sắc và cực mạnh từ trên cao vọng xuống làm Gempachi khựng lại.
- Ai ?
- Kojiro !
Gempachi nhảy vội ra xa rút trường kiếm:
- Kojiro ! Lại Kojiro nữa ! Ngươi có giả mạo không đấy ?
Tiếng cười khanh khách vang lên, nửa đứng đắn nửa giễu cợt:
- Không ! Ta chính là Kojiro thật ! Gempachi, ngươi định chặt ta ra làm hai đoạn chăng ?
- Đúng ! Nếu ngươi là tên giả mạo thì hãy coi chừng lưỡi gươm của ta !
- Hay lắm ! Nhưng ngươi sẽ không phân biệt được chân giả đâu. Vì khi “cây sào phơi” này ra chiêu, ngươi đâu còn ở dương thế !
Nghe nói đến “cây sào phơi”, Gempachi chột dạ:
- Nếu đúng là Kojiro thì ngươi làm gì trên đó ?
- Chuyện còn dài, sẽ nói sau !
Vừa dứt lời, một bóng đen đã phi thân như chớp xẹt, đáp xuống gần chỗ Gempachi đứng, êm như lá rụng, kéo theo cành khô và lá thông rơi lả tả.
Lại một lần nữa Kojiro xuất hiện bất ngờ làm Matahachi co rúm người lại vì sợ hãi. Gã rủa thầm số mệnh khốn kiếp, run rủi gã gặp cả hai tên này một lúc thì thoát làm sao được !
Gã lầm rầm khấn đức Phật Bà Quan Âm phù hộ, mong mẹ đến cứu. Trong lúc vô tình, tay gã cựa quậy, nhưng chỉ thấy sợi dây lòi tói quá chặt cứa vào da thịt đau rát.
Nhìn thanh niên đứng trước mặt, Gempachi ngạc nhiên. Y không rõ đây có phải là Kojiro thực không, vì theo chỗ hắn biết, môn đồ Chujo kiếm phái sống cuộc đời khổ hạnh, quần áo thường mặc chỉ là vải gai, không như thanh niên này, sang trọng và diêm dúa quá. Nhưng nhìn thanh trường kiếm quá khổ đeo trên vai thì có thể là Kojiro lắm, vì thanh kiếm mệnh danh “cây sào phơi” này rất phù hợp với lời đồn đại trong võ lâm; và ngoài Kojiro ra, không ai xử cây kiếm dài như thế, vừa không chính xác lúc công lại vừa không gọn lúc thủ.
Gempachi phân vân hỏi lại:
- Thiếu hiệp quả thật là Sasaki Kojiro, biệt danh Ganryu đấy chăng ?
Kojiro cười:
- Đã không tin thì trả lời cũng vô ích.
Bèn tự động ngồi xuống một gốc cây, tháo kiếm để bên và mời Gempachi ngồi cạnh. Thấy thế, Gempachi không do dự gì nữa, lập tức làm theo. Kojiro lên tiếng trước:
- Tại hạ ngồi trên cây đã nghe hết mọi chuyện. Được biết huynh đài đi điều tra về cái chết của Tenki, mà Tenki là bạn đồng môn của tại hạ thì huynh đài và tại hạ cũng coi như bằng hữu. Huynh đài có ý giết tên chó má kia, tại hạ cho là vô ích. Nếu quả huynh đài vì sợ gia đình Tenki không tin, cần phải có bằng chứng thì để tại hạ xin viết một lá thư nói rõ đầu đuôi. Như thế vừa xác nhận những điều huynh đài đã điều tra được mà cũng tránh cho tại hạ khỏi phải dính vào chuyện này, sinh thù oán, mặc dầu cái tên tại hạ chỉ là do sự mạo danh mà ra.
Gempachi gật gù khen phải. Y cho câu chuyện đã có người thứ ba biết rồi thì khó mà che đậy được, nên đồng ý với Kojiro.
- Còn tên mạo danh tại hạ, huynh đài hãy nhường cho tại hạ xử trí.
Thấy lời yêu cầu hợp lý, Gempachi không phản đối.
- Vậy tùy thiếu hiệp. Chuyện này như vậy là giải quyết xong.
Kojiro đứng dậy đeo kiếm lên vai.
- Tại hạ có chút việc cần, chờ dịp khác sẽ tương hội.
- Thiếu hiệp quên gì không ?
- Chẳng có gì quên ...Huynh đài có ý gì vậy ?
- Bản chứng thư ...
Gempachi vừa nói vừa lấy cuộn giấy dầu ra trao cho Kojiro.
- Nghĩ cho cùng, có lẽ anh linh sư huynh tại hạ đã run rủi để chúng ta gặp nhau ở đây và hoàn lại thiếu hiệp bản chứng thư ...
Nhưng Kojiro mỉm cười:
- À, bản chứng thư ! Huynh đài cứ giữ lấy.
Gempachi ngạc nhiên:
- Sao vậy ?
- Tại hạ không cần.
- ... ?
- Tại hạ chẳng dùng mảnh giấy ấy vào việc gì được !
- Coi kìa ! Sao thiếu hiệp lại nghĩ thế ? Lệnh sư trong lúc lâm chung đã quyết định cấp cho thiếu hiệp bản chứng thư này, lại sai Tenki trao tận tay thiếu hiệp. Chẳng may dọc đường ông ấy tử nạn. Bấy nhiêu là ưu ái, thiếu hiệp phải biết ơn chứ !
- Sư phụ quyết định những gì, tại hạ đâu biết. Tại hạ có những hoài bão riêng.
- Trời ơi ! Sao thiếu hiệp lại có những ý tưởng khinh mạn như thế ?
- Huynh đài đừng hiểu lầm ý tại hạ. Tại hạ chỉ nói là có hoài bão muốn tiến xa hơn sư phụ, thế thôi. Chưởng môn một kiếm phái vô danh nơi lậu hạng không phải mục đích tại hạ.
- Thiếu hiệp không nói chơi đấy chứ ?
- Tại hạ nói hoàn toàn đứng đắn.
Gempachi lắc đầu như không tin lời mình vừa nghe.
- Tại hạ biết ơn tôn sư nhưng quả thật thấy tờ chứng thư này vô dụng. Ito Yagoro nhận chứng thư do tôn sư cấp nhưng sau đó đã khai triển nhiều chiêu kiếm lạ. Tại hạ cũng có ý ấy và muốn lập một kiếm phái riêng:
Sasaki Kiếm phái. Rồi đây huynh đài sẽ nghe danh Sasaki Kiếm phái lừng lẫy. Cho nên tại hạ không cần bản chứng thư này.
Phiền huynh đài mang về trả cho Chujo phái, bảo họ lưu trữ cùng với những sổ bộ khai sinh, khai tử tại đền.
Nghe Kojiro giương giương tự đắc nêu những tham vọng của hắn ra mà không một lời khiêm tốn hoặc nhún nhường, Gempachi không còn biết nói sao nữa.
- Huynh đài chuyển đến gia đình Tenki lời phân ưu của tại hạ. Sau này có dịp, tại hạ sẽ tới thăm huynh đài.
Lời hắn kiêu ngạo, hàm ý bao bọc che chở. Gempachi không vui, muốn trách hắn mấy câu, nhưng nghĩ kỹ lại thôi vì thấy vô ích. Y bỏ cuộn giấy dầu vào bọc, xốc túi hành trang lên vai, nhặt thiền trượng bỏ đi sau lời từ biệt khô khan.
Kojiro nhìn theo, không giấu nụ cười chế nhạo. “Chắc y giận lắm !”.
Đến gần gốc cây, hắn nhìn Matahachi vẫn còn bị trói, gục đầu ủ rũ:
- Còn thằng này ! Đồ vô tích sự ! Ngươi mạo danh ta làm điều xằng bậy, thật đáng hổ thẹn. Ngươi muốn nói gì không ?
Matahachi lặng thinh. Dĩ nhiên, hắn chẳng có gì để nói.
- Ta đã nghe ngươi xưng danh là Matahachi. Nhưng họ gì ?
- Honiden.
- Có phải là Ronin không ?
- Dạ phải.
- Để ta dạy ngươi bài học. Ngươi đã trông ta trả lại bản chứng thư đấy. Nếu một kẻ mệnh danh là kiếm sĩ mà không đủ kiêu hãnh để tự lập, tự tạo cho mình một cái tên thì kẻ đó kể như vất đi, không đáng nói tới. Ngươi hèn hạ mạo danh ta thì còn gì đáng khinh bỉ hơn nữa.
Kojiro lấy mũi kiếm hất cằm Matahachi lên:
- Ngươi nên nhớ: cáo đội lốt hùm ở đâu cũng chỉ là cáo.
- Dạ dạ ! Từ nay tiểu nhân xin nhớ.
- Ta chẳng giết ngươi làm gì, bẩn gươm. Kệ ngươi ở đây cho chó nó ăn thịt. Làm sao thoát được thì làm !
Hắn định bước đi, nghĩ sao lại rút đoản kiếm phạt một miếng vỏ cây trên đầu Matahachi.
- Ta cần bút mực, ngươi có không ?
- Dạ, trong bọc áo tiểu nhân.
Kojiro mài mực, chấm bút viết lên thân cây:
“Tên này mạo danh ta đi khắp nơi làm nhiều điều vô sỉ. Ta bắt trói nó ở đây cho mọi người phỉ nhổ. Ta, Sasaki Kojiro, ngoai hiệu Ganryu, quyết định trừng phạt nó để cảnh cáo những kẻ mạo danh ta”.
Hắn bỏ bút xoa tay đắc ý.
Đêm đã khuya. Gió thổi mạnh qua tàn thông và cành khô rào rào như nước triều đổ vào ghềnh đá. Tiếng chó tru dữ dội hơn trước.
Kojiro mắt đổ lửa, rảo bước biến vào màn sương dầy đặc tựa con báo đen mất hút trong rừng rậm.


HẾT CHƯƠNG 36.