Bạn đang xem trang 3 / 9 trang

Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Hai T12 11, 2006 10:49 pm
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ



QUYỂN 2 : Sui No Maki

CHƯƠNG 17
NHÁNH HOA MẪU ĐƠN




Nhà Yagyu chạy dài dưới chân núi Kasagi, về phía đông bắc Nara. Gọi là sơn cốc, nhưng thật ra là một thung lũng hẹp, bốn bề vách đá hiểm trở bao vây, ban ngày chỉ thấy mặt trời từ giờ tị đến cuối giờ mùi. Những lúc khác, cả thung lũng chìm trong bóng tối hoặc ẩn sau một màn sương mù dày đặc, nhất là vào những ngày u ám.
Vào đầu thế kỷ , một làng được lập ngay trong cốc. Dân làng khá đông, chuyên nghề tầm tang và dệt lụa. Vì ít tiếp xúc với những thị trấn bên ngoài, nhà Yagyu vẫn giữ nguyên được nền nếp thanh bình như khi mới lập. Giữa cốc là một tòa nhà lớn, dân làng thường gọi là Đại lâu, vừa dùng để hội họp, vừa để gìn giữ những di sản văn hóa trong cốc. Một tường đá kiên cố với lũy tre dầy bao bọc quanh làng, kín như rừng, nên cốc có tên là Trúc Lâm.
Cảnh trí Trúc Lâm đẹp như tranh vẽ. Vách đá sừng sững cao đâm thấu trời xanh, cổ thụ mọc trên vách đá không biết từ đời nào và chịu bao sương tuyết mà thân cành vặn vẹo, nhưng không vì thế kém tươi tốt. Những chùm lá xanh đen, cứ vào mỗi đầu xuân lại thi nhau đâm chồi nẩy lộc, tung ra sức sống mãnh liệt tiềm ẩn trong thớ gỗ. Vào những ngày đẹp trời, ánh dương mới mọc chênh chếch chiếu lên sườn núi làm ửng lên muôn ngàn sắc độ của thảm rêu trên những mỏm đá cheo leo trông rất ngoạn mục. Nước suối thì trong và mát, đem pha trà thật không gì sánh kịp. Vườn mai gần đó nở trắng hoa, mỗi khi xuân đến rộn tiếng họa mi véo von, trong như nước suối.
Yagyu Muneyoshi Sekishusai là một tay kiếm sĩ tuổi trung niên. Tổ tiên ông đến đây lập nghiệp đã lâu đời và đã góp phần rất lớn vào việc dựng nên cốc này. Ông theo truyền thống tiền nhân, đem hết tâm lực bảo vệ cho cốc không bị cường khấu quấy phá, lại giữ gìn hảo tục thuần phong, lo cho dân làng có đủ đất đai cày cấy, thành ra mọi người đều yên vui no đủ lắm. Trong cảnh hỗn loạn sứ quân của nước Nhật vào cuối thế kỷ mười sáu, nhà Yagyu thật là một nơi lý tưởng để sinh sống và di dưỡng tính tình.
“Địa linh sinh nhân kiệt”, người xưa nói quả không sai. Trúc Lâm là nơi sinh trưởng của một đại kiếm sĩ, bốn mươi năm trước đây danh tiếng lừng lẫy giang hồ tên Yagyu Muneyoshi. Kiếm thuật của nhà Yagyu không hoa mĩ nhưng nhanh và gọn vô cùng. Ông cho rằng kiếm không phải là một thứ đồ chơi, múa lấy đẹp mắt. Ông ít khi sử kiếm, vì cho rằng kiếm thuật không phải là cứu cánh của kiếm đạo, nên chỉ dùng kiếm khi vạn bất đắc dĩ và khi nội tâm thật bình tĩnh, không bị thất tình và ngoại cảnh chi phối. Ông thường nói với môn sinh:
“Mục đích tối hậu của kiếm đạo là không dùng kiếm”. Quan niệm này của Yagyu Muneyoshi đã được nhiều danh kiếm đương thời đem ra thảo luận và cũng chính là trọng tâm, nếu không nói là cốt tủy của trường phái Yagyu.
Muneyoshi giờ tuổi đã cao, lui về ở ẩn trong một ngôi nhà cỏ cách Đại lâu không xa. Ông không quan tâm gì đến thế sự nữa, mọi tiếng thị phi đều gác bỏ ngoài tai. Con cháu nhà Yagyu là những người có khả năng, ông thấy không có lý do gì mà không rửa tay treo kiếm.
oo Khi thầy trò Musashi đến Nhà Yagyu, chuyện xảy ra tại đồng cỏ Hannya đã qua được mười ngày. Trên đường đi, Musashi có dịp viếng thăm nhiều thắng tích, trong lòng rất lấy làm khoái hoạt. Hắn cùng tiểu đồ vào trọ trong quán Wataya ngay đầu làng, với dự định nghỉ ngơi ít bữa, đồng thời tìm cách liên lạc để được yết kiến Muneyoshi tiên sinh.
Nhân lúc nhàn rỗi lại gặp tiết trời ấm áp, Musashi mặc áo mỏng cùng tiểu đồ đi dạo. Thầy trò đi một lúc, Musashi quan sát cảnh vật xung quanh, miệng lẩm bẩm:
- Lạ ! Lạ quá !
Hắn nhắc đi nhắc lại nhiều lần chữ “lạ quá” làm Jotaro chú ý, ngẩng lên nhìn sư phụ:
- Thầy nói cái gì lạ ?
Đối với Jotaro, làng này chẳng có gì lạ. Nó cũng như trăm nghìn làng khác mà thôi. Có điều thấy thầy nó lẩm bẩm một mình, nó cho rằng thầy nó lại sắp giở chứng. Ấn tượng một người tâm trí không bình thường vẫn chưa thoát khỏi khối óc ngây thơ của nó.
- Hơn một năm nay ta đã đi nhiều nơi, Settsu, Kawachi, Izumi, Kyoto, Narạ..
nhưng chưa nơi nào ta thấy cảnh vật như ở đây.
- Cảnh vật ở đây thế nào, khác với nơi khác ra sao, thầy ?
- Ở đây nhiều cây hơn.
Jotaro cười như nắc nẻ:
- Nhiều cây hơn ? Cây thì chỗ nào gần rừng mà chả nhiều !
- Ờ, nhưng cây ở đây khác. Cây vùng này to, lại nhiều cổ thụ. Như vậy có nghĩa là từ lâu không ai đốt rừng, không có giặc giã, dân cũng không đến nỗi nghèo phải chặt cây mang về làm củi sưởi.
Jotaro gật đầu, cho là sư phụ nói đúng.
- Đồng lúa xanh tốt, ruộng dâu mơn mởn, vậy là có người chăm sóc. Này ! Con có nghe tiếng xa quay tơ kêu cút kít không ? Hình như nhà nào cũng có khung cửi thì phải !
Mọi người đều vui tươi, thấy khách lạ ăn mặc lành lặn đi qua không nhìn với đôi mắt ganh tị, vậy là tốt lắm !
- Dạ. Thầy còn thấy điều gì khác nữa không ?
- Có chứ ! Cứ thế mà suy ra thì dân vùng này phần nhiều đều no đủ. Ta chắc cốc chủ phải là người sáng suốt, khôn khéo; hẳn ông ta có sẵn dưới tay nhiều binh khí tốt, tráng đinh khỏe mạnh, giỏi chiến đấu ...
- Chắc thế. Nhưng chuyện đó can dự gì đến ta ?
- Hừ ! Thằng này chẳng biết gì !
- Sao thầy bảo đi học kiếm ? Thầy đến đây để ngắm cảnh đấy à ?
- Con còn bé, chưa hiểu, nhưng ta cũng nói để con rõ, sau này biết đâu con chẳng còn được gần ta nữa. Mang kiếm không phải để bon chen, tìm miếng đỉnh chung. Kẻ nào chỉ biết ban ngày ăn cho nó, tối ngủ cho yên, ỷ có võ khí hăm dọa người khác, kẻ đó chỉ là phường cường khấu. Muốn theo kiếm đạo, con phải quyết tâm giữ cho lòng trong sạch, nghiêm khắc với chính mình, quan sát và luôn học hỏi để thăng tiến, đồng thời nắm vững kỹ thuật khi giao đấu. Cho nên con cần đi nhiều hiểu rộng để biết suy xét mọi người mọi việc chung quanh, tìm hiểu các căn nguyên của sự việc trước khi dùng kiếm.
Lưỡi kiếm của con sẽ là lưỡi kiếm để bảo vệ lẽ phải ...
Nói đến đây Musashi khựng lại. Trong cơn cao hứng, hắn đã đi quá xa, nói những điều chắc thằng bé không thể hiểu được, nhưng hắn không hối hận. Trong lúc nói, hắn đã thật lòng giải tỏ cả tâm can, phơi bày những ước mong, chí hướng của mình.
Jotaro lắng nghe sư phụ, hỏi nhiều câu ngây ngô, Musashi vẫn nhẫn nại giải đáp bằng tất cả tấm lòng thành, chỗ nào không biết thì bảo là không biết, tuyệt nhiên chẳng hề giấu diếm.
Hết cả ngày hôm ấy, hai thầy trò thơ thẩn rong chơi, vừa đi vừa trò chuyện, đến khi mặt trời xế bóng mới trở lại quán.
Kocha, một nữ tỳ trạc mười ba, mười bốn tuổi, thấy khách về đon đả chạy ra đón:
- Khách quan vãn cảnh có được đẹp ý không ?
- Cảnh trí làng này thật đẹp, ta rất ưa.
- Em đã sắp sẵn nước nóng, để mời khách quan vào tắm.
Musashi theo Kocha qua hàng hiên đến trước phòng tắm công cộng. Trên ghế dài có vài bộ quần áo gấp sẵn, hắn độ chừng trong phòng có người, bèn cởi bỏ áo ngoài để lên ghế rồi mở cửa bước vào.
Hơi nước nóng cùng với tiếng cười nói theo cửa mở tỏa ra phà vào mặt. Thấy khách lạ, ba người đàn ông đang tắm chung trong bồn gỗ vội quay mặt nhìn ra, bỏ dở chuyện đang nói.
Musashi kín đáo đi đến góc phòng, bước vào bồn tắm. Vóc dáng to lớn của hắn làm trào cả nước ra sàn gỗ. Những người kia đưa mắt nhìn nhau, nhưng Musashi không để ý, dựa lưng vào thành bồn khoan khoái thở phào nhẹ nhõm và nhắm mắt lại, làm như chỉ chú tâm tận hưởng lạc thú của làn nước ấm ôm ấp quanh mình.
Sau một lúc yên lặng, tiếng nói chuyện lại rì rầm nổi lên, nhỏ hơn, nhưng cũng đủ để Musashi nghe rõ:
- Quản gia nhà Yagyu tên là gì nhỉ ?
- Hình như là Shoda.
- Muneyoshi lão gia phái hắn đến khước từ không tiếp chúng ta, chắc có điều gì e ngại.
- Biết đâu lão chỉ có hư danh, thực tài thì chưa chắc ...
- Có thể lắm. Nghe Shoda nói bây giờ lão quy ẩn, chẳng biết hư thực ra sao !
- Yoshioka cho người đến lãnh giáo kiếm thuật mà lão làm như thế thì mười phần chắc bảy là sợ.
- Nhưng phái người đến tặng quà và đưa thiếp thì cũng tế nhị đấy chứ !
Đang lim dim, nghe nói đến Yoshioka, Musashi lắng tai chú ý, mở hé mắt ra nhìn. Khi còn ở Kyoto, hắn được biết tay kiếm đệ nhất của Yoshioka phái là Yoshioka Denshichiro, tính ưa du ngoạn, không mấy khi ở nhà. Giờ đây, bốn tay này tự xưng là Yoshioka, chắc hẳn là Denshichiro và đàn em chứ không sai. Nhưng trong ba người, không biết ai là Denshichiro ? Musashi nghĩ thầm:
“Mình thật chẳng may mắn, mấy lần tắm đều gặp bất trắc. Lần trước bà già Honiden đã lừa mình vào tròng, suýt nữa thì khốn đốn với quan quân, bây giờ lại bọn này. Nếu Denshichiro biết mình là Miyamoto Musashi ở Miyamoto thì ngu gì mà chúng không ra lấy gươm vào tấn công mình trong nháy mắt !”.
Nhưng cả ba người kia hình như không có ý nghi ngờ gì cả. Họ vẫn tiếp tục chuyện vãn. Qua những mẩu đối thoại nghe lỏm được, Musashi đã hiểu trước kia khi Yoshioka Kempo còn sinh tiền, Yagyu Muneyoshi nhiều lần có giao thiệp với Yoshioka nên nay vì tình cố cựu, cho gia nhân mang quà và thư đến phúc đáp. Musashi tự nhủ:
“Bọn này như ếch ngồi đáy giếng, tầm mắt thiển cận, nhìn trời trên đầu không to hơn cái vung úp. Trong những năm gần đây, thực lực nhà Yagyu ra sao ai cũng biết.
Yagyu Muneyoshi tuy ở ẩn nhưng bao nhiêu tinh hoa của nền kiếm học và những kinh nghiệm ông thu thập được khi còn ngang dọc giang hồ đều đã truyền lại cho hai con trai lớn và người cháu. nhà Yagyu lại là nơi hiểm trở, lương thảo tích trữ đầy đủ. Thế mà bọn này chẳng biết gì, có mắt không biết nhìn, có tai không biết nghe, thật đáng thương hại”.
Musashi bước ra khỏi bồn tắm, vào phòng kế, tháo khăn quấn tóc, bốc một nắm đất sét để sẵn ở đó xoa lên đầu. Hắn kỳ cọ một lúc rồi gội sạch. Đã lâu lắm, Musashi mới gội đầu theo lối cổ truyền như thế và nghĩ đến những lúc đi tắm sông hồi còn nhỏ. Hắn nhớ đến làng cũ, khẽ thở dài.
Ba người kia cũng vừa tắm xong, trắng nhễ nhại từ bồn bước ra, cười nói oang oang không coi ai ra gì cả.
- Chà ! Khỏe quá.
- Dễ chịu hẳn ra. Nơi sơn cước mà có được quán như thế này, khá đấy chứ ! Ta gọi chủ quán bảo mang sa-kê và các em vào phòng hầu rượu, bằng hữu nghĩ thế nào ?
- Tuyệt ! Ý kiến hay tuyệt !
- Vậy còn chờ gì nữa ?
Cả ba khoác vội áo ngoài đi ra hiên. Tiếng họ cười ha hả còn vọng đến tai Musashi đang lau mình trong phòng kế.
oo Yagyu Muneyoshi ngồi trên chiếu, trước bộ kỷ trà thấp, tóc bạc phơ rủ xuống hai vai, phong thái siêu thoát như cánh hạc vẽ trên bức cổ họa trên vách. Ông trạc ngoài bát tuần, người mảnh khảnh, nước da hồng hào, đôi mắt sáng quắc chứng tỏ sức khỏe còn rất dồi dào. Yagyu Muneyoshi vẫn thường nói với gia nhân:
“Trong mình ta không có dấu hiệu gì suy yếu, chắc phải thọ đến trăm tuổi”. Lời tiên đoán chẳng làm ai ngạc nhiên, trông ông vẫn quắc thước và minh mẫn, vả lại chuyện thọ yểu một phần hình như cũng do gia truyền:
Tổ tiên nhà Yagyu, trừ những người tương đối chết trẻ vì xông pha chiến trận, hầu hết đều vượt mức bát tuần cả.
Riêng phần Yagyu Muneyoshi, ông sống rất tiết độ. Năm gần sáu mươi, vì lý do riêng, ông từ bỏ không tham dự vào những chuyện giang hồ thị phi, mặc dầu hai đại danh đương thời là Tokugawa và Toyotomi hết lòng chèo kéo. Ông đã có chủ ý:
Trong cảnh tương tàn phe phái thời bấy giờ, ông thấy cách khôn khéo nhất là đứng ngoài mọi sự tranh chấp.
Quyết định của Yagyu Muneyoshi quả sáng suốt, nhờ vậy Trúc Lâm cốc và nhà Yagyu không những đã tránh được nạn binh đao mà còn phát triển mạnh hơn nhiều địa phương khác. Ông có quyết định ấy, một phần vì đã thấu hiểu thời cuộc bấy giờ, nhưng một phần cũng nhờ ở sức mạnh tinh thần và căn bản đạo đức của mình. Ông không chạy theo vinh hoa phú quý như phần đông các kiếm sĩ khác, chỉ vì món lợi nhỏ nhiều khi quên cả liêm sỉ.
Sư phụ Yagyu Muneyoshi là Kamiizumi Hidetsuna, một lãnh chúa và cũng là một danh gia kiếm sĩ, trên dường bôn tẩu giang hồ, một hôm ghé ngang nhà Yagyu, khi Yagyu Muneyoshi còn là một thanh niên nhiều nhiệt huyết và tham vọng. Hidetsuna ba lần tỷ kiếm với Yagyu Muneyoshi, ba lần đều thắng, sau đó mến tài Yagyu, thu nhận làm đồ đệ.
Hidetsuna lưu lại nhà Yagyu một thời gian khá lâu, chỉ điểm cho Yagyu Muneyoshi về kiếm pháp. Trước khi lên đường, ông bảo đồ đệ:
“Đường ta còn dài, mà cõi nhân sinh thì hạn hẹp, không biết ta có đủ thì giờ theo đuổi đến cùng không ! Con còn trẻ, tư chất thông minh, hẳn có cơ duyên, mong con hiểu và nối chí ta”. Ông trao cho Yagyu Muneyoshi một pho sách, nhan đề Vô kiếm kiếm phổ và ra đi biệt tích. Từ đó không ai nghe nói đến Hidetsuna nữa.
Vô kiếm kiếm phổ gồm ba phần, một phần luận về đạo của người kiếm sĩ, một phần về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh, phần còn lại mới luận về kiếm thuật chính thức. Yagyu Muneyoshi ngày đêm nghiền ngẫm pho sách, sau ba năm suy tư và khổ luyện vẫn không tìm ra chân lý. Về sau, nhân một buổi ngồi thiền, Yagyu Muneyoshi đột nhiên giác ngộ, thấu hiểu lẽ tương dung của trời đất, đem suy diễn ra thấy lẽ đó bàng bạc khắp trong sách. Bấy giờ đọc lại, không còn thấy chỗ nào tối nghĩa nữa, bèn đem áp dụng vào kiếm thuật thì thấy những thế kiếm tự nhiên hơn, nhẹ nhàng và linh động vô cùng, đem dùng làm căn bản cho thái độ của mình đối với thiên nhiên và vạn vật thì thấy dễ dàng hòa đồng với mọi người, tránh được bao nhiêu là hệ lụy.
Từ đó, ông quý trọng bộ kiếm phổ như một bảo vật không gì thay thế được, lúc nào cũng để gần chỗ ngồi. Những lời luận trong sách giúp ông khắc phục được bao nhiêu khó khăn về tinh thần, những khó khăn trước kia ông tưởng không bao giờ qua nổi.
Những đồ hình vẽ trong kiếm phổ lại đầy đủ và chính xác đến độ nhiều khi ông không tin công phu ấy đã được thực hiện bởi một cá nhân trong thời gian một kiếp. Ông nhớ ngày ra đi của sư phụ Hidetsuna, không năm nào không thành kính đốt hương tưởng niệm.
Vì bản tính ưa bình dị và khoáng đạt, Yagyu Muneyoshi không thích ở trong Đại lâu.
Ông chọn gian nhà cỏ xuềnh xoàng bên rừng trúc để cư ngụ, có suối nước trong thuận tiện cho ông pha trà hàng ngày và lấy biệt hiệu là Sekishusai. Mặc dầu ưa cuộc sống đạm bạc, nhưng từ khi có Otsu đến ở, gian nhà cỏ của ông cũng đỡ phần cô tịch. Trong tuần trà sớm, tiếng sáo của nàng thêm đầm ấm, và buổi chiều, dáng nàng đi yểu điệu trong bộ y phục màu nhạt tha thướt như điểm một nét tươi vui giữa màn sương mù xanh xám bắt đầu tỏa xuống bao phủ căn thảo thất.
Sau khi cắm xong nhành mẫu đơn độc nhất vào chiếc bình sứ men gạo nếp sản xuất tại Iga, Yagyu Muneyoshi quay sang hỏi Otsu:
- Sao ? Chị thấy được không ?
- Tiền bối quả thấu triệt nghệ thuật cắm hoa. Chắc tiền bối đã theo học kỹ thuật này từ khi còn trẻ ?
Yagyu Muneyoshi cười:
- Chị lầm rồi ! Lão phu không phải xuất thân từ một gia đình quý tộc, trong thời niên thiếu lại không có thì giờ học cách cắm hoa hay trà đạo.
- Thế mà trái lại, trông cách xếp đặt, ai bảo tiền bối không biết cắm hoa !
- Thế ư ! Lão phu đã cắm hoa như dùng kiếm vậy mà !
Otsu ngạc nhiên:
- Tiền bối nói thế là thế nào ?
- Lưỡi kiếm trong tay phải sinh động, nắm chặt quá tất không sử dụng uyển chuyển được theo ý muốn, lơi quá nó bay đi mất. Cành hoa cũng thế, khi ngắt khỏi thân, chớ làm cho hoa chết. Bất cứ ở vị thế nào, hoa cũng phải sống động, hòa hợp với ngoại cảnh, thể hiện cảm xúc của mình. Chị thấy bông mẫu đơn này có sống động không ?
Otsu khẽ gật đầu mỉm cười. Sau mấy tháng cư ngụ tại nhà Yagyu, nàng đã học được rất nhiều ở Yagyu Muneyoshi và nhận thấy vị đại kiếm sĩ này tuy sống khắc khổ nhưng có một nhân sinh quan rất phóng dật. Ông dạy nàng làm thơ Đường tuy ông thích thơ Haiku hơn vì loại thơ này nhẹ nhàng, không gò bó, gần với thiên nhiên. Ông dạy nàng những nghi lễ phiền toái của trà đạo nhưng trong những buổi hầu trà, nàng hiểu rõ hơn ai hết, ông không bao giờ câu nệ những nghi lễ ấy.
Cũng vì thế mà Otsu thoải mái ở cạnh Muneyoshi, tiếng sáo của nàng tự do hơn, khi tha thiết, khi vui tươi, khi thương nhớ, nàng mặc cho lòng mình phát hiện qua âm thanh, đôi lúc mê mãi quên cả ngoại cảnh làm Muneyoshi phải ngạc nhiên. Nàng đem tài khéo ra đan cho Muneyoshi một chiếc mũ lông cừu như mũ của những người ưa uống trà thường đội làm ông rất thích thú.
Một già một trẻ ý hợp tâm đầu, nhiều khi Otsu quên cả những việc xảy ra bên ngoài thung lũng. Ngoài những lúc để lòng quay về dĩ vãng hoặc bâng khuâng tưởng nhớ mối tình vô vọng, nàng thấy nơi đây quả là thiên đường, chỗ để nàng dung thân, yên tâm cả về tinh thần lẫn thể chất.
Có tiếng người gọi ở cổng ngoài. Otsu vội vàng chạy ra. Shoda Kizaemon đã đứng đó tươi cười thăm hỏi và nhờ nàng vào trình với Yagyu cư sĩ xin cho được tiếp kiến. Otsu vui vẻ:
- Đại huynh thật ngược đời ! Không thấy sao ?
- Chuyện gì mà ngược đời ?
- Trong nhà này, đại huynh là cánh tay phải của lão nhân gia, ra vào lúc nào mà chẳng được. Còn tiểu nữ chỉ là kẻ hầu thổi sáo, đại huynh nhờ vậy chẳng hóa ra ngược đời lắm ư ?
Shoda mỉm cười gật đầu:
- Cô nương nói phải, nhưng địa vị cô nương trong nhà này rất đặc biệt. Dù sao cũng cứ xin vào thưa trước với lão chủ cho, nói Shoda này muốn được đến trình về việc gặp gỡ với đại diện Yoshioka.
Otsu lui gót. Shoda một mình đứng chờ bên cổng trúc, rất mãn ý vì đã tiến dẫn Otsu. Con người mới xinh đẹp và khiêm cung làm sao ! Tài ấy, đức ấy, chắc Muneyoshi gia không thể không hài lòng được.
Otsu ra mời Shoda vào. Yagyu Muneyoshi lên tiếng hỏi ngay, giọng sang sảng:
- Shoda đấy ư, sao về sớm thế ?
- Thừa lệnh lão tiền bối, vãn bối đã tới gặp họ, đưa thiếp và quà tặng.
- Thế họ đi cả rồi à ?
- Thưa chưa ! Họ có thư trình lên muốn xin được tham quan võ đường của ta và mong được lão tiền bối chỉ giáo. Họ hiện ở nhà trọ đầu làng chờ ta phúc đáp.
Yagyu Muneyoshi cau mặt:
- Hừ ! Phường vô hạnh ! Ta không muốn tiếp. Thế ngươi có nói rõ cho chúng biết các con ta đều ở Edo, hiện nay trong cốc không còn ai không ?
- Dạ, vãn bối đã nói rõ.
- Thế mà chúng vẫn đòi đến ! Có phải chúng định ép ta chăng ?
Yên lặng một lúc, Yagyu Muneyoshi tiếp:
- Hậu duệ phái Yoshioka xem ra toàn đồ vô dụng !
- Quả vậy ! Khi tiếp xúc, vãn bối thấy không có gì xuất sắc.
- Hừ ! Ta có biết Yoshioka Kempo và trước đây đã uống rượu với ông một đôi lần.
Sinh thời, Kempo là tay kiếm sĩ khôn ngoan, tính tình hào sảng, sao từ khi ông ta chết đi, lũ con chẳng ra gì. Chúng tưởng cứ mang danh Yoshioka phái là qua được cửa nhà ta sao ?
- Qua nhận xét của con, Yoshioka Denshichiro có dáng cao ngạo, coi thường mọi người. Thiết tưởng hay cứ để hắn tới, con sẽ dạy cho hắn một bài học !
Yagyu Muneyoshi không nói gì, ông lặng lẽ nhấp trà, một lúc sau mới lên tiếng:
- Thôi, chẳng nên quan tâm. Lũ thanh niên ỷ vào tiền bạc và danh tiếng ông cha để lại thường không có tài lại hay kiêu. Ngươi đánh chúng thua, sẽ sinh ra thù oán, chúng lại tìm cách phao vu nói xấu, dây dưa tới giới quan lại tại kinh thành, phiền lắm !
- Vậy xin lão tiền bối chỉ bảo.
- Có cách này ta thấy tiện hơn cả. Chúng tự coi là con nhà đại gia thì ta cứ xử với chúng như con nhà đại gia. Ngươi không khéo mồm miệng, cử ngươi đi lần này sợ không được việc.
Quay nhìn Otsu, Muneyoshi tiếp:
- Ta nghĩ đàn bà chắc là khéo léo hơn. Otsu, chị giúp ta việc này được chăng ?
- Tiền bối đã dạy, tiểu nữ đâu dám từ chối. Đi ngay bây giờ sao ?
- Chẳng vội gì ! Cứ thong thả. Ngày mai ta muốn nhờ chị mang giùm cho một lá thư và một nhành mẫu đơn đến xem họ xử trí ra sao.
Sáng hôm sau, Otsu dậy sớm đến quán Wataya. Nàng trùm tấm khăn dài mỏng.
Mặc dầu bấy giờ ở Kyoto, trùm khăn không còn hợp thời trang nữa, nhưng những thiếu nữ trung lưu tại các thị trấn nhỏ vẫn còn giữ cách ăn mặc như vậy mỗi khi có việc phải ra ngoài. Nàng đến chuồng ngựa dắt một con. Người mã phu già đương bận chải lông ngựa, ngưng tay hỏi:
- Chị đi đâu đấy ?
- Lão nhân gia sai tiểu nữ ra đầu làng có chút việc.
- Lão bộc có cần phải đi theo không ?
- Thôi chả cần. Tiểu nữ đi một mình cũng được.
- Chị phải cẩn thận. Con ngựa này hay giở chứng lắm !
Otsu cười:
- Không sao ! Tiểu nữ cưỡi ngựa đã quen. Hồi nhỏ, cưỡi voi còn được mà !
Nàng nhờ người mã phu thắng yên rồi vỗ khẽ vào lưng con vật, nhảy thoắt lên, gọn gàng như một tay kỵ mã lành nghề. Buông cương để ngựa đi bước một, Otsu hít một hơi dài làn không khí trong lành và tươi mát buổi sáng, tấm khăn mỏng che mặt theo gió bay phơ phất. Những nông dân đi làm đồng sớm, thấy nàng, tránh sang một bên, vui vẻ chào hỏi. Lòng kính mến Muneyoshi như lan cả sang Otsu, người thiếu nữ xinh đẹp và nhu hòa họ biết đang được cốc chủ rất mực trọng đãi. Otsu cúi đầu đáp lễ từng người, miệng cười tươi như hoa nở.
Đến trước quán Wataya, Otsu buộc ngựa vào gốc hòe, khoan thai tiến qua cổng. Ả thị tỳ chạy ra đon đả:
- Kìa, chị ở nhà Yagyu! Mời chị quá bộ vào nhà trong, Chị đi đâu sớm thế ?
Rồi không đợi trả lời, ả liến thoắng:
- Em đi lấy điểm tâm. Chị có định ở lại dùng bữa trưa không ?
- Không, cám ơn em. Ta có chút việc cần gặp một khách quan trọng trong quán rồi phải về ngay. Em vào nói với chủ nhân cho ta hỏi câu chuyện.
- Vậy mời chị dùng trà, chờ em một lát.
Hai khách trọ, dáng cao lớn, mặc áo chàm vải thô, đang buộc quai dép và sửa soạn hành tranh ở hiên ngoài, thấy Otsu vội ngẩng lên nhìn. Họ ngạc nhiên không ngờ ở chốn sơn dã hẻo lánh lại có người thanh tú đến thế, đưa mắt nhìn nhau hỏi khẽ:
- Ai đấy nhỉ ?
- Chẳng biết tìm ai ? Hay là tìm chúng ta đấy ?
Người vừa nói câu ấy cho là có duyên lắm, phá lên cười ha hả.
Một lúc sau, chủ quán bước ra, lau tay ướt vào vạt áo. Otsu tỏ ý định muốn gặp Yoshioka Denshichiro đến trọ Ở quán từ mấy bữa trước.
- Các vị đó không biết đã dậy chưa, hôm qua thấy uống rượu khuya lắm. Để tôi vào báo.
Trong phòng, bọn Denshichiro cũng vừa dậy, nghe chủ quán trình tự sự, bèn cho mời khách vào. Cửa lùa vừa mở, bọn họ cùng ồ lên một lượt ngạc nhiên. Ai cũng tưởng khách là vị đại hán tên Shoda ở Yagyu thất trở lại, không ngờ lại là một nữ lang xinh đẹp, tay cầm một phong thư buộc lụa đỏ và một cành mẫu đơn trắng muốt. Vẻ bối rối hiện trên nét mặt, họ luống cuống xếp dọn lại chăn gối, sửa áo buộc tóc, miệng không ngớt xin lỗi:
- Tệ quá ! Tệ quá ! Chủ quán chẳng nói rõ khách là ai nên không kịp chuẩn bị nghênh tiếp, xin giai nhân tha lỗi !
Otsu cười thầm trong bụng. Nàng thấy những lời văn hoa ấy vừa sáo vừa rẻ tiền nhưng cũng áy náy đã làm cho ba ông khách phải bối rối:
- Tiểu nữ thành thật xin lỗi đã làm phiền các vị sớm như thế này, nhưng Muneyoshi nhân gia có sai tiểu nữ đến trình các vị phong thư này và một món quà nhỏ. Xin các vị vui lòng để mắt đến cho, tiểu nữ chờ phúc đáp.
Denshichiro liếc nhìn cuốn thư và bông mẫu đơn để trên kỷ, đưa tay cầm cởi giải lụa đỏ kéo ra đọc. Những hàng chữ nhỏ viết trên giấy hoa tiên màu nước trà nhạt mang một vẻ thanh thoát tựa như những cánh bướm trên thảm cỏ xanh non lúc xuân vừa chớm.
“Thâm tạ quý phái nghĩ tình cố cựu sai người thăm hỏi, nhưng rất tiếc hiện nay lão phu trong mình không được khỏe nên không thể đích thân thù tiếp được. Vả lại lão phu bây giờ không còn quan tâm đến thế sự, vậy có chút quà mọn, một bông hoa trong tệ viên, lão phu cậy tay một bông hoa mang tới, mong quý bằng hữu thu nhận. Dù sao cũng thích thú hơn là ngồi nói chuyện với một ông già bệnh hoạn. Qúy bằng hữu thể tình lượng thứ !”.
Denshichiro nhếch mép không dấu vẻ khinh mạn:
- Có thế thôi ư, cô nương ?
- Lão cốc chủ sai tiểu nữ trình với quý vị là người rất muốn dùng trà với quý vị, ngặt vì trong cốc toàn kẻ võ biền không ai thấu hiểu lề luật trà đạo nên e làm trò cười cho quý vị là những bậc danh gia ở kinh thành tới. Người nhờ tiểu nữ xin quý vị thứ lỗi và hẹn một dịp khác.
Một trong ba gã Yoshioka có vẻ hồ nghi, nói:
- Hừ ! Chúng ta đến đây đâu phải để bàn luận về trà đạo. Chúng ta là kiếm sĩ, có quan tâm gì đến chuyện đó, chỉ muốn đích thân vấn an cốc chủ và xin người chỉ giáo.
Cốc chủ chắc phải biết rõ ý ấy chứ ?
Otsu vẫn mỉm cười, nhỏ nhẹ:
- Lão nhân gia biết lắm, nhưng bây giờ vì người ở ẩn nên đã dùng ngôn ngữ của một kẻ uống trà mà diễn đạt, mong quý vị hiểu cho.
Denshichiro đưa mắt nhìn hai người kia, một lúc sau mới đáp:
- Vậy chẳng nên ép lão làm gì. Chị về nói với cốc chủ là lần sau chúng ta đến, xin đừng từ chối.
Rồi với tay cầm nhành mẫu đơn đưa trả lại Otsu.
- Các vị không ưa mẫu đơn ư ? Mẫu đơn là hoa vương, mà mẫu đơn trắng băng thanh ngọc khiết trên cả các hoa khác, tiểu nữ thật không hiểu ...
Yoshioka Denshichiro cảm thấy như bị xúc phạm. Hắn gằn giọng:
- Cốc chủ tặng hoa cho ta là nghĩa gì ?
Rồi quay sang Otsu:
- Ta thấy khôi hài. Cô nương về nói với cốc chủ, ở Kyoto, chúng ta cũng trồng mẫu đơn, loại này không thiếu.
Otsu cúi đầu, kính cẩn cầm cành hoa lui ra, đáp khe khẽ:
- Các vị đã không vừa ý, tiểu nữ không dám tự tiện ...
Nàng cảm thấy những người ngồi trước mặt như đang bị một vết thương, không khéo buộc, vết thương to ra chẳng ích lợi gì mà chỉ di lụy.
Ra ngoài hành lang, Otsu nghĩ đến chuyện vừa rồi, cười thầm. Nhìn sàn gỗ trơn bóng vì chân người đi lại, nàng thoáng thấy ở phía cuối một căn phòng nhỏ cửa khép kín. Không biết đó là phòng Musashi đương trọ, Otsu đi ngược chiều ra cửa. Kocha từ trong phòng vừa ra, thấy Otsu, vội chạy theo gọi với:
- Chị xong rồi à ?
- Xong rồi ! Ta phải về đây !
- Nhanh nhỉ !
Nhìn bông hoa trên tay Otsu, Kocha khen:
- Ô, bông hoa đẹp quá ! Có phải mẫu đơn không chị ?
- Phải - Em chưa thấy mẫu đơn trắng bao giờ. Bông này kép, lại tươi làm sao !
- Mới hái ngoài vườn đấy, em thích không ?
- Thích !
Otsu đưa bông mẫu đơn cho Kocha:
- Vậy cho em đấy.
Kocha ra định cầm, nhưng lại vội rụt ngay lại:
- Thật không chị ? Cho em thật à ?
- Thật. Otsu cười. Trong vườn ta còn nhiều, em thích ta cho.
- Cảm ơn chị.
Kocha sung sướng ngắm bông hoa rồi đưa lên mũi ngửi:
- Ứ ừ ! Chẳng thơm gì cả !
Nhưng vẫn vui vẻ cầm cành hoa chạy vào bếp khoe với mọi người.
Trong bếp bận rộn, chẳng ai lưu ý đến hoa. Thất vọng, Kocha trở lại phòng ông khách trọ. Musashi ngồi một mình đăm chiêu suy nghĩ. Tên học trò nhỏ của hắn bỏ ra vườn chơi từ sớm. Hắn băn khoăn chưa tìm ra cách gì để vào được nhà Yagyu thất yết kiến Muneyoshi và sau đó thỉnh giáo vài thế kiếm. Kocha bước vào phòng, hắn cũng không để ý, mãi đến khi nghe hỏi mới ngẩng đầu lên nhìn.
- Khách quan có thích hoa không ?
- Hoa à ? Hoa gì thế ?
- Mẫu đơn, mẫu đơn trắng ! Đẹp mà tươi lắm !
Hắn nhìn bông hoa trên tay Kocha rồi hất hàm bảo:
- Ừ, đẹp đấy. Em cắm vào lọ đằng kia đi !
- Khách quan cắm lấy, tiện nữ không biết cắm hoa, sợ xấu !
- Vẽ ! Ta cũng có biết cắm đâu ! Cứ để tự nhiên vào lọ là được.
- Vậy để hoa đây, tiện nữ đi lấy nước.
Musashi lơ đãng nhìn bông mẫu đơn đặt trên kỷ. Đột nhiên, không biết có cái gì khích động sự chú ý của hắn, Musashi với tay cầm bông hoa đưa lên ngắm nghía.
Bông hoa đẹp thật, nõn nà như tuyết, cánh mỏng và trong tựa những cánh bướm rung rung trong ánh nắng ban mai. Không một tỳ vết. Nhụy hoa mới hé như còn e ấp sau những cánh nhỏ bên trong màu vàng nhạt. Hắn xoay đóa hoa trên tay, nghiêng đầu nhìn kỹ nhưng vẫn không hiểu tại sao bông hoa này lại gây cho hắn một cảm giác kỳ lạ như thế !
Kocha mang nước vào, đỡ nhành hoa trong tay Musashi cắm vào lọ. Kocha loay hoay mãi vẫn không sao giữ cho hoa được tự nhiên.
- Cuống dài quá, để ta cắt bớt.
Hoa vừa rút ra khỏi lọ, xoẹt một cái, cuống hoa đã bị cắt đứt một đoạn chừng nửa tấc. Musashi tra đoản kiếm vào vỏ. Rút kiếm, cắt hoa, tra kiếm vào bao, thời gian chỉ trong nháy mắt. Kocha đứng sững, há hốc mồm không kịp kêu thành tiếng. Khi mọi việc đã xong, Kocha mới thấy sợ:
- Khách quan làm gì thế ?
Musashi không đáp, cầm cành hoa trong tay Kocha, xem xét. Bây giờ hắn đã hiểu:
vết cắt của hắn trên cuống hoa và vết cắt trước trông khác nhau thấy rõ.
- Khách quan làm em hết hồn ! Sao không bảo em lấy dao ?
- Ta xin lỗi. Em hái bông mẫu đơn này ở đâu ?
- Người ta cho em.
- Ai cho ?
- Một người thuộc nhà Yagyu.
- Một kiếm sĩ phải không ?
- Không ! Một cô còn trẻ lắm, người hầu của Muneyoshi cốc chủ.
- Hừ ! Vậy người hái hoa này chắc ở trong Đại lâu.
- Em không biết.
- Thôi, hoa cắt vừa khéo rồi đó, em cắm vào lọ đi !
Kocha ra khỏi phòng, Musashi ngắm mãi bông hoa. Hắn rút hoa, so sánh hai vết cắt ở cuống, ngồi thừ người ra suy nghĩ. Hắn chắc đóa hoa này đã được ngắt không phải bằng dao mà bằng kiếm. Mẫu đơn thân thảo, cuống nó mềm và dai, phi một tay kiếm tuyệt luân dùng một lưỡi kiếm cực mỏng chém thì không thể nào có được vết cắt ngọt và gọn như thế ! Bất kỳ ai cắt bông hoa này cũng không phải là người tầm thường. Cầm nhánh hoa trên tay, hắn rút kiếm đánh soạt. Kiếm quang vừa tắt, một đoạn cuống hoa lại rơi xuống. So sánh vết cắt mới với vết cắt trước thấy vẫn còn thua xa, như những nét khắc trên pho tượng Phật của một nghệ sỹ tài ba và điêu luyện bên nét chạm thô lậu của một pho tượng bán ở chợ.
“Nếu một người giữ vườn nhà Yagyu mà còn làm được như thế này thì quả thật Yagyu kiếm danh bất hư truyền, ta không bì kịp”. Tự nhiên hắn không còn tự tin nữa.
“Vô ích ! Mình chưa sẵn sàng !”. Nhưng tuổi thanh niên và lòng quyết thắng của hắn lại như một làn gió mạnh đánh tan mọi ý tưởng chán nản. Musashi hy vọng và tự nhủ:
“Nếu không thắng được, ta có thể bỏ mạng ở đây, nhưng biết đâu ! Ừ biết đâu ta sẽ học hỏi được nhiều điều chưa ai dạy ta nổi !”.
Nhìn bông mẫu đơn trắng cắm đơn độc trên bàn, Musashi mường tượng đến bộ mặt một người. Vẻ thanh tao tươi mát của bông hoa gợi cho hắn một niềm thoải mái nhưng cũng mang theo nỗi bâng khuâng tiếc nhơ vu vơ.
oo Trên đường trở lại thảo thất, Otsu ngồi trên lưng ngựa, khe khẽ hát một khúc dân nhạc. Nàng còn trẻ, trong khung cảnh hiền hòa như cảnh nhà Yagyu ngày hôm ấy, bản tính hồn nhiên của Otsu dễ dàng bộc lộ. Nàng đong đưa theo bước chân ngựa trên đường đồi, vó ngựa đều đều đệm nhịp cho giọng hát. Gần tới nhà, đột nhiên tiếng động bên bờ suối làm Otsu giật mình. Một đứa trẻ từ bụi rậm sau ghềnh đá nhảy ra chạy theo ngựa. Nàng hơi ngạc nhiên vì trẻ con trong làng thường nhút nhát, ít có đứa dám đến gần phụ nữ. Nàng dừng ngựa quay lại nhìn.
Jotaro trần như nhộng, tóc ướt sũng nước, hai tay ôm bọc áo trước bụng, toét miệng cười. Nó thản nhiên như không để ý gì đến sự trần truồng của mình, kêu lớn:
- Đúng rồi ! Cô là chị thổi sáo ! Chị ở đây đấy hả ?
Otsu nhìn Jotaro, ngượng ngùng quay đi chỗ khác, nói:
- Phải. Em là cậu nhỏ ta gặp đứng khóc ở ven đường Yamoto chứ gì !
- Khóc đâu ? Em đâu có khóc !
- Ờ thôi, thì không khóc. Em đến đây từ bao giờ ?
- Từ hôm kia.
- Một mình hả ?
- Không, với sư phụ.
- A, ta nhớ ra rồi. Em nói đi học kiếm. Thế em làm gì ở đây mà quần áo không mặc vậy ?
- Chị muốn em mặc cả quần áo nhảy xuống suối sao ?
- Trời ơi, mùa này nước còn lạnh lắm, ai lại đi bơi bao giờ !
- Em không bơi, em tắm. Sư phụ bảo hôi quá nên em đi tắm đấy chứ !
Otsu bật cười. Thằng bé vẫn chất phác và lém lỉnh như độ nào.
- Thế em ở đâu ?
- Ở quán Wataya.
- Ô, ta cũng vừa ở đấy ra.
- Tiếc quá ! Thế mà chị chẳng đến thăm sư phụ em. Hay bây giờ chị trở lại đấy đi !
- Không được, ta phải về có việc.
- Vậy thôi, em cũng đi đây.
- Này em, khi nào rảnh vào cốc chơi nhé !
Nhưng nói xong Otsu lại hối. Nàng chưa biết rõ gốc gác Jotaro ra sao và sư phụ nó là ai ...
- Nhưng nhớ phải mặc quần áo tề chỉnh đấy !
- Vậy em không đến đâu ! Em ghét tới những nơi kiểu cách lắm.
Jotaro bỏ đi rồi, Otsu cho ngựa thong dong bước một về thảo thất. Qua cổng chính, nàng dẫn ngựa vào chuồng trao cho mã phu rồi đến ngay Yagyu thất trình bày tự sự.
Muneyoshi cười đáp:
- Ta biết chuyện đó tất phải xảy ra. Tính họ như vậy, chẳng phải lỗi ở họ. Còn bông mẫu đơn, chị vất đi rồi chăng ?
- Tiểu nữ thấy có người trong quán thích nên đã cho họ.
- Cũng được, chẳng sao. Yoshioka Denshichiro có xem kỹ bông mẫu đơn không ?
- Dạ có. Khi Denshichiro đọc thư, cầm bông mẫu đơn ngắm rồi trả lại, ông ta có vẻ giận, không hiểu vì sao tiền bối lại tặng hoa và nói tại Kyoto nhà ông có trồng rất nhiều loại hoa ấy.
- Hắn không xem vết cắt ở cuống hoa sao ?
- Dạ, không thấy xem, mà cũng không đả động gì đến chuyện ấy.
Muneyoshi nghiêm mặt:
- Ta không cho bọn hắn gặp là phải. Chúng không đáng để ta tiếp. nhà Yagyu từ nay không muốn liên quan gì với nhà Yoshioka nữa.
oo Võ đường Yagyu nằm ở phía tả Đại lâu, cách đại sảnh một cái sân rộng. Võ đường thật đồ sộ, do chính tay Yagyu Muneyoshi vẽ kiểu và đôn đốc xây cất khi ông còn trẻ, lúc khoảng tứ tuần. Bây giờ, sàn gỗ đã lên nước bóng lộn và những cây cột lớn gỗ sồi đã đổi thành nâu sẫm, vân đen nổi lên như gụ. Sau võ đường là hai dãy phòng lớn nhỏ nối với nhau ở hai mặt đông và tây. Khi hữu sự, những phòng này và cả võ đường có thể dùng làm nơi tạm trú cho tráng đinh họp lại bảo vệ cốc.
Shoda Kizaemon ngồi ở một phòng lớn sau võ đường, chú ý giám sát hai võ sinh đang tập luyện. Võ khí họ dùng không phải là thứ côn gỗ như thường thấy, nhưng là một loại kiếm đặc biệt dài chừng sải tay, làm bằng nhiều thanh tre ghép lại và quấn da xung quanh. Kiếm không có lá chắn cũng không có chuôi, trông tựa như cây gậy lúc thường thì cứng nhưng đụng vào vật gì lại mềm. Tuy không nguy hiểm bằng kiếm gỗ, nhưng chém trúng có thể gây thương tích trầm trọng.
Shoda chăm chú lược trận, thỉnh thoảng ghi điểm vào một cuốn sổ nhỏ đặt trên đùi hay nói vài câu khuyến khích hoặc chỉ dẫn.
- Nhẹ thôi ! Đừng chú mục vào mũi kiếm, giữ tâm cho ngay, tấn công bằng lòng mình chứ không phải chỉ bằng kiếm !
Hai võ sinh hăng say quần thảo, mồ hôi ướt đầm cả lưng áo. Bên trong mặt nạ, bốn mắt quắc lên như đổ lửa. Tiếng hét xung trận, tiếng kiếm tre đập vào nhau chan chát cả võ sảnh.
Bỗng Shoda giơ tay làm hiệu:
- Ngưng !
Rồi nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy người lính tuần dẫn một đứa nhỏ vào, hắn cất cao giọng:
- Tuần vệ ! Đi đâu thế ?
Trông đứa nhỏ hơi quen, mới ngờ ngợ thằng bé đã nhanh nhảu:
- Kính chào đại hiệp, cháu là Jotaro.
Shoda sực nhớ ra, gật gù thấy thằng bé đã học được bài học trên đường Yamoto tháng trước. Hắn hỏi:
- Ngươi vào đây làm gì ?
- Cháu đã xin phép ông này.
Jotaro vừa nói vừa chỉ người lính.
Shoda quay sang tên túc vệ:
- Ngươi dẫn thằng bé này vào đây làm gì ?
- Thưa quản gia, nó muốn xin gặp đại nhân.
- Xin gặp ta ? Ai muốn gặp ta, ngươi cũng dẫn vào hay sao ? Này bé con !
- Dạ.
- Đây không phải là chỗ chơi, đi nơi khác.
- Cháu có đến chơi đâu, cháu mang thư của sư phụ mà.
- Sư phụ ngươi là giang hồ lạc thảo đang tìm thầy học đạo như ngươi nói trước đây phải không ?
Nghe lời khinh miệt, Jotaro có ý giận. Nó đáp:
- Thì đại hiệp cứ đọc thư khắc biết.
- Ta không đọc.
- Sao vậy ? Đại hiệp không biết chữ à ? Chỉ có không biết chữ mới không đọc được thư.
- Thằng bé này lắm miệng quá ! Ta không đọc không phải vì không biết chữ mà vì thấy vô ích.
- Đại hiệp cho là vô ích thì đừng trả lời. Nhưng ít nhất người có lễ độ cũng phải đọc thư người khác gửi cho mình chứ.
- Thời nay bọn lạc thảo nhiều như ruồi, nếu ta phải giữ lễ với tất cả bọn đó thì thời giờ đâu ta làm việc khác ! Ta không cần đọc thư cũng thừa biết trong đó nói cái gì, đại khái thầy ngươi ca tụng nhà Yagyu là kiếm sĩ siêu phàm, muốn tiếp kiến để mở rộng tầm mắt hoặc xin tá túc ít lâu chứ gì ! Có đúng thế không ?
Jotaro đỏ mặt:
- Cháu không biết.
- Theo tục lệ Ở đây, ai đến nhà Yagyu xin việc gì cũng đều được đãi ngộ tử tế.
Ngươi đi theo người lính này xuống nhà ngang, đưa thư cho ông đội trưởng. Ông sẽ tìm một chỗ cho thầy trò ngươi ở tạm và khi nào đi sẽ giúp thầy ngươi một số tiền nhỏ làm lộ phí.
Jotaro lắc đầu. Mặt nó trở nên nghiêm nghị:
- Đại hiệp đừng trông bề ngoài mà xét người. Cháu không phải ăn mày mà sư phụ cháu chắc cũng không xin xỏ gì đại hiệp.
Shoda hơi bẽ, hắn nhìn Jotaro, tuy tức nhưng thấy thằng bé có hào khí cũng nể.
- Vậy sao ? Ngươi muốn gì ?
- Cháu chỉ xin đại hiệp đọc thư. Sư phụ cháu không như những người khác. Mà đại hiệp đọc thư thì có ai cắt cổ đại hiệp đâu !
Shoda bật cười. Ừ, thằng bé nói có lý. Qua hàm râu quai nón rậm, tiếng cười của hắn vang vang làm mọi người trong phòng cũng cười theo. Hắn giơ tay:
- Đưa đây. Ngươi thật là đứa bất trị.
Jotaro cầm cuốn thư đưa cho Shoda. Hắn cởi dây, bật niêm, yên lặng ngồi đọc.
Mặt hắn dần trở nên nghiêm trang. Khi đọc xong, Shoda ngẩng lên hỏi Jotaro:
- Ngươi có mang theo cái gì cùng với thư này không ?
- Ấy quên, có. Còn cái này nữa.
Và Jotaro lật đật lấy trong tay áo kimono ra một đoạn cuống hoa đưa cho Shoda.
Shoda ngồi đăm chiêu nhìn lá thư rồi lại nhìn đoạn cuống hoa. Hắn gãi râu không hiểu ý của người viết:
“Tại hạ không biết ai đã cắt nhành mẫu đơn này. Có một cái gì kỳ lạ làm tại hạ vô cùng ngưỡng phục toát ra từ vết cắt, thúc đẩy tại hạ tìm hiểu bậc cao nhân nào đã ra tay tinh mật đến thế. Chuyện không có gì, nhưng nếu các hạ không cho đó là phiền, xin cho biết danh tính của bậc cao nhân ấy, tại hạ hết lòng đa tạ”.
Thư không đả động gì đến chuyện xin tá túc hoặc muốn vào nhập môn nhà Yagyu hay đòi tỷ kiếm với bất cứ ai trong cốc.
- Hừ, lạ thật !
Shoda lại cầm đoạn cuống hoa lên ngắm nghía thật kỹ, vẫn không phân biệt được sự khác nha giữa hai vết cắt.
- Murata ! Hắn gọi. Vào đây xem cái này. Lạ lắm !
Murata Yozo vào. Shoda đưa cho xem lá thư và cuống hoa, nhưng Murata cũng không phân biệt được.
- Theo trong thư thì vết cắt hai đầu có khác. Tiểu đệ không nhận ra. Thử hỏi Kimura xem !
Hai người bèn mang thư và cuống hoa lên văn phòng Kimura. Kimura Sukekuro cũng là tay kiếm sĩ tinh thục, nhiều kinh nghiệm bôn tẩu giang hồ, hiện giúp việc quản trị sổ sách và chi thu trong nhà Yagyu. Shoda và Murata đem thư đến thì Kimura cũng vừa định xuống võ sảnh.
Nghe chuyện, xem thư và cuống hoa, Kimura tỏ ra băn khoăn chẳng kém gì hai bạn đồng bối. Nhưng hắn nói:
- Hôm qua, đệ có thấy lão nhân gia cắm bông mẫu đơn trắng trong phòng rồi sai Otsu mang một bông hoa y như thế ra quán Wataya. Chắc chỉ có lão nhân gia cắt hoa chứ không ai ! Bấy giờ hình như có Shoda huynh ở đó mà !
- Có, đệ có thấy nhưng không rõ có phải lão nhân gia cắt không !
Đột nhiên Shoda giật mình, lấy tay đập vào bức thư:
- Á ! Chúng ta có mắt mà như không ! Thật vô ý quá ! Tên người viết rành rành ra đây. Shinmen Miyamoto Musashi. Có phải Musashi, người đã giúp đền Hozoin trừ sạch bọn gian ác ở đồng cỏ Hannya không ?
Ba người truyền tay nhau lá thư đọc lại.
- Ừ, có thể lắm !
- Có thể lắm !
- Xem thư biết khẩu khí. Nếu quả vậy thì hắn có con mắt tinh đời hơn chúng ta, trông vết cắt trên cuống hoa biết công phu nhà Yagyu. Đồng thanh tương ứng, tay này đáo để lắm, không coi thường được.
Kimura bàn:
- Nếu đúng là Miyamoto Musashi thì ta nên gặp. Để xem tài hắn đến đâu và hỏi cho ra cái lẽ ở đồng cỏ Hannya.
Shoda vội nói:
- Nhưng lão nhân gia đã có lệnh không tiếp ai. Ta không thể để hắn vào võ đường mà không trình lão nhân gia biết được.
- Hay là thế này. Bây giờ là mùa hoa tử thảo mà đỗ quyên cũng sắp đâm bông. Ta tổ chức một bữa tiệc nhỏ, uống rượu ngắm hoa để lấy cớ mời hắn đến. Hắn thì chắc không từ chối rồi, mà lão nhân gia có biết chắc cũng chẳng quở, vì là chuyện riêng mà !
- Hay lắm ! Ý kiến ấy hay lắm ! Nhân thể có thằng nhỏ đợi, ta thảo thư phúc đáp ngay đi.
oo Jotaro chờ trong phòng, không biết nói chuyện với ai, buồn quá bỏ ra hiên đứng nghênh trời nghênh đất. Vườn sau rộng thênh thang, cây rậm rạp rất hợp với ý nó. Jotaro len lén ra vườn, đi quanh quẩn. Một con chó đen lớn trông thấy Jotaro, ve vẩy đuôi. Nó dừng lại, để hai tay ra sau gáy, gọi. Chó và người nhìn nhau một lúc rồi con vật đến gần ngửi áo và tay chân Jotaro. Jotaro vuốt đầu con chó. Cả hai làm quen với nhau được một lúc thì thân mật rõ ràng. Thằng bé ôm cổ con chó và con chó thè lưỡi liếm mặt thằng bé.
Trong khi chơi đùa, Jotaro bỗng nảy ý nghĩ muốn giữ mõm con chó lại xem nó có cắn được không, bèn đưa hai tay ghì chặt lấy mõm chó, miệng nói:
- Nào, xem mày làm sao nào !
Con vật kêu ư ử, vẫy đầu lia lịa cố gỡ ra. Jotaro càng giữ chặt. Nó lấy chân quào Jotaro làm rách một miếng áo. Jotaro vội bỏ tay, chó thoát được sủa ầm ĩ. Sợ mọi người nghe tiếng, Jotaro lấy thanh kiếm gỗ gõ mạnh lên đầu chó khiến con vật nổi hung nhảy vào cắn tới tấp. Jotaro kinh hãi, hai tay che mặt, người và chó lăn lộn dưới đất. Tiếng Jotaro kêu cứu lẫn tiếng chó sủa và tiếng chân người chạy rầm rập vang động cả khu vườn yên tĩnh.



Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Hai T12 11, 2006 10:51 pm
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ

QUYỂN 2 : Sui No Maki


CHƯƠNG 18
TIẾNG SÁO




Về phòng trọ, Jotaro đến trình diện sư phụ. Những vết xây xát ngang dọc trên mặt làm nó đau lắm, nhưng Jotaro gan không than thở, chỉ móc trong bọc lá thư đưa cho Musashi:
- Thưa thầy, có thư phúc đáp.
Jotaro kể lại vắn tắt chuyện gặp Shoda, nhưng không đả động gì đến vụ vật nhau với con chó. Trong khi nói, những vết thương trên mặt nó căng ra, rướm máu. Musashi nhìn Jotaro trừng trừng nhưng thấy nó không kêu ca hay giải thích nên cũng không hỏi. Hắn bảo học trò xuống nhà dưới rửa mặt rồi vội vàng mở thư ra đọc.
Đến cửa bếp, Jotaro gặp Kocha. Nhìn mặt Jotaro, Kocha ngạc nhiên:
- Ủa, sao vậy ? Lại nhảy vào bụi gai bắt chim phải không ?
- Không. Chó cào !
- Chó cào ? Chó nào vậy ? Trêu nó hả ?
- Chó trong vườn sau Đại lâu.
- A ...con chó đen phải không ? Dữ lắm, sức anh sao địch được nó. Trước đây có tên trộm vào rình rập trong vườn bị nó cắn suýt chết đấy.
Kocha dẫn Jotaro ra suối, ân cần vã nước lạnh lên mặt rửa các vết thương cho nó rồi đưa vào phòng kho bảo ngồi ở chân đống rơm đợi ả đi lấy thuốc. Thuốc bôi xong, mặt Jotaro trông nhem nhuốc như con gà bôi phẩm. Không nín được cười, Kocha quay đi lấy tay che miệng, sau nghĩ sao lại ngồi bên cạnh Jotaro, dịu dàng cầm tay nó đặt vào tay mình.
Một cảm giác ấm áp truyền từ cô bé sang làm Jotaro thấy dễ chịu. Nó đỏ bừng mặt nhìn người bạn gái mới. Ngoài kia, ánh nắng ửng lên, chan hòa trên những cánh hoa đào bắt đầu nở rộ.
Tối hôm ấy, Musashi đóng cửa ngồi một mình trong phòng không nói với ai lời nào. Đến đêm, hắn cũng không ngủ, nằm yên mắt dán lên trần nhà, suy nghĩ lung lắm. Jotaro co ro trên chiếc chiếu ở góc phòng, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn trộm sư phụ, tự hỏi không biết ông có rõ chuyện mình bị chó cào không ! Nó cũng nghĩ lan man, vừa tức giận và có ý trả thù con vật, vừa vui thích khi tưởng đến chuyện ngồi bên Kocha trong gian nhà kho, rồi cơn buồn ngủ kéo đến làm nó thiếp đi lúc nào không biết.
Sáng hôm sau, vừa tỉnh dậy, Jotaro đã thấy sư phụ ngồi một mình uống trà bên cửa sổ, mặt lầm lì, dáng tư lự. Nó len lén đi ra ngoài hiên thì Musashi gọi giật lại.
Ruột thót lên cổ, Jotaro chắc phen này bị mắng hoặc phải đòn, nhưng không, thầy nó chỉ sai đi gọi chủ quán để tính tiền và bảo sửa soạn để buổi chiều lên đường. Jotaro thở phào, vui vẻ chạy ra cửa.
Trời vừa ngả bóng, thầy trò Musashi đã sẵn sàng. Chủ quán đứng đợi tiễn khách trước cổng. Ông cảm thấy quyến luyến và có cảm tình đặc biệt với người khách trọ trẻ tuổi trang nghiêm và hào sảng tuy khách mới ở được non một tuần.
Đi một lúc, Musashi linh cảm có điều gì khang khác, quay lại quả nhiên không thấy Jotaro đâu. Hắn lên tiếng gọi, không ai trả lời, bèn trở lại quán thấy tên tiểu đồ đang bịn rịn từ biệt cô hầu nhỏ. Musashi quắc mắt, sẵng giọng:
- Jotaro !
Jotaro líu ríu theo thầy, trong khi cô bé quay đi kéo vạt áo chùi mắt.
Khỏi làng được một quãng, Musashi hỏi đồ đệ:
- Còn xa không ?
- Thầy đi đâu ?
- Đến Đại lâu.
- Ta ngủ đêm ở đó hả thầy ?
- Không chắc. Ta được mời đến đó bữa nay. Ngủ đêm ở đó hay đi đâu còn tùy, sẽ liệu sau.
- Vậy gần tới rồi. Cái cổng lớn đằng kia là cổng Đại lâu đấy.
Musashi đến trước cổng. Những tảng đá lớn dưới chân cổng loang lổ rêu xanh, rặng tre già mọc sát bờ lũy rì rào, kẽo kẹt, vài vạt nắng chiều còn thoi thóp đọng trên những ngọn cây cao. Chiều rồi. Buổi chiều êm đềm trong một thung lũng cô tịch. Có ai mới lên đèn trong căn nhà gỗ nhỏ phía bên kia cổng dùng làm điếm canh. Musashi lên tiếng gọi. Khi người lính tuần cầm giáo ra mở cổng, Musashi trao thư cho hắn và xưng danh:
- Tại hạ là Musashi, được mời đến gặp vị chấp quản. Xin báo cho biết tại hạ có mặt ở ngoài này.
- Dạ. Tiểu tốt đã được lệnh đón đại hiệp ở đây. Xin mời đại hiệp vào.
Thầy trò Musashi theo chân người lính tuần qua nhiều dãy hành lang đến một căn phòng rộng. Trong ánh chiều chập choạng, hắn để ý các phòng dọc theo hành lang, phòng nào cũng kê đầy những kệ sách. Chắc không phải chỉ là binh thư, kiếm phổ vì làm gì mà nhiều đến thế, mà còn đủ loại sách khác. Nhìn cách trần thiết trang nhã, cổ kính; những lối đi, vườn tược gọn gàng cùng phong cách khiêm cung của lính tuần, hắn thấy chủ nhân là người ưa nếp sống thanh đạm, những người chung quanh ông hẳn không đến nỗi thô lỗ. Mặc dầu nhà Yagyu nổi tiếng về kiếm thuật nhưng bản chất dân Trúc Lâm, nhất là ở Đại lâu này, hẳn là bản chất hiếu hòa, ưa đọc sách hơn dùng kiếm.
Musashi cởi dép bước vào phòng ngồi đợi trong khi người lính dẫn Jotaro đến một phòng khác ở vườn sau và đi thông báo cho Shoda biết.
Căn phòng rộng trần thiết đơn giản, ngọn đèn lồng không đủ soi sáng hết mọi phía. Trên tường đối diện cửa sổ treo một bức cổ họa vẽ một người ra vẻ đạo sĩ đang múa kiếm dưới trăng, bên dưới đặt một bình hoa nhỏ, men xanh da rạn cắm độc nhất bông hồng trà mới nở. Trong cái khung cảnh khắc khổ của gian phòng, có lẽ bông hoa này là vật duy nhất mang lại đôi chút vui tươi cho tân khách. Ngoài hiên, dưới ánh đèn đá thấp, rặng tử thảo đã nở hoa, màu xanh tía thẫm nhạt chen nhau, hương tỏa nhẹ nhàng ngây ngất. Musashi giật mình nghe tiếng ếch kêu, tiếng ếch đầu mùa báo hiệu mùa mưa sắp tới. Hắn lắng tai chờ nó kêu nữa, nhưng không nghe động tĩnh gì, chỉ thoảng như có nước chảy ở quanh nhà. Tiếng róc rách nhẹ lắm, nghe rất xa mà đôi lúc lại thật gần như ngay bên vách tường hay dưới chân. Một cảm giác mát rượi, thoải mái bao quanh lấy hắn, nhưng trong thâm tâm hắn bồn chồn lo ngại. Không biết đấy có phải là phản ứng mãnh liệt do bản chất hiếu chiến của hắn phát ra cả trong những lúc yên ổn như thế này không. Hắn nhớ đến nhà sư già mày trắng, cố giữ cho lòng bình thản nhưng vẫn không dằn được, đảo mắt nhìn quanh. “Yagyu là kiếm sĩ, ta cũng là kiếm sĩ. Yagyu giàu kinh nghiệm nhưng già rồi, chưa chắc ăn đứt được ta. Hãy thử. Kiếm học nhà Yagyu chỉ có ta mới lượng định được !”.
- Tráng sĩ tha lỗi, để người phải chờ, thật đắc tội !
Shoda Kizaemon vừa bước qua cửa đã cúi đầu thi lễ và xin lỗi ngay, theo sau là Murata và Kimura. Giới thiệu xong, vừa an tọa thì kẻ hầu đã bưng rượu ra. Rượu sa-kê cất ngay tại trong cốc, không được trong lắm nhưng vị đậm mà êm, lại được rót vào bát sành theo kiểu xưa, mới hâm nóng nên hương tỏa ngào ngạt. Shoda vui vẻ:
- Ở chốn thôn dã hủ lậu, chẳng có gì đặc biệt khoản đãi, xin tráng sĩ vui lòng dùng tạm.
Musashi tươi cười đáp lễ. Hắn cảm ơn, nâng bát uống cạn. Tuy thích sa-kê nhưng không phải là tay sành rượu, hắn không thưởng thức được hết hương vị đậm đà của thứ danh tửu này cất ngay tại cốc bằng chính gạo nếp và nước suối địa phương.
Mỗi người rót mừng một bát, Musashi trong người nóng ran, sự dè dặt ban đầu bớt đi nhiều. Kimura gật gù:
- Các hạ tửu lượng thật hào ! Hôm nay gặp nhau hãn hữu lắm đấy, xin uống say, đừng vì sơ kiến mà e ngại.
Rồi nghiêng đầu lại gần Musashi:
- Các hạ có biết ai cắt nhành mẫu đơn ấy không ? Chính Muneyoshi lão nhân gia đó!
Musashi đập tay lên đùi cười lớn:
- Biết ngay mà ! Tại hạ đoán không lầm. Thật là tuyệt diệu !
Murata chen vào:
- Có điều bọn tại hạ không hiểu tại sao các hạ phân biệt được nhát kiếm đó với nhát kiếm của những người khác. Xin nói rõ được chăng ?
Musashi đáp cầm chừng, vì thật ra hắn cũng không hiểu tại sao hắn nhận ra điều ấy nữa:
- Vậy hả ? Các vị không rõ thật ư ?
- Dĩ nhiên. - Shoda tiếp theo - Tại hạ không thấy gì đặc biệt trong vết cắt, nhưng các hạ đã phân biệt được hẳn phải có con mắt chẳng tầm thường. Dám xin chỉ cho biết rõ.
Musashi nâng bát rượu lên uống một hớp, mắt đăm đăm nhìn về phía trước, lúc sau mới đáp:
- Cũng chẳng có gì lạ, chỉ nhờ may mắn ...
- Xin đừng quá khiêm ! Bọn tại hạ ngưỡng mộ tài năng các hạ, mời đến đây, chớ nên giấu diếm.
- Tại hạ quả không dám giấu, có lẽ nhờ trực giác nên trong một phút xuất thần, cảm quan ...
Ba người kia lắc đầu tỏ vẻ không tin. Là những tay giang hồ nhiều kinh nghiệm và có nhiệm vụ bảo vệ cốc khi hữu sự, làm sao họ có thể tin dễ dàng như vậy được. Huống chi cả ba đã ngầm ý quan sát và phân tích con người cùng sở học của Musashi.
Họ để ý đến dáng điệu quê kệch khi hắn cầm bát, lối giơ tay chùi mép sau mỗi lần uống, những cử chỉ tuy nhỏ nhặt nhưng tố giác gốc nông dân của hắn. Điều làm họ ngạc nhiên là không hiểu võ công Musashi ra sao mà hắn có một trực giác bén nhậy và những nhận xét tinh tế đến thế ! Murata đã ngà ngà say, không còn giữ gìn nữa:
- Cảm quan gì ? Tại hạ biết được không ?
- Đã gọi là trực giác thì cảm hoặc không cảm, thế thôi ! Làm sao giải thích ? Điều này bất khả ngôn truyền, chỉ so kiếm mới rõ, không có cách gì khác !
Shoda nhìn hai bạn đồng bối. Tuy không nói toạc ra nhưng lời vừa rồi của Musashi rõ ràng ngụ ý thách thức.
Cả bốn người ngồi im như tượng. Ngọn đèn dầu thông tỏa khói đen đặc quánh bốc thẳng lên cao trong bầu không khí ngột ngạt. Một tiếng ếch kêu từ ngoài vườn vọng vào, cô độc và tắc nghẹn.
Shoda là người đầu tiên cười lớn, phá tan bầu không khí yên lặng căng thẳng đó:
- Hà hà ...phải lắm ! Các hạ nói rất phải ! Làm sao truyền thụ được !
Rồi lái sang chuyện khác. Họ đàm luận về võ công, thiền học, kể lại những trận chiến danh tiếng họ đã tham dự như trận Sekigahara trước đây. Musashi ngồi nghe chỉ ừ hữ cho qua. Chưa say lắm, hắn vẫn còn đủ khôn ngoan không để lộ những thành tích của mình:
trong trận ấy, hắn chỉ là tên lính quèn trong hàng ngũ đối địch với nhà cầm quyền và thua trận. Vả lại mục đích của Musashi không phải đến đây đàm luận những việc đã qua. Hắn cần gặp Yagyu Muneyoshi. Thời gian đi mau, hắn biết nếu không gặp lão đêm nay thì không bao giờ còn hy vọng nữa.
Shoda gọi gia nhân mang cơm và thức ăn ra. Bữa rượu gần tàn, đêm đã khuya mà hắn vẫn chưa tìm được cách gì làm cớ ra mắt Yagyu Muneyoshi. Thất vọng, Musashi mượn chén nói nhiều câu khích bác với ý định chọc giận Shoda, Murata và Kimura nhằm gây náo loạn, nhưng ba người chỉ cười không để ý. Vô kế khả thi, hắn đứng dậy đến gần cửa sổ. Gió mát bên ngoài thổi lên da mặt nóng và ẩm mồ hôi của hắn, Musashi thấy dễ chịu tỉnh táo hơn.
Đột nhiên có tiếng chó sủa về phía vườn sau, trước còn rời rạc sau mau dần làm mọi người chú ý. Kimura đưa mắt nhìn Shoda:
- Shoda huynh có nghe thấy gì không ?
- Có. Tiếng con Ta-rô. Không hiểu chuyện gì mà nó sủa dữ thế !
Ta-rô là tên con chó mực mới hôm qua đè Jotaro xuống, cào nó sướt cả mặt, nếu không có gia nhân trong cốc chạy đến cứu kịp thì nó đã bị thương nặng rồi.
Tiếng chó sủa mỗi lúc một dữ dội, tru lên từng hồi dài, báo hiệu có người rình rập.
Dạo này trong cốc không được yên, tuy đa số những phần tử phản loạn đã bị dẹp gần hết, nhưng thỉnh thoảng một vài tên thảo khấu vẫn đi lại dòm ngó, nhất là nhà Yagyu vốn có tiếng là một địa phương trù mật.
Shoda, Murata, Kimura nhìn nhau, vẻ bồn chồn lộ ra mặt. Kimura đề nghị:
- Để tiểu đệ chạy ra xem ...
Hai người kia gật đầu, nhưng ngay sau khi Kimura vừa bước ra khỏi cửa, tiếng kêu của con chó vang lên ghê rợn, tiếp theo là một tràng hú dài, vài tiếng ằng ặc rồi im hẳn.
Shoda nhìn Musashi:
- Nó chết rồi !
Không giữ được kiên nhẫn, Shoda phất tay áo đứng dậy:
- Ta phải ra xem sao. Mutara huynh ở lại tiếp khách.
Musashi vội ngăn lại:
- Khoan ! Tên tiểu đồ của tại hạ còn ở phòng sau không ?
Không ai biết. Murata chạy vội ra ngoài và trở lại ngay nói thằng bé không còn ở đó nữa. Musashi quay sang Shoda:
- Tại hạ đã hiểu đôi phần. Xin cùng đi được không ?
Shoda không đáp, chỉ gật đầu bước vội ra cửa, theo sau là Murata. Gần đến khu vườn cạnh võ sảnh, một đám đông tụ họp lố nhố, người gậy kẻ đuốc, chỉ trỏ hò hét inh ỏi. Vài kẻ ở trần, chưa kịp cả mặc áo.
Đứng ngoài, Musashi nghểnh cổ nhìn vào, ruột thót lại. Đúng như hắn dự đoán, thằng Jotaro học trò hắn, mặt mũi bê bết máu, đương ngồi thở hổn hển trong vòng, tay lăm lăm thanh gươm gỗ. Ta-rô, con chó đen, nằm chết bên cạnh, mắt mở trừng trừng, một dòng máu lẫn rớt rãi rỉ ra từ mõm. Dưới ánh đuốc bập bùng, khói nhựa thông đen cuồn cuộn, trông Jotaro thật ghê sợ. Chó và người, máu với đất quện đầy mình không khác gì hai con quỷ mới ở âm ty chui lên.
Có giọng nói lớn át cả mọi tiếng ồn ào:
- Súc sinh ! Ngươi giết chó của lão nhân gia, ngươi phải đền mạng !
Ai nấy la hét:
- Đúng ! Đúng ! Bắt nó ! Đừng để nó chạy thoát !
Như được kích thích, kẻ vừa nói lập tức nhảy vào giơ tay chộp thằng bé. Nhanh như cắt, Jotaro lăn một vòng, người kia vồ hụt ngã sóng soài. Mọi người cười ồ. Không khí nửa bi nửa hài, cảnh đốt đuốc làm tội phạm nhân ở ngục A Tì chắc cũng chỉ đến thế!
Jotaro chạy đến dựa lưng vào gốc cây, một tay giữ ngực, tay kia cầm kiếm giơ lên chùi máu trên mặt, giọng đứt quãng:
- Phải ...Ta giết ...ta giết đấy !
- Sao ngươi giết nó ?
- Trả thù !
Mọi người ồ lên một tiếng ngạc nhiên. Không ai trả thù chó bao giờ, huống chi con Ta-rô này là chó quý, loại rặt giống chó săn do chính tay Yagyu cốc chủ giao cho hai tên túc vệ săn sóc. Bây giờ chuyện xảy ra như thế này, hai tên kia thoát sao khỏi bị trừng phạt.
Người lính ngã lúc nãy đã đứng dậy. Cơn giận nổi lên, mắt đổ hào quang, hắn vung nắm đấm thoi vào mặt Jotaro. Jotaro né, nhưng lần này tránh không kịp, quả đấm trúng vào vai. Nó ngã ngồi, bậm chặt môi giữ cho khỏi khóc.
Jotaro ngạc nhiên hết sức. Trong thâm tâm nó, hành động trả thù con chó rất là tự nhiên và chính đáng:
con vật đã cào rách mặt nó. Đối với một kiếm sĩ, đấy là một việc làm tổn thương đến danh dự, phải có phản ứng. Mà phản ứng thích đáng nhất, theo nó, là giết con vật. Không biết sao người lớn không hiểu chuyện ấy, đã không giúp nó thì thôi, lại còn tìm cách hành tội nó. Jotaro là một đứa trẻ liều lĩnh và bướng bỉnh, điều gì nó cho là phải, nó giữ vững, nhất định không chịu nhượng bộ.
- Ta không làm gì quấy, nó cắn ta, ta phải trả hận.
Người lính hét:
- Súc sinh ! Câm mồm ! Ngươi là con nít mặc kệ ngươi ! Ngươi giết chó của lão nhân gia, ta phải bắt ngươi trị tội !
Hắn đảo mắt nhìn quanh. Có kẻ gật đầu, có kẻ bàn bạc, tiếng ồn ào càng lớn. Xuất kỳ bất ý, hắn giơ tay chộp lấy vai thằng bé xách lên. Jotaro vùng vẫy, tay chém chân đạp lia lịa. Bọn Shoda cảm thấy bất nhẫn, nhưng vẫn đứng yên không can thiệp. Người lính xách Jotaro quay mòng mòng một vòng rồi vứt nó đánh bịch xuống đất. Jotaro ngã lăn ra. Nó lồm cồm bò dậy. Vừa nhục vừa tức, mặt nó xám lại. Người lớn, khi tức giận, còn có thể suy nghĩ hơn thiệt, dằn cơn tức để tìm cách đối phó sau; nhưng trẻ con lúc giận lên thì ngay đến mẹ nó cũng không sao bảo được. Dáng điệu Jotaro lật đật trẻ con, nhưng mắt nó bây giờ không còn là mắt trẻ con nữa. Lòng căm thù hừng hực, nó gầm lên man rợ tựa con thú bị thương dồn vào đường cụt, cong mình nắm chặt đốc kiếm gỗ, quyết chống cự đến cùng:
- Này bắt ! Vào đây bắt đi !
- Á à ! Thằng này giỏi. Ta giết ngươi như giết chó !
Dứt lời, gã đưa gây đập xuống. Miếng đòn ấy nếu trúng Jotaro thì đã rồi đời thằng bé, nhưng theo phản ứng tự nhiên, nó giơ kiếm lên đỡ. Rắc ! Thanh kiếm gãy làm hai, tung lên trời. Jotaro thấy người lính nhào về phía trước, bèn thuận đà nhảy phắt lên lưng gã, chân quặp vào hai bên sườn, răng cắn vào cổ áo, còn hai tay thọc mạnh vào nách người lính. Thế đánh bất ngờ này khiến người lính lúng túng, đánh rớt cây gậy, còn Jotaro như con rắn lục bám vào cành cây, giữ chắc, những ngón tay móng sắc nhọn cào như điên vào nách kẻ địch. Musashi ở vòng ngoài, cho đến bây giờ vẫn khoanh tay bất động. Một kẻ khác trong đám đông nhảy vào, giơ gậy định phang sau lưng thằng bé. Musashi liếc mắt trông thấy, quát lớn:
- Hèn !
Lập tức tung mình nhảy qua đầu những người đứng xem vào giữa vòng chiến.
Ngọn cước đặt đúng chỗ của hắn làm tên đánh lén bắn ra ngoài. Musashi nắm lấy áo Jotaro kéo ra, tiện chân đạp người lính ngã sấp. Jotaro mừng rỡ kêu lên:
- Thầy !
Hai tay Musashi đỡ đồ đệ lên cao khỏi đầu. Dưới ánh đuốc đã lụi, giọng hắn sang sảng hướng về phía tên lính:
- Ta đứng ngoài kia quan sát chuyện này từ đầu. Thằng bé là đồ đệ ta, nếu ngươi muốn gì phải hỏi ta trước !
Người lính đứng dậy, giọng vẫn còn hách dịch:
- Vậy tốt ! Ta bắt cả hai thầy trò ngươi.
- Được ! Bắt thằng bé này trước !
Musashi rỉ tai Jotaro:
“Giơ chân phóng vào ngực nó” đồng thời tung Jotaro đến trước mặt tên lính. Mọi người kêu lên kinh hãi. Họ chưa từng bao giờ thấy ai liều lĩnh đến thế:
dùng người làm võ khí, nhất là người đó lại là một đứa trẻ. Nhưng chưa kịp hoàn hồn, họ đã nghe đánh “hự”, người lính ngã ngửa về đằng sau. Jotaro dội ngược lại, lộn hai vòng rồi như quả bóng, lăn vào các lùm cây rậm rạp.
Diễn biến đột ngột làm mọi người sửng sốt. Không ai chú ý đến Jotaro nữa và đều quay lại nhìn Musashi:
- Thằng này là ai ?
- Đứa nào vậy ? Nó đến đây làm gì ?
- Thằng điên hay quân cường đạo ?
Không ai biết gốc tích Musashi và tại sao hắn có mặt trong cốc trừ Shoda, Murata và Kimura. Bọn gia nhân vây xung quanh hò hét, tay hờm sẵn đốc kiếm.
Nhưng Musashi vẫn điềm tĩnh như không. Giữa những tiếng chân huỳnh huỵch của bọn người mang thêm đuốc chạy tới, hắn giơ tay, mặt đanh lại, nghiêm trọng:
- Đồ đệ ta có lỗi, ta chịu trách nhiệm. Thầy trò ta sẵn sàng chịu lỗi, nhưng ta cảnh cáo các ngươi biết chúng ta không để các người giết như giết một con vật ! Nào, ai muốn bắt ta, vào đây !
Mọi người cùng ồ lên một lượt. Họ không ngờ tên này khùng đến thế. Thay vì nhận lỗi, hắn lại lên tiếng thách thức. Giá hắn chịu nhún một chút có lẽ cũng xong vì dù sao hẵn cũng là khách, Shoda sẽ bỏ qua và chuyện sẽ không đến tai cốc chủ. Nhưng không hiểu vì lý do gì hắn lại nhất định khiêu khích và có thái độ đổ dầu vào lửa như thế ?
Murata cau mặt quay sang nói với Kimura:
- Thằng này điên thực rồi. Để nó đấy cho bọn túc vệ xử trí, ta nên tránh thì hơn.
Nhưng Shoda lắc đầu. Hắn bước ra dưới ánh đuốc, giọng oang oang ra lệnh:
- Tên này dường như chủ mưu đến đây gây loạn. Nếu ta mắc mưu nó để có người mất mạng hay thương tật, tất sẽ bị quở trách. Con Ta-rô tuy quý nhưng không quan trọng bằng một mạng người. Bây giờ khuya rồi, tất cả hãy về nghỉ, chuyện gì cũng để ba chúng ta đối phó !
Nhiều người gật đầu, có người phản đối nhưng Shoda quả thật có uy quyền trong cốc. Hắn trừng mắt. Đám đông lục tục ra về. Vài kẻ còn ngập ngừng chưa chịu đi, Kimura phải đích thân giải tán.
Một lúc sau, trong vườn chỉ còn lại Musashi, Shoda, Murata và Kimura, nhưng đây không phải là khách với chủ mà là tội nhân trước mặt các phán quan.
Đuốc đã mang đi hết. Dưới ánh sao lờ mờ nhìn không rõ mặt người, giọng Shoda nghiêm khắc khác thường:
- Shinmen Miyamoto Musashi ! Ta rất tiếc âm mưu của ngươi đã bại lộ. Ta không rõ ai sai ngươi đến đây, nhưng việc làm ấy thật vô ích ...
Một bóng đen bé nhỏ len lén đến gần Musashi. Không nhìn xuống hắn cũng đoán biết là đồ đệ. Hắn để tay lên vai Jotaro, xoa nhè nhẹ trấn an. Vai áo nó cứng những máu đọng.
- Musashi ! Ngươi thất bại rồi, chỉ còn cách tự xử. Mặc dầu là đứa bất lương, nhưng ngươi đã tỏ ra khá can đảm, dám một mình cùng với thằng nhỏ này đến do thám. Hãy tỏ ra xứng đáng là người cầm kiếm, đừng để chúng ta phải ra tay vô ích !
Đối với Shoda, đó là cách giải quyết êm đẹp nhất. Hắn không được phép của Yagyu cốc chủ mời Musashi đến cốc nên nếu Musashi chết thì câu chuyện coi như xong, không gây hậu quả gì phiền phức.
Musashi cười nhạt:
- Ta chưa muốn chết.
- Hay lắm ! Kimura nói gằn giọng. Chúng ta đã hết lời tử tế với ngươi, nhưng ngươi cố tình lạm dụng lòng tốt ...
Murata nóng nảy:
- Thôi, không nói nhiều. Đi !
- Đi đâu ?
- Vào ngục.
Musashi cười ha hả. Hắn cầm tay Jotaro gật đầu:
- Ừ thì đi !
Nhưng lại xăm xăm bước về phía Đại lâu. Murata nhảy ra ngăn lại:
- Ngươi đi đâu vậy ? Ngục thất ở đằng này !
Musashi khẽ đẩy đồ đệ ra, bảo nhỏ:
- Lại ngồi đằng kia, con.
Jotaro hiểu ngay. Cảnh chiến đấu trên đồng cỏ Hannya buổi chiều hôm nào hiện rõ mồn một trong trí nhớ. Nó vụt đi nhanh như tên bắn.
- Ta không muốn vào ngục.
- Không vào ngục ? Vậy ngươi muốn gì ?
- Gặp Yagyu Muneyoshi !
Câu trả lời của Musashi khiến cả ba đứng sững. Không ai ngờ Musashi liều lĩnh tới mức đó. Shoda là người cao niên nhất cũng phải cau mặt:
- Ngươi gặp cốc chủ làm gì ?
- Ta muốn thỉnh giáo vài thế kiếm.
- Á à ! Sao không nói trước ?
- Muneyoshi không cho ai gặp, lại không bao giờ tiếp khách giang hồ đến xin yết kiến, phải vậy không ?
- Đúng vậy.
- Vậy ta thách các ngươi ! Ta tuyên chiến với cả cốc !
Đối với ba người, Shoda, Murata và Kimura, tiếng tuyên chiến nghe quá lớn và có vẻ kiểu cách, nhưng đối với Musashi, tiếng đó mới chỉ đúng ý muốn của hắn. Vì đây là một trận đấu không phải hơn thua nhau về kỹ thuật của từng thế kiếm mà là một cuộc chiến toàn diện, đem cả sinh mạng mình ra đánh cuộc. Chiến tranh giữa hai quốc gia hay thị tộc có thể khác nhau về hình thức, nhưng trên căn bản cũng không khác.
Trong đêm tối bôn người nhìn nhau không nói, sự cảm thông gần như trọn vẹn.
Một con cú lớn bay ngang qua, tiếng đập cánh nhẹ tựa gió thoảng. Dưới ánh sao thưa, bóng nó thoáng hiện ra rồi lẩn ngay trong những tàn lá rậm.
Murata xắn tay áo:
- Được lắm ! Ngươi muốn chiến tranh sẽ có chiến tranh. Không có tù và, trống trận nhưng ta vui lòng tiếp ngươi. Shoda huynh, Kimura huynh, xin lược trận cho.
Hắn rút kiếm đánh soạt. Kiếm quang vừa lóe, hắn đã nhảy ngay về phía trước, lưỡi kiếm bổ xuống đầu Musashi mạnh như vũ bão. Musashi không né tránh, chỉ trầm mình xuống rút kiếm đỡ ngọn đòn của Murata. Một tiếng choang, ánh lửa thép nhoáng lên như than nổ trong lò, Musashi xoay kiếm quét một đường vòng cung dưới chân Murata nhưng hắn khôn ngoan nhảy lui ra xa một trượng thủ thế.
Hai người đứng cách nhau chừng năm bước, im lặng và quyết liệt. Shoda nói nhỏ với Kimura:
- Có chuyện đấy, không khinh thường được đâu !
Tuy hai người không trực tiếp giao đấu nhưng Shoda và Kimura luôn trong tư thế sẵn sàng. Sau đường kiếm vừa rồi, họ thấy Musashi không phải tay tầm thường, đáng là đối thủ của Murata.
Murata cầm kiếm hai tay ngang tầm ngực, lưỡi kiếm thẳng đứng, toàn thân im như tượng. Musashi đứng nghiêng, im không kém, tay phải giữ kiếm gần lá chắn, cườm tay cao, vai hơi đưa ra đằng trước. Trong đêm tối, mắt hắn đen hơn cả bóng đêm, nhìn địch thủ không chớp.
Chiến tranh cân não giữa hai người kéo dài như vô tận, nhưng bóng tối quanh mình Murata hình như hơi rung. Người tinh ý thấy hắn thở nhanh hơn, nội tâm hắn dường giao động.
Kimura hừ một tiếng khẽ. Câu chuyện ban đầu không đáng gì, bây giờ thành quan trọng. Mũi tên đã bắn đi không lấy lại được nữa. Hắn cũng nghĩ như Shoda, việc này cần giải quyết sớm chừng nào hay chừng nấy, mà cách giải quyết tốt nhất là phát lạc nhanh chóng cho Musashi. Không ai bảo ai, cả hai cùng rút kiếm khỏi vỏ, di chuyển sang tả hữu, vây Musashi vào một gọng kìm.
Ngay lúc đó, một tiếng thét rùng rợn rung động cả đêm sâu, một đường kiếm xẹt nhanh như sao lạc, Musashi đã đổi bộ vị, đứng dựa lưng vào gốc cây lớn với ba đối thủ trước mặt. Thế gọng kìm bị phá vỡ.
Dưới bóng cây tối đen như mực, ánh sao thưa lờ mờ yếu ớt, nhưng từ đó Musashi nhìn ra ngoài, trông rõ mọi cử động của cả ba địch thủ. Bóng Musashi nhập với bóng đêm làm một. Trong cái lúc mà biên giới sống chết chỉ cách nhau một sợi tơ, đầu hắn lạnh như băng nhưng da hắn nóng hừng hực. Sinh lực tràn trề trong cơ thể, từ những thớ thịt đường gân muốn bứt tung qua khắp các lỗ chân lông, trên những ngọn tóc, những đầu móng tay. Không biết đấy có phải là chân như của nhà Phật, lẽ huyền đồng của Đạo gia hay chỉ là sự tương dung của hai thái cực trong quá trình sinh tồn của vật chất ?
Không khí nặng như chì. Không một cơn gió, không cả tiếng côn trùng. Giờ phút ấy, người ta thường nghĩ đến cái chết. Musashi thì không, mặc dầu hắn không nắm chắc phần thắng.
Có tiếng động nhẹ về bên trái. Musashi biết Shoda vừa thay đổi bộ vị. Lập tức hắn cũng di chuyển theo. Thế trận này không có lợi cho hắn nếu không có một biến chuyển gì làm thay đổi cục diện. Mồ hôi lấm tấm trên mặt, hắn liếc mắt nhìn bên phải, chỗ Kimura đứng. Hắn muốn tốc chiến tốc thắng, một đường gươm chớp nhoáng và chính xác có thể phá vòng vây, đồng thời giải quyết cuộc chiến chóng vánh.
Quang cảnh thật kỳ lạ. Dưới ánh sao thưa, bóng ba người lờ mơ đứng đóng đinh xuống đất, quây xung quanh một gốc cây tối đen như mực. Trong cái yên tĩnh ngột ngạt, đột nhiên từ xa vọng lại một âm thanh không ai ngờ tới, âm thanh của cây sáo trúc.
Tiếng sáo nhẹ nhàng thanh thoát rót vào tai mọi người, theo gió đưa đến trong vắt.
Musashi giật mình. Hắn không lầm được, đó là tiếng sáo của Otsu với những âm hưởng mê hồn đã lôi hắn vào tay Takuan. Trong nháy mắt, lòng hắn dịu lại, hắn quên kẻ địch trước mặt, quên cả sống chết, trí lâng lâng như tan loãng vào không gian. Một nháy mắt phân tâm nhưng đủ để định thành bại cả cuộc chiến.
Trong tiếng thét mạnh như sấm động xé tan màn đêm tịch mịch, Murata phóng tới, lưỡi kiếm hắn như dài thêm mấy tấc. Kiếm quang lóe cạnh thái dương, Musashi cảm thấy lạnh ở bả vai, tay áo hắn bị cắt đứt một đường dài đến khuỷu. Bắp thịt toàn thân Musashi co lại, hắn chắc bị thương. Chỗ áo rách phơi thịt trần đã thấy rát. Lòng tự tin không còn nữa, Musashi hét lên một tiếng bi ai, lấy hết sức bình sinh đạp vào gốc cây nhảy qua đầu Murata lên một cành thấp gần đó. Hắn chuyền cành nọ sang cành kia, nhảy mãi nhảy mãi cho đến tận bờ hào Đại lâu mới buông mình rơi xuống, lẩn vào các bụi lau sậy mất dạng.
Xa xa, tiếng sáo vẫn văng vẳng đưa tới càng lúc càng thêm tha thiết ...


Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Hai T12 11, 2006 10:54 pm
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ

QUYỂN 2 : Sui No Maki


CHƯƠNG 19
CÁNH CHIM HỒNG




Hào sâu hay nông, khô hay cạn, Musashi không biết. Trời tối quá, hắn nhìn xuống dưới chỉ thấy hun hút. Musashi chuyền cành, tay bám vào cây, tay cầm đá ném. Không nghe tiếng đa chạm mặt nước, bèn yên chí tụt dần xuống đến khi chân chạm đất mới nằm phục vào bụi cỏ. Một lúc sau đỡ mệt và thấy kinh mạch vẫn điều hòa, Musashi biết là vết thương không nguy hiểm. Sờ vào cánh tay, máu đã se nhưng hắn cũng cứ xé vạt áo ra buộc lại.
Tiếng sáo đã im hẳn. Đâu đây có tiếng cú rúc làm đêm khuya càng thêm tĩnh mịch. Musashi tự nhủ:
“Rõ ràng tiếng sáo của Otsu. Không biết sao nàng lưu lạc tới đây ! Ở đời thật lắm chuyện ngẫu nhiên khó mà lường được !”. Một phút phân tâm đủ thay đổi cả những dự định của hắn, làm hắn lỡ cơ hội gặp Yagyu Muneyoshi nhưng cũng dạy hắn bài học quý báu.
Nhìn ánh sao lờ mờ ẩn hiện trên trời cao, Musashi không thể nào không nghĩ tới Otsu. Lòng mềm hẳn lại, bao nhiêu kỷ niệm cũ ào đến:
cũng dưới bầu trời sao thưa và lộng gió như đêm nay, hắn đã chia tay cùng Otsu trên đỉnh đồi Nakayama.
Nàng hứa đợi, trăm ngày, ngàn ngày cũng đợi. Rồi lúc ở trên cầu Hanada, hắn cũng đã bỏ đi sau khi khắc trên thành cầu bốn chữ:
“Tha lỗi cho ta”. Bây giờ Otsu ở đâu ? Nàng làm gì, có nghĩ đến hắn không ? Thương cảm tràn ngập, hắn lẩm bẩm một mình trong đêm tối, nước mắt lưng tròng:
“Tha lỗi cho ta ! Tha lỗi cho ta !”.
Gió thổi rì rào qua hàng lau sậy. Trong gió dường như có tiếng than vãn lẫn với những tiếng rì rầm to nhỏ. Musashi định thần, lắng tai. Tiếng rì rầm càng lúc càng lớn, ánh đuốc lập lòe ẩn hiện qua những bụi cây rậm rạp trên bờ rào. Gia nhân trong cốc đổ đi tìm hắn, lấy gậy và giáo dài xỉa vào các bụi cây, phạt ngang đầu những ngọn cỏ cao, la gọi nhau ơi ới. Musashi nằm yên không động đậy, kiếm tuốt trần nắm sẵn trong tay, sẵn sàng vùng dậy nếu bị phát giác. Nhưng hình như bọn kia không biết có hắn trốn ở đó. Sau một lúc tìm kiếm vô hiệu, họ bỏ đi; tiếng ồn ào và ánh đuốc xa dần sau những bụi tre cao và rậm.
Musashi đưa tay áo quệt nước mắt. Hắn giận mình đã yếu lòng và đã khóc.
Hắn tự nhủ:
“Chắc chúng cho mình hèn. Nhưng chưa đâu, phần thắng bại chưa rõ rệt.
Để rồi xem ! Yagyu Muneyoshi mới chính là đối thủ của ta !”.
Musashi men theo bờ hào, lầm lũi đi trong bóng tối. Một lúc lâu lắm hắn đến một nơi có tường đá chắn ngang, hắn dừng lại nhìn lên, không thấy trời đâu, chỉ thấy tàng cây xòe ra đen nghịt. Đằng trước là bức tường sừng sững, sờ vào ẩm ướt và trơn trợt, không sao leo lên được. Thất vọng, hắn định quay trở lại, bỗng nghĩ ra một kế. Hắn bẻ cành cây cắm luồn vào khe đá làm bậc, tay nắm chân đạp, hì hục trèo lên khỏi hào.
Trời đã khuya lắm hay sắp sáng, hắn cũng không rõ. Trong một thoáng, Musashi nghe như có tiếng Jotaro gọi, nhưng lắng tai chú ý, chỉ thấy gió rì rào. Hắn nghĩ đến đồ đệ, không biết thằng bé ra sao, nhưng tin là nó tháo vát có thể trốn được. Không còn thấy ánh đuốc, Musashi chắc bọn gia nhân trong cốc đã đi xa hoặc bỏ cuộc rồi. Sự tháo chạy vừa qua làm Musashi càng nghĩ càng tự giận mình. Mặc cảm thất bại ám ảnh, hắn nhất định phải tìm cho được chỗ ở của Yagyu Muneyoshi để thách đấu. Chủ quán Wataya đã cho hắn biết Muneyoshi ở ẩn trong một thảo am ven suối cạnh rừng trúc, nhưng không rõ về hướng nào. Vả lại trời tối quá không sao định hướng được nên hắn cứ đi bừa, lợi dụng bóng đêm tránh bọn gia nhân trong cốc.
Đi mãi, đi mãi ... Lũy đất dài như vô tận báo cho hắn biết hắn vẫn còn quanh quẩn trong vòng rào đại lâu. Trời bắt đầu hửng sáng, bóng núi xa đã hiện lên mờ mờ trên nền trời hồng nhạt. Musashi nghe tiếng nước chảy đâu đây, bấy giờ mới nhận ra mình khát. Lần theo tiếng nước chảy, hắn vạch cỏ tìm đường, đến một nơi hình như là đầu ngọn suối. Chỗ này khoáng đãng, cỏ gai và bụi rậm bớt đi nhiều, chỉ còn những gốc tùng, bách cổ thụ già đến hàng mấy trăm năm sừng sững bên đám loạn thạch ngổn ngang. Một dòng nước nhỏ từ hốc đá trên cao chảy ra trong suốt, đổ xuống phía dưới tung bọt trắng phau. Musashi đứng sững, ngây người nhìn cảnh thiên nhiên ấy.
Dòng suối tươi mát chảy ào ạt bên những gốc thông già trầm lặng kia gợi hắn liên tưở ng đến dòng đời, tuổi trẻ, thế yếu mạnh của mọi vật. Ánh dương quang chênh chếch chiếu trên những phiến đá lớn vững vàng như những nét điêu khắc mạnh mẽ của một nghệ sĩ đại gia. Lòng yêu mến cảnh đẹp làm hắn quên cả khát và nhọc mệt.
Musashi ngồi xuống phiến đá, bụm tay vốc nước uống. Nước suối trong, ngọt và mát làm sao ! Sau mỗi ngụm, hắn cảm thấy dễ chịu. Những giọt nước theo huyết quản hắn luân lưu trong cơ thể, lòng hắt dạt dào sung sướng như cùng với thiên nhiên hòa đồng một nhịp. Gió trên cành thông là hơi thở của hắn, nước suối kia là máu và những tiếng róc rách là tiếng đập của chính con tim hắn. Không cầm được khích động, hắn để nguyên cả quần áo nhảy xuống nước, ngụp lặn vùng vẫy say sưa ...
Ở suối lên, Musashi như trở thành một người khác hẳn. Tâm hồn cũng như thể xác hắn lâng lâng bay bổng. Hắn cởi bộ quần áo sũng nước hong lên phiến đá rồi chọn một chỗ khuất ngồi nghỉ.
Mặt trời lên khỏi ngọn cây, chắc vào khoảng cuối giờ mão. Sương lam trên sườn núi bắt đầu tan dần. Musashi nhìn xa xa thấy một rừng trúc xanh biếc. Dòng suối dưới chân hắn quanh co lượn khúc, đến khu rừng thì bị lớp sương chưa tan hết che khuất. Ẩn hiện trong rừng hình như có nhiều gian nhà cỏ. Musashi mừng hết sức.
Ngẫu nhiên hắn đã tìm ra chỗ ở của Yagyu Muneyoshi.
Hắn hối hả lấy quần áo mặc vào và đi vội xuống núi. Quần áo chưa kịp khô, gió sớm thổi qua lành lạnh, nhưng mặc, hắn cứ đi tới. Bao nhiêu lâu chờ đợi, bây giờ thấy đây, hắn quyết không bỏ lỡ dịp. Musashi đã có định kiến, quyết tâm gặp Yagyu Muneyoshi và thách đấu. Sự thành bại ngày hôm nay rất quan trọng:
cởi bỏ cho hắn cái mặc cảm thua kém hay là chết; hắn không có lý do gì để lui bước.
Vườn nhà Yagyu rộng vô cùng. Từ cổng nhìn vào, ngõ lát đá quanh co, hai bên giồng toàn trúc, thân cao mà thẳng, xanh biếc, cây nào cây nấy to bằng bắp chân, gốc tỉa cắt gọn gàng trên nền rêu xanh tươi mát. Ngõ sâu hun hút, bóng trúc che khuất không thấy nhà bên trong, có một vẻ gì huyền ảo và trang nghiêm phảng phất trong cảnh trí.
Musashi đã có ý định cứ đẩy cổng bước bừa vào, nhưng khung cảnh thanh khiết của khu vườn làm hắn e ngại. Hắn bước tới ngồi trên tảng đá cạnh chân cột dưới mái tranh, vuốt lại tóc và sửa lại nếp áo xô lệch. Dù sao, hắn cũng chỉ là một kiếm khách vô danh, trước khi tiếp xúc với Yagyu Muneyoshi, người hắn kính phục cả về tài năng cũng như nhân cách, hắn không muốn bị coi thường và bị cho là vô lễ. Hắn chờ.
Gió mát thổi hây hây mơn man trên da thịt, Musashi ngủ quên lúc nào không biết.
Tiếng chim oanh ríu rít làm Musashi giật mình thức giấc. Mặt trời lên đã cao, ánh nắng chan hòa đổ trên cây cỏ. Musashi đứng dậy vươn vai, trong mình khoan khoái. Bao nhiêu nỗi mệt nhọc dường như tiêu tan đi cả. Hắn trông trước trông sau, định tâm tìm một vật gì làm dùi gõ cổng thì bỗng nhiên chú ý đến một tấm bảng gỗ dựng bên trong. Tấm bảng hơi nhỏ, có mái che mưa nắng, trên khắc nhiều hàng chữ.
Musashi tò mò bước lại xem, té ra là hai bài thơ, nét chữ xương kính và vết khắc thật sắc sảo. Người viết đã dùng một thứ mực màu chàm trộn kim nhũ bôi lên nên những chữ khắc vàng rực dưới ánh nắng ban mai trông rất ngoạn mục. Bài thơ thứ nhất là một bài ngũ ngôn tứ tuyệt:
Đầu non mây trắng bay
Nhẹ tênh lòng thế sự
Nghìn năm không trú xứ
Chân như, cánh hạc gầy.
Bài thứ hai là thất ngôn tứ tuyệt:
Cành thưa nắng rọi, rộn tiếng oanh
Liễu hoa theo gió rụng bên mành
Tâm hư, dõi bước người viên giác
Ngõ trúc, ta về gối cỏ xanh.
Hai bài thơ đều do Sekishusai sáng tác, có ghi chú ngày tháng và đóng triện son nhà Yagyu. Musashi đọc xong hai bài thơ, đứng lặng cúi đầu, tay khoanh trước ngực. Hiển nhiên đây không phải là hai bài thơ Muneyoshi đã làm chơi nhân khi ngẫu hứng mà chính là để bày tỏ chí hướng của mình. Ông không tiếp khách giang hồ đến cầu học không phải vì có ý khinh miệt gì họ, ông từ khước tiếp xúc với mọi người vì không muốn bị ràng buộc với những hệ lụy nhân thế. Lợi danh ông không màng, thì thành bại đối với ông có nghĩa lý gì nữa ?
Musashi khẽ lắc đầu. Hắn không còn muốn gõ cổng nhà Yagyu. Ý định khiêu khích và thách đấu Muneyoshi đối với hắn bây giờ là một sự xúc phạm, hành động của kẻ thất phu, man rợ. Hắn tự lấy làm hổ thẹn. “Ta còn trẻ quá ! Đây là một bậc cao nhân thoát tục rồi, ta chẳng nên và cũng không có quyền làm rộn. May mà ta đọc hai bài thơ này, chứ không đã làm trò cười cho dân trong cốc !”.
Musashi bỏ ra cổng. Đột nhiên nghe có tiếng chim xào xạc và tiếng chân người bước trên nền đá. Hắn nấp sau bụi cây nhìn vào, thấy một nữ lang áo trắng, thấp thoáng giữa những thân tre xanh biếc. Bóng nàng đổ dài trên cỏ. Nhìn nữ lang, hắn sững sờ, tim như muốn ngừng đập. Vì người bước tới chính là Otsu, xinh đẹp vô cùng, rạng rỡ dưới ánh nắng. Otsu thật rồi, không còn ngờ gì nữa, chính nàng đã thổi điệu sáo ấy !
Musashi định chạy ra gọi Otsu nhưng không biết có sức mạnh gì ghìm chân hắn lại. Con người hắn quả mâu thuẫn:
vừa nhạy cảm đam mê, vừa thực tế lạnh lùng. Nấp trong bụi rậm, hắn phân vân bất định.
Otsu đến gần cổng bỗng quay lại khẽ kêu một tiếng ngạc nhiên:
- Ủa, mình vẫn tưởng nó đi theo sau ...
Nàng trở lại đường cũ:
- Jotaro ! Jotaro ! Chạy đâu rồi ?
Nghe giọng nói quen thuộc, Musashi như sực tỉnh. Hắn lui vào bụi cây sâu hơn.
- Jotaro ! Jotaro !
- Đây ! Em đến ngay bây giờ đây ! Chị ở đâu thế ?
- Ngoài này, gần cổng. Ta đã bảo em không được đi xa, sao em không nghe ?
- Tại thấy con trĩ, em đuổi theo bắt ...
- Đuổi bắt con trĩ ? Em thật không biết gì hết ! Em quên đã nói với ta là sáng nay chúng ta phải làm một việc rất quan trọng hay sao ?
- Không, em không quên đi tìm sư phụ đâu, nhưng em biết ông không hề gì, ông gặp nhiều may mắn lắm. Thế nào cũng thấy mà !
- Ờ ! Tối hôm qua sao không thấy em nói thế ? Lúc mếu máo đến tìm ta, em đâu có như bây giờ ?
- Tại lúc ấy em vừa lo vừa sợ.
Otsu cười:
- Ta cũng thế ! Khi em kể chuyện và nói tên sư phụ em, ta hết hồn.
- Chị với sư phụ em là thế nào ?
- Ông ta là người làng.
- Người làng thôi à ?
- Chứ còn gì nữa ?
- Lạ quá nhỉ ! Người làng với nhau mà mới nghe tên đã khóc hết nước mắt !
Otsu bẽn lẽn:
- Ta khóc nhiều lắm sao ?
- Khóc nhiều lắm ! Sư phụ em đánh nhau với ba người, bị chém rách tay áo, em đã kể rồi chị không nhớ ư ? Nghe tiếng sáo, em nghĩ đến chị nên tìm đến cầu cứu ...
Otsu rùng mình. Hình ảnh Jotaro áo quần bê bết máu, chạy vào phòng nàng lúc nửa đêm như hiện ra trước mắt. Nàng săn sóc, nấu cháo cho nó ? Nàng quay nhìn Jotaro, mặt nó đã bớt sưng, nàng cũng vui bụng đôi chút.
- Thôi, chuyện đó khoan nói ... Việc phải làm ngay bây giờ là đi tìm sư phụ em.
Otsu dắt tay Jotaro ra cổng. Trong dáng đi vội vã của Otsu có một vẻ gì hớn hở như trẻ con đi đón mẹ về chợ. Má nàng ửng hồng, đôi mắt long lanh. Lo âu hay vui thích? Jotaro nhìn Otsu chằm chằm, ngạc nhiên không hiểu.
Musashi nấp trong bụi, nhìn rõ hết. Otsu đẹp hơn trước nhiều, khác hẳn với cô bé âu sầu và lạnh nhạt khi còn ở chùa Shippoji. Bấy giờ Otsu chưa yêu, bản tính kín đáo, không thích giao du của nàng có lẽ bắt nguồn từ tâm sự hổ thẹn mình là đứa trẻ bị bỏ rơi từ tấm bé. Nàng như con ốc cuộn tròn trong vỏ, dễ mếch lòng và hay hờn giận.
Khi Matahachi viết thư từ hôn, tâm trạng bị ruồng rẫy ấy càng thêm nặng khiến nàng suýt liều thân. Musashi đến. Lòng thương người cô thế dần đổi sang tình yêu và kính trọng. Bây giờ, sau nhiều năm xuôi ngược, nàng đã trưởng thành cả về tinh thần lẫn thể chất, sẵn sàng phấn đấu cho mối tình gần như vô vọng của mình.
Musashi muốn nhảy ra ôm Otsu, thổ lộ nỗi lòng với nàng rồi dẫn nàng đi thật xa, sống một cuộc đời hạnh phúc, bỏ hết mọi tham vọng khác. Những lời Otsu nói với hắn trên đỉnh đồi Nakayama bữa nào còn như vang vọng bên tai. Hắn muốn xin lỗi Otsu về sự phản bội của mình. Nhưng sao trí óc hắn không cho như thế là phải. Con người thực tế trong hắn bảo hắn dại dột, từ bỏ mục đích cả đời người vì một người đàn bà là điều ngu xuẩn. Đâu là lẽ phải ? Musashi như đứng trước hai con đường.
Bao nhiêu kiến thức thu thập được qua sách vở hắn đọc được khi còn ở thạch thất cũng không giúp hắn quyết định dứt khoát. Nỗi đau khổ dày vò hiện cả lên nét mặt.
Cách chỗ hắn đứng không bao xa, Otsu vẫn vui vẻ cùng Jotaro đi tới. Thằng bé cúi xuống nhặt vật gì gần cổng làm nàng dừng chân khẽ trách:
- Jotaro, nhanh lên chứ ! Lại nghịch gì thế ?
- Chị, lại đây xem cái này !
Jotaro đưa miếng vải vừa nhặt được cho Otsu:
- Miếng vải này ở áo sư phụ em.
Otsu mở to mắt nhìn Jotaro rồi giật lấy miếng vải. Miếng vải, thực ra là miếng lụa, dài chừng hai gang tay, loang vết máu đã khô, có dệt chìm hình lá phong với một hàng chữ nhỏ. Jotaro kiễng chân, lấy tay chỉ hàng chữ:
- Đây này, chị xem. Hôm qua đến đây, sư phụ em mặc chiếc áo này do bà chủ trọ Ở bờ hồ Sarusawa tặng. Hàng chữ này là Hồ Vọng ... chắc là Hồ Vọng Xương.
Đúng là áo sư phụ em rồi ...
- Trời ơi, Jotaro ! Em nói thật hay bỡn ? Musashi đến cổng này đấy ư ?
Otsu chạy vội ra ngoài, mắt nhớn nhác tìm quanh. Jotaro cũng theo bén gót. Nó gọi lớn:
- Sư phụ !
Trong lùm cây có tiếng lá rung động, rồi tiếng chân người chạy. Otsu quay phắt lại đuổi theo.
- Chị ! Chị đi đâu đấy ?
- Musashi ! Musashi vừa chạy ... ngả này ...
Jotaro đến gần. Otsu thở hổn hển nói không ra hơi:
- Ta vừa thấy ... vừa thấy ... sư phụ em ... chạy ngả này ...
- Sao em không thấy ?
- Rõ ràng mà. Musashi ở bụi cây này chạy ra ...
Otsu vừa nói vừa đuổi theo.
- Chị ! Khoan đã ! Chắc chị lầm rồi ! Nếu là sư phụ em thì việc gì ông lại chạy ?
Ừ, việc gì phải chạy ? Jotaro không hiểu nhưng Otsu hiểu. Nàng dừng lại, hít một hơi thật mạnh, gào lên:
- Musashi ! Musashi ... Mu ... s..ashi ...
Tiếng gào của nàng to quá, những âm sau lạc hẳn đi lẫn với tiếng gió. Otsu không ngăn nổi xúc động, ngã ngồi xuống cỏ, hai tay ôm mặt. Nàng khóc nức nở.
Jotaro chạy đến bên.
- Jotaro ! Gọi sư phụ đi Jotaro ! Gọi đi !
Nhưng Jotaro không gọi. Nó kinh hãi nhìn Otsu. Nét mặt này nó đã nhìn thấy ở đâu ... Đôi mắt lạc thần, da trắng bệch như sáp ... Đúng rồi ! Nét mặt của chiếc mặt nạ tuồng Nô, nét mặt của người thiếu nữ điên dại. Chỉ thiếu có đôi mép nhếch cao, còn các điểm khác giống như tạc. Jotaro sợ quá, giật lùi, miệng há hốc.
Otsu nói với nó qua nước mắt:
- Gọi đi Jotaro ! Không gọi, sư phụ em không về nữa, em sẽ ở với ai ?
Bấy giờ Jotaro mới hoàn hồn. Nó bắc loa tay, lấy hết sức gọi lớn:
- Sư phụ ! Sư phụ Miyamoto Mu ... sa..shi ... !
Sau mỗi lần gọi, tiếng vọng từ núi xa vang lại như nhại và chế giễu nó cùng Otsu.
Trời xanh thăm thẳm trên cao, vài cụm mây trôi hờ hững.
Jotaro đứng trên đồi nhìn xuống con đường đất đỏ vắng hoe ẩn hiện dưới những gốc tre già, lòng buồn vời vợi. Nó vẫn không hiểu tại sao thầy nó lại bỏ đi không nói gì với nó.
Otsu dựa đầu vào một thân cây phong, mặc cho nước mắt trào ra đầy má. Hai tấm lòng cô đơn dưới bầu trời yên lặng, những con người lạc lõng bị ruồng rẫy, bỏ rơi như những đứa trẻ mồ côi không ai đón nhận. Jotaro thấy cay cay ở mắt. Nó đến bên Otsu, nắm áo nàng, an ủi:
- Thôi, chị chẳng nên buồn phiền. Chị và em đi tìm, thế nào cũng gặp.
Otsu mỉm cười héo hắt:
- Cảm ơn em.
Rồi nước mắt lại tuôn ra như suối. Nàng không thể tưởng tượng được mối tình của nàng đối với Musashi đằm thắm là thế mà chàng chẳng hề để cho nàng gặp mặt được một chút sau bao nhiêu năm mong nhớ; kể từ cái ngày chàng bỏ đi trên cầu Hanada. Nàng đã thề không làm phiền Musashi, không can thiệp gì vào sự nghiệp của chàng, sao chàng vẫn tìm cách lẩn tránh ? Chỉ có một lý do:
Musashi không yêu nàng say đắm như nàng tưởng. Otsu phải hỏi cho ra:
trong trái tim rướm máu của người thiếu nữ đương thì ấy, thần tượng nàng chọn không dễ gì bị gạt bỏ.
Một cơn gió thoảng qua. Lá phong rung động dường cảm thông với nỗi lòng người thiếu nữ.
Bỗng Jotaro reo to:
- Chị ! Có người lên kìa !
Otsu chùi nước mắt, sửa lại mái tóc và nếp áo rồi ngồi xuống gốc cây giả như ngồi nghỉ. Người đi lên dốc là một nhà sư. Trong khung cảnh tĩnh mịch của khu rừng vắng, nhà sư mặc áo dà đột nhiên xuất hiện sau ngọn đồi tựa như Phật giáng thế, Otsu vừa ngạc nhiên vừa vui mừng vì nhà sư đó không ai khác hơn là Takuan.
- Nam mô a di đà Phật ! Ta không ngờ gặp ngươi ở đây !
- Con cũng thế. Thầy đi đâu vậy ?
- Ta với con trai Sekishusai vốn là chỗ thân tình, lại nhận được thư của cốc chủ mời, tiện đường qua đây đến thăm cốc chủ.
Trông mặt Otsu, Takuan đã đoán ra phần nào. Đôi mắt đỏ mọng và làn da trắng bệch của nàng chứng tỏ nàng vừa trải qua một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Ông ôn tồn hỏi:
- Dạo này hình như ngươi không được khỏe ?
Không dằn được cảm xúc, nước mắt Otsu lại trào ra. Nàng không giấu diếm nữa, kể cho Takuan nghe hết nỗi niềm u uẩn.
- Ta hiểu lòng con. Con muốn ta khuyên điều gì không ?
- Không cần thầy ạ ! Chí con đã quyết.
- ...
Otsu nhìn chằm chằm xuống đất. Nàng như đắm chìm trong nỗi thất vọng cùng cực.
- Nếu còn điều gì nghi ngờ, con đã không bỏ chùa Shippoji. Con biết lòng con lắm và nhất định phải gặp Musashi. Con sẽ hỏi nếu sự có mặt của con trên dương thế này làm chàng vướng bận thì con đã có cách.
Takuan nghiêm khắc:
- Ngươi nói thế là nghĩa gì ?
- Xin thầy đừng hỏi thêm nữa.
- Otsu ! Hãy cẩn thận. Đó không phải là cách giải quyết vẹn toàn. Trong trường hợp con, chết không giải quyết được gì hết. - Ông cười, tiếp:
Nhất là lại chết vì một mối tình không được đáp ứng.
Otsu không đồng ý, nhưng nàng cắn môi không nói thêm gì nữa.
- Ngươi sinh lầm kiếp, đáng lẽ làm đàn ông mới phải. Ý chí sắt đá như ngươi, xã hội hẳn được nhờ lắm !
- Như vậy, những phụ nữ như con không đáng sống hay sao ? Con cản bước tiến thủ của Musashi chăng ?
- A di đà Phật ! Đừng xuyên tạc lời nói của ta. Trong cõi sinh diệt vô thường, không gì ngăn nổi sự biến chuyển. Bước tiến thủ của Musashi chỉ có hắn mới định được.
- Con yêu Musashi. Chàng là lẽ sống của con. Dù phải chịu muôn ngàn gian truân, đau đớn, con cũng không để hạnh phúc đó mất !
- Điều con gọi là hạnh phúc đó không phải là chân hạnh phúc.
- Từ bé, con chưa biết thế nào là chân hạnh phúc.
Giọng Takuan trở nên nghiêm nghị:
- Thế mà vẫn có ! Otsu, ngươi được nuôi dưỡng trong chùa từ nhỏ, há không biết dục vọng chỉ đưa đến khổ đau. Cởi bỏ dục vọng, gieo mầm từ bi để tự giải thoát khỏi cảnh giới vô minh và sinh diệt là chân hạnh phúc ! Con đường ngươi định đi là con đường tối tăm của ngã chấp và ngã ái. Theo đường ấy là tự mang dây oan nghiệt buộc vào mình.
Otsu im lặng cúi đầu. Nhà sư cầm tay, giục:
- Otsu, theo ta về cốc ! Cả cháu này nữa !
Nhưng Jotaro cắt ngang, dứt khoát:
- Không ! Cháu phải đi tìm thầy cháu ! Cháu không biết đường nào tối tăm, sáng sủa, ngã chấp ngã ái là gì, nhưng cháu thấy có bổn phận phải theo sư phụ ...
Lời nói của Jotaro làm Otsu bừng tỉnh. Nàng ngẩng nhìn Takuan:
- Con cảm ơn thầy đã cố sức giúp con nhưng ít con không thể nghe lời thầy được !
- A di đà Phật ! Tùy ngươi, nhưng ít nhất cũng nên trở về từ biệt cố chủ chứ !
- Nhờ thầy từ biệt và tạ lỗi hộ con. Cố chủ khoáng đạt, chắc chẳng lưu tâm đến những tiểu tiết.
Quay sang Jotaro, nàng nói:
- Jotaro, em chạy về lấy hành trang hộ chị.
Trở ra, Jotaro đeo chiếc mặt nạ làm Takuan giật mình đứng lặng. Vì mặt nạ ấy chính là nét mặt Otsu sau khi trôi nổi trong biển trầm luân, quả nghiệp chập chồng không dứt. Ông cúi đầu niệm Phật:
- Otsu ! Trên bước đường con đi, nếu khi nào gặp tột cùng đau khổ, hãy gọi tên ta, hãy gọi tên ta !



Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Sáu T12 15, 2006 8:42 pm
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ



QUYỂN 3 : Hi no Maki

CHƯƠNG 20
SASAKI KOJIRO




Về phía nam thành Kyoto có một ngọn đồi nhỏ tên gọi Mokoyama có sông khá lớn lượn khúc bao quanh xuyên qua một vùng đồng bằng phì nhiêu đến tận chân thành Osaka mới đổ ra biển. Nhờ có thủy đạo thuận tiện ấy, sự thông thương giữa hai thị trấn Kyoto và Osaka thật dễ dàng. Chuyện nào xảy ra ở trấn này ngày hôm trước, hôm sau trấn kia đã biết, nên các nhà cầm quyền nhất cử nhất động đều rất kín đáo và thận trọng.


Trên đồi Mokoyama, một công trường xây cất mới được mở ra theo lệnh đại danh để chỉnh trang lại tòa lâu đài ngài hiện đang cư ngụ. Tokugawa Ieyasu có ý muốn thay đổi nếp sống dân chúng trong vùng, công trình này chỉ là một phần của toàn bộ chương trình xây cất rộng lớn do ngài chủ trương nhằm cải tổ kinh tế và dùng kinh tế làm sức mạnh để cai trị. Song song với sự chỉnh trang các lâu đài tại Kyoto, nhiều công tác kiến thiết khác cũng được thực hiện tại Edo, Nogoya và hàng chục thị trấn khác trong nước. Bởi kiến thiết tạo ra công ăn việc làm, dân không bất mãn, các đầu lãnh địa phương bận rộn công tác không có dư thì giờ nghĩ đến việc chống đối. Riêng tại đồi Mokoyama, số phu phen lên đến hàng ngàn. Hàng ngày thuyền bè đi lại tấp nập chở đá to nhỏ đủ cỡ đổ lên bến chất đống cao như núi, phiến to bằng cái bàn, phiến nhỏ cũng bằng mặt ghế, cát bay mù mịt, mái nhà và rặng liễu ven sông phủ bụi trắng xóa. Cùng với thợ thuyền phu phen là đám người đánh hơi thấy lợi bu đến, thôi thì đủ mặt con buôn cùng gái giang hồ già trẻ.


Bấy giờ trời đã sang thu, nhưng nắng quý hạ vẫn còn gay gắt. Mặt sông loang loáng, lấp lánh tựa sao sa trông lóa mắt. Buổi trưa, tiếng ve kêu ra rả.

Matahachi ngồi nghỉ trong bóng râm của hai phiến đá lớn, khuất sau một lùm cây gai xơ xác. Suốt buổi sáng làm việc cực nhọc, bây giờ hắn đã thấm mệt. Hắn lấy tay xua đàn ruồi bay quanh và kéo vạt áo lau mặt. Da Matahachi xạm đen, tròng mắt hõm sâu xuống, trên gương mặt gầy guộc ấy chỉ còn phảng phất một vài nét của anh chàng Matahachi béo tốt khi xưa, nếu không tinh mắt đố nhìn ra được.

- Dưa không ? Ai ăn dưa không ?

Một cô bé nhà quê đầu đội thúng dưa hấu vừa đi vừa rao lảnh lót từ tốp thợ này đến tốp thợ khác, đon đả chào mời với hy vọng bán được mối hàng trong giờ nghỉ.

- Dưa, lại đây ! Ta muốn ăn dưa nhưng không có tiền, được không ?

Cô bé nguýt dài, không đáp. Cả bọn cười hô hố. Cô bé đến bên Matahachi:

- Bác mua dưa không ? Trời nắng thế này, ăn dưa đỡ khát lắm !

Matahachi lờ đờ nhìn người bán hàng, một lúc sau mới nghiêng mình móc trong bọc ra vài đồng tiền để trong lòng bàn tay, khều khều mấy cái đếm rồi đưa cả cho cô bé.

Cầm quả dưa để lên lòng, hắn ngồi yên lặng, mắt nhìn ra xa như không còn sinh lực gì nữa.


Matahachi buồn và chán nản vô cùng. Hắn lẩm bẩm rủa thầm “Khốn nạn !”, chẳng biết rủa ai, những người đã gây ra cho hắn cảnh cơ cực này hay chính cuộc sống cơ cực của hắn. Có điều Matahachi rất hận Oko và Takezo, thằng bạn đã kéo hắn vào cuộc chiến Sekigahara và con đàn bà dâm đãng mặt lúc nào cũng trát phấn trắng như vôi. Nếu không vì chúng thì bây giờ hắn đâu có thân tàn ma dại như thế này.
Matahachi nghĩ đến ngôi làng nhỏ bé Miyamoto êm đềm và thân thiết, mẹ hắn và Otsu, người vị hôn thê đôn hậu, xinh đẹp hắn đã dứt tình bỏ đi. Hắn đập tay xuống đùi, muốn gào lên uất hận, nhưng tiếng kêu không ra khỏi cổ, cả tâm thân gầy guộc vẫn ngồi ì ra đấy. Ruồi nhặng vo ve trên đầu, hắn chẳng thèm đuổi, thấm thía nỗi bất lực cùng cực của mình. Sự trụy lạc tinh thần hơn cả sự trụy lạc thể chất làm hắn sống mà không khác gì một xác chết !


Năm năm rồi ! Hắn đã bỏ phí năm năm kể từ ngày bị con đàn bà ấy mê hoặc !

Chẳng biết bây giờ Otsu ra sao ! Hắn trở về xin lỗi liệu nàng có tha thứ cho hắn không?

Và còn thằng Takezo nữa, nghe nói nó đã đổi tên và nổi danh Samurai ... Nỗi ghen tức ngấm ngầm trào lên làm hắn tắc nghẹn ở cổ họng.


Một người phu đẽo đá cùng công trường lại gần:

- Matahachi ! Mày sao thế ? Sao mặt mày xanh vậy ?

Matahachi mỉm cười héo hắt. Nước bọt trào đầy miệng, hắn buồn nôn, quay sang bên cạnh nhổ, rồi chậm rãi:

- Không sao ! Có lẽ trúng gió ! Để tao nghỉ lát nữa chắc đỡ.

Người phu nhìn Matahachi ái ngại, thấy nó yếu quá, muốn giúp nhưng chẳng biết làm thế nào. Gã hỏi bâng quơ:

- Mày không ăn được dưa thì mua làm gì ?

Bấy giờ Matahachi mới sực nhớ đến quả dưa để trên đùi:

- Ừ, mày mang ra đem chia cho chúng nó, tao thết. Nói giùm với ông cai tao mệt, xin nghỉ buổi nay.

- Ê ! Tụi bây lại ăn dưa ! Thằng Matahachi thết đây này !

Matahachi nhếch mép cười thiểu não, chẳng biết là cười hay mếu. Năm sáu người phu chạy đến đập dưa vào thành đá, tranh nhau ăn nhồm nhoàm, không ai để ý đến kẻ thết dưa ngồi ủ rũ ở một góc.
Qúa ngọ, một người bước ra, tay cầm roi gọi thợ vào làm. Chẳng bao lâu, phu phen lại chia thành từng tốp bốn người một, quàng thừng vào vai kéo những phiến đá lớn.


Tiếng hò nổi lên, không khí oi nồng buổi trưa trở lại nhộn nhịp.
Những bài hò kéo đá bấy giờ không biết ai đặt ra, rất được phổ biến trong dân gian, đến nỗi quan đầu xứ có thế lực lúc ấy là Hachisuka cũng phải chép vào sớ tâu lên hoàng thượng. Trong các điệu hò, có điệu sau đây được khuyến khích hơn cả và được coi như điệu chính thức của phu kéo đá tại những công trường như Kyoto và Edo:


Đá kia trong núi ... dô ta là hò dô ta, Ta đục mang về ... dô ta !
Mang về ta xẻ ... dô ta là hò dô ta, Ta xẻ ta cưa ... dô ta !
Xây nhà cho chúa ... dô ta là hò dô ta, Chúa bảo ta nghe ... dô ta !
Hết lòng đến chết !



Trẻ hò, già hò, riết rồi quen tai, ai cũng thuộc lòng, thành ra những bài hò này đi vào đời sống dân dã. Dưới thời Shougun Ashikaga, các điệu hò phần nhiều đồi trụy, dâm dật, thường chỉ thấy xuất hiện trong các thanh lâu tửu quán. Đến thời Hideyori, vào những năm sung túc, có nhiều điệu hò tươi vui, rồi khi Tokugawa lên nắm quyền chính, các điệu hò dần dần đổi khác. Nghe kỹ thì những tiết điệu và lời ca có phần gò bó. Khi uy quyền Tokugawa đã vững, những điệu hò dân gian càng ngày càng kém đi, không còn được tự do cởi mở như trước. Tình cảm không còn bộc lộ tự nhiên, lời ca thì nhạt nhẽo đầy xu nịnh phần nhiều do bọn nhạc nô đặt ra để ca tụng giới cầm quyền.


Matahachi ngồi ngả người, dựa lưng vào thành đá, một tay co lại gối đầu. Da hắn nóng hầm hập, lỗ tai lùng bùng. Tiếng hò của thợ thuyền vang đến, hắn chẳng nghe rõ, chỉ văng vẳng như có người đánh trống. Trên cao, mặt trời vẫn hắt xuống những tia lửa gay gắt, tàn nhẫn. “Cứ đà này chắc không kham nổi. Năm năm mười năm cũng đến thế thôi, làm ngày nào chỉ đủ ăn ngày đó, nghỉ làm thì nghỉ ăn ...”. Trong cơn thất vọng cùng cực, ý tưởng tự sát lởn vởn trong óc, Matahachi lắc đầu như để xua đuổi ý tưởng hắc ám ấy.


Bỗng nhiên, hắn có cảm tưởng có người đến gần bên. Hắn ngẩng nhìn, quả nhiên thấy một thanh niên đứng đó từ bao giờ. Gã đội chiếc nón nan chụp xuống tận mắt, quần áo phu trắng bụi đường, bên hông đeo trường kiếm và một túi vải thô giống như túi của khách giang hồ vẫn thường dùng, trên nón gắn một phù hiệu hình quạt, cứng, có lẽ tết bằng sợi kim khí mưa nắng đã làm đen xỉn. Thanh niên đứng nhìn Matahachi một lúc rồi lên tiếng hỏi:


- Bác này không làm hay sao mà ngồi đây ?

- Tôi mệt.

- Chắc cảm nắng rồi !

Nói xong, hắn bỏ đến đứng trong bóng rợp một tảng đá lớn quan sát công trường.

Gã rút trong bọc ra quyển sổ, tìm phiến đá bằng phẳng đặt lên rồi ngồi bên cạnh hí hoáy biên chép. Nắng như đổ lửa trên đầu gã, nhưng hình như gã không để ý, chẳng coi vào đâu. Nhìn Matahachi, thanh niên đột nhiên nhớ ra điều gì, mở bọc lấy một cái lọ sơn then dẹp, dốc vào lòng bàn tay hai viên thuốc đỏ như chu sa và nhỏ bằng mắt tôm, đem đến cho hắn:

- Bác kia, uống thuốc này đi, công hiệu lắm !

- Cám ơn bác.

Matahachi bỏ thuốc vào miệng, nhấm nhấm trên đầu lưỡi. Mùi thuốc thơm sực nức, trong giây lát hắn thấy dễ chịu hẳn.

- Bác còn ngồi nghỉ đây lâu không ?

- Dạ, cũng định ngồi cho khỏe hẳn đã.

- Vậy ta nhờ chút việc này. Bác trông chừng có ai đến thì báo cho biết. Ném hòn sỏi chẳng hạn.

- Dạ được.

Thanh niên trở về chỗ cũ, lại giở sổ ra ghi chép và hình như vẽ cả họa đồ. Dưới vành nón nan, đôi mắt gã đưa đi đưa lại, thỉnh thoảng lại ngẩng nhìn về phía lâu đài có vẻ tư lự. Trước khi xảy ra chiến dịch Sekigahara, đạo quân tây biên của lãnh chúa họ Toyotomi đã tiến đến chân thành này và đã tấn công làm sát mất một góc thành. Công tác trùng tu được dự định từ lâu, bây giờ mới thực hiện. Matahachi nghĩ thầm có lẽ đây là người thuộc phe Hideyori đến dò xét tình hình, nhưng hắn không nói gì. Trước kia, hắn cũng đầu quân dưới trướng họ Toyotomi, hơn nữa lại có cảm tình với gã thanh niên đã cho hắn hai viên thuốc.


Có tiếng chân người bước lại gần. Matahachi thoáng thấy bóng viên đốc công, định nhặt hòn sỏi ném nhưng quá trễ, bèn huýt gió làm hiệu. Viên đốc công đã đến sau lưng, gã thanh niên mải biên chép không biết, đến khi giơ tay đập con ruồi trên gáy mới chú ý. Gã ngẩng nhìn, một thoáng lo sợ lộ ra trong ánh mắt.

- Ngươi làm gì vậy ?

Vừa nói, viên đốc công vừa đưa tay định cầm quyển sổ đặt trên phiến đá, nhưng gã thanh niên đã nắm vội lấy cổ tay:

- Ngươi không có quyền !

Bốn mắt nhìn nhau, thách đố.

- Sao không có quyền ? Ta làm nhiệm vụ !

- Ngươi là ai ?

- Đốc công công trường này ! Ta muốn xem ngươi vẽ gì.

Rồi giằng tay ra đoạt quyển sổ. Gã thanh niên giật lại. Đôi bên giằng co, quyển sổ đứt làm hai mảnh.

- A tên này gớm thật ! Ngươi định phi tang phải không ? Ngươi đến đây do thám chứ gì ?

- Ta học kiến trúc, không do thám gì hết !

Viên đốc công giật tay ra:


- Nói láo ! Nếu không đưa sổ, ta bắt !
- Ta không làm gì trái, ngươi lấy quyền gì bắt ta ?
- Ta có bổn phận ngăn gian tế. Theo ta về đồn, chuyện gì nói sau !
- Không.
Viên đốc công rút roi ra.
- A tên này bướng ! Có đi không ?
Nhưng gã thanh niên chẳng phải tay vừa, nhanh như chớp nhảy xổ lại, một tay nắm cổ áo, tay kia bẻ quặt tay viên đốc công ra sau lưng rồi cứ thế đẩy về phía trước. Gã dùng thủ pháp gì không biết, viên đốc công đau đớn há mồm, mặt đỏ gay, những tiếng ú ớ như tắc nghẹn trong cổ họng. Thanh niên đẩy viên đốc công đến một tảng đá lớn, chẳng nói chẳng rằng, đập mạnh đầu ông ta vào một tảng đá.
- Đồ chó đ ...
Tiếng rú thê thảm của viên đốc công khỏa lấp lời chửi bới tục tằn. Matahachi kinh hãi tột độ, giơ tay bưng đầu nhưng mắt vẫn nhìn rõ máu và óc nạn nhân phọt ra tung tóe. Một cơn lốc nổi lên cuốn bụi cát bay mù mịt, thổi chiếc nón nan của gã thanh niên rớt xuống đất. Dưới ánh nắng chói chang, nét mặt gã hiện rõ, da mặt xạm đen, rỗ chằng chịt và cằm hơi lẹm. Mồ hôi Matahachi đổ ra như tắm. Hắn không ngờ con người đối với con người lại có thể tàn nhẫn đến thế, dù trong cơn tức giận. Hắn thấy thanh niên kia tàn bạo quá, tự nhiên bao nhiêu thiện cảm dành cho gã mất hết.
Gã lẹm cằm không chạy ngay, cúi xuống nhặt những mảnh quyển sổ bị gió thổi bay tan tác. Cầm chiếc nón nan đội lên đầu, buộc quai cẩn thận xong, gã mới bỏ đi, trước còn thong thả sau rảo bước nhanh như chạy. Matahachi vừa sợ vừa e liên lụy, lẩn vào trong một bụi cây rậm.
Diễn biến xảy ra rất nhanh, thợ thuyền phu phen chẳng ai biết. Họ vẫn tiếp tục gò lưng kéo những phiến đã lớn đặt trên những khúc gỗ tròn cho dễ di chuyển dưới trời nắng gắt. Nhưng trên chòi cao giữa công trường, có người nhìn rõ hết. Phu canh trên chòi báo tổng giám thị, lập tức tiếng tù và báo động nổi liên hồi, phu phen chạy tán loạn.
- Gì vậy ? Chuyện gì vây ?
- Đánh nhau hả ?
- Chắc cháy chỗ nào rồi ! Nắng khô thế này ...
Tuyệt nhiên không ai ngờ viên đốc công vừa bị hạ sát. Có người nói:
“Gian tế đến do thám”, thế là một đồn mười, mười đồn trăm, họ bỏ việc ào ào đi bắt kẻ gian, làm như kẻ gian có thù riêng với họ !
- Đâu ? Kẻ gian đâu ? Nó chạy lối nào ?
- Cổng đằng tay !
Trên chòi nói vọng xuống.
Mọi người ùa ra cổng tây. Đúng lúc ấy có chiếc xe bò chở cỏ vừa tới, gã lẹm cằm chạy ra bám vào thành xe định leo lên trốn bị ngay tên lính canh dùng cây gậy móc xuống. Gã ngã sóng soài. Mọi người xông vào định bắt sống nhưng gã như cọp dữ vùng lên giật cây gậy trong tay người lính, đập anh ta chết tốt. Tiếng viên tổng giám thị Oang oang ra lệnh:
- Bắt lấy nó ! Bắt lấy nó ! Đừng để nó thoát !
Hàng trăm người la hét phụ họa:
- Bắt ! Bắt !
Nhưng người la hét thì nhiều nhưng không ai chịu vào bắt. Những kẻ hăng hái nhảy vào đầu tiên đều bị gã lẹm cằm dùng gậy đánh dạt ra cả. Vòng vây càng lúc càng dày. Gã vất gậy, rút trường kiếm đánh soạt, đứng thủ thế. Chiếc nón nan che kín mắt, không biết gã nhìn ai nên ai cũng sợ. Tiếng reo hò inh ỏi, bụi cát mù mịt, quanh cảnh không khác gì một bãi chiến trường nhỏ. Đột nhiên có hòn đá không rõ ai ném, trúng vào lưng gã thanh niên. Gã quay lại vung kiếm, vòng vây rộng ra được khoảng chừng vài thước. Lại hòn đã nữa ném tới, rồi không ai bảo ai, đá lớn nhỏ quăng vào như mưa, tiếng hò reo chửi rủa vang trời dậy đất. Gã thanh niên tối tăm mặt mũi, giơ kiếm đỡ, chẳng may một hòn đá khá to trúng ngay đầu, gã ngã lăn ra. Ai cũng tưởng rồi gã sẽ vùng dậy, không ngờ gã cứ nằm ì ra đấy, tay chân giật không ngớt, thanh trường kiếm văng sang bên cạnh. Ba bốn người phu lực lưỡng nhảy vào đè chặt lấy gã nằm yên dưới đất, rồi mạnh ai nấy tới, đánh, đạp không còn sợ hãi gì nữa.
Viên tổng giám thị chạy đến gần thì gã đã mềm như bún, mắt trợn ngược, máu ở miệng và mũi chảy ra lẫn với đất cát bê bế trên mặt. Người ta hè nhau trói gã lại buộc vào phiến đá gần đó. Ồn ào một lúc rồi dịu dần, công trường trở lại như cũ, trừ vài người được cắt cử lo việc quàn xác hai nạn nhân bị gã thanh niên đánh chết.
Matahachi ở bụi cây chui ra, tò mò đến gần gã thanh niên lẹm cằm bị trói còng queo dưới nắng, cạnh người lính cầm gậy đứng canh chừng.
- Này gã kia ! Không đi làm hả ? Đứng đấy làm gì ?
Người lính gọi.
- Ơ ... Ơ ... tôi ốm, nghỉ bữa nay.
- Vậy hả ? Vậy ngươi trông chừng tên này giùm, ta ra nhà sau chút. Nó chết rồi, không sợ !
Matahachi không đáp, nhìn gã thanh niên, mắt lạc thần. Hắn thở dài:
“Kiếp người sao mà mong manh quá ! Mới đây còn là thanh niên trai tráng, ngồi đó chăm chú ghi chép bây giờ đã ra người thiên cổ ! Có phải gian tế không hay thực chỉ là một thanh niên hiếu học, quá nhiều máu nóng, dễ bị công phẫn, khích động ?” Nhìn xác gã lẹm cằm, hắn động lòng trắc ẩn. Mặt gã loang lổ những vết máu với đất cát, hàm răng vẫn còn nghiến chặt như căm giận chưa nguôi, quần áo rách tơi tả, một ống chân thò ra để lộ vết thương máu đã đen lại dưới nắng. Khúc xương - xương hay gân ? - trắng hếu. Đàn kiến đen bắt đầu bu lại gần, bò quanh quẩn. Bất giác hai hàng nước mắt ứa ra, Matahachi thương cho số phận người thanh niên không quen biết.
“Gã này còn trẻ, chắc nhiều tham vọng lắm. Như ta. Không biết cha mẹ là ai, còn sống không ? Quê quán ở đâu ? Mong ước những gì mà vì một chút vụng tính, bỏ xác nơi đây ? Nếu gã thông minh một chút, chắc đã xử sự khôn khéo hơn, biết đâu sau này chẳng thành công trong xã hội ...”. Hắn giật mình, hồi tưởng lại những hành động dại dột của mình trong năm năm qua. Sự ao ước nổi danh như Musashi vẫn không giảm, nhưng theo kiếm đạo mà kết cục ra thế này thì hắn không màng. Con đường ấy quá cam go và nguy hiểm.
Đột nhiên, Matahachi thấy tay xác chết dường như động đậy. Ngạc nhiên và sợ hãi cắt đứt dòng tư tưởng của hắn. Hắn chú ý nhìn kỹ hơn, quả nhiên thấy ngón tay giữa của gã thanh niên co vào duỗi ra từ từ có vẻ như khó khăn lắm. Mắt gã vẫn trợn ngược nhưng bây giờ thấy có sinh khí hơn, hình như gã muốn nhắm mắt lại, nhưng máu đọng khô cứng trên mi, không cho gã làm theo ý muốn.
Ngón tay bây giờ cử động mạnh hơn, rồi cả bàn tay quều quào co vào duỗi ra một cách khó nhọc dường như vẫy gọi. Matahachi mở banh mắt nhìn, ngạc nhiên tột độ.
Xác gã thanh niên lẹm cằm từ từ lật sấp, hai bàn tay đầy máu đen cứng cào vào đất nhích từng chút từng chút, không khác gì con rùa bò ra bể sau khi vừa đẻ trứng xong ở trên bờ. Tảng đá to như thế, nặng có đến hàng trăm cân mà gã kéo đi được, thật đáng sợ cho sức vóc gã và sức mạnh của con người khi phải tranh đấu với cái chết. Từ cổ họng gã thanh niên phát ra những tiếng khò khè. Gã muốn nói gì chăng ? Đôi mắt van lơn cầu khẩn. Matahachi quỳ xuống ghé tai sát miệng kẻ sắp chết cố nghe xem gã nói gì.
- X ... xi ... xin ...
Nhưng chỉ có thế. Những tiếng khò khè lục ục trong cổ họng gã thanh niên làm Matahachi không thể nào nghe rõ những lời trối trăn của gã. Mắt gã thanh niên lạc thần hẳn đi, miệng méo lại trông thật ghê sợ, một dòng máu lẫn nước rãi trào ra bên khóe mép. Gã rướn mình lên một cái, đầu ngoẹo sang bên, thế là hết !
Matahachi trừng trừng nhìn xác chết:
những vết sẹo rỗ lõm hẳn xuống dưới ánh nắng, cái cằm lẹm thêm, chân râu trước đây trông không rõ bây giờ đâm ra tua tủa. Hắn giơ tay vuốt mắt người chết, miệng lẩm bẩm một câu kinh ngắn.
Trong trận Sekigahara, Matahachi đã thấy nhiều xác người, nhưng chưa bao giờ chứng kiến một cái chết đau thương và tức tưởi như của gã thanh niên này. Hắn uể oải đứng dậy định bỏ đi, nhưng nghĩ sao lại ngồi xuống. “Không biết gã này định nói gì ?”.
Matahachi thấy mình có phần nào trách nhiệm trong cái chết của gã thanh niên. Nếu hắn trông thấy viên đốc công sớm một chút, báo cho gã biết, có lẽ ... có lẽ ... Hắn đoán gã thanh niên lúc lâm chung, chắc muốn nhờ hắn giúp chuyện gì đó, bèn bò đến gần nắn áo và thắt lưng. Bốn bề vắng lặng như tờ. Dưới ánh nắng chang chang, chỉ có đàn ruồi vo ve trên những chỗ vết thương máu đọng.
“Chắc gã muốn nhờ mình mang những vật tùy thân và kỷ niệm về cho người ở nhà. Âu cũng được. Ta có một mình, dò hỏi thân nhân và quê quán gã chắc không khó”.
Bèn thò tay vào trong bọc xác chết lấy ra được một cái túi buộc ngay vào bọc mình. Hắn còn định cắt mớ tóc của gã thanh niên để làm tin, nhưng nhìn nét mặt người chết, hắn rùng mình, vả nghe tiếng chân người đi tới, nên thôi.
Matahachi lẩn vội vào sau một tảng đá nhìn ra. Hai người lính với người cai mang một chiếc cáng làm sơ sài bằng tre đến khiêng xác đi. May quá ! Trễ chút nữa, chắc hắn bị xét hỏi và làm rầy rà rồi !
Chờ cho cả ba người đi khỏi, Matahachi mới men theo đường mương cạn, lợi dụng bóng những phiến đá lớn che khuất mắt lính canh, bò ra ngoài. Đến xế chiều, hắn về tới nhà trọ sau một tiệm bánh. Bước qua sân, nhìn bà chủ đang gội đầu, cánh tay trần trắng nhễ nhại, hắn lẻn ra phía sau không muốn cho ai biết, nhưng bà ta trông thấy, gọi:
- Bác Matahachi hả ?
Hắn ậm ừ, bước nhanh vào phòng, quơ vội cái áo nhét vào tay nải, tháo thanh kiếm treo trên tường, buộc cái khăn lên đầu rồi hối hả ra ngoài.
- Bác không ở nhà ăn cơm ư ?
- Không. Tôi bận ra phố ngay bây giờ có chút việc.
- Về sớm không ?
- Chắc khuya. Khi về tôi gọi cửa. Cám ơn bà nhé !
Rồi hắn tất tả đeo tay nải ra cổng, theo đường mòn đến giữa cánh đồng, ngoái cổ lại nhìn đã thấy lính tuần đứng lố nhố trước cửa tiệm bánh. Hú vía ! Matahachi mừng thầm trong bụng. Suýt nữa thì bị tóm ! Tuy không làm điều gì trái, vì hắn tự cho có bổn phận phải theo ý người chết, nhưng lúc nào hắn cũng nơm nớp lo sợ. Tình ngay, lý gian!
Có điều chắc chắn hắn không dám trở lại công trường nữa rồi. Thế là mất toi một ngày công, rồi mai làm sao đây ? Hắn phân vân chẳng biết tính thế nào nữa.
Trời mỗi lúc một tối dần. Những bụi đài bi mọc đầy bãi hoang đổi sang màu đen sẫm, và trên ngọn đã lãng đãng vài vệt sương mờ mờ như khói. Trong xóm nhìn ra, khó mà phân biệt được người với vật. Giờ này trốn đi thật dễ, nhưng trốn đi đâu ? Osaka ?
Nagoya ? Edo ? Chẳng đâu hắn có bạn hay người quen thuộc, thôi thì cầm bằng như gió đưa, muốn đến đâu thì đến ... Matahachi tặc lưỡi, cứ xông bừa tới trước. Càng đi càng sâu vào vùng hoang dã. Bên cạnh những bụi đài bi, bây giờ lại có cả lau sậy cao quá đầu người, lá sắc và ráp cắt vào mặt hắn xon xót. Gió đầu thu thổi hơi lạnh, Matahachi hoang mang chẳng biết nên lùi hay nên tiến. Cơn sốt buổi trưa đã hết, bây giờ hắn khát và đói dữ dội, chỉ mong được một chỗ có nước uống và bát cơm với chút dưa muối thì tốt quá !
Đi một lúc nữa, Matahachi trông thấy hình như có ngôi nhà lẩn trong đám lau sậy. Hắn rảo bước, mừng thầm được chỗ trú chân nhưng đến gần mới biết ngôi nhà bị bỏ hoang. Hàng rào đổ nghiêng, mái thủng nhiều chỗ để lộ cả rui mè loang lổ rêu xanh.
Nhà trước kia lợp ngói, bây giờ lợp cỏ, chắc của gia đình nào vào hạng khá giả, tuy đổ nát nhưng cách kiến trúc vẫn còn mang một vẻ thanh lịch tàn tạ. Vài con chim nhỏ thấy động bay ra, chao đi chao lại trên mái.
Cảnh vật đìu hiu khiến Matahachi liên tưởng đến bốn câu thơ thường được nghe khi còn ở quán Yomogi, do các nàng chiêu đãi ngâm lúc kể chuyện cho khách:
i[]Hà xứ thu phong chí
Tiêu tiêu tống nhạn quần ?
Triều lai nhập đình thủ
Cô khách tối tiên văn.
Dịch:
Gió thu phương nào tới.
Hiu hiu đuổi nhạn về ?
Sớm qua cây trước ngõ.
Khách lạ trước tiên nghe.


Matahachi ôn lại những câu thơ. Cả một trời kỷ niệm xốn xang trong ký ức. Hắn chính là kẻ cô khách, đến đây mong tìm chút lửa ấm.
Căn nhà tối đen, vắng lặng. Đúng lúc hắn bước lên hiên định vào trong nhà thì có ánh đèn ai mới thắp leo lét qua tấm phên tre. Matahachi nhảy vội sang bên, nín thở, ghé mắt nhìn vào. Trên chiếc bồ đoàn rách nát, một người đàn ông gầy khoác tấm vải gai, ngồi trầm mặc. Ngọn đèn dầu độc nhất chỉ đủ chiếu ánh sáng vàng vọt lên khuôn mặt khắc khổ, không rõ tuổi của người ấy. Người đàn ông lấy sáo ra thổi, điệu nhạc thê lương, nghẹn ngào có lẽ chỉ để riêng ông ta nghe khiến Matahachi rùng mình. Không biết người đàn ông ấy thuộc hạng người nào, nhưng trông cách ăn mặc thì có vẻ nửa đạo sĩ, nửa khất cái. Thổi xong một điệu, ông ta lại ngồi một mình lẩm bẩm. Matahachi lắng tai:
- Cứ bảo tứ thập nhi bất hoặc, sao ta vẫn còn mê muội ? Tình ái, danh vọng, tiền tài, vì những thứ đó mà nghiệp báo không dứt ! Jotaro ! Jotaro ! Bây giờ con ở đâu ? Ta nhẫn tâm bỏ con, thật đáng trách !
Người đàn ông cúi thấp đầu dường như xin lỗi ai hay tự trách phạt, rồi lại ngẩng lên nhắc lại những câu vừa nói. Matahachi chẳng hiểu gì, đồ chừng gã này điên. Hắn tránh không muốn vào, định tìm chỗ khuất trong bếp hay nhà sau nghỉ tạm thì vừa lúc ấy người đàn ông đứng lên, cầm sáo, gậy và nhặt luôn cả chiếc bồ đoàn rách mang theo, khập khiễng bước ra cửa lầm lũi đi như một bóng ma trong màn đêm bắt đầu buông dày đặc.
Matahachi bước vào, đến bên ngọn đèn lẻ loi. “Lão già thật cẩu thả ! Để lửa thế này rồi bỏ đi, chẳng may nó bén vào cái gì thì cháy hết !”. Hắn nghĩ đến những ngôi cổ tự hoang phế tự nhiên bị thiêu rụi, một phần chắc cũng vì những tên thiếu trách nhiệm, điên khùng như lão này cả.
Thấy lành lạnh, Matahachi chạy ra ngoài nhặt cành khô đem vào nhóm lửa rồi bó gối nhìn. Ánh sáng bập bùng làm căn phòng ấm và sáng thêm chút đỉnh. Hắn ngước nhìn trần, cột kèo tuy cũ nhưng đẽo gọt tinh vi, có vẻ trước đây là một ngôi đền chứ không phải tư thất. Ở góc phòng, đột nhiên hắn trông thấy một vật làm hắn reo lên mừng rỡ. Chẳng phải đồ cổ ngoạn hay vật gì quý giá nhưng là một cái nồi đất đen xì, trên đậy tàu lá, bên cạnh là một hũ sành con mẻ miệng. Matahachi đến mở nồi thấy có cơm, bèn bưng cả ra bên đống lửa. Trong hũ sành còn một chút sa-kê, hắn bưng hũ tu rồi thò tay vào nồi bóc cơm ăn. Bữa ăn chưa bao giờ ngon đến thế !
Ăn hết chỗ cơm, bụng mới hơi lưng lửng, Matahachi nằm dài, giơ tay vươn vai khoan khoái. Sực nhớ đến điều gì, hắn vội nhỏm dậy, móc trong bọc ra cái túi của gã thanh niên lẹm cằm chết hồi chiều. Hắn mở túi dốc cả ra sàn:
một cái lọ đen nhỏ xíu đựng thuốc, ít bạc vụn, một cái túi nhỏ nữa bằng da thuộc màu đỏ tía và một vật mềm gói giấy dầu. Hắn cởi túi da ra xem. Trong túi toàn tiền vàng, hắn không biết giá là bao nhiêu nhưng quả chưa bao giờ được cầm nhiều vàng như thế. Vừa mừng vừa sợ, tay run run, hắn buộc ngay lại, nhét vội vào trong bọc mình, ngồi thừ người ra một lúc:
“Ơ ...
tiền này ... tiền này ... để rồi trả lại cho thân nhân gã !”.
Hắn lại nắn cái gói giấy dầu. “Không biết trong này đựng gì ? Chắc là vật gì bí mật và quý giá lắm gã muốn mình mang về quê quán cho gã. Hay thôi, chuyện bí mật của người ta, mình chẳng nên biết !”. Matahachi ngần ngại, cất đi rồi lại lôi ra mấy lượt.
Sau không dằn được tò mò, hắn run run mở gói giấy. Một tờ hoa tiên đã vàng rơi ra, hắn trải tờ hoa tiên trước đống lửa, lẩm nhẩm đọc:
“Chứng thư, Võ đường Toda Seigen chứng nhận Sasaki Kojiro đã thụ huấn xong toàn bộ giáo lý và kỹ thuật thuộc bảy môn học gia truyền của kiếm pháp Chujo, gồm:
- Phần bí truyền:
Hoa vũ kiếm, xa luân kiếm, trảm nhạn kiếm.
- Phần công truyền:
Phiên phiên lưu thủy kiếm, khinh chủy vô hình kiếm, bằng dực song kiếm, truy hồn đoạt mệnh kiếm.
Vậy cấp cho Sasaki Kojiro chứng thư này để làm bằng.
Toda Seigen, mùa đông năm quý ngọ, Chưởng môn:
Kanemaki Jisai”.
Cầm tờ chứng thư, Matahachi biết được tên gã thanh niên lẹm cằm là Sasaki Kojiro. Như vậy cũng đỡ cho hắn phải dò hỏi lôi thôi. Nhưng tên Sasaki Kojiro và cả tên Kanemaki Jisai, người chưởng môn kiếm phái Chujo cũng không gợi cho hắn thêm được điều gì. Hắn chỉ biết Ito Yagoro, thường được gọi là Ittosai, người cũng theo kiếm phái Chujo và nổi danh lắm, nhưng đâu có rõ Ito còn là học trò Kanemaki Jisai.
“Thật đáng tiếc ! Một thanh niên nhiều triển vọng như vậy mà phải chết uổng !”.
Matahachi gấp tờ chứng thư lại, gói cẩn thận vào giấy dầu rồi cất vào trong bọc cùng với túi tiền của Sasaki Kojiro. Hắn đọc một bài kinh ngắn cầu cho linh hồn người chết được siêu sinh tịnh độ, tự hứa sẽ đem tiền và chứng thư trao trả đầy đủ cho thân nhân gã rồi cởi áo nằm ngủ. Trong lúc chập chờn, Matahachi tưởng như nghe tiếng sáo nghẹn ngào của lão khất cái điên dại văng vẳng trên đầu những ngọn lau lách xa xa.


Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Sáu T12 15, 2006 8:45 pm
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ



QUYỂN 3 : Hi no Maki

CHƯƠNG 21
ĐƯỜNG CÔNG DANH



Trời hửng sáng, căn nhà hoang giữa rừng lau càng thêm tiêu điều, hiu quạnh.
Sương mù đọng trên mái chưa tan, gió sớm qua kẽ ván lùa hơi lạnh bên ngoài vào gian phòng trống trải. Mây xám giăng ngang bầu trời nặng trĩu và ảm đạm.
Thu đến rồi, đến thực rồi ! Nỗi u buồn bao trùm cả cảnh vật và len lỏi vào lòng người cô khách.
Đạo sĩ khất cái, lưng đeo sáo, tay xách bồ đoàn, chống gậy khập khiễng trở về, tấm vải gai khoác trên lưng ướt đẫm sương đêm. Đến cửa, lão dường như quá mệt, đặt bồ đoàn bên vách dựa lưng ngồi nghỉ, dáng thiểu não chẳng khác gì một linh hồn phiền muộn. Cơn gió lạnh thổi qua, đạo sĩ hắt hơi luôn mấy cái, mũi rãi ròng ròng chảy xuống bộ râu lốm đốm bạc lão cũng chẳng thèm lau, cứ ngồi thở dốc. Một lúc sau mới chống tay đứng dậy mở cửa bước vào nhà.
Việc đầu tiên lão nghĩ đến là hũ rượu, nhưng bước vào phòng, lão ngạc nhiên không thấy đâu. Trong cảnh tranh tối tranh sáng của gian phòng đổ nát chỉ có đống củi đã tàn, và bên cạnh, một người co quắp nằm ngủ. Đạo sĩ giật mình, định thần nhìn. Hũ rượu mẻ miệng và nồi cơm vất lăn lóc gần đó. Cúi xuống nhặt, lão ghé hũ sát vào tai lắc mấy cái:
không nghe tiếng gì, bình rỗng tuếch ! Chắc tên lang bạt này đã uống rượu của lão. Hừ ! Đáng giận thật ! Cơm có thể bỏ qua, nhưng có chút rượu để uống cho ấm bụng cũng tu hết thì thật tàn nhẫn. Không dằn được cơn tức, lão co cẳng đá anh chàng nằm ngủ một phát như trời giáng.
Matahachi choàng dậy, nhìn lão đạo sĩ.
- Ngươi là ai, sao vào đây uống rượu của ta ?
Matahachi tỉnh hẳn ngủ, hắn nhăn mặt:
- Thế ra rượu của lão đấy hử ?
- Không của ta thì còn của ai ? Ai cho phép ngươi uống rượu ấy ?
- Trót mất rồi, đạo sĩ tha lỗi.
- Này trót !
Và bồi thêm một cước nữa.
- Cha ! Lão này dữ quá ! Ta xin lỗi rồi mà !
- Xin lỗi không, không đủ !
- Vậy lão muốn gì ?
- Trả lại rượu cho ta !
Matahachi cười hềnh hệch. Hắn vỗ vào bụng:
- Rất tiếc, ta không mổ bụng ra lấy rượu trả lại được.
Nhưng lão đạo sĩ không nghe, vươn cổ sát tận mặt hắn:
- Đồ ăn cướp ! Ngươi không biết ta phải vất vả đi từng nhà mới xin được một chút cơm và một chút rượu ! Ta già nhưng cũng phải sống chứ ! Ngươi đói, ta cho cơm, nhưng rượu, phải trả lại cho ta !
Trong cơn tức giận, giọng lão lạc đi, môi run run, nước bọt bắn cả vào mặt Matahachi. Hắn phải quay đi, lê mình sang bên vách tránh.
- Này lão già, đừng có làm quá ! Đáng gì vài giọt rượu chua với chút cơm nguội, ta trót ăn rồi, đã xin lỗi ! Làm gì mà nhặng lên thế ?
- A, ngươi bảo ai nhặng ?
Đạo sĩ nắm tay áo Matahachi. Hắn giật ra định đạp ông già xuống sàn thì lão đã nhanh nhẹn né tránh và thuận tay dùng một thế nhu đạo tung hắn qua cửa sổ. Matahachi chưa kịp kinh ngạc về ngón đòn sử dụng một cách tinh thục này thì đã rơi ra ngoài hiên. Sàn hiên mục đổ đánh rầm, bụi bay mù mịt, kéo theo hàng lan can gỗ và tấm liếp phủ lên đầu Matahachi. Hắn lúng túng như ếch nằm trong rọ, tay chân vướng vít không sao thoát ra được.
Đạo sĩ chạy lại nắm áo hắn lên giật liên hồi, sẵn gậy để bên, cầm bổ xuống đầu hắn như mưa bấc. Áo Matahachi bị giật, tiền vàng trong bọc đổ ra rổn rảng. Lão già trố mắt:
- Chà chả ! Tiền đâu lắm thế này ?
Vớ được cơ hội tốt, Matahachi vùng dậy. Hắn bị đánh đau, thở hổn hển, hằn học nhìn lão đạo sĩ:
- Lão khùng kia ! Thấy chưa ? Ta thừa tiền trả cho lão, nhưng lão đánh ta thì phải để ta đánh lại. Đánh bao nhiêu cái, ta phải đánh lại bằng ấy cho đủ số.
Đạo sĩ không đáp, mắt đăm đăm nhìn những đồng tiền vàng không chớp. Cơn giận dường đã nguội, lão đứng thừ người, tiền không nhặt mà cũng chẳng để ý gì đến gã thanh niên lão vừa đánh. Một lúc sau mới lẩm bẩm:
- Mê muội ! Ngần này tuổi đầu vẫn còn mê muội ! Hỉ nộ ái dục theo năm lỗ sáo bay đi, ta vẫn không nhớ ! Thật đáng xấu hổ ! Rượu ta không uống, người khác uống, hà cớ gì phải phân biệt của người, của ta ? Này anh kia, vào trong này sưởi ấm, ta không trách anh nữa !
Matahachi ngạc nhiên vô hạn. Lão này tính nết thay đổi khó lường, cơn giận thoắt đến thoắt đi, chắc đã trải qua nhiều chuyện đau khổ. Hắn bất giác động lòng thương xót, nhặt mấy đồng tiền đặt vào tay lão. Đạo sĩ giật mình tỉnh mộng, rụt tay lại:
- Không, ta không lấy. Ta không cần tiền làm gì.
- Tiền bối dường như trong mình không được khỏe. Cần vãn bối giúp điều gì chăng?
- Không !
- Nghe giọng nói, hình như tiền bối quê quán ở miền tây ...
- Ờ, ngươi nhắc ta mới nhớ. Ta sinh quán ở Himeji.
- Vãn bối ở Mimasaka.
- Mimasaka hả, làng nào vậy ?
- Miyamoto.
Đạo sĩ yên lặng, nét mặt thoáng buồn. Lát sau chậm rãi như nói với chính mình:
- Miyamoto ! Nơi đó có nhiều kỷ niệm. Đồn Hinagura, ta đã đóng quân ... Chùa Shippoji ...
Matahachi ngạc nhiên:
- Xin lỗi, thế ra tiền bối trước đây là một Samurai ?
- Phải, ta là Aoki Tanza ...
Nhưng vội xua tay:
- Không, không phải ! Ta lẫn rồi, ngươi đừng để ý !
Rồi cúi xuống nhặt ống sáo và bồ đoàn:
- Ta đi đây, có lẽ mai mới về. Củi dưới bếp, nếu trời lạnh, lấy mà sưởi.
Nói xong, lom khom bước ra cổng, dáng đi phiền muộn khuất dần sau những rặng lau thưa.
oo Matahachi ngồi một mình trong gian nhà trống trải. Gió lạnh đầu thu khiến hắn co ro, hai tay thủ bọc vẫn không đủ ấm. Hắn thèm chén trà nóng và một chút đường để lấy sức, nhưng trong cảnh này kiếm đâu ra. Nghĩ lan man, Matahachi không biết vừa rồi hắn định lấy tiền của ngươi thanh niên tặng cho lão đạo sĩ có phải là một việc làm chính đáng không, nhưng hắn tặc lưỡi tự nhủ:
“Thì dù sao muốn trao tiền tận tay cho thân nhân gã cũng phải chi phí chút đỉnh chứ ! Mình không có tiền, hiển nhiên phải mượn của gã đó. Hắn tự cho là phải và bằng lòng với lập luận ấy, tin rằng vong hồn người chết chắc không phản đối gì, miễn đừng tiêu nhiều quá. Có điều Matahachi băn khoăn chẳng hiểu thân nhân Kojiro là những ai và phải đi tìm bao lâu mới thấy !
Trong thời gian tìm kiếm, lỡ tiêu hết số tiền thì tính sao ? Matahachi định dò hỏi Ito, người môn đệ kiếm phái Chujo hắn nghe danh và cũng là nguồn hy vọng độc nhất giúp hắn phanh ra manh mối.
Matahachi đứng dậy thu dọn quần áo, kiểm lại số vàng và bọc giấy dầu rồi vòng quanh căn nhà xem xét một lượt. Dưới trời thu ảm đạm, cảnh điêu tàn càng thêm rõ rệt.
Vết chân chồn cáo ngang dọc khắp nơi, cỏ dại cành gai mượn đường giậu đổ, leo lên tận mái. Nhìn cảnh hoang phế của căn nhà, Matahachi liên tưởng đến sự trụy lạc của lòng người và cái chết của Kojiro. Hắn thở dài ngao ngán. Đường đao kiếm chắc không phải là con đường dành cho hắn.
Matahachi theo đường bộ đi từ Fushimi đến Osaka, không lữ quán nào là không tạt qua dò hỏi tin tức về Ito, nhưng không nơi nào biết.
Bữa kia, gặp kẻ đồng hành, hắn lân la làm quen, hỏi thăm kiếm phái Chujo và Kanemaki Jisai.
- Ờ ờ ... tại hạ cũng có nghe. Nhưng nếu Kanemaki Jisai còn sống thì bây giờ đã già lắm. Nghe đâu ông ta quy ẩn trong một làng nhỏ vùng sơn cước. Nếu các hạ muốn rõ thêm, cứ đến Osaka hỏi một người tên Tomita làm quản giáo cho vệ binh trong phủ Toyotomi thì biết.
Lời chỉ dẫn mơ hồ quá nhưng Matahachi phải theo vì không có cách nào khác.
Đến Osaka, hắn thuê một phòng nhỏ trong một lữ quán gần nơi thị tứ rồi hỏi thăm Tomita. Chủ quán gật gù:
- Có nghe. Ở đây ai không biết Tomita, cháu Kanemaki Jisai.
Ngài dạy kiếm cho vệ binh trong phủ, nhưng đã bỏ đi từ đầu năm ngoái, hình như lui về quê, đâu như Echizen. Ờ phải, Echizen ! Khách quan cứ đến Echizen hỏi, nhưng bản quán không bảo đảm ngài còn ở đó đâu nhé !
Matahachi lại hỏi thăm về Ito.
- Ito hả ? Cũng cùng môn phái với Tomita đấy. Nghe danh thôi, không rõ ông ta ở đâu.
Lại đi hỏi thăm nhiều nơi khác. Có người nhớ mang máng đã gặp Ito ở một căn nhà nhỏ ngoại ô thành Kyoto, lâu lắm rồi, không biết bây giờ ra sao !
Matahachi thất vọng quá, muốn tung hê tất cả. Giữa đô thị rộng lớn, náo nhiệt như Osaka này, ai dại gì phí thời giờ điều tra gốc gác một thanh niên đã chết. Cuộc sống rộn rịp ngoài kia như liều thuốc kích thích tinh thần hắn. Ở khắp nẻo đường, ca lâu tửu quán, bảng cáo yết dán chi chít những lời kêu gọi, tuyển mộ vệ binh cho phủ họ Toyotomi.
Bất cứ tay giang hồ kiếm khách nào đầu quân cũng được trọng đãi. Người ta tung ra nhiều tin tức lạ lùng, như tin những lãnh chúa thất trận trước đây đều quy tụ cả dưới cờ Hideyori, rồi tay anh chị khét tiếng, đầu sỏ hàng mấy trăm du đãng vùng bến tàu bây giờ đã cạo trọc đầu, cải danh hiệu là Damon, chỉ chờ dịp nổi dậy cùng đàn em phò giúp Hideyori dành quyền chính. Họ nói tụi này sống đế vương lắm, nhờ vào tiền trong phủ chu cấp.
Hai tháng trời ròng rã, Matahachi rong chơi ở Osaka, ăn ngon mặc đẹp, thân thể đã béo tốt hồng hào, không còn như khi mới đến. Hắn phấn khởi tinh thần, chẳng quan tâm gì đến số tiền của người chết bị thâm lạm. Thấy trọ Ở lữ quán không tiện và đắt, hắn thuê một căn phòng nhỏ vùng ngoại ô, ban ngày ăn tiệm và rong chơi, rình rập cơ hội gặp người thần thế tiến dẫn vào trong phủ giữ một chức vụ gì kha khá.
Matahachi nghe nhiều chuyện khiến hắn nuôi hy vọng lớn:
nào tên giang hồ lạo thảo này trước đây phải làm phu đổ rác trong tiệm ăn, được người đề bạt, nay võng lọng nghênh ngang, đi cáng bốn người khiêng, kẻ kia chỉ biết sơ sài vài thế kiếm nay cũng trở thành quản giáo lương bổng hàng năm trên ngàn gia. lúa. Chờ cơ hội mãi không gặp, đôi khi Matahachi cũng thất vọng. Bây giờ người khôn của khó, cảnh phong lưu ở bên kia bức tường cao, đá ghép khin khít khó có kẽ nào mà chui lọt. Nhưng hy vọng vốn là lẽ sống của cuộc đời, ngày nọ qua tháng kia, chưa gặp dịp đấy thôi, hắn còn trẻ và khỏe mạnh, đâu đến nỗi. Huống chi số vàng tính ra mới vơi non nửa, nếu khéo tiêu cũng cầm cự được hàng năm nữa.
Trời mùa đông thế mà rét ngọt. Viễn ảnh mùa tuyết sắp đến làm cho mọi sinh hoạt vội vàng hẳn lên. Trên những bãi hoang ven đô, buổi sáng cỏ đã bắt đầu đóng giá. Đến trưa, những cửa hàng và những lều diễn tuồng rong cùng những quán lá tạm thời dựng lên để gá bạc đã phải trải chiếu trước cửa cho đỡ lầy lội. Càng về chiều, tiếng thanh la, tiếng trống, tiếng hò hét, chào mời càng hăng. Chỗ này chiếu bán thuốc, chỗ kia quán ăn. Mùi thịt nướng, mùi xì dầu xông lên ngào ngạt. Khi hoàng hôn chập choạng, hàng đoàn gái giang hồ phất trát như bôi vôi, tay áo kimono rộng thùng thình như những con bướm đêm, tản ra tứ phía.
Tại một quán rượu đầu phố có kê ghế đẩu ra tận hiên ngoài, hai kẻ trông ra vẻ thợ thuyền đang đấu khẩu, trước còn cãi vã, sau dùng tay chân đấm đá. Lúc Matahachi đến, bọn người hiếu kỳ vây quanh đã có hàng chục. Hắn cũng tò mò đứng ngoài khoanh tay nhìn. Nhưng hoặc vì nhờ bộ quần áo sang trọng hắn mặc, hoặc nhờ thanh kiếm hắn đeo bên sườn mà hai kẻ kia e ngại, bỏ đi không đánh nhau nữa. Đám đông tản mát. Chủ quán chạy ra niềm nở:
- Đa tạ đại hiệp. Không có đại hiệp chắc chúng còn làm dữ, gãy cả đồ, vỡ cả chén. Xin mời đại hiệp quá bộ vào trong để thiểm quán kính cẩn tạ vài chung rượu.
Chủ quán cúi đầu mấy lượt, ân cần vồn vã lắm. Matahachi thấy vui vui, tự cho mình quan trọng. Hắn hắng giọng:
- Thế nào ? Đông khách chứ ông quán ?
- Dạ, cũng khá. Gần cuối năm, ai cũng vội thành ra không mấy người ngồi lâu.
Chủ quán sai người hâm rượu ngon mang ra. Matahachi tay bưng bát rượu, tự hỏi không biết mình lại bắt đầu uống rượu từ bao giờ. Hắn đã thề không đụng vào rượu khi rời quán Yomogi vào làm phu vác đá tại công trường Mokoyama, nay số mệnh run rủi làm sao vẫn còn rượu ngon uống, áo đẹp mặc. Không hẳn hoàn toàn phì mã với khinh cừu, nhưng cũng không đến nỗi quá tệ. Hắn sung sướng dùng đũa gõ nhịp, nghêu ngao hát. Bát nọ theo bát kia, mặt Matahachi đỏ gay. Hắn lè nhè:
- Thì đôi lúc cũng phải có chén giải sầu chứ ! Nếu không, đời người còn gì là sinh thú ...
- Hà hà, phải lắm ! Ở đời cứ đắc ý vui chơi, chớ để chén vàng trơ với nguyệt ...
Người vừa nói là một thanh niên cao nhỏng, phục sức ra dáng giang hồ hiệp khách, lưng đeo trường kiếm nhưng quần áo bẩn thỉu gớm ghiếc. Y đẩy ghế đến bên bàn Matahachi, nhìn hắn từ đầu tới chân, rồi buông sõng:
- Chào huynh đài !
Tiếp theo, tay ngoắc tửu bảo:
- Cho ta một bình, thứ tốt ! Đừng hâm nóng quá !
Matahachi nhìn gã thanh niên, thấy y có vẻ như khách quen trong quán, bèn nói:
- Bằng hữu hãy dùng tạm rượu của tại hạ. Chờ hâm nóng xong cũng lâu đấy !
Thanh niên không khách sáo, tự rót rượu ra bát, uống một hơi cạn:
- Hà ! Rượu uống được lắm !
Rồi giơ tay cầm bình rót nữa, liên tiếp năm lần, không đổi sắc diện:
- Tửu lượng bằng hữu khá lắm nhỉ. Mỗi lần uống mấy bát ?
- Không biết nữa. Đệ không tính bát, nhưng chừng mười, mười hai bình gì đó.
- Chà, dữ vậy ? Tại hạ chỉ một bình là đủ.
- Đời bây giờ không say thì tỉnh làm gì ? Mấy anh cầm quyền đó tài ba gì đâu, chẳng qua chỉ nhờ vài thủ đoạn chính trị vặt mà lên, chẳng đáng cho ta phục.
Y lấy tay che miệng, ra vẻ như lỡ lời, nhưng lại ghé sát tai Matahachi:
- Nếu Osaka lại chiến tranh với Edo lần nữa thì huynh đứng về phe nào ?
Matahachi cũng say. Hắn nhớ trước đây đã chiến đấu dưới cờ Osaka nên đáp ngay không do dự:
- Osaka !
- Hoan hô ! Vậy mừng ông bạn mới !
Thanh niên vừa nói vừa lấy tay vỗ vào lưng Matahachi, tay kia cầm bình rượu rót nữa:
- Đệ xin tự giới thiệu:
Akakabe Yasoma, quận Isai. Chắc huynh đài từng nghe danh Ban Danemon, chưởng ấn quân nhu trong phủ ? Bạn đệ đấy ! Tướng quân Susukida Hayato Kanesuke cũng là chỗ thân hữu, biết nhau từ thuở hàn vi. Mấy tay kia, Ono Shurinosuke, đoàn trưởng vệ binh trong phủ, biết cả, nhưng đệ ít giao du.
Tính họ không dễ dãi thoải mãi như anh em mình, giao du không sướng !
Uống xong bát rượu, anh chàng cao nhỏng tự xưng là Akakabe Yasoma kia làm như hối hận đã tiết lộ nhiều điều không nên nói, lấy tay chùi mép:
- Nhưng huynh là ai ? Đệ chưa rõ quý danh tính ...
Matahachi tuy không tin, nhưng nghe những điều y vừa nói, cũng mừng gặp được tay quyền thế, bèn khoa trương:
- Bằng hữu có nghe danh kiếm phái Chujo bao giờ chưa ?
Akakabe Yasoma gật gù:
- Có nghe qua !
- Sư phụ tại hạ là Kanemaki Jisai, ba mươi năm trước danh trấn giang hồ. Bây giờ tiên sinh ở ẩn nhưng những đường kiếm bí truyền người tạo ra để truyền lại cho tại hạ hết ...
- Quả không ngoa ! Đệ thoạt trông đã biết ngay huynh phải là tay kiếm sỹ có hạng! Cử chỉ khoan hòa nhưng ẩn tàng một phong cách hiên ngang. Dám hỏi tôn tính đại danh là gì ?
- Tại hạ là Kojiro, đồng môn với Ito Yagoro.
- Chà, đây là Kojiro đấy ư ?
Matahachi thót ruột, định rút lại lời nói, thì gã thanh niên kia đã quỳ mọp xuống chân bàn, khấu đầu làm lễ:
- Dám xin các hạ tha lỗi cho kẻ ngông cuồng này đứng trước Thái Sơn mà không biết ! Qúy tính cao danh vang dội võ lâm, ai nghe cũng phải kính nể. Nhưng đây là lần đầu tiên tại hạ được bái yết tôn nhan, làm sao biết được ! Thật là đắc tội, đắc tội !
Matahachi ngạc nhiên khoan khoái. Hắn không ngờ cái tên Kojiro nổi danh đến thế ! Nếu anh chàng Akakabe Yasoma này là bạn bè hay thân thích gì với Kojiro thì thật khó xử, đến phải so kiếm, nhưng sự thể đã ra thế này, âu là trời định, bèn lên giọng kẻ cả:
- Bất tất phải đa lễ. Nếu bằng hữu khách sáo như thế thì làm bạn sao được.
- Xin đa tạ ! Mong rằng những lời nói ngông cuồng của tại hạ không làm rác tai các hạ.
- Thôi mà ! Bằng hữu cứ coi ta như bạn thiết, chuyện đó chẳng hề gì.
- Càng để ý càng thấy đại huynh đúng là tay cao thủ. Nhưng vẫn không hiểu sao đại huynh chưa có chức vụ gì quan trọng ?
- Ta dành thì giờ chú tâm vào việc luyện kiếm. Vả lại cũng ít giao du ...
- Như vậy, đại huynh không muốn ai biết hoặc không thích giữ địa vị gì chăng ?
- Không hẳn thế ... Ta cũng muốn mang tài ba ra giúp đời, nhưng chưa gặp cơ hội.
- Nếu chỉ có thế thì có gì khó ! Chujo kiếm vang chấn thiên hạ, tiểu đệ lại quen biết nhiều, chỉ sợ đại huynh không ưng, chứ nếu muốn, tiểu đệ xin hết lòng giúp.
Matahachi không nói gì. Chờ lúc sau, Akakabe Yasoma lại tiếp:
- Chiều mai đệ có hẹn với tướng quân Susukida Hayato Kanesuke. Đệ xin tiến cử đại huynh lên tướng quân Kanesuke xem sao. Kanesuke tướng quân là bạn cũ, chắc thế nào cũng thuận.
Matahachi mừng thầm trong bụng nhưng bên ngoài ra vẻ lãnh đạm. Hắn gọi tửu bảo trả tiền. Akakabe Yasoma lo lắng:
- Thế nào, đại huynh tính sao ?
- Chỗ này trống trải chả nên nói những chuyện ấy. Ta đi tìm nơi khác kín đáo hơn.
Akakabe Yasoma thở phào nhẹ nhõm:
- Vậy xin đưa đại huynh đi.
Hai người tới một khu ăn chơi, đủ loại ca lâu tửu quán. Matahachi muốn dẫn Akakabe Yasoma vào một quán rượu sang trọng nhưng y gạt đi, nói những nơi đó đắt tiền mà không thoải mái. Y đề nghị đến cuối xóm, vào một khu thanh lâu mà thương vụ phát đạt, theo y, chỉ riêng đèn mỗi đêm tiêu thụ cũng đến hàng trăm thùng dầu thắp.
- Rồi đại huynh xem, chỗ này nhiều thứ lạ, đáng tiền lắm. Khách làng chơi vẫn gọi là Lạc Hoa Mộng.
Matahachi vẫn ngại phải chi nhiều, nhưng thấy không khí phóng túng quyến rũ, nên tặc lưỡi theo luôn.
Họ vào một căn nhà làm trên bờ hào sát chân thành có rạch ăn thông ra biển. Mỗi khi thủy triều lên, nước tràn tới, đập vào những cột gỗ cắm làm kè phía sau nhà kêu phì phọp. Ở trên lầu nhìn xuống, nếu chú ý, người ta thấy cả những con cáy con còng, gọng đổ như son, chạy ngang dọc trên bùn tìm mồi. Matahachi rùng mình ghê sợ, có cảm tưởng như đấy là những con nhện độc. Khu Lạc Hoa Mộng này đông dân thật ! Trời mới xế chiều mà đã thấy vô số các nàng nhộn nhịp trong ngõ. Đôi khi cũng bắt gặp một khuôn mặt trẻ trung, nhưng phần lớn đều xấp xỉ tứ tuần, phấn son không che dấu được nỗi buồn trong khóe mắt hay vẻ tiều tụy của thân hình.
Akakabe Yasoma giải thích:
- Nhiều người đến đây chỉ cốt tìm hoa. Dĩ nhiên là thú vui xác thịt đầy dẫy ra đấy, nhưng nếu đại huynh muốn hưởng những thú vui tao nhã cũng không phải là không có.
Vào một đêm đông tuyết rơi đầy đất, ngồi với các nàng nghe thủ thỉ tâm tình thì cuộc đời các nàng cũng đáng thương lắm ! Đa số do hoàn cảnh đưa đẩy buộc phải làm nghề này, có người trước là phi tần trong cung lãnh chúa hoặc con em những kiếm khách danh tiếng một thời, vì cha anh thất sủng hoặc chết trận mà thành bơ vơ. Nhiều nàng tài hoa rất mực nhưng số kiếp long đong, thật đáng thương ! Nghĩ cho cùng, như đại huynh thấy đấy, ở đời này chố ô uế, rác rưởi thiếu gì những cánh hoa rụng !
Matahachi mặc cho Akakabe Yasoma gọi rượu và chọn những nàng chiêu đãi. Y xem ra nhiều kinh nghiệm và từng trải nên Matahachi tin tưởng lắm.
Qua một đêm hoan lạc, sáng hôm sau cả hai dậy trễ. Matahachi nghe mệt mỏi trong mình, có ý muốn về nhà trọ, nhưng Akakabe Yasoma giữ lại:
- Đại huynh ở lại đến chiều đã.
- Để làm gì ?
- Đệ đã nói chiều nay có hẹn với Kanesuke tướng quân, nhân thể tiến cử đại huynh.
Quên rồi sao ? Bây giờ đến thì sớm quá, vả đại huynh chưa cho biết điều kiện.
- Ta chẳng muốn đòi hỏi nhiều.
- Không nên ! Tay Samurai danh tiếng như đại huynh không nên nhún nhường quá.
Đòi ít, người ta coi thường đi. Đệ đòi ba ngàn gia. lúa một năm, đại huynh nghĩ sao ?
- Cũng được, tùy bằng hữu.
Buổi chiều trời mùa đông chóng tối. Xóm Lạc Hoa này ở ngay dưới chân thành, bị bóng thành che khuất nên người ta có cảm tưởng đêm đến mau hơn.
Matahachi và Akakabe Yasoma dẫn nhau ra khỏi xóm thì lác đác đã có nhà lên đèn. Qua cầu treo vào thành, đi một thôi đến khu gia cư thanh lịch, Akakabe Yasoma chỉ một ngôi biệt thự lớn, tường cao vây kín, vườn cây rậm rạp bao quanh, bảo đó là tư thất của Kanesuke tướng quân. Gió chiều trở lạnh, hơi men tan dần, cả hai rét run như cầy sấy.
- Kanesuke trước cũng chẳng có gì, như đệ thôi, nhưng nhờ được người tiến dẫn, bây giờ thành công như thế ! Nào, bây giờ đệ xin vào yết kiến Kanesuke tướng quân để tiến cử đại huynh. Nhưng ... - Akakabe Yasoma ngập ngừng - nhưng ... phải có cái gì ra mắt chứ ?
Matahachi biết rõ, cầu cạnh chuyện gì cũng cần chút lễ, nên không ngần ngại:
- Tất nhiên ! Tất nhiên !
Bèn rút túi tiền vàng trong bọc ra, đếm một số đưa cho Akakabe Yasoma.
- Kanesuke tướng quân địa vị cao trọng, đại huynh cũng nên liệu cái lễ thế nào coi cho được ...
Matahachi ngần ngừ. Akakabe Yasoma vội trấn an:
- Xin cứ yên tâm. Nếu Kanesuke không nhận, đệ sẽ mang lại trả đại huynh, lo gì. Vả lại đệ quen biết rất lớn, không người này thì người khác, ở đây thiếu gì kẻ giúp đỡ chạy việc, chỉ cần tiền trà nước phải chăng.
Matahachi dốc số vàng ra tay, giữ lại một đồng, còn trao cả cho Akakabe Yasoma:
- Đây, ta chỉ mang theo có thế. Bằng hữu gắng làm cho được !
- Đại huynh cứ yên tâm.
- Thế ta đứng đây đợi hay sao ?
- Đợi cũng được, nhưng không biết bao giờ mới xong. Đêm lạnh, hay đại huynh cứ về nghỉ, mai sẽ gặp.
- Ở đâu ?
Akakabe Yasoma do dự một lúc.
- Bãi đất trống vẫn dùng diễn trò và hát rong gần chợ cửa Nam, đại huynh biết chứ?
- Biết !
- Hay cứ chờ tiểu đệ trong quán rượu, chỗ gặp nhau hôm qua ấy.
- Cũng được.
Akakabe Yasoma bỏ tiền vào bọc, giơ tay từ biệt. Y thong thả bước qua cổng ngôi biệt thự, dáng điệu đầy tự tin. Matahachi gật gù, trong lòng không nghi ngờ gì nữa:
“Anh chàng này quả có quen Kanesuke thật !”.
Và đêm hôm ấy, trong phòng trọ, hắn mơ thấy cảnh xe ngựa dập dìu.
oo Hôm sau Matahachi lò dò đến bãi đất hoang vùng ngoại ô sớm lắm. Cỏ còn ướt sương. Gió sáng gây gây lạnh. Các chủ sạp trong chợ đã bắt đầu chuyển hàng từ những gian lều xiêu vẹo ra ngoài, xếp la liệt trên chiếu.
Matahachi la cà quanh bãi đất trống, đảo mắt nhìn quanh, chú ý tìm anh chàng họ Điểu. Quán rượu mở cửa, hắn vào chọn một chỗ khuất trong góc ngồi nhìn ra ngoài, quan sát khách qua lại. Ngồi lâu không ăn uống gì bất tiện, hắn gọi một bình rượu nhỏ nhâm nhi, đợi mãi đến chiều vẫn không thấy Akakabe Yasoma đến. Matahachi hơi thất vọng, tự an ủi:
“Chắc bận chuyện gì, có lẽ mai hắn mới đến”. Hôm sau, Matahachi lại tới quán, lòng thấp thỏm. Chờ đến khi mặt trời ngả bóng, uống hết hai bình rượu cũng không thấy Akakabe Yasoma đâu, hắn chột dạ. Sự nghi ngờ bắt đầu nhen nhúm. Lúc phố chợ lên đèn và các quán trong bãi rục rịch che liếp, Matahachi rầu rầu bước ra thất thểu về phòng trọ. Ngồi một mình trong phòng vắng đâm lo nghĩ vẩn vơ, đôi lúc hắn tự bắt mình lầm bầm nguyền rủa thằng lừa gạt và bực bội vì đã quá tin người, nhưng vẫn cố bám lấy tia hy vọng vẫn còn le lói:
“Hay nó ốm ? Chắc thế ! Thằng ấy xem ra cũng không đến nỗi nào !”.
Ngày thứ ba, Matahachi lại mò đến quán rượu, loanh quanh bên ngoài một lúc rồi mới bước vào. Thấy chủ quán, hắn làm bộ vui tươi che nỗi ngượng nghịu:
- Rượu quán này ngon lắm ! Ta mê rồi đó !
- Khách quan đợi người quen ?
- Phải, một người tên Akakabe Yasoma, mới quen ở quán này đấy.
- Có phải anh chàng cao và gầy như cây tre miễu không ?
- Chính thị.
Chủ quán hỏi thêm chi tiết, Matahachi không giấu diếm.
- Thế hắn nói đi chạy việc cho khách quan rồi ăn cắp hết tiền ?
- Không, hắn không ăn cắp. Ta đưa cho hắn nhờ vận động giúp với tướng quân Kanesuke, tìm một chân kha khá trong phủ đấy chứ ! Hắn bảo ta đợi ở đây chờ kế t quả.
Chủ quán nhìn Matahachi, thương hại:
- Khách quan đợi hắn đến trăm năm cũng chẳng gặp !
Matahachi nhướng lông mày:
- Sao lão biết ?
- Thì ở đây ai còn lạ gì ! Hắn lừa không biết bao nhiêu người rồi. Khu chợ này thiếu gì những kẻ như Akakabe Yasoma. Trông dáng điệu và cách ăn nói của nó, tưởng quan khách cũng biết mà đề phòng rồi chứ ! Thật rủi, bây giờ biết đâu mà tìm ?
Matahachi vừa buồn vừa thẹn. Chủ quán ái ngại:
- Thôi, khách quan cũng chẳng nên buồn. Của đi thay người, ai mà luôn luôn giữ miếng được ! Bạn bè còn không tin thì biết tin ai ?
Nhưng Matahachi không phải chỉ buồn mà thôi. Hắn lo ngại thực sự. Cả số tiền coi như mất hết, kéo theo bao nhiêu hy vọng đặt vào đấy:
nào phi mã với khinh cừu, kẻ hầu người hạ, nghênh ngang trở về làng cũ. Bây giờ biết nói làm sao với mẹ, với Otsu ?
Nhìn những người qua lại chẳng khác gì những con rối trước mặt, hắn ngẩn ngơ như mất hồn.
- Còn cách này - Tiếng chủ quán kéo hắn về thực tại - nhưng không chắc gì kết quả. Khách quan thử tìm ở chỗ hay làm trò rong xem. Gần đấy có một sòng bài, tụi nó hay tụ họp, tên lưu manh ấy có tiền, thế nào cũng la cà vào đó sát phạt.
Matahachi mừng rỡ đứng bật dậy:
- Phải lắm ! Cảm ơn lão quán. Khu trò rong ở về phía nào nhỉ ?
oo Matahachi đi vòng ra phía sau chợ, đến một chỗ có hàng rào nứa vây quanh; Trên các cột trồng rải rác từng quãng, cờ đuôi nheo màu sặc sỡ treo tứ tung bay lật phật trước gió. Một cái cổng dựng sơ sài cạnh cây phướn cao, buộc tấm vải đỏ dài chừng ba sải tay viết la liệt những hàng chữ đen khoe sự lành nghề của nhà ảo thuật trứ danh nhất Osaka, những cọp những gấu mới bẫy được và bao nhiêu trò lạ khác. Bên cổng đặt cái trống lớn, một người cởi trần trùng trục chít khăn đầu rìu, đóng khố, tay cầm dùi đánh liên hồi lên mặt trống. Tùng ... tùng ... tùng ... Đứng cạnh là một gã trạc tam tuần, da mặt sần sùi như vỏ cam sành, miệng lưỡi dẻo quẹo luôn mồm mời chào, níu người này kéo người nọ, thỉnh thoảng lại đưa tay thu tiền những kẻ hiếu kỳ vào xem và đẩy họ qua cổng.
Matahachi đi qua đám làm trò rong, bọc về phía sau, thấy một khoảng đất vuông bằng cái sân nhỏ, quây chiếu tứ bề. Nhìn qua khe chiếu, vô số người ngồi đứng, chỉ trỏ cãi cọ Ồn ào. Tiếng chửi thề tục tĩu vang ra tận bên ngoài.
Đang phân vân, bỗng có kẻ đến đằng sau vỗ vai:
- Muốn chơi hả ?
Matahachi giật mình quay lại. Tên kia cười hì hì, cầu tài:
- Đánh bạc không ?
Matahachi gật đầu. Hắn trỏ một cái cửa hẹp, cũng có chiếu che, nếu không để ý thì không biết.
- Vào đi !
Bên tường, xung quanh tấm vải bố lớn, con bạc ngồi xổm thành vòng tròn lố nhố.
Thấy khách lạ, nhà cái ngừng tay quay ra. Mọi người ngoái cổ lại nhìn. Một người yên lặng đứng lên nhường chỗ. Matahachi do dự rồi đánh bạo hỏi:
- Akakabe Yasoma có đấy không ?
- Akakabe Yasoma ? Cữ này không thấy hắn lại. Chuyện gì đấy ?
- Liệu hắn có đến không ?
- Mẹ ! Thằng này hỏi lẩn thẩn, bố ai mà biết được. Có chơi thì ngồi xuống.
Nghe giọng nói xách mé, Matahachi ngại, ấp úng:
- Xin lỗi, xin lỗi ... Ta ... ta muốn tìm Akakabe Yasoma ... Xin lỗi !
- Không chơi hả ? Mẹ ! Mất thì giờ. Đi chỗ khác mà tìm !
Matahachi giật lùi về phía cửa. Nhưng một tay anh chị đã chống tay đứng dậy tiến đến trước mặt:
- Ê, không được ! Đâu có dễ dàng thế ! Không chơi cũng phải trả tiền chỗ.
- Ta không có tiền.
- Không có tiền ? Vậy mày đến đây làm gì ? Định ăn cắp hả ? Không trả chúng ông đánh bỏ mẹ !
Matahachi nóng mặt:
- Tụi này láo ! Ai ăn cắp ?
Và làm bộ để tay vào đốc kiếm. Tên anh chị cười hô hố:
- Thôi đi ! Nếu chúng ông sợ thì đâu còn sống đến ngày nay ở cái đất Osaka này !
- Này, ta không giỡn. Các chú có biết ta là ai không ?
Tiếng cười càng to, đầy chế giễu:
- Ai biết mày là thằng chó đẻ nào ! Là ai thì cũng phải trả tiền chỗ.
- Ta là Kojiro, đệ tử chân truyền của đại Samurai Jisai, chưởng môn kiếm phái Chujo ...
Matahachi nói một hơi, tưởng xưng danh Kojiro thì bọn kia phải ngạc nhiên bỏ ngay thái độ hỗn láo. Ngờ đâu, tên anh chị chẳng nói chẳng rằng, nhổ bãi nước bọt đánh bẹt một cái xuống đất, quay gọi đám đông:
- Ê, tụi bay coi thằng khùng này nó lắp bắp gì đây này ! Để xem ...
Matahachi rút kiếm đánh soạt, dùng đầu mũi kiếm chích vào mông tên anh chị, khiến hắn nhảy lên la hoảng:
- Á à ... thằng này ...
Mọi người nhốn nháo. Có kẻ vơ tiền trên chiếu bạc. Tiếng kêu la, tiếng chửi tục ồn ào như chợ vỡ. Thừa lúc lộn xộn, Matahachi lẻn qua khe chiếu che, chuồn ra ngoài nấp sau một cái thùng rỗng. Bọn du côn chia nhau đổ đi tìm, may sao không để ý đến chỗ hắn nấp. Hắn nín thở ngồi thu lu ở đó, một lúc yên tĩnh trở lại mới hoàn hồn. Hắn để ý nghe ngóng, đưa mắt nhìn quanh, bỗng thấy một khe hở gần hàng rào nứa, cỡ con chó to chui lọt, đồ chừng mình cũng có thể chui được, bèn len lén bò vào. Bên trong tối thui. Thì ra đó là cái gầm sàn gỗ của bọn làm trò dạo. Hắn nép mình sát đất, cứ thế bò, một lát sau mới ra khỏi sàn gỗ.
Nơi này gần đống rác, vắng vẻ không có ai. Matahachi đứng dậy phủi sạch quần áo, sửa lại đầu tóc rồi giả bộ như khách nhàn du, ung dung vừa đi vừa nhìn ngắm. Có điều hắn trông người đàn ông nào có dáng cao gầy gầy cũng từa tựa Akakabe Yasoma cả !
Đứng trước một cái dàn tre căng tấm da hổ lớn Matahachi dừng lại sau một đám đông.
Tấm da hổ dường đã cũ, nhiều chỗ trụi cả lông nhưng vẫn còn nguyên cả đầu và chân, nhe nanh giơ vuốt. Trong lều tranh tối tranh sáng, hình chúa sơn lâm tuy chỉ là tấm da nhưng cũng cho hắn một cảm giác ghê ghê rờn rợn. Bỗng có tiếng nói rất quen của hai ông bà già cách chỗ hắn đứng vài người làm hắn chú ý dỏng tai nghe.
- Con cọp này chết rồi phải không cậu ?
Tiếng ông già trả lời, ra vẻ hiểu biết:
- Dĩ nhiên chết rồi ! Đây chỉ là da nói. Mắt nó sáng thế kia nhưng là mắt thủy tinh, không phải thật !
- Thế sao ở bên ngoài hộ quảng cáo là cọp mới bẫy được ? Làm cứ như là còn sống!
- Ối dào ! Quảng cáo ấy mà ! Họ cũng thêm thắt đôi chút chứ !
- Đâu được ! - Bà già nói có vẻ tức giận - Thế là nó lừa mình. Ra đòi lại tiền.
- Thôi, bà đừng vẽ chuyện, người ta cười cho.
- Ai cười ? Mình làm gì mà họ cười ? Mình có phải là trẻ nít đâu mà để chúng lừa như vậy ! Cậu không đòi, ta đòi.
Bà già vùng vằng đi ra. Ông lão cũng quay lại. Vừa lúc tấm vải dùng làm cửa lều mở cho khách mới vào, ánh sáng bên ngoài chiếu rõ mặt hai ông bà lão. Matahachi nhận ngay ra mẹ mình và cậu Gon, vội quay đi để tránh nhưng không kịp nữa, cậu Gon đã trông thấy hắn.
- Ai như thằng Matahachi ! Phải Matahachi đấy không ?
Cụ Osugi ngạc nhiên tột độ, quay nhìn em:
- Cái gì ? Cậu nói cái gì thế ?
- Thằng Matahachi, chị không thấy ư ?
- Đâu ? Đâu ? Cậu chỉ trông gà hóa cuốc !
Matahachi nghe cậu và mẹ nói về mình, không biết nghĩ sao, cúi đầu thật thấp, lủi vào đám đông trốn mất.
- Tôi thấy nó rõ ràng mà ! Nó vừa đứng đây, nhưng sao bây giờ không thấy nữa !
Kìa, nó chạy kia kìa !
- Thật không ? Thật nó không ? Bớ Matahachi !
Cậu Gon vừa lôi chị vừa chạy ra cửa. Mấy năm sau này, cụ Osugi lang thang đây đó tìm con, ăn ngủ thất thường lại gặp sương gió nên yếu đi, không còn được như trước.
- Khoan, khoan ! Cậu làm ta ngã chết bây giờ !
Mọi người nhìn hai ông bà già ngạc nhiên. Họ không biết ất giáp gì nhưng cũng chạy đến giúp, đỡ bà già ra cửa.
Matahachi vừa chạy vừa quay lại nhìn, thấy mẹ và cậu đuổi theo, miệng gọi tay vẫy rối rít:
- Matahachi ! Matahachi ! Ta đây mà, sao lại chạy ?
Matahachi phân vân. Hắn dừng lại một lát rồi nghĩ thế nào lại cắm cổ nhảy ra khỏi hàng rào nứa. Cậu Gon nhất định đuổi theo, miệng không ngớt gọi tên hắn. cụ Osugi run rẩy chạy theo sau. Bỗng bà lấy hết sức, gân cổ gào lớn:
- Bớ làng nước ! Thằng ăn cắp ! Nó ăn cắp của tôi ! Bắt lấy nó !
Thế là người ta rầm rầm đuổi theo. Vài thanh niên khỏe mạnh rút bậy cây sào hoặc quơ vội cái cán chổi, chạy theo đám đông, ồn ào như bắt giặc. Matahachi bị bao vây tứ phía. Họ nắm cổ hắn, dìm đầu xuống, tống cho vài quả thụi.
- Bắt được nó rồi ! Nó ăn cắp của bà lão cái gì ?
- Nó giật túi tiền. Bà già mất hết cả tiền.
Mỗi người nói một câu chờ bà lão đang lệt bệt chạy tới. Sẵn gậy, họ phang ngay cho tên ăn cắp một trận. Matahachi kêu la, trần tình. Mặc ! Không ai nghe, không ai tin hắn !
Khi cụ Osugi đến nơi, bà mệt nhoài thở không ra hơi, hổn hển ôm lấy Matahachi:
- Con ! Con ! Mẹ đây mà ! Sao con lại chạy thế con ?
Ai nấy trố mắt kinh ngạc:
- Thằng này là con bà đấy à ?
Cụ Osugi quay lại đám đông, dang hai tay ra như để che cho Matahachi đứng sau lưng, trả lời đứt quãng:
- Dĩ nhiên ... dĩ nhiên là con lão. Không con lão thì ai vào đấy !
- Thế sao bà lại hô hoán là thằng ăn cắp ?
- Lão không kêu thế thì sao bắt được nó ! Lão kêu bắt nó chứ có kêu đánh nó đâu ?
Các người thật vô duyên, vô tích sự !
Mọi người cười ồ. Cậu Gon phải đứng ra cảm ơn, giải thích, đám đông mới giải tán, nhưng ai cũng cho bà lão nhiều mưu trí. Hú vía, chậm chút nữa thì Matahachi không gãy tay cũng thành tật rồi !
Cụ Osugi nắm cổ áo con trai, kéo vào ngôi đền gần đó. Hắn líu ríu đi theo, quần áo xốc xếch. Cậu Gon thương hại bảo:
- Bà đừng làm thế ! Nó lớn rồi, đâu còn là con nít nữa.
Cụ Osugi trừng mắt:
- Cậu biết gì ! Con ta ta phải dạy. Cậu lo việc của cậu ấy. Matahachi, mày vào đây !
Cả ba vào sân đền. Đền vắng, ít người lễ bái, bỏ hoang lâu ngày, khe đá lót sân đã có rêu xanh và cỏ mọc. Bà ấn đầu Matahachi bắt nằm dài ra sân rồi bẻ một cành cây mềm làm roi.
- Matahachi ! Mày có còn là con ta nữa không ? Sao gặp mẹ và cậu lại chạy ?
Mày đâu phải ở lỗ nẻ chui ra ?
Nói xong bà quất roi vào lưng hắn. Matahachi không thấy đau. Bà già yếu rồi, đánh như phủi bụi, nhưng nước mắt hắn tuôn ràn rụa. Hắn đã làm cho mẹ đau lòng nên không cầm được hối hận.
- Ta tưởng mày chết mất xác ở đâu rồi, không ngờ còn gặp tại Osaka này. Thật xấu hổ ! Đồ vô tích sự ! Mấy năm nay sao không về cúng giỗ ông bà, mà cũng không thư từ thăm hỏi gì người đã sinh ra mày ? Mày có biết cả nhà ai cũng lo lắng vì mày không ?
Sau mỗi câu, bà lại quất cho Matahachi một roi. Hắn khóc như đứa trẻ:
- Xin mẹ tha tội. Con biết lỗi và hối hận lắm. Thật con không có ý muốn trốn mẹ và cậu nhưng bất ngờ quá, con sợ và xấu hổ không dám gặp mặt.
Cụ Osugi mủi lòng, quay đi chùi dấu nước mắt. Tuy già nhưng lòng cương nghị vẫn không giảm, bà không muốn đứa nghịch tử biết sự mềm yếu của lòng mình.
- Hừ ! Mày nói có lỗi và xấu hổ không dám về nhà. Vậy chắc trong những năm qua, mày làm nhiều điều xằng bậy lắm ?
Cậu Gon không nhịn được, xen vào:
- Thôi bà ! Bắt nó khai thì lại đau lòng thêm, ích gì cơ chứ ?
- Cái cậu này ! Đã bảo mặc xác ta, việc gì đến cậu ? Đàn ông mà nhu nhược thế thì dạy ai được ? Thân phụ nó qua đời, ta là mẹ phải biết giáo dục nó chứ ! Matahachi, cho ngồi dậy, nhìn vào mặt ta đây !
- Dạ.
Matahachi quần áo xốc xếch, mặt nhem nhếch những bụi đất và nước mắt, lồm cồm bò dậy nhưng hắn vẫn không dám nhìn thẳng mặt mẹ. Lòng sợ mẹ từ tấm bé khiến hắn coi bà là một thần linh, ra oai tác phúc thế nào cũng được. Sự thiếu sót bổn phận làm con trong gia đình và dòng họ khiến hắn cảm thấy tội nặng thêm và mặc cảm ấy làm hắn sợ hãi.
- Matahachi ! Hãy kể ta nghe trong những năm xa nhà, mày ở đâu ? Làm những gì điếm nhục đến cha ông ? Nói cho thật, ta cấm mày không được bỏ sót.
- Dạ dạ ...
Matahachi kéo vạt áo lau nước mắt, sụt sịt kể chuyện đã qua, từ khi thua trận Sekigahara vào nương náu nhà Oko, rồi vì giết tên Tsujikaze, phải bỏ đi lưu lạc ở Ibuki, ăn nhờ ở đậu trong quán rượu của Oko, sau bị bạc đãi, uất hận ra đi như thế nào, nhất nhất kể lại hết. Tuy nhiên vẫn giấu không cho mẹ biết thời kỳ hắn làm phu vác đá cực khổ ở công trường, may vớ được món tiền rồi bị lừa ra sao. Kể xong hắn khóc sướt mướt, cảm thấy nhẹ nhõm sau khi thú tội.
Cậu Gon nghe chuyện, thỉnh thoảng lắc đầu:
- Hừ ... hừ ... thật không ngờ ...
Cụ Osugi thương con tuy không lộ ra nét mặt:
- Mày làm những điều thật xấu xa, nhưng đã biết hối, thôi cũng được ! Thế bây giờ làm ăn gì ? Trông quần áo cũng không đến nỗi ... Chắc có việc làm rồi chứ ?
- Dạ có.
Hắn đáp ngay không suy nghĩ, nhưng lại vô chữa:
- Ấy không ! Con muốn nói là không có việc đều đặn.
- Vậy lấy gì sống ?
- Con dạy võ, đánh kiếm.
Bà khách tỏ vẻ mừng rỡ, mặt tươi hẳn lên. Quay sang cậu Gon, bà nói:
- Này cậu, cháu cậu có phải con giòng không ? Nó dạy đánh kiếm đấy !
Cậu Gon vui vẻ gật đầu:
- Phải chứ ! Con nhà tông mà ! Dòng họ Honiden nhà ta, đời nào cũng có người khí phách. Lầm lỡ chút đỉnh, bỏ qua được.
Cả hai ông bà cười vui vẻ làm Matahachi cảm thấy kiêu hãnh.
- Này con !
Giọng bà dịu hẳn lại.
- Dạ.
- Con học kiếm của ai ?
- Của Kanemaki Jisai.
- Chà ! Người dó là đại Samurai, sao nhập môn đó được ?
Nét mặt cụ Osugi càng thêm rạng rỡ. Matahachi muốn làm vui lòng mẹ, rút trong bọc ra tờ chứng thư, lấy ngón tay cái bịt tên Kojiro đi rồi khoe:
- Mẹ coi đây này !
Cụ Osugi chăm chú đọc hàng chữ, giơ tay định cầm lấy để xem cho rõ thì Matahachi đã vội giấu ra sau lưng:
- Đấy, mẹ coi, mẹ cần gì phải lo lắng cho con.
Bà cười vui vẻ:
- Ừ, ta biết. Cậu Gon xem, ta nói có đúng không ? Ngay từ khi còn nhỏ, ta đã bảo nó khôn lắm, có phần hơn cả thằng Takezo và những đứa khác. Bây giờ Samurai rồi đó, có bằng cấp chứng minh hẳn hoi chứ đâu phải dở.
Bà sung sướng quá, nói văng cả nước bọt. Matahachi cũng vui lây cái sung sướng của mẹ, quên dùng ngón tay để che tên, giơ tờ chứng thư đến trước mặt cậu. Cậu Gon đọc giấy chứng nhận tên Kojiro, lấy làm lạ, hỏi:
- Mà sao không đề tên mày lại đề Kojiro. Kojiro là ai ?
- À ... à ... đấy là biệt danh cháu !
Hắn ấp úng đáp.
Cụ Osugi nhìn con:
- Cái tên Honiden Matahachi không đủ danh giá sao mà phải lấy tên khác ?
- Dạ ... dạ ... Danh giá lắm chứ, nhưng ... nhưng ... - hắn nghĩ nhanh tìm cớ - nhưng vì con đã phạm nhiều tội quá, nêu danh ấy ra sợ mang tiếng.
- Ừ ừ ... thôi được, thế cũng được ! Chúng ta tin mày. Từ khi mày đi đến giờ, mày biết chuyện gì xảy ra ở làng không ?
Hắn lắc đầu. Bà đem chuyện gia tộc nhà Honiden bị sỉ nhục ra sao, Otsu không về làm dâu bà, bỏ đi theo Takezo làm bà và cậu Gon suốt mấy năm nay phải đi tìm chúng rửa hận. Bà kể lại hết, lúc đầu còn ôn tồn sau không giữ được xúc động, giọng bà the thé, mắt đẫm ướt.
Ngồi nghe mẹ nói, đầu hơi cúi, Matahachi thấy lòng xốn xang vô hạn. Điều hắn quan tâm nhất không phải là danh dự gia tộc hay kiếm phái tông môn mà chính là mối tình của Otsu đối với hắn. Như mẹ nói thì Otsu đối với hắn thật không còn tình nghĩa gì nữa, và Takezo chỉ là thằng phản bạn. Sự ghen tị đã có từ lâu trong lòng hắn bây giờ lại được dịp bùng lên. Hắn nghiến răng nhìn mẹ:
- Có thể thế được sao ?
Cụ Osugi cho rằng con mình vì thấy danh dự tông môn bị xúc phạm nên tức giận, lấy làm bằng lòng lắm. Bài học đã có kết quả, bà đăm đăm nhìn Matahachi:
- Bây giờ mày đã rõ hết chuyện, và cũng hiểu tại sao chúng ta ở tuổi này đáng lẽ được quyền nghỉ dưỡng già lại phải bôn ba như thế này. Làm con phải hết sức rửa mối nhục của gia đình, tổ tiên. Chừng nào chúng ta không giết được hai đứa đó, chúng ta không trở về làng vì không còn mặt mũi nào đứng trước bàn thờ của dòng họ Honiden.
Matahachi cúi đầu, thấm thía những lời nói đầy phẫn khích ấy.
- Còn con nữa. Không trả xong mối thù này con cũng không nên về Miyamoto làm gì.
- Con không về ! Con không muốn về làng nữa !
- Không phải chuyện ấy. Ý ta muốn nói con phải giết cho được hai đứa đó trước khi về cáo gia tiên. Nghe rõ chưa ?
Matahachi lí nhí:
- Dạ dạ con xin làm.
- Xem chừng mày không lấy gì làm hăng hái lắm ! Sao ? Mày sợ không đủ sức hay sao ?
Cậu Gon tiếp lời:
- Cháu đừng lo, cậu sẽ giúp một tay.
- Cả mẹ mày nữa. Ta già rồi nhưng còn đủ sức. Ta nguyền sẽ lấy đầu chúng nó mang về làng để mọi người cùng biết họ Honiden không dễ gì chịu nhục. Mày có thề rửa mối nhục ấy không, Matahachi ?
- Dạ có.
- Vậy tốt ! Cậu Gon, đứng ì ra đấy à ? Lại đây khen cháu cậu đi ! Nó thề sẽ giết chết thằng Takezo và con Otsu để rửa hận đấy !
Cậu Gon không biết nói gì, cứ nhắc đi nhắc lại như cái máy:
- Tốt ! Tốt ! Vậy tốt ...
Xem chừng đã thỏa mãn, cụ Osugi chống tay đứng dậy, nhưng bà nhăn mặt đau đớn:
- Ối, ối, đau quá !
- Gì vậy chị ?
- Ngồi lâu, đất lạnh và ẩm, phong thấp nó lại hành tôi đây !
Matahachi nhìn mẹ. Trong một lúc, tình thương và lòng hiếu thảo dào dạt, hắn đến bên mẹ:
- Mẹ để con cõng.
- Con cõng ta ư ? Con tôi ngoan quá !
Hai tay bà ôm cổ con trai, nước mắt sung sướng tràn ra trên đôi má nhăn nheo, chảy xuống gáy Matahachi:
- Đã lâu lắm, mấy năm rồi cậu Gon nhỉ ! Cậu Gon, con tôi nó cõng tôi đây này !
Matahachi cũng sung sướng. Một cảm giác lạ lùng hắn chưa từng có bao giờ chạy khắp cơ thể. Hắn nhún nhảy bà lão trên lưng, nói:
- Mẹ nhẹ quá nhỉ ! Nhẹ quá ! Không như tảng đá ở công trường.


Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Sáu T12 15, 2006 8:51 pm
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ



QUYỂN 3 : Hi no Maki

CHƯƠNG 22
TRẢM NHẠN KIẾM (Tsubame Gaeshi)



Con thuyền rẽ sóng lướt phăng phăng, những đợt sóng bạc đầu tung bọt trắng xóa. Xa xa, đảo Awaiji mờ dần trong màn sương trắng đục. Gió thổi mạnh, cánh buồm lớn kêu phần phật át cả tiếng sóng vỗ.
Vào một ngày trọng đông, vùng trung nam nước Nhật, chiếc thuyền đò chở đầy giấy bổi và chàm từ đảo Shikoku thẳng đường về bến Osaka. Trên thuyền, ngoài số hàng đăng ký, chắc còn hàng lậu, vì mùi thuốc lá tươi hăng ngai ngái phảng phất khắp chỗ.
Thuốc lá bấy giờ là món quốc cấm, nhưng được nhiều người chuộng và bán lời lắm.
Một số khách thương đi theo hàng, nhân dịp cuối năm trở về tỉnh cười nói râm ran:
- Đại huynh khá không ? Dạo này làm ăn ra sao ?
- Cũng không tệ. Nghe nói ở vùng Sakai hốt bạc. Muốn thử thời vận, nhưng để còn nghe ngóng ...
- Chỗ đó cần nhiều tay thợ, đâu phải cánh mình. Nếu huynh biết nghề rèn binh khí hay làm áo giáp thì phất đấy !
Một người khác góp chuyện:
- Phải rồi ! Đệ có người bà con chuyên nghề rèn giáo và làm mộc, trước làm ăn khá lắm ...
- Thế hả ?
- Nhưng bây giờ cũng trung bình thôi. Tụi nó học đếm rồi !
- Thế là thế nào ?
- Mình chỉ bán hàng cho tụi Samurai, nhưng tụi nó càng ngày càng khó tính và chi li. Trước kia, sau mỗi trận đánh, cứ đi mua lại những đồ sứt càng gẫy gọng của bọn lượm xác lột đồ về sửa chữa sơ sài, thế là đem bán có tiền. Xong một chuyến, đợi đến trận sau, những món ấy lại quay về mình. Bây giờ tụi nó đòi thế này thế nọ, còn đếm đủ số mới mua và trả giá cẩn thận lắm.
- Ấy cứ như mấy tay liều mạng lại hay ! Phải đi xa kiếm những món hàng lạ. Mạo hiểm một tí, nhưng có ăn.
- Tụi Samurai thế mà đáng thương ! Nhiều gã chẳng biết bữa cơm ngon là gì !
Nói xong hắn nhổ bãi nước bọt, lấy tay quệt ngang.
- Bọn quyền quý sống phè phỡn thật đấy, nhưng chóng chầy gì rồi cũng phải đánh nhau, tranh đất, tranh ruộng, chết để quạ rỉa thây, sướng gì phải không quý huynh ?
- Ừ, suy cho cùng, thời nay chỉ như chúng ta là phải. Phi thương bất phú. Có tiền, ta làm gì cũng được !
Có tiếng cười hề hề.
- Vậy mà cũng có lúc phải cúi đầu lạy chúng nó.
- Có sao ? Lạy đôi ba cái ăn nhằm gì ! Cứ ních vàng đầy túi là an ủi rồi ! Vả lại chúng dễ mua, phóng tiền ra việc gì chả xong.
Vài người mỉm cười gật gù. Bọn thương nhân này xem chừng buôn bán phát đạt, quần áo mặc toàn hàng lụa đắt tiền, tấm thảm họ ngồi cũng làm bằng lông cừu ngoại hóa.
Sau khi họ Toyotomi thua trận, tài sản của một số Daimyo bị thất tán, phần lớn chuyển qua tay giới doanh thương hơn là vào tay phe Samurai thắng trận. Lợi dụng nước đục thả câu, giới này phất dần. Bấy giờ, đến ngay những kẻ buôn bán cò con nhưng khéo léo, cũng giàu có chẳng kém gì, có khi còn hơn cả những tay Samurai bổng lộc hàng năm vài ngàn gia. lúa. Mà bấy giờ, vài ngàn gia. lúa mỗi năm đã là phong lưu lắm !
Chuyện gẫu mãi đã chán, rảnh rỗi chẳng biết làm gì, một người đề nghị:
- Buồn quá ! Hay đánh bài chăng ?
- Ừ, đánh thì đánh !
Thế là màn che được trương lên, rượu sa-kê mang đến, cỗ bàn bày ra. Họ ngồi quây quần trên thảm, chơi bài Umsummo, một kiểu chơi bài của Bồ Đào Nha mới du nhập. Từng cọc tiền vàng xếp đầy chiếc bàn thấp, giá gom lại cũng đủ cứu cho dân năm sáu làng khỏi chết đói, nhưng họ coi như rác.
Trong đám hành khách trên thuyền có một số thuộc thành phần mà bọn khách thương liệt vào hạng không biết thưởng thức khoái lạc ở đời:
một nhà sư, vài tay kiếm khách giang hồ quần áo tả tơi, một nho sĩ mắt lúc nào cũng dán vào quyển sách nát cầm trên tay cùng dăm tráng sĩ nhìn cách ăn mặc biết ngay là những Samurai chuyên nghiệp.
Họ ngồi rải rác trên thuyền, cạnh những cuộn thừng lớn hoặc dựa lưng vào các bồ giấy có phủ vải sơn, dáng trầm mặc.
Gần chiếu bạc, một thanh niên còn rất trẻ, lơ đãng bắt rận cho một chú khỉ nhỏ bế trên tay. Chú khỉ thật đẹp, lông vàng óng, luôn luôn cựa quậy kêu chíu chít. Thanh niên thỉnh thoảng vỗ nhẹ lên đầu cho nó ngồi yên hoặc mắng khẽ:
- Yên nào ! Để ta bắt rận cho !
Con khỉ dường như chưa thuần, không nghe lời chủ, nhảy tới nhảy lui, thoắt trên vai thoắt trên đầu, lăng quăng múa may, nhe răng ra như trêu chọc.
- Tráng sĩ mua chú khỉ này ở đâu thế ?
- Tại hạ không mua, tại hạ bắt nó trong rừng Awa lúc nó còn nhỏ.
- Thế ư ? Trông ngộ quá nhỉ !
- Tại hạ suýt mất mạng vì nó đấy ! Khi bắt nó, cả đàn xúm vào tấn công, nếu không nhanh tay nhanh mắt trốn vào hốc đá thì ngã xuống vực chết rồi còn gì !
Mọi người chú ý đến chàng thanh niên không phải chỉ vì con khỉ mà còn vì dáng dấp và cách phục sức của chàng ta khác thường lắm. Thanh niên mặc kimono màu xanh tươi, thêu chỉ kim tuyến vàng lóng lánh, bên ngoài khác một chiếc áo choàng đỏ như hoa lựu. Mặc dầu bấy giờ có phong trào ăn mặc sặc sỡ, nhưng cách phục sức như thế thật lòe loẹt quá đáng. Hơn nữa, đầu chàng cũng không cạo phía trước như phần đông các thanh niên đã trưởng thành mà buộc tóc thành cái chỏm tựa đuôi gà bằng một dải lụa cũng màu đỏ. Cách ăn mặc không khác gì trẻ thơ, tuy thế nhìn nét mặt thì trang nghiêm, cương nghị rõ ràng là của một thanh niên . Làn da tươi sáng, mắt đen mà sắc, môi đỏ tựa thoa son, thân thể vạm vỡ tràn đầy sinh lực có một cái gì toát ra làm mọi người kiêng nể nhưng vẫn không giấu được vẻ ngây thơ của một thiếu niên mới bước vào đời.
Cũng không ai đoán được chàng ta thuộc về giai cấp nào trong xã hội. Quần áo tuy sặc sỡ nhưng không phải là hàng đắt tiền, gã cũng mang dép cỏ như mọi người. Phong thái có uy nghi đĩnh đạt nhưng đối với hành khách trên thuyền, kể cả với những chân sào rách rưới, gã tỏ ra khiêm cung không có gì hách dịch. Người ta chỉ có thể tạm liệt gã thanh niên vào loại Samurai giang hồ nhưng thuộc hạng cao, có tư cách nhờ thanh kiếm dài quá khổ gã đeo sau lưng. Thanh kiếm đã cũ, đốc và chuôi lên nước bóng loáng như đồng đen. Kiếm tuy dài nhưng phần chuôi và phần lưỡi cân đối, trông không kỳ dị. Bao kiếm chạm trổ tinh vi. Người sành kiếm thoạt trông phải nhận ngay là một báu vật.
Gion Toji đứng gần chàng thanh niên không khỏi tấm tắc khen thầm. Thanh kiếm đẹp dường ấy dễ gì mua được ở Osaka này; ngay cả ở Kyoto, nơi sản xuất kiếm nổi danh cũng khó ! Hắn tò mò muốn biết chủ nhân nó là ai, thuộc hạng người nào.
Sau nhiều ngày du thuyết khắp vùng Osaka và Kyoto, Toji thấy mệt mỏi. Tình hình tài chánh võ đường Yoshioka mỗi ngày một sa sút mà Yoshioka Seijuro chẳng lưu tâm gì đến. Trình sổ sách lên, Seijuro chỉ nói cho có lệ:
“Thế à ? Ta không ngờ tồi tệ quá !”. Vậy thôi, rồi bỏ đi chơi. Phòng trà tiệm rượu, không nơi nào là không có mặt. Số môn sinh đóng niên liễm không tăng mà nợ cứ chồng chất, viên chấp quản đề nghị cắt mười mẫu đất bán để trả nợ. Cứ như thế này, nếu không có biện pháp gì sửa đổi, tất phá sản mất.
Sau nhiều lần thảo luận, hàng huynh trưởng đồng lòng áp dụng một kế hoạch vừa kiếm được thêm tiền vừa mở rộng môn phái. Họ dự định phát quang khu vườn rộng lớn phía sau trại, xây thêm một võ sảnh nữa và cổ động rầm rộ để tuyển võ sinh mới. Nhưng muốn thi hành kế hoạch, phải có tiền. Toji được cử mang thư của chưởng môn Seijuro đến các môn đệ cũ đã thành danh yêu cầu giúp đỡ.
Không biết số trời bắt Yoshioka chịu cảnh mạt kiếp hay sao mà kết quả không ra gì!
Đi đến đâu cũng vậy, Toji toàn gặp những phản ứng tiêu cực. Mặc dầu đã trổ hết tài hùng biện, hắn chỉ nhận được những lời hứa suông:
“Để đệ xét xem” hoặc “tại hạ sẽ phúc đáp sau”, v.v ... làm hắn chán nản. Thành ra số tiền quyên được không đáng là bao, chỉ đủ chi phí cho cuộc hành trình mà thôi.
Toji là kẻ có lòng, nhưng trong cái không khí ăn chơi phóng đãng của phái Yoshioka thời bấy giờ, kể từ chưởng môn Seijuro trở xuống, một mình hắn không thể làm gì được. Hắn nghĩ đến Oko, tự hỏi không biết bức thư hắn nhờ chuyển cho nàng tuần trước đây đã đến tay nàng chưa. Nếu đến rồi tất Oko phải ra bến chờ hắn. Khuôn mặt Oko hiện ra trong trí. Nàng đã đứng tuổi nhưng trang điểm vào vẫn còn xinh đẹp lắm. Nhất là những kinh nghiệm chốn phòng the của nàng, hắn nghĩ mà xốn xang trong bụng.
Toji đến gần gã thanh niên, cười cầu thân:
- Chào thiếu hiệp ! Thiếu hiệp đi Osaka ?
- Dạ phải. Kính chào đại hiệp.
- Chắc thiếu hiệp về thăm nhà ?
- Không. Gia đình tại hạ không ở đó.
- Vậy chắc ở Awa ?
- Không.
Lời đáp chắc nịch, xem chừng thanh niên không muốn bắt chuyện. Toji quay đi nhìn trời. Vài con hải âu bay xa xa:
những chấm trắng trên nền mây xám vần vũ. Hắn thử gợi chuyện lần nữa:
- Thiếu hiệp có thanh kiếm đẹp quá ! Hẳn là báu vật ?
Thấy có người khen kiếm, thanh niên mau miệng hẳn lên:
- Cảm ơn đại hiệp. Kiếm này là vật gia bảo, tiên tổ phụ tại hạ vẫn dùng xung kích khi ra trận. Phải cái nó hơi dài nên tại hạ đến Osaka định tìm thợ khéo nhờ sửa lại đeo bên sườn cho tiện.
- Quả có hơi dài thật.
- Hơn ba thước cơ đấy. Nhưng tại hạ thiển nghĩ, đã gọi là Samurai thì không thể không biết dùng kiếm này !
- Dĩ nhiên rồi, kiếm dài hơn cũng dùng được. Tuy nhiên muốn sử dụng cho xảo diệu tất phải là tay tinh thục. Ngày nay có những kẻ đeo kiếm dài nghênh ngang, khinh thế ngạo vật, tài chẳng bằng ai, gặp chuyện gì nguy hiểm thường co cẳng chạy trước. Hà hà ... Thế thiếu hiệp thuộc môn phái nào ?
Nói đến kiếm thuật, Toji không giấu vẻ tự mãn. Hắn nhìn thanh niên ra dáng miệt thị, tuy không nói ra nhưng ý khinh rẻ lộ rõ trên khóe mắt.
- Tại hạ theo Vạn Mai kiếm.
- Vạn Mai kiếm dùng kiếm ngắn, đâu có dài như thế này !
Toji hách dịch làm ra vẻ hiểu biết.
- Đúng ! Tại hạ theo kiếm chiêu Vạn Mai nhưng không dùng kiếm ngắn như đệ tử phái ấy. Thấy kiếm dài lợi thế hơn, tại hạ tập luyện bằng kiếm dài, bị sư phụ bắt được và trục xuất.
- Chà, thanh niên ưa phản kháng lắm nhỉ ! Rồi sao nữa ?
- Nghe nói vùng Echizen có Kanemaki Jisai là bậc dị nhân phát huy nhiều đường kiếm tinh diệu, bèn đến xin nhập môn. Sau bốn năm khổ luyện, tại hạ được sư phụ cho nhập võ lâm, vừa hành hiệp vừa thu thập kinh nghiệm.
- Hừ ! Kanemaki Jisai ? Ông ta là người có chút danh vọng, sao cấp chứng chỉ bừa bãi thế ?
Nghe giọng khinh mạn của Toji, thanh niên tức lộn ruột nhưng vẫn giữ bình tĩnh:
- Bình sinh, sư phụ tại hạ chỉ mới cấp chứng chỉ cho đệ nhất môn sinh là Ito Yagoro mà thôi. Tại hạ là người thứ hai được chấp nhận, thực ra chưa có chứng thư vì khi mới được phép thì có tin mẹ lâm bệnh phải về săn sóc.
- Ở đâu vậy ?
- Ở Iwakumi, tỉnh Suo.
Nói đến đó, thanh niên ngừng lại, mắt lơ đãng nhìn ra xa, tay vuốt nhè nhẹ trên lưng con khỉ. Toji đợi một lát, không thấy kể tiếp, bèn khẽ nhắc:
- Thiếu hiệp đang kể đến lúc về phụng dưỡng từ mẫu ...
Thanh niên như chợt tỉnh:
- Ờ ... Ờ ... phải. Lưu lại quê nhà ít lâu, tại hạ thường giải khuây bằng cách ra bờ sông múa kiếm chơi và chém én bay thấp khi trời sắp dông bão hay tập chẻ đôi những nhành liễu nhỏ rũ ven bờ. Dần dần luyện thêm được nhiều chiêu kiếm đặc biệt riêng của tại hạ, rất tinh xác. Trước khi quy tiên, gia mẫu có lấy ra thanh kiếm này trao cho, dặn phải giữ gìn cẩn thận, vì nó do chính tay nhà luyện kiếm danh tiếng Nagamitsu đặc chế.
Thanh niên tháo kiếm, đưa cho Toji xem. Hắn cầm ngắm nghía, quan sát rất kỹ những nét chạm trổ trên bao rồi rút ra khỏi vỏ. Kiếm quang sáng lòa, ánh thép xanh biếc làm hắn tấm tắc:
- Tốt thật ! Tốt thật ! Nhưng sao không thấy khắc tên kẻ luyện kiếm ?
- Không khắc tên nhưng đích thực là kiếm Nagamitsu đấy ! Ở vùng tại hạ, không ai còn hồ nghi gì. Nó còn có hỗn danh là “cây sào phơi”.
Chàng thanh niên lúc trước ít lời, bây giờ thao thao bất tuyệt, lan man kể cả những chuyện đáng lẽ không nên nói với người lạ buổi sơ kiến.
- Khi ở quê nhà, được tin sư phụ đau nặng rồi mất, tại hạ buồn rầu khôn tả. Cháu của người, tên Kusanagi Tenki, được giao phó trách nhiệm chuyển chứng thư và một số tiền cùng kiếm phổ đến tay tại hạ nhưng cho đến nay vẫn không thấy tin tức gì. Anh ta, ngoài kiếm thuật ra, còn nghiên cứu về kiến trúc. Không biết bây giờ lang bạt đâu, tại hạ đang để tâm tìm kiếm.
- Vậy ư ? Sao khi được tin lệnh sư mất, thiếu hiệp không tới chịu tang ?
- Sư phụ tại hạ ẩn cư tại một vùng hẻo lánh và xa xôi lắm. Vả bấy giờ cũng trùng vào dịp gia mẫu quy tiên nên không bỏ đi được. Thật ân hận. Thế còn đại hiệp, chắc ở Osaka ?
- Không, ta ở Kyoto.
Hai người đứng lặng hồi lâu, nhìn sóng biển rập rình đánh vào mạn thuyền, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Toji là người đầu tiên phá tan sự yên lặng đó:
- Vậy ra thiếu hiệp có ý góp mặt với võ lâm, dùng kiếm đạo lập công danh đấy ?
Câu hỏi nghe như vô hại, nhưng trong giọng nói hàm ý khinh bỉ chế giễu. Mặc cảm gì đã làm Toji có thái độ ấy, không ai biết. Phải chăng vì đã hai mươi năm phục vụ Yoshioka phái, hắn vẫn chưa lập được thành tích gì đáng chú ý ? Hay vì thấy thanh niên kia còn trẻ mà đã huênh hoang, nào kiếm chiêu nào kiếm phổ, hắn bực mình mỉa vài câu cho bỏ ghét ?
Thanh niên không đáp, chỉ đăm đăm nhìn màu nước biển xanh đen. Đột nhiên ngẩng lên nhìn Toji:
- Đại hiệp ở Kyoto, vậy có biết Yoshioka kiếm phái không ? Nghe nói Seijuro, con trưởng Yoshioka Kempo làm chưởng môn. Phái ấy còn hoạt động gì không ?
Toji nhếch mép cười. Hắn muốn đùa thanh niên này chơi.
- Biết chứ ! Yoshioka kiếm phái đang thời hồi thịnh. Thiếu hiệp đã đến thăm bao giờ chưa ?
- Chưa, nhưng tại hạ mong có dịp tới Kyoto gặp Seijuro lãnh hội mấy chiêu kiếm xem sao !
Toji giả vờ ho, đưa tay lên che miệng giấu nụ cười. Hắn thương hại gã thanh niên chẳng có kinh nghiệm giang hồ gì. Nếu biết hắn là ai và địa vị của hắn tại võ đường Yoshioka, chắc gã thanh niên sẽ hối hận vì nói câu ấy. Toji vẫn nửa nạc nửa mỡ:
- Thiếu hiệp có chắc sau khi gặp Seijuro không bị sứt mẻ gì không ?
- Sao không chắc ?
Lần này Toji không nhịn được nữa. Hắn phá lên cười ha hả.
Thanh niên không để ý, tiếp:
- Yoshioka là môn phái lớn và hình như Yoshioka Kempo đã một thời danh chấn giang hồ. Nhưng hai người con ngày nay không ra gì cả. Phải thế không ?
- Chưa gặp thì làm sao biết được ?
- Ấy, tại hạ thấy Samurai khắp nơi đồn đại như vậy. Cũng không tin lắm, nhưng đa số cứ bảo là Yoshioka hết thời rồi.
Toji muốn nói toạc ra cho thanh niên kia biết mình là ai nhưng nghĩ lại thôi.
Nói ra mất mặt. Hắn cố dằn cơn giận:
- Bây giờ chỗ nào cũng thấy những kẻ ra vẻ ta đây thạo tin nên không thể trách thiên hạ đã đánh giá quá thấp phái Yoshioka. Phái này đâu đến nỗi thế ! Nhưng thôi, ta nói chuyện khác thì hơn. Lúc nãy thiếu hiệp bảo vẫn dùng kiếm chém én đang bay để giải khuây, phải thế không ?
- Tại hạ quả có nói vì sự thật như thế.
- Bằng thanh kiếm dài này ư ?
- Đúng vậy !
- Nếu thế chắc thiếu hiệp cũng có thể dùng kiếm này hạ vài con hải âu đang bay để anh em coi chơi chứ ?
Thanh niên không đáp. Chàng vừa nhận ra ý mỉa mai của kẻ cùng thuyền nên đăm đăm nhìn thẳng không chớp vào mắt Toji:
- Được, nhưng chém làm gì, vô ích !
Toji phưỡn ngực, dằn giọng:
- Thiếu hiệp chưa biết phái Yoshioka mà đã giở giọng chê bai ...
- Ồ, thì ra tại hạ đã làm đại hiệp giận.
- Ta đâu có giận gì. Nhưng là dân Kyoto, không ai muốn nghe những lời nói xấu Yoshioka phái.
- Tại hạ chỉ nhắc lại lời thiên hạ đồn đại đấy thôi. Tại hạ không có, hoặc chưa có ý kiến gì về phái này.
Toji lên giọng kẻ cả:
- Này thiếu hiệp !
- ...
- Ngươi hiểu câu “bất tri tự lượng” là thế nào không ? Tuổi trẻ hay khoe khoang, ta thông cảm mà tha thứ, nhưng cái gì cũng phải có giới hạn. Vì lợi ích cho ngươi, ta khuyên hậu sinh các ngươi đừng khoác lác thái quá. Ngươi tưởng ai cũng thộn cả hay sao? Cái gì mà chẻ liễu với chém nhạn, làm như không ai biết sử kiếm, chỉ một mình ngươi biết !
- Kìa, sao đại hiệp vội nóng quá thế ? Đại hiệp cho những lời tại hạ là khoác lác cả chăng ?
- Hẳn đi rồi chứ còn gì nữa ! Nghe chuyện ngươi, ta đã nhịn không muốn xưng danh. Bất quá ngươi chỉ là một thiếu niên miệng còn hôi sữa, chẳng chấp làm gì, nhưng thấy ngươi huênh hoang quá sức, mạt sát cả phái Yoshioka chúng ta nên phải cảnh cáo.
Ngươi biết ta là ai không ? - Hắn vừa nói vừa chỉ tay vào mũi - Toji, đệ nhất cao thủ kiếm phái Yoshioka Kyoto đây ! Còn nói bậy, ta mổ ruột !
Cơn giận dồn ép từ nãy, bây giờ bùng ra ! Toji mặt đỏ như gấc, nói một hơi không nghỉ, sùi cả bọt mép. Khách trên thuyền nghe to tiếng, dừng tay chơi bài, quay đầu nghểnh cổ về phía hai người chỉ trỏ.
Toji bỏ đi, bước những bước dài ra đằng cuối thuyền, khoanh tay ngẩng mặt giương giương tự đắc. Thanh niên nín lặng một lúc rồi nghĩ sao, thong thả bước theo.
- Đại hiệp ?
- Gì ?
- Vừa rồi, trước mặt bá chúng, đại hiệp bảo tại hạ là khoác lác. Vì danh dự, buộc lòng tại hạ phải chấp nhận điều đại hiệp thách làm, mặc dầu thấy vô ích. Tại hạ muốn đại hiệp chứng kiến.
- Ta thách điều gì ?
- Đại hiệp quên rồi ư ? Nghe tại hạ nói vẫn dùng kiếm này chém nhạn chơi, đại hiệp có ý chế giễu và thách tại hạ chém một con hải âu đang bay.
- Ờ phải, vậy ngươi làm được không ?
- Nếu làm được, đại hiệp chịu thua chứ ?
- Ờ ... Ờ ... đương nhiên !
- Vậy tại hạ sẽ làm.
- Tốt lắm ! Toji cười gằn ác độc. Nhưng nếu thất bại, ta mổ ruột ngươi !
Thanh niên không đáp, gật đầu. Rồi vụt một cái, gã nhảy phắt lên mặt chiếc thùng gỗ gần chỗ Toji đứng, tay để vào đốc kiếm, hét lớn:
- Gọi hải âu xuống, ta hạ cho xem !
Toji thấy mình như bị lừa, đưa cổ vào tròng làm trò cười cho thiên hạ. Hắn nhớ đến mẩu chuyện xưa của Vô Ngại thiền sư nội dung cũng tương tự, nên ấp úng:
- Vô lý ! Ngươi chém hải âu được thì cũng gọi hải âu được chứ ?
- Biển mênh mông hàng ngàn dặm, mà kiếm ta chỉ dài hơn ba thước, nếu hải âu không có, làm sao ta giết ?
Toji bước tới một bước:
- Này cậu nhỏ kia, ta bảo thật:
Đừng hòng giở thói láu cá để tìm cớ thoát thân.
Nếu không giết được thì nói thẳng đi, quỳ xuống xin lỗi, ta tha cho không chấp.
Thanh niên cười ha hả:
- Sao không giết được ? Không có hải âu ta dùng vật khác. Trông đây !
Một tiếng soạt. Ánh kiếm lóe lên. Toji cảm thấy lạnh ở đỉnh đầu vội trầm mình xuống. Lưỡi kiếm như một lằn chớp hình vòng cung phóng ra rồi lẫn ngay vào màu áo đỏ. Trong nháy mắt, thanh niên đã tra kiếm vào vỏ, chiếc áo bào tía chưa hết rung động. Kiếm dài ba thước mà thanh niên sử dụng nhanh không khác gì một lưỡi trủy thủ.
Toji kinh hãi tột đỉnh. Hắn đưa tay lên sờ đầu, không thấy đau đớn. Nhưng quái lạ, một cảm giác kỳ dị khiến hắn đoán có sự khác thường xảy ra.
Đột nhiên Toji để ý đến một vật nhỏ màu đen to bằng ngón tay cái nằm run rẩy bên đống dây chão, gió thổi như sắp hất xuống biển. Một đầu vật đó buộc sợi dây lụa đỏ. Hắn sờ tay lên đầu lần nữa, tóc bung ra:
chỏm tóc hắn đã bị lưỡi kiếm của gã thanh niên kia chém đứt ! Trời ơi ! Chỏm tóc yêu quý của hắn ! Chỏm tóc mà không một Samurai nào biết tự trọng không gìn giữ cẩn thận như gìn giữ chính sinh mạng mình. Toji thét lên một tiếng đau đớn, tay để vào đốc kiếm.
Thình lình một cơn gió thổi mạnh làm rung chuyển cả thuyền. Tiếng chân người rầm rập, những tiếng kêu “Bắt nó ! Bắt nó !” cùng tiếng sóng vỗ rào rào, tiếng gió hú qua cách bành giấy bổi xếp hàng trên sàn, tiếng kẽo kẹt của dây chão căng như sắp đứt tung dưới sức mạnh của gió biển làm không khí trong thuyền sôi động hẳn lên.
Toji tay để vào đốc kiếm, sắp rút gươm thì một ý tưởng vụt hiện. Sau cuộc hành trình vừa qua, hắn đã thấm mệt, nội lực hẳn nhiên sút kém. Lại gã thanh niên kia, tuy thân thế và tài năng chưa lộ hẳn nhưng đường kiếm trảm nhạn gã vừa thi triển đã chứng tỏ gã quả là tay địch thủ đáng ngại. Bậy hơn nữa, Toji đã dại dột tiết lộ danh tính, cả thuyền đều nghe, chẳng may trong lúc giao tranh, nếu thất thế thì còn gì là thể diện phái Yoshioka nữa !
Toji rất thực tế và biết tự lượng. Hắn ý thức rõ so kiếm với gã kia trong lúc này, bất cứ vì lý do gì, cũng là vọng động. Nắm ngay lấy cơ hội cả thuyền nhốn nháo, hắn to miệng mắng gã thanh niên hòng giữ thể diện:
- Giỏi lắm ! Lên bờ ta sẽ cho ngươi một bài học. Bây giờ xem chuyện gì đã !
Nói xong quay vội đi, nhưng không ra mũi thuyền mà bước xuống khoang dưới, kéo vạt áo lên đầu che chỏm tóc mới bị hớt.
Ngoài mũi thuyền, tiếng la hét, tiếng chân người chạy rầm rập vẫn không giảm.
Con thuyền chòng chành vì sóng lớn, bây giờ theo dòng người hỗn độn chạy dọc ngang càng chòng chành hơn. Có tiếng gọi chủ thuyền. Một người béo lùn chạy ra, thấy bọn khách thương đang la hét đuổi theo một con khỉ. Hỏi duyên cớ mới biết con khỉ đã nhân lúc mọi người vô ý, nhảy vào chiếu bạc ôm trọn cỗ bài chạy. Bây giờ nó đang ngồi trên cuộn dây chão kêu khẹc khẹc nhe răng ra hăm dọa bọn người đuổi bắt. Nó chuyền cỗ bài trên tay, bắt chước cử chỉ của những con bạc. Dáng điệu nó vụng về thật tức cười càng chọc giận thêm những người đuổi.
Đột nhiên con vật bỏ cuộn dây, tót lại phía cột buồm, thoăt thoắt trèo lên rồi ngất ngưởng đánh đu trên đó. Cột buồm cao có đến bốn năm trượng, gió thổi lồng lộng. Con khỉ con như không, lại còn ra vẻ thích thú, nhảy qua nhảy lại nhạo báng những kẻ đứng dưới.
- Á à ! Kìa, nó xé bài rồi ! Nó xé bài rồi !
- Chủ nó đâu ? Gọi nó xuống đi chứ !
Mọi người nhìn gã thanh niên, chờ đợi. Nhưng gã lờ đi như không nghe thấy. Chủ thuyền xem chừng cũng biết chủ nhân con khỉ là ai, nhưng không rõ vì ngại dáng dấp cao lớn của gã hay vì thanh trường kiếm gã đeo trên vai mà không nói gì, chỉ hỏi bâng quơ:
- Ai là chủ con khỉ đó ?
Không có tiếng trả lời. Thanh niên vẫn điềm nhiên đứng dựa bục gỗ, lơ đãng nhìn bọt nước.
- Vùng rừng núi Awaji nhiều loại khỉ lông vàng như con này lắm. Nếu không ai nhận là chủ, tất nó là dã hầu lạc đàn, ta sẽ có cách đối phó.
Bèn chạy vào khoang, một lát mang ra cây hỏa mai đã nạp đạn sẵn. Hắn vừa liếc nhìn thanh niên vừa khum tay mồi lửa, miệng phân bua:
- Đã nói rồi đấy nhé ! Các vị Ở đây làm chứng cho, thú vô chủ là dã thú, bắn chết đừng có trách !
Mọi người bớt ồn ào. Có người tỏ thái độ bất bình. Một số hồi hộp như sắp được xem màn kịch đến hồi gay cấn.
Chủ thuyền nâng súng đặt lên vai. Một tiếng “bùm !”, mùi thuốc súng bay tỏa khét lẹt. Nhưng viên đạn không trúng con vật. Gã thanh niên bào tía đã nhảy đến bên chủ thuyền từ lúc nào, đưa tay gạt chếch mũi súng:
- Thuyền chủ làm gì vậy ? Ngươi định bắn con khỉ bằng thứ đồ chơi này đấy hả ?
- Sao không ?
- Con khỉ có tội gì ?
- Nó lẫy cỗ bài của người ta.
- Lấy cỗ bài mà đáng tội chết ư ? Ngươi tàn nhẫn quá !
- Tàn nhẫn hay không, không cần biết. Ta đã cảnh cáo rồi. Tráng sĩ có phải là chủ con vật đó không ?
- Chính thị.
- Vậy phải đền cỗ bài.
Thanh niên cười ha hả:
- Này thuyền chủ ơi, đừng có hàm hồ ! Ta không xúi con khỉ lấy cắp cỗ bài. Nó là con vật, không biết phân biệt phải trái, nhìn người chơi thì cũng bắt chước, sự thiệt hại đáng là bao mà định giết nó ? Huống chi ngươi không phải là chủ cỗ bài, bắt ta đền sao được ? Mấy người kia chơi bài hay con khỉ chơi bài thì cũng thế ! Nào, ai là chủ cỗ bài, muốn ta bồi thường, nói lên !
Không nghe tiếng đáp. Toán khách thương trước đây miệt thị phái Samurai, bây giờ đứng im thin thít giữa tiếng cười gằn của gã thanh niên ngạo ngược. Chỉ duy viên nho sĩ khẽ nhếch mép mỉm cười rồi lại tiếp tục cúi đầu xuống trang sách bỏ dở, trong khi các chân sào rộn rịp sửa soạn để thuyền cập bến.

Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Sáu T12 15, 2006 8:55 pm
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ



QUYỂN 3 : Hi no Maki



CHƯƠNG 23
VỎ ỐC LÚ



Khi thuyền bỏ neo, trời đã chạng vạng tối. Mùi cá khô phơi chưa được nắng, tanh tanh mằn mặn phảng phất trong không khí. Dãy phố nhỏ trước bến đã lên đèn, ánh sáng vàng úa chiếu qua những khung cửa sổ vuông dán giấy như trong những bức tranh cổ.
Thuyền buôn đã về. Khu bến chợ rộn rịp hẳn lên. Đèn lồng không biết ở đâu túa ra vô số kể, trẻ con cầm lố nhố đứng trên bến. Trên mỗi lồng đèn đều có viết tên một quán trọ, một món ăn đặc biệt của nhà hàng hoặc có khi chỉ để quảng cáo một sản phẩm địa phương nào đó.
Tiếng chân sào la ơi ới, tiếng mời chào, cười nói, gọi nhau, trẻ con chí chóe tranh nhau từng bước trên tấm ván bắc lên thuyền. Vài người ra đón thân nhân đứng đằng xa giơ dù vẫy; những bóng đen khi ẩn khi hiện trong vùng ánh sáng mờ tỏ của lồng đèn ngang dọc.
- Công tử lệnh lang của ngài tổng trấn có trên đó không ?
- Công tử nào ?
- Trịnh Đức Nhị Lang.
- Không. Đi thuyền sau.
- Mời khách quan đến trọ Ở quán cháu. Có cửa sổ trông ra biển, đẹp lắm !
- Xin ngài đến quán Kashiwaya. Phòng rộng rãi, quý khách mang theo con khỉ không tính tiền.
- Không, ông khách này của tao. Mời khách quan theo cháu.
Nghe lời mời chào của hai đứa trẻ, thanh niên mặc bào tía chỉ mỉm cười. Gã nhẹ nhàng gạt tay chúng nắm áo, xốc lại hành trang, bế con khỉ lên vai rồi bước theo tấm ván xuống bến. Không ai đợi gã cả. Nhưng hình như đã có chủ định, gã xăm xăm đi tới, rẽ vào một ngõ tối khuất dạng.
Trên thuyền, đám khách thương vẫn còn hậm hực, vừa coi phu rỡ hàng vừa bực tức:
- Tên đó ngông nghênh quá đỗi ! Chỉ nhờ vài đường kiếm mà coi người chẳng ra gì... Đáng tiếc là cánh mình chẳng ai biết võ, chứ nếu không ...
- Thôi, để tâm làm gì ! Kệ cho nó làm cha thiên hạ. Cao nhân tắc hữu cao nhân trị. Danh chẳng qua như cái hoa, nhường cho nó hưởng, mình ăn quả có hơn không ?
Chuyện hôm nay bỏ đi. Kìa, các em đã đến đón kìa !
Bọn kỹ nữ trèo lên thuyền, bước những bước nhanh và ngắn, vịn vào nhau cười khúc khích. Quanh ánh đèn lồng, trông các nàng không khác gì những con bướm đêm bu xung quanh ngọn nến.
Một trong những người rời thuyền sau chót phải kể Toji. Chưa bao giờ hắn gặp một hoàn cảnh đáng buồn và đáng giận như thế ! Thật mất hết cả thể diện. Mặt mày bí xị, hắn lấy tâm khăn vuông choàng lên đầu che chỗ tóc bị cắt đứt, nhưng không sao giấu được vẻ ảo não và cau có trên mặt.
- Toji ! Em ở đây mà !
Thấy Toji ở trên thuyền bước xuống, Oko vẫy gọi rối rít. Đứng ngoài trời khá lâu, và có lẽ cũng vì gió đầu đông thổi mạnh, Oko run rẩy như chiếc lá. Những vết nhăn trên mặt nàng hiện ra mờ mờ dưới ánh đèn và dưới lớp phấn trắng. Toji nở nụ cười gượng gạo:
- Oko đấy à ? Tưởng nàng không đến chứ !
- Ô hay ! Sao nỡ nói vậy ? Chàng viết thư bảo em ra đón mà !
- Ờ ờ ... nhưng tưởng thư chưa đến kịp.
- Kỳ không ! Lang quân có vẻ không muốn gặp em. Có chuyện gì không vui mà trông mặt chàng như mặt thằng đánh dậm bị cua cắp vậy ?
Toji đang buồn cũng phải phì cười:
- Thế nào là mặt thằng đánh dậm bị cua cắp ?
Oko che miệng rúc rích.
- Không, chẳng có chuyện gì đâu. Chắc tại ta say sóng nên hơi mệt. Ta lên xóm trên, đến quán Torin nghỉ một lát, nếu còn phòng thì trọ luôn. Quán ấy ở cũng được !
- Không, em đã thuê cáng đến đón chàng. Phu cáng đợi ngoài kia.
- Ồ, chu đáo quá ! Thế đã giữ phòng chưa ?
- Rồi. Mọi người đang đợi chàng đấy.
Toji ngạc nhiên:
- Mọi người ? Mọi người là những ai ?
- Thì anh em trong phái Yoshioka của chàng chứ ai ?
- Trời ! Nàng mời họ đến làm gì thế ? Ta tưởng chỉ có mình nàng với ta sống vài ngày với nhau ở một nơi vắng vẻ. Bây giờ hỏng hết chuyện rồi, làm thế nào đây ?
Hắn giơ tay bứt đầu bứt tai, luôn mồm kêu hỏng chuyện.
- Thôi, ta không tới đâu !
Oko rối rít xin lỗi:
- Em đâu có biết, mà chàng cũng không nói rõ. Họ là bạn cả mà ...
Oko đến sát bên Toji. Hắn giận dữ đẩy nàng ra. Bao nhiêu bực dọc và bất lực cảm thấy trên thuyền bây giờ nổ bùng ra, hắn dồn cả lên đầu Oko như nước lũ:
- Ngu quá ! Trời ơi, nàng ngu quá ! Nàng về đi, bảo phu cáng về đi. Nàng chẳng hiểu gì cả, chẳng hiểu ta một tí gì cả !
Oko phục xuống, nắm vạt áo Toji. Hắn giật mạnh ra, rảo bước bỏ đi. Oko chạy theo, bước chân xiêu vẹo suýt ngã. Cả hai đến phía sau chợ cá. Trời tối, chợ đã vãn, các quán đều đóng cửa. Trăng non mới mọc, vẩy cá rải rác đầy dẫy, lóng lánh dưới ánh sáng trăng như những mảnh ngọc trai nhỏ xíu. Khu chợ vắng teo, Oko ôm chặt lấy Toji tỏ tình và lơi lả.
- Bỏ ra !
- Nếu chàng đi trọ chỗ khác thì họ sẽ nghĩ chàng với em có chuyện gì ...
- Mặc kệ ! Họ muốn nghĩ sao kệ họ !
- Toji ! Sao chàng đối xử với em như thế ?
Oko áp má mình vào má Toji. Mùi thơm ngòn ngọt trên mái tóc Oko quyện với mùi phấn sáp trên môi, trên má nàng làm Toji ngất ngây. Nỗi bực dọc cũng bớt đi được đôi phần. Oko nũng nịu:
- Thôi cho em xin ...
- Nàng không biết ta thất vọng chừng nào !
- Biết chứ ! Em biết chứ !
- Thế sao nàng lại để cho nhiều người đến như vậy ? Nàng không muốn ở một mình với ta phải không ? Nàng không yêu ta như ta yêu nàng rồi !
Oko nhìn Toji ra vẻ trách móc, mắt rơm rớm ướt:
- Đó ! Đó ! Lại nói vậy rồi !
- Thế tại sao ?
- Tại em không từ chối được. Khi nhận được thư, em đã quyết một mình đi Osaka để đón chàng, nhưng không may ngay tối hôm ấy Seijuro lại đến chơi cả đêm.
Akemi lỡ miệng nói em sẽ đi Osaka, thành thử Seijuro và các bạn chàng cũng đòi đi theo. Em không từ chối được. Họ cùng đến đây cả thảy tời mười người.
Toji nghe trần tình, biết Oko chẳng làm gì được, nên cũng nguôi ngoai đôi chút nhưng vẫn không vui. Hắn lo ngại phải tường trình những thất bại trong cuộc du thuyết, rồi còn mái tóc của hắn. Mái tóc ! Trời ơi, biết nói làm sao đây ! Toji bối rối quá !
- Thôi được ! Ta bằng lòng đi với nàng. Gọi phu cáng lại đây !
Oko mừng quá, ôm cổ Toji, áp má vào ngực hắn rồi chạy trở lại về phía bến.
Yoshioka Seijuro vừa tắm xong, choàng kimono ấm nằm dài trên nệm bông trong một phòng sang nhất quán trọ. Họ đợi Toji và Oko. Chuyện vãn đã chán, một người đề nghị:
- Ta làm chút gì chăng ? Tiểu chủ nghĩ thế nào ? Ngồi không mãi thế này buồn chết !
- Ừ thì bảo mang rượu đến.
Chén thù chén tạc, câu chuyện lan man đi đến mục nhảm nhí. Chẳng ai còn nhớ mình đang đợi Toji nữa.
- Quán này không có kỹ nữ hay sao ?
Một người hỏi.
- Ừ nhỉ ! Sao không gọi chủ quán bảo cho mấy em đến ? Ông chủ đâu ?
Thế là chẳng bao lâu sau, ba bốn kỹ nữ mang đàn tới. Bữa rượu nhộn nhịp hơn trong tiếng cười đùa lơi lả, không còn phân biệt ai chưởng môn ai đồ đệ nữa.
Cũng như mọi lần, Seijuro uống rượu được một lúc thì say, ngồi thừ người trên chiếu nhìn đàn em vui chơi không mấy thích thú. Là người đứng đầu môn phái, tác phong hắn có phần đĩnh đạc hơn. Hắn không chịu được sự đùa cợt thô lỗ của đàn em.
Ueda ngồi bên ghé tai Seijuro nói thầm. Hắn gật gù ra vẻ ưng chịu. Dù sao, vào phòng riêng, bên lò than ấm, một mình với Akemi cũng sướng hơn ngồi nghe tụi này pha trò thô tục.
Seijuro chống tay đứng dậy. Cả phòng chẳng ai để ý. Cuộc vui cứ tiếp diễn, bình rượu xếp đầy góc nhà, các ca kỹ thay phiên nhau hát nhưng bản huê tình đệm đàn samishen nhiều cái phím đã long, tàn tạ chẳng khác gì chủ nó.
Rượu đương nồng, một nữ tỳ bước vào thông báo có khách. Tiếng lè nhè vọng ra:
- Khách nào thế ? Khuya rồi, bảo mai đến !
- Vị khách này tên Toji.
- Toji ... Toji ...
Á à, bấy giờ cả bọn mới nhớ ra là đang đợi Toji. Vài người ngồi dậy khi Toji và Oko bước vào, giơ tay vẫy, chào hỏi qua loa. Cả bọn không một ai còn tỉnh táo.
Rượu đã vẽ lên mặt họ những nét ngờ nghệch, biến họ thành những hình nhân ngu độn vây quanh mấy ả ca kỹ múa may như những con rối.
Toji chán nản hết sức. Nghe lời Oko, hắn tưởng mình sẽ được đón tiếp long trọng, ngờ đâu ... Hắn lắc đầu, gọi nữ tỳ dẫn sang phòng Seijuro. Nhưng hành động này không cần thiết, vì chưởng môn Yoshioka, nghe tin cánh tay phải của mình về, đã chạy vội ra đón. Seijuro say mèm, chân nam đá chân chiêu, mồm lắp bắp:
- Toji đấy ư ? Ta đợi ... đợi ngươi mãi. Lại đi vui thú với con mẹ này bây giờ mới tới chứ gì ? Không sao ... không sao ...
Hắn đến ôm vai Toji nhưng tuột tay ngã xô về phía trước. Toji giơ tay đỡ.
Seijuro níu vội lấy đầu Toji. Không kịp nữa rồi ! Vuông khăn trên đầu hắn tuột ra.
- Ồ, cái gì thế này ? Sao tóc ngươi mất một mảng thế này ?
Toji luống cuống, giật vuông khăn trên tay Seijuro quấn vội lên đầu:
- Không có gì ! Không có gì ! Tiểu đệ bị cái nhọt trên đầu phải cắt tóc đi cho dễ tri.....
Mọi người quay lại nhìn, đa số chẳng để ý. Có tiếng hỏi:
- Huynh trưởng đi quyên góp thế nào ? Có thu được khá không ?
- Cũng chẳng được bao nhiêu. Chuyện này sẽ giải thích sau.
- Ha ha ... chắc lại chỉ có cái nhọt mang về làm kỷ niệm ...
Cả bọn phá lên cười. Câu nói đầy châm chọc làm Toji xám mặt. Hắn chẳng biết nói sao và xem chừng tuy say nhưng bọn này chẳng một ai tin lời hắn.
Sáng hôm sau, một số môn đệ phái Yoshioka tụ họp tại bãi cạnh quán. Họ đã tỉnh hẳn rượu. Mặt ai nấy đều tỏ vẻ nghiêm trọng. Ueda lên tiếng trước:
- Thật nhục nhã. Ta không ngờ xảy ra chuyện ấy !
- Đầu đuôi thế nào, xin huynh trưởng thuật lại cho anh em biết.
- Ta không được nhìn tận mắt, nhưng Hoàng Diệp nghe rõ. Hoàng Diệp ! Ngươi nghe thấy những gì, nói lại để anh em cùng biết.
- Dạ dạ ! Sáng nay tiểu sinh dậy sớm, cảm thấy mệt mỏi vì hôm qua thức khuya, uống rượu nhiều ...
- Thôi nhanh nhanh lên, bỏ qua những đoạn không cần thiết ...
- Dạ. Tiểu sinh đi tắm. Đang tắm thì có hai người ăn mặc ra dáng thương gia bước vào. Họ kể cho nhau nghe những chuyện xảy ra hôm qua trên thuyền giấy. Hình như có một Samurai thuộc phái Yoshioka ta bị một thanh niên lạ mặt mặc áo đỏ dùng kiếm hớt đứt mất chỏm tóc trên đầu, vậy mà Samurai đó không dám làm gì. Tiêu sinh nghĩ có lẽ đó là đại huynh Toji.
- Bậy nào ! Ngươi lấy gì làm chắc ?
- Có thể lắm ! Này Hoàng Diệp, ngươi không nói láo đấy chứ ?
- Tiểu sinh đâu dám. Sở dĩ tiểu sinh ngờ như vậy vì một trong hai người còn nói:
“Tay Samurai kia tự xưng là cao nhân phái Yoshioka ở Kyoto. Nếu danh tính hắn đúng thì chẳng hóa ra Yoshioka dạo này bạc nhược lắm sao ! Không ngờ phái đó thế mà hữu danh vô thực !”.
Nghe đến đây, bọn đồ đệ phái Yoshioka không kềm được tức giận:
- Láo ! Láo ! Phải trị cho thằng đó một trận.
- Cắt tóc nó đi !
- Không ! Cắt tóc không đủ ! Cắt cổ nó !
Nhưng Ueda đã đứng dậy khoát tay:
- Khoan ! Khoan ! Anh em đừng nóng. Chuyện xảy ra như thế nhưng chúng ta chưa biết có phải Samurai ấy đích thực là huynh trưởng Toji không ? Để ta vào hỏi cho ra nhẽ.
Cả bọn theo Ueda vào quán. Nhưng đến nơi mới biết Toji đã cùng với Oko đi Kyoto từ sớm rồi. Tin này làm cả bọn không còn hoài nghi gì nữa. Seijuro còn ngủ, họ không đánh thức. Ueda được coi như người thay mặt Seijuro, cắt đặt mọi việc, chia anh em đổ đi khắp ngả tìm gã thanh niên áo đỏ.
Akemi, áo vén cao, đứng trên bãi cát gần bờ biển chăm chú nhặt vỏ ốc. Mỗi khi tìm được một vỏ ốc lạ, nàng lại tò mò ngắm nghía hoặc để lên tai nghe. Từ sáng, cứ như vậy, nàng đã nhặt và vất đi hàng trăm con ốc.
Trời mới sang đông, khí hậu ven biển chưa lấy gì làm lạnh lắm. Mặt trời đã lên cao, nước biển xanh biếc, sóng nhè nhẹ vỗ vào ghềnh đá tung bọt trắng như những cánh hoa mai trước gió. Trên bãi vắng, một mình Akemi trong bộ áo trắng, nhỏ bé trước cảnh bao la của trời nước, chẳng khác gì một con hạc khờ dại lạc bầy từ cảnh tiên nào đậu xuống.
Một môn sinh Yoshioka đi qua, thấy Akemi, vội dừng lại:
- Akemi ! Làm gì ngoài bãi sớm thế ?
- Tiểu nữ ... tiểu nữ tìm vỏ ốc.
- Tìm vỏ ốc ? Đằng kia thiếu gì mà phải tìm ở đây ?
- Không. Vỏ ốc đặc biệt chỉ vùng Sumiyoshi này mới có.
- Gì mà quý thế ?
- Vỏ ốc lú.
Gã kia ngạc nhiên mở to mắt:
- Vỏ ốc lú ? Vỏ ốc lú là cái gì ?
- Là một thứ vỏ ốc khi người ta để vào tai nghe hay giữ trong mình thì quên được hết mọi sự.
Gã cười ha hả:
- Cô này điên rồi ! Vô tâm như cô chưa đủ hay sao mà còn đi tìm vỏ ốc lú ?
Akemi lắc đầu cười gượng gạo:
- Tiểu nữ không điên, nhưng có những lúc muốn quên. Thế còn khách quan, khách quan đi đâu vội thế ?
- À, ta đi tìm một người.
- Tìm làm gì ?
- Tìm để trả hận.
Akemi quay đi. Nàng không quan tâm đến sự tranh chấp của đàn ông mà nàng cho là tàn bạo, ích kỷ, ngoại trừ một người. Khi nghĩ đến người ấy, lòng nàng không khỏi rung động. Hình bóng người ấy luôn lởn vởn trong trí và trong những giấc mơ làm nàng bồi hồi không muốn tỉnh. Đôi lúc, bên những cuộc truy hoan của khách lạ tại quán Yomogi, nàng cũng muốn quên hết đi để nghĩ đến tương lai. Nàng tin rằng người nàng yêu mến không biết, hay chẳng quan tâm gì đến mối tình của nàng cả. Mối tình vô vọng ấy nàng thật tình muốn quên nhưng không sao quên được. Nếu quả có vỏ ốc lú, nàng sẽ sung sướng bao nhiêu khi tìm được nó.
Gã môn sinh Yoshioka nhìn nét mặt âu sầu của Akemi không khỏi ái ngại. Thấy nàng không nói gì thêm, gã lặng lẽ bỏ đi.
Akemi lơ đãng nhìn ra xa, khe khẽ ngâm bài thơ quen thuộc:
Nữ la, chàng là cỏ Thổ ti, em làm hoa
Cành mềm không đi nổi
Nghiêng theo gió xuân qua
Nương mình thông trăm trượng
Quấn quít nên một nhà
Ai rằng dễ gặp mặt
Núi biếc cách chia xa
Nhìn nước biển trong xanh và sâu thẳm
Akemi tưởng như đó là nguồn an ủi, sự giải thoát. Nàng trừng trừng nhìn những đợt sóng hiền hòa vỗ nhè nhẹ như ru vào ghềnh đá. Đứng trên ghềnh này, chỉ một cử động thôi, một cử động nhỏ, dễ dàng quá, nàng sẽ nằm trong lòng biển xanh, sóng yêu đương ru nàng vào một giấc mộng êm đềm không bao giờ dứt.
Tiếng chân người và tiếng gọi đột nhiên lôi Akemi trở về thực tại.
- Akemi ! Akemi ! Tiểu chủ đang chờ nàng đấy. Ra đây làm gì vậy ?
Akemi giật mình, theo chân ả nữ tỳ trở về phòng trọ.
Bốn bề yên lặng. Gió sớm xào xạc trên cành thông. Đôi chim sâu lích chính trong bụi rậm trước cửa sổ. Seijuro ngồi một mình trong phòng, bên chiếc lò sưởi vừa nhóm.
Sau giấc ngủ vừa qua, hắn thấy trong người khỏe khoắn lạ thường, nhìn Akemi bước vào, âu yếm hỏi:
- Buổi sáng lạnh, nàng ra ngoài làm gì thế ?
- Tiểu nữ không thấy lạnh. Ngoài bãi, nắng đẹp và ấm lắm.
- Nàng ra bãi làm gì ?
- Tiểu nữ tìm vỏ ốc.
Seijuro mắng yêu:
- Nàng làm như còn trẻ con lắm !
- Thì tiểu nữ vẫn là trẻ con.
- Đến tháng chạp này, nàng bao nhiêu tuổi biết không ?
- Tiểu nữ không để ý. Tiểu nữ vẫn tự thấy là còn trẻ con, có hại gì đâu ?
- Hại lắm chứ ! Nàng đã lớn rồi, phải nghĩ đến tương lai, như mẹ nàng muốn.
- Mẫu thân tiểu nữ ? Bà có nghĩ gì đến tiểu nữ đâu, bà vẫn tưởng bà còn trẻ.
- Nàng ngồi xuống đây.
- Xin khách quan tha lỗi. Trong phòng nóng quá, cho phép tiểu nữ ra sân.
- Akemi !
Seijuro sẵng giọng, nắm cổ tay Akemi kéo xuống.
- Hôm nay chỉ có mình ta với nàng. Mẹ nàng đi Kyoto rồi.
Akemi nhìn đôi mắt đỏ ngầu của Seijuro. Nàng cong người vùng vẫy cố kéo ra, nhưng bàn tay Seijuro cứng như sắt chỉ làm cổ tay nàng đau thêm.
- Sao nàng tìm cách trốn ta ?
- Tiểu nữ không trốn.
- Sáng nay không có ai ở quán. Cơ hội tốt như thế này ...
- Cơ hội gì ?
- Nàng đừng có giả vờ. Có đến hơn năm nay rồi, ta với mẹ con nàng quen nhau.
Nàng thừa biết lòng ta đối với nàng ra sao rồi, mà mẹ nàng cũng đồng ý. Mẹ nàng thường bảo tại ta vụng. Hôm nay xem ta có vụng không !
- Bỏ ra !
- Nàng thật không ưng ta phải không ?
- Bỏ ra, không ta kêu lên bây giờ !
Seijuro cười gằn, chua chát:
- Kêu đi ! Kêu đi ! Không có ai ở quán cả ! Ta đã ra lệnh không ai được làm rộn.
Akemi vùng vẫy, tay đấm chân đạp.
- Bỏ ra, bỏ ta ra ! Ta không bằng lòng, để ta đi ...
- Không được.
- Thân ta không thuộc về khách quan.
- Á à ... Nàng lầm ! Hỏi mẹ nàng xem. Ta đã trả tiền ...
- Mẹ ta bán ta, nhưng ta không chịu bán thân ta. Nhất là cho một tên hèn hạ đáng khinh như ngươi !
- Hỗn ! Nàng hỗn !
Seijuro giật sấp Akemi xuống sàn, lấy chăn trùm kín. Akemi kêu như điên dại, nhưng những tiếng kêu chỉ còn là những tiếng ú ớ tắc nghẹn.
- Kêu đi ! Kêu to nữa đi ! Không ai đến cứu nàng đâu !
Seijuro đè lên mình Akemi.
Bên ngoài, cảnh vật vẫn điềm nhiên. Nắng sớm vô tình chiếu bóng cành thông lay động bên song cửa sổ. Xa xa, tiếng sóng biển rì rào đưa lại cùng với tiếng chim gáy hót sau nhà.
Seijuro bước vào phòng tắm, mặt tái xanh, tay trái giơ cao, những vết móng tay cào trên da còn rướm máu. Bỗng cửa phòng mở toang rồi đóng đánh rầm, bóng Akemi chạy vụt ra ngoài. Seijuro kêu một tiếng khẽ, nhảy tới cản nhưng không kịp nữa. Hắn đưa mắt nhìn theo, trên môi nở nụ cười đắc thắng, nụ cười bằng lòng của một con thú vừa được thỏa mãn.


Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Sáu T12 15, 2006 8:57 pm
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ



QUYỂN 3 : Hi no Maki


CHƯƠNG 24
VỊ NGHĨ VONG THÂN



- Cậu Gon !
- Gì thế chị ?
- Cậu mệt rồi hả ?
- Vâng, cũng không được khỏe.
- Thảo nào trông thờ thẫn. Hai chân ta cũng mỏi nhừ, nhưng còn quãng nữa thì đến chùa Sơn Nhai. Gắng lên, chẳng lẽ tới đây không vào chùa lễ Phật, phải tội chết !
- A di đà Phật !
- Chùa này có xá lợi do vị cao tăng Tây vực mang đến cúng đã mấy trăm năm, lại trồng được cây bồ đề chiết từ gốc nguyên thủy lấy ở nơi đức Phật ngồi đắc đạo ...
- Sao chị biết ?
- Thì người ta nói thế, sao ta lại không biết !
Cụ Osugi và cậu Gon đến gần tam quan. Cảnh chùa u nhã, tiếng chim rừng văng vẳng gõ thân cây, mùi hương trầm phảng phất giục lòng người trút bỏ hết niềm tục lụy. Cạnh tam quan thấy cắm vô số bảng lớn nhỏ, chữ viết chi chít.
- Họ viết gì trên bảng này thế chị ?
- À, họ bảo lấy lá bồ đề trong chùa nấu nước uống thì khỏi bệnh nghiến răng.
Cậu Gon cười chế giễu:
- Nhảm nhí !
- Này đừng báng bổ, đức Phật ngài linh thiêng lắm !
Bỗng bà quay lại, nhớn nhác như tìm ai:
- Thằng Matahachi đâu ?
- Chắc nó đi sau.
- Hay lại lạc rồi cũng nên !
Bà quay trở lại, thấy Matahachi ngồi trên phiến đá thừ người chán nản. Đã mười ngày nay theo mẹ và cậu lang thang chùa này đền khác trong vùng Sumiyoshi, hắn mệt mỏi không hứng thú. Bản tính ham chơi, ưa chỗ đông người, bây giờ thiếu cái không khí ồn ào của trà đình tửu quán, hắn bực dọc. Đã nhiều lần Matahachi nói với mẹ xin tách ra đi riêng tìm Musashi thì mới hy vọng gặp nhưng cụ Osugi không chịu. Bà nói:
“Tết sắp đến nơi rồi. Sáu bảy năm nay, mày đã không ở nhà lễ gia tiên, năm nay mẹ con sum họp, biết đâu chẳng là lần chót. Nhờ Trời Phật, nếu còn được lâu dài nữa thì hay, bằng không thì cũng không ân hận ...”. Matahachi biết không thể làm xiêu lòng mẹ được, đành thôi, nhưng nỗi buồn bực lộ hẳn ra nét mặt. Hắn nhất định sau Tết nguyên đán sẽ bỏ đi ngay, mặc bà muốn nói gì thì nói.
- Matahachi ! Có đi nhanh lên không ? Con trai gì mà yếu như sên ấy !
Nghe mẹ quở, Matahachi càng bực thêm. Hắn đứng lên, lầu bầu:
- Đi nhanh ! Đi nhanh ! Lúc nào cũng đi nhanh ! Nhanh để làm gì ? Chỉ la cà ở các chùa chiền, phí thì giờ !
- Mày nói gì ? Vào chốn tôn nghiêm, không biết kính Phật trọng tăng thì sa địa ngục đời đời không ngóc đầu lên được con ạ ! Ta không thấy mày lễ Phật bao giờ, rồi hối không kịp đấy !
- Thật là cái nợ !
- Matahachi, mày nói ai là cái nợ ?
Giọng bà tức giận, the thé.
Mấy ngày đầu khi mẹ con gặp nhau, còn có đôi chút hòa khí, nhưng dần dần mối bất đồng ngày càng tăng. cụ Osugi lại khắc nghiệt, không tối nào không bắt con quỳ nghe bà thuyết giáo làm Matahachi bực dọc không để đâu cho hết. Nể mẹ, hắn không cãi nhưng sự bực bội dồn ép mãi đến lúc nào đó phải xì ra. May mà hắn còn biết trong uy quyền của bà, chỉ đáp lại bằng những lời chế nhạo hoặc những tiếng lầu bầu bất mãn.
Cậu Gon đứng bên, biết không tránh khỏi sự va chạm đưa đến cãi vã, nghĩ thầm:
“Thật mẹ nào con nấy !”. Để xoa dịu sự bực bội của hai người, cậu cố gắng lái câu chuyện sang hướng khác:
- Hình như chỗ ghềnh đá đằng kia có cái quán, ta ra đấy xem có gì uống cho ấm bụng chứ !
Nói xong, không đợi trả lời, cầm tay chị và cháu lôi đi. Không ai tỏ vẻ hoan nghênh nhưng cậu cũng kéo bằng được cả hai đến gần quán.
Quán nhỏ. Hàng rào sậy thưa ngăn quán với khu vườn hoang gió đánh tơi tả. Cả ba tìm một bàn bên ngoài ngồi nhìn ra bãi. Mẹ con cụ Osugi buồn thiu, chẳng ai nói với ai lời nào. Cậu Gon chạy vào trong đem bình rượu sa-kê mới hâm nóng ra rót vào chén mời bà lão:
- Chị uống một tí. Nó còn trẻ người non dạ, để rồi dạy dần dần mới được.
Cụ Osugi hừ một tiếng, quay phắt đi, buông sõng:
- Không uống.
Bị tẽn, cậu Gon đưa rượu cho Matahachi. Đương cơn bực bội, hắn cầm chén rượu uống liền, nốc một hơi cạn sạch, rồi lại tự tay rót thêm, vừa uống vừa mời cậu, Matahachi có ý trêu tức bà lão. Khi hắn cầm bình định rót lần nữa, cụ Osugi quay mặt lại giận dữ quát lớn:
- Thôi ! Không phải lúc say sưa ! Chỗ này đâu phải chỗ vui chơi ! Còn cậu nữa, liệu hồn cậu ! Già đầu rồi thì phải biết điều hơn nó chứ !
Như đứa trẻ bị mắng, cậu Gon khẽ dạ, bẽn lẽn đứng bên hàng rào nhìn ra biển.
Thấy sắc mặt đỏ gay và dáng điệu bất cần của con trai, cụ Osugi giận uất, dùng ngón tay chỉ mặt Matahachi, mắng như tát nước. Bà không còn e dè gì nữa, bao nhiêu tiếng xấu xa đem ra đổ hết lên đầu hắn, không lưu ý gì đến chủ quán và số thực khách ngồi ở bàn trong, nhìn ra khó chịu.
Matahachi chỉ lặng thinh, lầm lì nhìn khay rượu. Chờ mẹ nói xong, hắn mới ngửng lên nhìn bà lão:
- Vậy con là đồ bất hiếu, bạc bẽo, không có liêm sỉ gì phải không ?
- Chứ còn gì nữa ! Cho đến bây giờ mày đã làm gì để rạng rỡ tổ tông, hoặc ít ra cũng tỏ ra là đứa con hiếu thảo ? Mày chỉ là đồ vô tích sự !
- Mẹ không hiểu ...
- Sao ta lại không hiểu ! Biết con không ai bằng cha mẹ ! Ta xấu hổ đã sinh ra mày, làm nhục cả họ Honiden. - Bà thở dài ảo não - Càng nghĩ càng thêm xấu hổ ...
- Nếu tôi vô dụng thì tôi theo bà làm gì nữa ! Tôi đi đây !
Matahachi tức giận, dằn mạnh chén rượu xuống bàn, đứng lên đi thẳng.
Bà lão giật mình nhìn theo, trong cơn thảng thốt, miệng lắp bắp nói không nên lời.
Bà run run quơ chiếc gậy tre, nhưng rồi lại vẫn ngồi nguyên chỗ cũ, quay đầu về phía em:
- Cậu Gon ! Cậu Gon !
Cậu Gon như không nghe gọi, vẫn chăm chú nhìn ra bãi.
- Kệ nó ! Muốn đi đâu thì đi, không ai giữ !
Chẳng biết bà nói với ai, với cậu em hay với chính mình. Lát sau cậu Gon mới lên tiếng, nhưng không phải để đáp lời chị:
- Kỳ thật ! Người con gái đằng kia định làm gì mà kỳ quá !
Rồi không đợi trả lời, cậu hối hả nhảy qua hàng rào thấp, chạy vội ra bãi.
- Cậu Gon ! Cậu Gon ! Đi đâu thế ? Thằng Matahachi ...
Chưa nói hết câu, bà đã lật đật đứng lên đuổi theo, chẳng may vấp phải đám rong ngã sấp mặt xuống đất. Chủ quán và một số thực khách chạy ra đỡ bà dậy, quần áo mặt mũi lem luốc những cát ướt. Bà gạt tay mọi người, phủi vội quần áo, mắt vẫn không rời bóng cậu Gon trên bãi:
- Điên à ! Chạy đi đâu thế ? Nó đi về phía này mà !
Mọi người nhìn theo đều lấy làm lạ. Cậu Gon chạy thẳng ra biển. Ghềnh đá ngược ánh mặt trời đen sẫm che khuất bóng cậu, một lúc sau mới thấy cậu hiện ra thì nước đã lên đến đầu gối. Trước cậu chừng vài trượng, một thiếu nữ đương vùng vẫy, áo, tóc xõa trên mặt biển loang loáng dưới ánh nắng.
Cụ Osugi đến bờ nước, chạy tới chạy lui gọi em, giọng lạc đi trong gió lộng:
- Cậu Gon ! Cậu Gon !
Người trong quán ùa ra theo cũng phụ họa, nhưng không ai dám bước xuống nước.
Họ chỉ đứng bàn tán:
- Chỗ này sát ghềnh đá, ở đây thì thế nhưng qua chút nữa là hố sâu, vô ý hụt chân nguy hiểm lắm !
Bỗng có tiếng kêu. Nhìn ra không thấy bóng ông già và thiếu nữ đâu nữa.
- Chìm rồi ! Chết rồi, chìm rồi !
Cụ Osugi lo sợ cuống cuồng. Không biết làm sao, bà giơ gậy đập mọi người làm họ chạy tán loạn.
- Nhảy xuống cứu đi ! Chết rồi ! Ông ấy chết đuối rồi !
Bà mếu máo:
- Các người bất nhân quá ! Thấy ông già sắp chết không cứu. Cậu Gon ơi ! Cậu Gon ơi ! Ai cứu em tôi !
Người ta vội vã đi gọi thuyền chài. Lặn ngụp hồi lâu mới vớt được cả hai lên. Thiếu nữ còn nắm chặt vạt áo cậu Gon, nhưng cả hai mắt nhắm nghiền không thở nữa. Mọi người phụ vào gỡ ra và đặt nằm trên bãi cát.
- Anh em mỗi người một tay. Phụ nữ giúp cô bé còn chúng tôi lo cứu ông già. Ngồi lên bụng nhấn mạnh cho nước ộc ra mới được !
Thiếu nữ mặc kimono trắng, mặt còn nguyên son phấn nên trông còn có chút sinh khí, nhưng cậu Gon thì trái lại, mặt xám ngoẹt, những sợt tóc thưa thớt, bạc và ướt nhẹp dán lên trán và hai bên thái dương. Bình nhật cậu không đến nỗi gầy, sao bây giờ trông hom hem quá ! cụ Osugi không cầm được xúc động, khóc òa lên.
- Yên nào bà già ! Làm người ta rối trí !
Những kẻ hiếu kỳ bu quanh thì thầm:
- Tự tử hả ? Tự tử vì tình hả ?
- Bậy nào ! - Có người cười đáp - Ông già cứu cô bé đấy chứ !
- Thiếu nữ này trông quen quen. Có phải cô bé nhặt vỏ ốc không ?
- Hình như thế ! Cô ta trọ Ở trong xóm !
Từ đằng xa, bốn năm người chạy lại. Yoshioka Seijuro gạt đám đông len lỏi đến gần nạn nhân. Nhìn cô bé nằm thiêm em trên cát, mặt hắn tái đi. Hắn kêu khẽ:
- Akemi !
Một người hỏi:
- Đại hiệp quen cô này hả ?
Seijuro không đáp chỉ đứng trừng trừng nhìn thiếu nữ. Người ta đập lưng móc miệng cô, nước và rãi rớt ộc ra ướt cả một khoảng cát. Akemi thở mạnh rồi cựa quậy chân tay. Mọi người reo lên vui mừng:
- Sống rồi ! Cô bé sống rồi !
Họ tiếp tục hà hơi, vỗ lưng, lau mặt cho Akemi. Seijuro lùi ra ngoài, ghé tai môn hạ nói nhỏ. Một lúc sau, cáng được mang đến, người ta vực cô bé lên đưa vào trong xóm.
Cậu Gon vẫn nằm bằn bặt trên cát. Mọi người xúm vào làm đủ cách, cậu vẫn không tỉnh. Mắt nhắm nghiền, chân tay lạnh ngắt, da mặt mỗi lúc càng trắng bệch. Vài người lắc đầu:
- Ông già khéo hỏng mất !
Quả thật, thần chết đang rình rập đâu đây và có lẽ đã điểm cậu Gon rồi ! Xấp xỉ lục tuần, cậu đã già, trước khi nhảy xuống nước cứu cô bé, cậu lại còn uống vài chén rượu thì làm sao mà đủ sức chống lại cái lạnh của nước biển về mùa đông ?
Cụ Osugi ngồi bên em, miệng rên khe khẽ. Thấy không kết quả, số người cứu chữa lần lượt đứng lên dần:
- Hỏng rồi ! Trễ quá, không sao cứu được nữa !
Cụ Osugi khóc rống lên, gọi tên em rồi quay ra hằn học với mọi người xung quanh:
- Hỏng là thế nào ? Hai người cùng mang lên một lúc, một người sống một người chết là sao ? Tại ... tại các ngươi không hết sức !
Bà vừa gạt nước mắt vừa ôm lấy cậu Gon, kéo tay bóp chân, giật tóc mai, không còn cách gì bà biết mà không làm. Lại lật đật mở bọc ra lấy lọ thuốc nhỏ, đổ vài viên vào mồm em. Nhưng cậu Gon vẫn nằm trơ ra đó. Cậu đã ra người thiên cổ.
Ai ai trông thấy cũng ngậm ngùi. Có kẻ quay đi chùi vội nước mắt.
Trời đã về chiều. Ngoài biển xa, phía chân trời, chỉ còn vài vệt sáng hồng báo hiệu một ngày sắp tắt. Những kẻ hiếu kỳ bỏ đi gần hết. Vài người ở lại nhặt cành khô nhóm đống lửa nhỏ bên cạnh bà lão.
Trong cái yên lặng của buổi chiều quý đông nơi đất khách, cụ Osugi ngồi ôm xác em, tiếng bà nức nở hòa với tiếng sóng rì rào thành một điệu nhạc bi ai tiễn đưa người anh hùng bất hạnh.
Akemi nằm trong phòng thiêm em, thỉnh thoảng lại giật tay chân, miệng kêu ú ớ. Seijuro ngồi bên trầm ngâm yên lặng. Nhìn cổ tay yếu ớt của cô bé có những đường gân xanh nổi rõ dưới làn da trắng bệch, hắn cảm thương vô hạn. Cầm tay nghe mạch, mạch nhẹ như tơ, Seijuro khẽ lắc đầu:
“Mạch yếu quá !”.
Trong thâm tâm, hắn tự trách mình đã tàn bạo và ngu xuẩn.
- Akemi ! Tha thứ cho ta ... Tình ta mãnh liệt làm nàng sợ hãi. Nhưng đàn ông nào cũng như thế ...
Hắn lẩm bẩm nói một mình, không biết để tự bào chữa hay để cho Akemi nghe, song lúc bấy giờ hắn thật là thành thực. Mới hay lòng người phức tạp; sáng còn như dã thú, chiều nặng những tình trắc ẩn.
Trời tối đã lâu. Ngọn đèn nhỏ tỏa ánh lờ mờ qua chiếc chụp giấy, vân giấy màu ngà nổi lăn tăn như mây vần trên nền trời sáng. Trong phòng yên lặng, cửa sổ khép kín không để lọt tiếng động bên ngoài. Akemi khẽ cựa mình kêu lên thảng thốt:
- Bỏ ra, bỏ tôi ra !
Seijuro lay vai cô bé:
- Akemi ! Đừng sợ ! Đừng sợ ! Hãy tỉnh dậy !
Có tiếng thở dài. Akemi mở mắt lờ đờ nhìn lên trần, không ý thức chuyện gì xảy ra chung quanh, thều thào hỏi:
- Hôm nay là mấy rồi !
- Cái gì ? Nàng nói gì ?
- Hôm nay ngày mấy ? Còn bao lâu nữa thì hết năm ?
- Mười ngày nữa. Cứ yên tâm tĩnh dưỡng, khỏe rồi ta sẽ đưa nàng về Kyoto ...
Akemi mệt nhọc quay đầu lại nhìn. Dưới ánh đèn mờ, hình như vừa nhận diện được kẻ vừa nói, nàng kêu lên một tiếng kinh hoàng, ngất đi bất tỉnh.
Seijuro loay hoay đắp khăn ướt lên vầng trán nóng bỏng của cô bé. Hắn tránh không gọi tên, sợ làm nàng kinh hãi, chỉ cặm cụi làm. Thay khăn mấy lượt, mới thấy Akemi hơi tỉnh. Trong cơn mê, cô bé gọi tên Miyamoto Musashi và lẩm bẩm những tiếng gì hình như là “dưới chân cầu Gojo ...”. Seijuro nghe không rõ nhưng cái tên Miyamoto Musashi làm hắn chú ý. Musashi ... Musashi ... Không biết có phải là tên lãng tử trẻ tuổi đã từng đến làm náo loạn võ đường Yoshioka của hắn dạo nào ?
Seijuro nhìn môi cô bé, chờ đợi. Nhưng Akemi không nói thêm lời nào nữa.
Nàng đã em đi rồi !
Ngoài song, bóng cây lay động. Tiếng ngựa hí từ xa vẳng đến. Seijuro lắng tai nghe:
tiếng chân người bước vội và tiếng con hầu vọng vào:
- Đây ! Đại hiệp ở trong này !
Seijuro vội bỏ sang phòng bên, quàng tay ra sau khép cửa. Một môn đệ Yoshioka, trang phục theo lối lữ hành, nón nan, vai áo trắng bụi đường hối hả tiến vào. Thấy Seijuro, hắn vội vàng thi lễ.
- Chuyện gì thế ?
- Mời tiểu chủ về ngay cho.
- Nhưng chuyện gì mời được chứ ?
Ở phòng bên, thình lình tiếng thét của Akemi vọng sang, rõ mồn một:
- Bỏ ta ra ! Ta không ưng ! Đừng ...
Tiếng thét pha lẫn sợ hãi làm gã đồ đệ Yoshioka đang mãi tìm thư trong bọc phải khựng lại, ngẩng đầu nhìn Seijuro.
- Không can gì ! Kẻ đó sốt, thỉnh thoảng nói sảng ... Đâu ? Thư của ai ? Đưa ta coi !
- Dạ, của Miyamoto Musashi.
Seijuro sửng sốt. Hắn vừa nghe tên đó từ miệng Akemi thốt ra, bây giờ lại nhận được thư, chẳng biết là điều gì, lành hay dữ. Một cảm giác lo sợ bâng quơ làm hắn ớn lạnh.
Seijuro cầm thư, lật đật đến bên chiếc bàn thấp, cạy niêm và ghé sát vào ánh sáng ngọn bạch lạp. Lời thư rõ ràng, không uẩn khúc:
“Trong thư trước, tại hạ đã hứa ngày trọng xuân sắp tới sẽ có mặt ở kinh thành.
Xin quý phái cho biết nơi và giờ hội ngộ. Tại hạ không sở trường đặc biệt về loại vũ khí nào nên để tùy quý phái ấn định.
Xin quý phái cho yết ngày giờ và địa điểm lên bảng cáo thị Ở dưới chân chân cầu Gojo trước tiết nguyên tiêu, tại hạ rất hân hạnh.
Hy vọng trong thời gian qua, quý kiếm pháp đã đạt mức trác tuyệt. Về phần tại hạ cũng có tiến bộ đôi chút, không dám để phụ lòng quý phái.
Thư bất tận ngôn, Miyamoto Musashi kính bái “
Vẫn cái giọng tuy lễ độ nhưng rất cao ngạo trong thư trước. Seijuro xem xong, tái mặt. Hắn thừ người suy nghĩ. Trác tuyệt cái gì ? Cả năm nay có luyện tập gì đâu mà trác với tuyệt ? Không những chỉ riêng hắn mà thôi, các môn đệ khác, những tay được coi như trụ cột của môn phái, Toji, Ueda ... cũng thế. Bây giờ không phải là lúc đắm mình trong hoan lạc. Phải hành động và cấp kỳ đặt ngay kế hoạch. Càng nghĩ Seijuro càng thấy nguy cấp. Từ nay đến tiết nguyên tiêu chẳng còn bao lâu nữa, nếu hắn không trở về Kyoto ngay để thảo luận cùng anh em trong phái thì không kịp.
Thấy tên đồ đệ vẫn còn đứng xớ rớ ở góc phòng chờ lệnh, Seijuro giận dữ:
- Ra ngoài chờ ta. Gọi chủ quán đến đây. Lập tức !
Đồ đệ ra khỏi. Seijuro giở cuốn thư đọc lại. Những lời ngạo mạn ngụ ý châm chọc của Miyamoto Musashi khiến hắn giận run. Ngày hôm nay đối với hắn quả là một ngày buồn tủi, đáng giận. Chuyện Akemi xúc phạm lòng tự ái của hắn chưa nguôi, nay lại Musashi thách thức. Không do dự, Seijuro quyết ý trở về Kyoto, quay lưng lại nơi sầu thảm này, nơi không để lại một kỷ niệm gì vui tươi trong lòng hắn.
Chủ quán bước vào, Seijuro căn dặn săn sóc Akemi chu đáo. Hắn mở tủ lấy một số tiền trao cho chủ quán và gọi đồ đệ:
- Thu xếp hành trang và để ngựa ta cưỡi, ngươi về sau.
Cả đêm hôm ấy Seijuro không chợp mắt. Vừa tinh sương, hắn đã lên ngựa bỏ đi như chạy trốn, mặc cho tên đồ đệ theo sau, đến đâu hay đó.

Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Sáu T12 15, 2006 8:59 pm
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ



QUYỂN 3 : Hi no Maki

CHƯƠNG 25
CÁI SÀO PHƠI ÁO (Mono Hoshizao)




- Thanh niên bế con khỉ lông vàng ? Dạ có, có thấy đi ngang qua đây hồi trưa.
- Đi về phía nào ?
- Phía cầu gỗ, nhưng không qua cầu. Hình như rẽ vào hàng bán đồ sắt.
Bọn đồ đệ Yoshioka hấp tấp bỏ đi, quên cả cám ơn bác nông phu làm bác ngạc nhiên nhìn theo, không hiểu chuyện gì.
Trời đã về chiều. Đường chân núi vắng vẻ ít người qua lại, hàng quán ven đường lục tục đóng cửa nhưng may làm sao gian hàng bán đồ sắt và lò rèn vẫn thấy còn người kéo bễ. Cả bọn ùa vào. Nhìn đoàn khách lạ Ồn ào, có dáng giận dữ, binh khí đeo bên sườn kêu rổn rảng, gã kéo bễ chột dạ, ngưng tay chạy vội ra.
- Hồi trưa có ai đến đây không ?
- Dạ có.
- Người thế nào ?
- Một thanh niên cao lớn mang bào tía, đeo trường kiếm, nhưng đầu không cạo như các Samurai khác thường thấy.
- Hắn ẵm một con khỉ nhỏ phải không ?
- Dạ phải.
- Đúng rồi ! Hắn có hỏi gì không ?
- Có. Thanh niên đòi xem võ khí chế tạo tại bổn tiệm, nhưng hình như không được vừa ý, vì thấy ý chỉ lắc đầu ...
- Hừ ...
- Lại tháo cả trường kiếm đeo trên vai xuống và hỏi ý kiến tiểu nhân nhưng tiểu nhân không dám đáp, vì thật ra tiểu nhân chỉ là thợ phụ không chuyên nghề rèn kiếm ...
- Vậy bây giờ tên đó đâu ?
- Dạ, bỏ đi ngay sau khi biết chủ nhân bổn tiệm đi vắng.
- Đi về phía nào ?
- Về phía bến đò Temma.
Cả bọn lại ùa ra cửa, theo đường bờ sông trực chỉ bến đò Temma. Họ rảo bước, chẳng ai nói với ai lời nào, lầm lũi đi không nghỉ vì trời đã chạng vạng tối. Trăng hạ tuần chưa mọc, sương chiều bắt đầu bao phủ mặt nước làm mờ những ngọn cỏ lác ven sông và run rẩy các đốm lửa chài lúc ẩn lúc hiện tít tận đằng xa, phía bên kia bờ.
Gần đến bến, một người trong bọn kêu lên:
- Thôi rồi ! Nó trốn rồi !
- Sao ngươi biết ?
- Thì quán vắng ngắt, người ta đang xếp dọn bàn ghế. Vậy là thuyền mới nhổ sào, ta lỡ chuyến đò này rồi !
Thất vọng, cả bọn tản ra quanh bến, hỏi thăm người xung quanh thì được biết hồi chiều quả có một thanh niên với con khỉ lên thuyền đi đã hơn một khắc rồi. Tuy nhiên, theo họ, cũng chưa phải là trễ.
- Mùa này nước chảy xiết. Thuyền đi ngược dòng chậm lắm. Chư vị vào quán nghỉ chân một lúc đã, rồi cứ theo đường ven sông này đuổi theo đến bến Kurushi ắt là gặp vì thế nào thuyền cũng cập bến này đón khách.
Đồ đệ Yoshioka cho là phải, vào quán gọi bánh trà ăn uống, một lúc sau mới lại lên đường tiếp tục cuộc hành trình.
Sông Temma là một phụ lưu của đại hà Yodo, về mùa nước lớn, ngã ba sông rộng mênh mông như biển. Bọn đồ đệ Yoshioka cứ cắm cúi theo đường mòn mà đi, răng nghiến chặt chống lại cái rét căm căm của gió bấc cuối năm. Trăng mọc đã lâu, trắng như sữa trên nền trời trong xanh không một vẩn mây và lạnh buốt. Bên đường, lá sậy khô đóng giá ánh lên dưới ánh trăng chẳng khác gì những lưỡi kiếm thép tí hon sáng lóng lánh.
Giữa sông, lẩn trong màn sương trắng đục, một khối xám lừ lừ tiến ngược dòng nước, ánh đèn chai thấp thoáng ẩn hiện.
- Thuyền kia rồi ! Đấy ! Thuyền ấy đấy !
Cả bảy người không ai bảo ai cùng rảo bước mau thêm. Sự khích động khiến họ quên cả lạnh. Chẳng bao lâu con thuyền hiện ra rõ hơn trước, tiếng mái chèo khua nước rào rào. Một người trong bọn nóng nảy bắc loa tay gọi lớn:
- Bớ thuyền ngoài kia ! Dừng lại !
Trên thuyền có tiếng đáp:
- Ai đó ?
- Dừng lại !
- Nhưng các vị là ai ? Muốn gì ?
- Ta muốn nói chuyện với một người khách mặc áo đỏ !
Lời nói vừa thốt ra, bọn Yoshioka thấy thật là dại dột. Đằng nào thuyền cũng ghé bến sắp tới. Thà cứ để yên như thế, bọn hắn chia nhau ra phục kích, chờ cho thuyền đậu, rồi bất ngờ nhảy lên tấn công, nếu không bắt sống thì cũng giết được tên trẻ tuổi xấc láo đó. Bây giờ làm náo động lên, nó nhảy xuống sông trốn mất hay ít ra cũng đã đề phòng. Sự tấn công thành ra mất một yếu tố quan trọng, khó khăn thêm ! Người đứng tuổi nhất trong bọn xem ra giận dữ lắm, bứt tóc giậm chân, tự trách mình ngu xuẩn.
Nhưng đã trót rồi, chỉ còn cách dọa và làm chủ đò sợ hãi.
- Chủ đò đâu ? Ghé thuyền vào bờ !
Không nghe tiếng đáp, chỉ thấy mái chèo vẫn đều đặn khua nước. Hiển nhiên trên thuyền, chủ và khách cho bọn này là thảo khấu bày chuyện để ăn cướp. Muốn an toàn, cách tốt nhất là cứ giữ cho thuyền đi giữa sông, gươm giáo nào đến gần được !
- Nếu không ghé vào bờ, đến bến ta lấy đầu chủ đò. Báo cho mà biết trước !
Trên đường mòn, cả bọn theo nhau đuổi con thuyền sát nút, thỉnh thoảng dừng lại nghe động tĩnh. Họ mang giầy cỏ, bước chân tuy êm nhưng vẫn làm đứt quãng những tiếng côn trùng kêu ri rỉ đều đều trong đám lau sậy.
Trời đã khuya lắm. Trăng sáng vằng vặc mà sương cũng bớt dần. Đò đến gần bến Kurushi, bọn Yoshioka chạy trước ra cầu tàu đón. Nhưng kìa lạ quá, sao thuyền không vào mà dừng lại ở giữa sông, quay hai ba vòng như do dự. Có lẽ trên thuyền đang có sự bất đồng ý kiến giữa hai phe hành khách, một phe muốn cập bến và một phe muốn thuyền đậu giữa sông chờ sáng hoặc đợi lính tuần đến bảo vệ.
- Gã tiểu tử hỗn láo mặc áo đỏ có đó không ?
Một người trong bọn Yoshioka hỏi lớn.
Tức thì thanh niên ôm con khỉ bước ra mũi thuyền:
- Bọn ngươi là ai ? Nếu không là giặc cướp thì cũng là đồ vô lại tùng tam tụ ngũ để làm bậy bắt nạt kẻ qua sông. Trong thuyền không có ai mặc áo đỏ , chỉ có ta. Vậy chắc bọn ngươi muốn gặp ta. Muốn cái gì ?
Tiếng xì xào nổi lên. Trẻ em và phụ nữ ngồi thu vào góc khoang niệm Phật. Trên bờ, một hai quán vội thổi tắt đèn, đóng cửa. Thời buổi nhiễu nhương, người dân thấp cổ bé miệng chỉ mong yên thân; đao thương không có mắt, kinh nghiệm đã dạy cho họ biết chẳng dại gì mà dính vào những chuyện tranh chấp không đâu.
- Tiểu tặc ! Hãy giữ mồm miệng. Chúng ta là người của Yoshioka đến hỏi tội ngươi đây !
- Muốn sống thì ghé thuyền vào bến, đừng để cho chúng ta phải trèo lên !
Thanh niên cười gằn:
- Đồ ngu ! Không biết tự lượng !
Chưa dứt lời, gã giật ngay cây sào trong tay người lái đò và chỉ đẩy vài cái, thuyền đã phăng phăng rẽ nước vào bờ. Con thuyền lướt tới càng lúc càng nhanh tưởng như sắp đâm sầm vào chân cầu gỗ. Mạn thuyền cọ vào chân cầu kêu rắc rắc, tiếng người la hét cùng với tiếng quang quác của những giống thủy cầm thấy động bay lên làm huyên náo cả khúc sông vắng.
Thình lình, một vật tròn đen xẹt qua ngọn lau, bắn thẳng vào vai tên đồ đệ Yoshioka đứng trước. Tên này luống cuống giật lùi vung gươm chém loạn. Cả bọn la hoảng.
Cầu tàu thì hẹp, bọn chúng lại đông, sự tháo lui vô trật tự khiến một tên trượt chân ngã lăn tòm xuống nước. Khi định thần nhìn kỹ lại thì mới biết đó là con khỉ. Chúng tức giận chửi bới om sòm.
Thanh niên áo đỏ đứng trên mui thuyền cười ha hả:
- Đây là chư vị kiếm sĩ nhà Yoshioka đấy ư ? Giỏi quá ! Giỏi quá ! Ta chưa ra tay mà đã có kẻ uống nước rồi.
Nói vừa dứt câu, nhanh như cắt, thanh niên đã nhảy xuống cầu tàu, áo bào xòe rộng và lưỡi kiếm rút đánh soạt, lóe sáng dưới ánh trăng. Tên đệ tử Yoshioka đứng gần nhất chưa kịp trở tay đã bị lưỡi kiếm đâm suốt ngực. Rút kiếm ra, thân người chưa kịp đổ, thanh niên đã nghiêng mình né nhát gươm bổ xuống mạnh như vũ bão của tên Yoshioka thứ hai, đồng thời lia trường kiếm chênh chếch theo đường vòng cung từ trên xuống.
Một tiếng thét hãi hùng nhưng đứt quãng, đầu tên môn đệ Yoshioka thứ hai đã rơi tõm xuống nước. Mình gã còn quỳ trên cầu, hai tay nắm chặt chuôi kiếm và lưỡi kiếm chém vào thành gỗ vẫn bị giữ chặt ở đó. Máu từ cổ gã phun ra có vòi. Trước hai chiêu kiếm nhanh như chớp xẹt và chính xác cực độ của thanh niên áo đỏ, năm tên còn lại biết gặp phải tay ghê gớm, tản ra chung quanh như năm cánh hoa vây thanh niên vào giữa.
Chúng định lấy số đông áp đảo.
- Gi ... ết !
Tiếng hét xung trận vừa được tung ra như sấm động, một tên đã nhắm hướng thanh niên đứng, chĩa kiếm đâm thẳng vào tựa tên bắn. Chỉ tiếc kỹ thuật còn kém lại không lường kịp phản ứng thần tốc của đối phương nên đường kiếm không trúng đích. Hắn quá đà chúi về đằng trước, chưa kịp gượng dậy đã bị thanh niên nhảy lên lưng đạp cho ngã sấp và dùng chiêu trảm nhạn hớt đầu tên đứng bên hữu khi tên này chưa kịp xuất thủ.
May sao, gã nhanh mắt, trầm mình xuống tránh khỏi, nhưng cũng bị thanh kiếm dài quá khổ chém xả vai. Tiếng rú thê thảm của hai đệ tử Yoshioka bất hạnh làm sởn gai ốc ba tên còn lại. Chúng hoảng hốt múa bậy vài chiêu rồi hè nhau bỏ chạy.
Thanh niên áo đỏ nhìn theo lắc đầu:
- Không biết Yoshioka còn cao nhân nào nữa không chứ nếu ai cũng thế này cả thì bất xứng quá ! Chả trách làm trò cười cho thiên hạ !
Vừa lúc đó, tiếng vó ngựa từ xa vẳng đến rồi thấy xuất hiện trên đê một kỵ mã, theo sau là một tên hầu chạy bộ. Ánh trăng khuya vằng vặc chiếu rõ trang phục của người cưỡi ngựa:
chiến bào màu vỏ dà viền kim tuyến, nón nan trên đầu, trường kiếm bên hông. Con ngựa ô khỏe mạnh đi nước kiệu, hơi thở phì ra đằng mũi như hai luồng khói trắng.
Ba đệ tử Yoshioka tháo thân chạy lên đê suýt đâm phải Samurai. Chúng khựng lại kịp, rồi đột nhiên cùng reo lên vui mừng:
- Tiểu chủ !
Vì Samurai cưỡi ngựa đó chẳng ai khác hơn là Yoshioka Seijuro.
- Đi đâu thế này ? Sao lại ở đây ? Ta tưởng các ngươi phải còn ở nhà trọ chứ ?
- Dạ, xin tiểu chủ xá lỗi. Bọn tiểu đệ ra đi từ sáng.
- Hừ ! Lại rượu chè ở đâu rồi ! Thật đáng phạt.
- Trình tiểu chủ không phải thế. Vì bọn tiểu đệ được tin có một tên trẻ tuổi xấc láo phạm đến uy danh của bản phái, nên họp nhau truy nã.
- Đúng vậy không ?
- Bọn tiểu đệ đâu dám nói láo. Tiểu tặc đó ở gần đây. Nó tuy còn nhỏ tuổi nhưng dũng mãnh lắm. Đường kiếm của nó thần sầu quỷ khốc ...
- Nói bậy ! - Tên tiểu đồ chạy theo ngựa của Seijuro vội cướp lời - Để mất lòng tự tin thì lâm trận thắng sao được ! Không đường kiếm nào thần sầu quỷ khốc bằng đường kiếm của tiểu chủ !
Ba tên kia định kể thêm thì Seijuro ngăn lại:
- Thôi ! Ta biết rồi. Bây giờ tên đó đâu ?
- Dạ, ở đằng kia !
Và chúng chỉ tay về phía bến đò.
Vừa hay thanh niên áo đỏ đi tới. Dáng hắn lênh khênh, tay còn lăm lăm thanh trường kiếm mà hắn mệnh danh là “cây sào phơi”. Ánh trăng chiếu bóng và kiếm hắn đổ dài trên cỏ.
Ba tiểu đồ Yoshioka đưa mắt nhìn nhau, tên hầu ngựa Seijuro chạy vội tới trước, rút gươm quát lớn:
- Tiểu tặc này phải không ?
Và phóng chiêu ra liền. Thanh niên áo đỏ chỉ khẽ quay mình né tránh rồi thuận tay bổ xuống một nhát, tên hầu ngựa chúi về phía trước tưởng chết đến nơi, may sao chỗ đó gần bờ sông, đất lở khiến hắn rơi tòm xuống nước thoát được thế kiếm cực kỳ nguy hiểm. Lóp ngóp dưới sông, bùn và nước lạnh tràn cả vào mũi và miệng, hắn vừa sợ vừa tức. Nhìn lên thấy ba bạn đồng môn đang bị gã áo đỏ đánh tơi bời, hắn nằm im thin thít không dám chửi to, chỉ rủa thầm trong bụng. Kiếm hắn rơi đâu mất mà lòng tự tin của hắn cũng bỏ hắn rồi !
Trên bờ, bọn đệ tử Yoshioka chạy tán loạn không rõ về hướng nào. Thanh niên áo đỏ mắt sáng quắc lừ lừ tiến lại phía Seijuro. Tình thế khẩn cấp quá, Seijuro không ngờ cục diện thay đổi nhanh như thế. Lúc đầu hắn không sợ, vì dù sao phía Yoshioka cũng có tới bốn người không kể hắn. Bây giờ chỉ còn một mình hắn phải đơn độc chống với gã thanh niên dũng mãnh kia mà kiếm thuật của gã, hắn vừa được dịp quan sát, không phải là hạng tầm thường. Nhìn thanh trường kiếm dài quá khổ gã thanh niên áo đỏ sử dụng, đột nhiên Seijuro như sực nhớ ra điều gì. Một ý nghĩ vụt hiện, hắn gọi lớn:
- Sasaki !
Rồi rút một chân khỏi bàn đạp để lên yên, tay hắn vỗ nhẹ vào đầu ngựa. Con ô câu hí một tiếng dài, co cẳng trước phóng qua đầu thanh niên trong khi Seijuro uốn mình như con tôm, lộn ngược lại phía sau đồng thời rút kiếm ra khỏi vỏ, đứng vững vàng cách thanh niên áo đỏ chừng non một trượng.
- Tuyệt hảo !
Lời khen nhiệt thành phát xuất từ một tấm lòng tri đắc, ngưỡng mộ làm Seijuro hả dạ. Là chưởng môn nhân một môn phái lớn, hắn quen được xưng tụng nhiều rồi, nhưng những lời xưng tụng ấy đều do thuộc cấp của hắn nói ra nên hắn coi thường. Giờ đây đứng trước một đối phương mà thành tích vừa qua làm hắn phải kiêng nể, đối phương ấy lại tỏ ra tâm phục hắn vì một xảo kỹ hắn vẫn thường tự hào thì bảo sao hắn không vui lòng cho được ! Và dĩ nhiên, Seijuro nắm ngay lấy lợi thế ấy. Bằng một giọng vui mừng, hắn gọi:
- Sasaki Kojiro Ganryu !
Thanh niên áo đỏ ngạc nhiên:
- Đại hiệp là ai, sao biết đến ngoại hiệu của tại hạ ?
Tiếng cười ha hả vang dội trong đêm vắng, tiếng cười vui vẻ, đắc thắng và pha chút hợm hĩnh. Seijuro vỗ đùi:
- Đại danh thiếu hiệp ai mà không rõ. Tại hạ được nhiều người cho biết uy danh đã lâu, bây giờ mới may mắn được gặp. Thật là đại hạnh !
- Nhưng đại hiệp là ai ?
- Tại hạ là Seijuro, chưởng môn phái Yoshioka, tri hữu của Ito khi ngài còn ngụ tại một căn nhà nhỏ ở ngoại thành Kyoto.
- Ồ thế ư ? Vậy đại hiệp là bạn của sư huynh tại hạ đấy !
- Đúng vậy !
- Nếu thế chúng ta là đồng đạo rồi, còn chống nhau làm gì nữa !
Và không chờ Seijuro phản ứng, thanh niên tra kiếm ngay vào vỏ.
Seijuro chỉ đợi có thế. Hắn cũng đút gươm vào bao, mở rộng tay nói:
- Hôm nay tại hạ hết sức vui mừng được gặp thiếu hiệp lại là huynh đệ của một bạn cố tri. Phải mời thiếu hiệp đến thăm tệ xá ở Kyoto mới được !
- Sẵn lòng lắm. Tiểu đệ hiện nay chưa có chủ đích gì, hơn nữa cũng muốn viếng Kyoto để cho sửa lại thanh kiếm. Vậy xin theo đại huynh.
- Thế thì còn gì bằng.
- À, có điều muốn hỏi sao đại huynh đoán được tiện danh, lại còn biết cả ngoại hiệu nữa ?
- Có gì đâu. Trong những lúc mạn đàm với Ito, ngài thường nhắc đến tên thiếu hiệp. Lại thường nói ngoại hiệu “liễu ven sông” do Jisai lệnh sư đặt cho thật đã lột tả được hết cái phong thái và kiếm thuật của thiếu hiệp nên tại hạ mới trông nhận ra ngay ...
Sasaki Kojiro vui vẻ cười thích thú. Lòng tự ái tuổi thanh niên được những lời ca tụng văn hoa của Seijuro thổi phồng lên bay bổng tựa diều gặp gió.
Hắn vỗ vai Seijuro cười ha hả:
- Hảo tri kỷ ! Hảo tri kỷ !
Thế là cả hai sánh vai nhau trở lại bến sông. Bọn đồ đệ bị đánh tan tác thấy tình thế đã yên, chưởng môn chúng cùng với thanh niên áo đỏ đi bên nhau ý hợp tâm đầu như đôi bạn lâu ngày thì lấy làm lạ nhưng yên bụng lắm. Kojiro quay qua hỏi Seijuro:
- Tiểu đệ vẫn không hiểu chuyện gì làm quý phái sai người đuổi theo và tấn công tiểu đệ. Trộm nghĩ chắc chỉ do việc xích mích nhỏ trên thuyền buôn mà ra. Có phải thế không.
Seijuro vội gạt ngang để trấn an Kojiro:
- Phải đấy. Nhưng đó là chuyện nhỏ. Tại hạ thật rất ân hận về thái độ của Toji. Để về Kyoto, tại hạ sẽ quở hắn.
- Không sao. Tiểu đệ nghĩ họ có một điểm hay là biết bảo vệ danh dự cho môn phái. Cái đó mới là chính. Kỹ thuật chưa cao thì trau dồi thêm, có gì đáng trách ? Thôi ta quên chuyện đó đi là hơn.
- Phải rồi, chẳng nên nói đến nữa.
Bèn hô bộ hạ tìm ngựa dẫn lại. Kojiro cũng huýt sáo gọi. Con khỉ không biết từ đâu nhẩy đến ngồi trên vai. Cả bọn đến bến đò.
Nhìn thấy bọn đàn em, đứa nằm vắt trên cầu gỗ, đứa mắc vào đám sậy ven bờ, thân thể đã cứng đơ, lòng Seijuro thắt lại. Dẹp nỗi đau, hắn bảo bọn bộ hạ sống sót ở lại chữa thương và chôn cất những người xấu số, rồi cố lấy vẻ tươi cười mời Kojiro lên ngựa. Nhưng Kojiro từ chối:
- Đa tạ đại huynh, tiểu đệ đâu dám. Đại huynh chức vụ cao trọng xin cứ ngồi. Tiểu đệ niên kỷ cũng như danh phận đều kém đại huynh một bực, được đi cạnh cầm cương cũng đã hân hạnh lắm rồi !
Thấy không nài được Kojiro, vả lại nghe hắn nói cũng phải, Seijuro trè o lên lưng ngựa nói:
- Vậy ta ngồi một lúc. Khi nào thiếu hiệp mỏi thì ta thay thế.
Trong thâm tâm, hắn mừng như mở cờ. Từ nay đến tiết nguyên tiêu không còn bao lâu nữa. Được tay kiếm tuyệt luân này giúp sức, Musashi đâu còn là một đối thủ đáng sợ.


Re:Jidai Shosetsu : Miyamoto Musashi ( Yoshikawa Eiji)

Đã gửi: Sáu T12 15, 2006 9:03 pm
Viết bởi Kongou-Musha
MIYAMOTO MUSASHI

Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ



QUYỂN 3 : Hi no Maki


CHƯƠNG 26
NÚI ĐẠI BÀNG




Vào nửa sau thế kỷ thứ mười lăm, những kiếm phái danh tiếng như Toda Seigen ở miền bắc, Ogasawara Genshinsai ở đông nam rất được võ lâm sùng mộ. Vùng Kyoto có Yoshioka Kempo. Vùng Yamato có Yagyu Muneyoshi. Ở bang Kuwana, tướng quân Kitabatake Tomonori nổi danh hào kiệt, vì không những ông là một danh gia Samurai mà còn là một nhà cai trị quyền uy và khôn khéo. Khi ông mất, dân chúng nhớ ơn người đã đem lại ấm no cho bang, lập đền thờ truyền tụng công đức ông mấy đời sau chưa dứt.
Kitabatake Tomonori lúc còn trẻ là môn đệ phái Ogasawara Genshinsai. Nhờ có kiến thức và đức hạnh, Kitabatake Tomonori được sư phụ đặc biệt yêu mến, truyền hết các bí quyết cho mà chính con ruột tiên sinh cũng không biết. Theo truyền thuyết thì sau khi sư phụ qua đời, Kitabatake Tomonori đến lập nghiệp tại bang Kuwana, mở trường dạy võ. Sư huynh ông tới thăm, dùng mẹo hỏi về những chiêu kiếm kỳ bí ấy, Kitabatake Tomonori chỉ điểm cho hết, song vì tư chất kém cỏi, vị sư huynh này không lý hội được, chỉ học có cái kỹ thuật bên ngoài còn cái tâm vốn là tinh hoa của Kiếm thuật Ogasawara Genshinsai thì lại sao lãng, nên Kiếm thuật Ogasawara Genshinsai miền đông nam không sao bằng được kiếm thuật của Kitabatake Tomonori. Vì thế khi nói đến Kiếm thuật Ogasawara Genshinsai là phải đến bang Kuwana. Tiếc rằng từ sau khi Kitabatake Tomonori chết đi, môn học ấy cũng thất truyền và bây giờ thì không còn mấy ai nhớ rõ những yếu quyết ấy nữa.
Trên đây là một trong những truyền thuyết cư dân vùng Kawana ưa kể lại cho khách vãng lai nghe khi học đặt chân đến vùng sơn cước này. So với các chuyện truyền ký khác nhuộm đầy vẻ thần bí phát sinh từ óc tưởng tượng của những người dân rất nặng lòng với mảnh đất quê hương trên đó họ đã cư ngụ hàng mấy mươi đời thì truyền thuyết này cũng không có gì xa sự thật mấy. Đền thời Kitabatake Tomonori còn kia và danh ông vẫn còn lưu lại hậu thế như một nhà cai trị sáng suốt và một Samurai lỗi lạc.
Miyamoto Musashi nghe chuyện trên đây qua miệng người mã phu kể lại sau khi rời thị trấn Kuwana. Hắn chỉ gật đầu và thỉnh thoảng đáp vài tiếng nhát gừng lấy lệ.
Trời gần cuối năm, đang tiết đại hàn, gió tây bắc thổi lạnh buốt như cắt da thịt.
Musashi mặc phong phanh có cái kimono mỏng, ngoài choàng một tấm áo khoác đã cũ nhàu nát và cáu bẩn, nhiều chỗ bụi đường bám loang lổ. Mặt hắn đen sạm, chiếc nón nan đội trên đầu tơi tả, giá có đánh rơi cũng không ai thèm nhặt. Tóc hắn buộc túm về phía sau, trông rõ ra cung cách kẻ giang hồ khất cái. Tuy nhiên đôi mắt sáng như sao, hàm răng trắng bóng, mỗi khi hắn ngước lên nhìn hay cười nghe chuyện người mã phu kể, khóe miệng cũng như tia mắt ấy có một cái gì ngây thơ tương phản hẳn với khuôn mặt khắc khổ sạm đen vì phong sương của hắn. Một cái gì rất hấp dẫn mà cũng rất quyền uy làm người đối thoại phải kính nể.
Người mã phu, khi nghe hắn gọi dẫn ngựa đến, đã có vẻ e ngại nhưng không cưỡng được. Bây giờ hắn đã ngồi trên lưng ngựa rồi, đi đã quá nửa đường, gã mã phu càng thấy khó có hy vọng đòi được tiền thuê của ông khách lại này ! Gã rụt rè nhắc:
- Thưa khách quan ...
- Gì thế ?
- Chiều nay thì tới Kameyama, nhưng đến đêm chưa chắc đã tới làng Ujii được !
- Hừ ...
Musashi tuy nghe nhưng không để ý. Dường như hắn mãi ngắm cảnh vật xung quanh. Thực ra về mùa đông, rừng núi tiêu điều chẳng có gì đáng ngắm. Vài gốc cổ thụ trơ trọi đưa những cành đen khẳng khiu lên trời tựa những cánh tay gầy guộc, lá úa rụng đầy lối đi, những mảng rêu trên các tảng đá nứt nẻ đã đổi màu, chỗ vàng chỗ nâu sẫm. Duy chỉ có hàng tùng bách là vẫn xanh tốt, tàn lá sum sê không coi gió lạnh ra gì cả. Hàng tùng bách này hợp với tâm trạng hắn chăng mà sao hắn cứ quay đầu nhìn mãi?
- Ujii là một xóm nhỏ ở lưng chừng núi, vắng teo vắng ngắt, khách quan đến đấy làm gì ?
- Ta đến thăm một người.
- Chỉ có hai ba nông dân nghèo khổ ở đó làm rẫy cùng với mấy lão tiều phu già, chặt củi đốt than chứ có ai đâu ...
- Tại Kuwana, ta nghe nói ở đó có tay giỏi nghề sử loại võ khí đặc biệt lắm.
- Chắc khách quan muốn nói Tsujikaze ...
- Phải rồi, Tsujikaze. Nhưng đấy là họ, tên hắn là gì ?
- Kohei.
- Ờ ! Tsujikaze Kohei ! Phải rồi !
- Y làm nghề thợ rèn liềm và lưỡi hái. Y có chế ra một thứ võ khí giống như cái hái, lợi hại vô cùng, làm nhiều kẻ mất mạng. Thế ra khách quan cũng là Samurai đấy !
- Hừ ... hừm ...
- Khách quan là Samurai, hay để tiểu nhân dẫn đi Matsuzaka. Nơi đó có nhiều tay giang hồ hảo hán kiếm thuật nổi tiếng lắm.
- Những ai, kể ta nghe thử ?
- Trúc Tử Hãn, Dương Nguyên Sinh chẳng hạn
- Ta cũng có nghe tên những người ấy.
Hắn không nói gì thêm nữa khiến người mã phu tưởng ông khách lạ biết rõ, nhưng không lưu tâm. Cả hai, kẻ dẫn ngựa và người cưỡi ngựa theo đường núi gập ghềnh lầm lũi tiến về phía trước.
Đến Kameyama, Musashi xuống ngựa, vào một quán ven đường ăn lót dạ.
Hắn bước khập khiểng vì vết thương ở gan bàn chân do cái đinh hắn dẫm phải khi còn ở trấn Kuwana bây giờ nung mủ làm hắn nhức nhối khó chịu. Hắn phải thuê ngựa cưỡi chứ không dám đi bộ. Musashi xin chủ quán chậu nước, tháo dép ra coi, thấy chỗ vết thương đỏ ửng như quả hồng sắp chín, sờ vào nóng và đau lắm. Hắn rửa sạch, dùng vải buộc lại và tự trách đã vô ý để xảy ra chuyện đáng tiếc ấy.
Theo tiêu chuẩn của hắn thì như vậy là hắn thua cái đinh. Là Samurai, hắn đã không cảnh giác đến nỗi cái đinh nằm nhô đầu lên rõ ràng như vậy mà không tránh nổi:
giác quan của hắn chưa đủ linh mẫn. Tệ hơn nữa, sự phản ứng lại chậm chạp để đầu đinh xuyên qua dép và sâu trong gan bàn chân. Đáng lý ra hắn phải nhảy tránh ngay khi cảm thấy mũi đinh chạm vào da mới phải.
Musashi bực bội về sự non kém ấy. Óc và toàn thân hắn chưa đồng nhất thì nội lực hắn dù có dồi dào đến đâu chăng nữa, những cảm nhận vẫn còn chậm chạp, xuất thủ không đủ thần tốc, chiêu kiếm sẽ vì thế mà kém phần uy mãnh.
Trên đường theo đuổi kiếm đạo, Musashi luôn luôn bị ám ảnh bởi sự tận thiện tận mỹ, và những ám ảnh ấy đã làm hại đến lòng tự tin của hắn. Không lúc nào hắn không lo tự tu tự kiểm. Ngày hôm nay phải hơn ngày hôm qua, nếu không được như thế, hắn cho là mình đang xuống dốc. Mặc dầu trong những năm gần đây, từ khi rời khỏi căn thạch thất, hắn đã giao đấu với nhiều người, một số là cao thủ võ lâm, nhưng vẫn chưa tìm được ai đáng gọi là người có khí phách, một người đủ nhân, trí, dũng xứng đáng là đối thủ của hắn.
Võ lâm tuy đông đảo, nhưng sự thiếu vắng mẫu người lý tưởng làm Musashi thất vọng. Đôi khi hắn chỉ còn biết tự an ủi cho là vì mình chưa đủ từng trải nên chưa gặp. Những lúc ấy, hắn lại liên tưởng đến Takuan, nhà sư lạ lùng đã hé mở cánh cửa thiền, chỉ cho hắn thế nào là cái tâm của người cầm kiếm. “Đời người có số mệnh. Nếu số mệnh đã run rủi ta gặp Takuan thì ta phải cố gắng đừng để những lời ông chỉ bảo ta không mang lại kết quả”.
Musashi tự nhủ. Takuan là một người khác thường. Không thể bảo ông là người bất trí. Quan niệm về nhân và dũng của ông cũng khác lạ. Nghĩ đến đây, hắn cảm thấy đau nhói ở cổ tay và cảm giác ấy lan dần ra khắp thân thể như cơn đau hắn cảm thấy khi bị treo lủng lẳng trên cành đại bách sau chùa Shippoji dạo nào. Cảm giác ấy phát sinh hoàn toàn trong cõi vô thức, hắn dùng ý chí dẹp đi và tự nhủ sau này sẽ tìm cách lừa và bắt Takuan trói vào cây đại bách như ông đã trói mình khi trước. Nghĩ như vậy, tuyệt nhiên hắn không có ý gì muốn trả thù, có lẽ chỉ muốn giải tỏa những ẩn ức. Nhưng ý nghĩ ấy khiến Musashi mỉm cười. Takuan chắc không tức giận đâu, có lẽ ông chỉ mỉm cười mà nói:
“Đồ ngu. Cũng tiến bộ đôi chút đấy, nhưng làm thế để làm gì hở thằng ngốc ?.
Musashi lạc trong những ý nghĩ mung lung ấy. Trong những lúc suy tư khắc khoải hoặc nghi ngờ khả năng của chính mình, hắn thường lên núi cao sống cảnh cô đơn tịch mịch giữa thiên nhiên. Hắn sống ra sao, chỉ có cây rừng, đá núi và hắn biết.
Lúc trở về, má hắn hõm, mặt hắn sạm đen, tóc cứng như rễ tre, quần áo lôi thôi lem luốc, nhưng mắt hắn sáng hơn, tựa như những hòn than hồng trong lò sẵn sàng tung ánh lửa ra xung quanh, thiêu đốt. Bấy giờ hắn không khác gì một con thú với sức mạnh vô biên, hung hãn, chỉ có hắn mới chế ngự được. Hắn ra đi, đông tây nam bắc, bất kỳ chỗ nào nghe nói có những quái nhân hay kiếm khách hơn người là hắn cũng tìm đến cho bằng được. Để tự chứng minh tài năng. Để củng cố lòng tự tin gần như ngạo mạn. Và cũng vì thế mà hắn có mặt tại sơn đạo ngày hôm nay.
Còn nửa tháng nữa mới đến tiết thượng nguyên, Musashi không dằn lòng được khi nghe người ta nói đến Tsujikaze Kohei nên nhất quyết đến vùng núi này tìm con chim lạ ấy:
Kohei, một con người khí phách hay chỉ là giá áo túi cơm như muôn ngàn giá áo túi cơm khác hắn đã gặp trên bước đường hành hiệp ?
Musashi và gã mã phu đến xóm Ujii thì trời đã khuya. Hắn cảm ơn, trả công xong, định vào trong xóm thì người mã phu giữ lại, rụt rè hỏi:
- Khách quan đến nhà ai ?
- Tsujikaze.
- Bây giờ khuya rồi, từ đây về đến trấn cũng hết đêm. Khách quan cho tiểu nhân theo được không ? Tiểu nhân ngủ ngoài hiên, tìm cái gì cho ngựa ăn, rồi sáng mai kiếm mối trở lại trấn, cũng được thêm chút tiền.
Nhìn gã mã phu, Musashi thương hại. Thân thể gã gầy yếu, chiếc áo chẽn với sợi giây thừng thắt ngang lưng đã sờn rách, đôi dép cỏ mòn vẹt gót. Đêm nay lạnh, có thể có tuyết rơi, đi tắt đường nào thì cũng không về đến Kuwana trước khi trời sáng.
Hắn gật đầu:
- Vậy theo ta. Nếu không tìm được nhà Tsujikaze thì mình tìm chỗ khác !
Tsujikaze mở một lò rèn. Giá trời chưa tối, hỏi thăm quanh đấy chắc họ chỉ đường cho ngay, nhưng khuya khoắt thế này bất tiện quá. Trong thôn yên lặng, ngoài tiếng chày gỗ đập thình thịch đều đều, không còn nghe tiếng gì khác.
Musashi đồ chừng có người còn giã gạo hay đậu gì đó, bèn cùng với người mã phu theo hướng tiếng chày mà đi tới. Một lúc sau thấy lập lòe ánh sáng qua lùm cây, rồi cả hai đến trước một căn nhà ngoài hiên than củi xếp ngổn ngang và lù lù một đống sắt vụn. Cánh cửa hé mở, ánh sáng vàng vọt của bếp lửa đặt giữa nhà bập bùng vẽ lên vách lem nhem mồ hóng những hình thù cổ quái đang nhảy múa. Trước bếp lửa, một người đàn bà ngồi xoay lưng ra ngoài, tay áo xắn cao, đang dùng một cái chày gỗ ra sức đập vào mớ quần áo để trên phiến đá.
Thì ra họ đã đến đúng cửa hàng lò rèn của Tsujikaze. Gã mã phu đẩy cửa bước vào. Người đàn bà giật mình kêu lên một tiếng ngắn.
- Chào bác. Trong này ấm quá nhỉ, bác cho sưởi nhờ chút.
- Ngươi là ai ? Hỏi gì ?
Gã mã phu đến ngồi xổm bên bếp, xòe hai tay ra đưa đi đưa lại trên ngọn lửa:
- Tôi là mã phu ở trấn dưới. Có khách quan đây muốn gặp bác Kohei.
Người đàn bà quay ra, vừa lúc Musashi bước vào. Nhìn y phục và dáng khập khiễng của hắn, thiếu phụ hơi cau mặt, giọng hách dịch:
- Đóng cửa lại ! Gió lùa làm thằng bé cảm bây giờ !
Musashi lùi lại khép cửa rồi ra ngồi trên khúc gỗ cạnh vách. Phòng trong có tiếng động, thiếu phụ bỏ đống quần áo đang giặt, chạy vội vào. Musashi nhìn theo thấy bà ta lật chăn, bế một đứa trẻ nhỏ lên cho bú.
Hắn đảo mắt nhìn quanh. Căn phòng hắn ngồi có lẽ là cửa hàng vì ở góc thấy có một cái bễ bỏ không, trên vách treo la liệt những lưỡi liềm, cuốc, dao phát và một vài nông cụ lặt vặt khác. Trần nhà mồ hóng bám đen, rủ xuống lòng thòng như thạch nhũ.
Gần cửa vào phòng trong, có treo một nông cụ hình thù quái dị hắn đoán chừng là món võ khí người mã phu nói đến hồi nãy. Mắt Musashi sáng lên. Hắn để ý quan sát, quả là một thứ võ khí kỳ lạ, giống như cái gậy ngắn, rất tiện giắt thắt lưng, đầu có khoen, móc sợi dây xích sắt. Cuối sợi xích là một quả đầu tròn không biết làm bằng gì nhưng trông có vẻ nặng. Tiếng người đàn bà trong phòng vọng ra.
- Chắc khách quan cũng là một trong những lãng nhân giang hồ đi khất cái để tìm thầy học võ chứ gì ! May mà trượng phu ta đi vắng chứ nếu không thì hẳn không toàn thây ra khỏi chỗ này đâu !
Người mã phu tỏ vẻ bất bình. Gã nhìn vào phòng trong rồi liếc xéo Musashi thấy hắn vẫn giữ vẻ điềm tĩnh. Thiếu phụ cười hích hích ra vẻ tự mãn và bằng lòng với câu nói này lắm. Không muốn để mất lòng người đàn bà, Musashi hỏi:
- Thế ra ngài Tsujikaze đi vắng hả ? Đi đâu vậy ?
- Đền Arakida.
- Đền Arakida ở đâu ?
- Đến Ise mà không biết đền Arakida thì lạ thật !
Tiếng thằng bé cựa quậy và khóc. Người đàn bà ru khe khẽ:
À ơi cái ngủ mày ngủ cho say
Đừng theo những trẻ quấy ngày khóc đêm
Cái ngủ mày ngủ cho bền
Quấy nhiều khóc lắm chỉ phiền mẹ cha ...
Tiếng ru nghe không rõ nhưng điệu ru thật quen thuộc. Nó gợi cho Musashi nhớ lại những ngày tháng xa xôi thuở nào, khi hắn còn bé, bé lắm. Hắn ngồi im nhìn ngọn lửa bập bùng, lòng mềm hẳn lại, thèm khát một mái nhà êm ấm, một mối tình dịu dàng chưa bao giờ được hưởng.
Người đàn bà đặt đứa bé nằm yên, bước tới bên bếp lửa từ bao giờ và móc lên cái móc trên bếp một ấm nước rồi hỏi hai người:
- Uống trà nhá !
Musashi không đáp, chỉ hất hàm về phía món võ khí treo bên cửa, hỏi thiếu phụ:
- Cái này của lệnh phu vẫn dùng đấy ư ?
- Phải ! Người đàn bà đáp với giọng hãnh diện. Trượng phu ta tự chế ra đấy.
- Ta coi một chút được không ?
- Được !
Thiếu phụ với tay tháo món võ khí trao cho Musashi. Hắn nhấc thử quả cầu đúc bằng sắt to bằng quả cam thấy nặng chừng hai cân. Trong lúc giao đấu, vung cầu này lên trúng đầu địch thủ có thể làm vỡ sọ, trúng tay chân thì gãy tay gãy chân như chơi. Dọc cán cầm, có một cái rãnh và một nút bấm. Musashi bấm nút, một cái lưỡi như lưỡi hái bật ra, cong cong tựa càng bọ ngựa, móc cũng được mà chém cũng được, thật là lợi hại.
- Loại võ khí này ghê gớm quá, nhưng không biết sử dụng ra sao !
Hắn cầm võ khí tay trái, tay phải giữ quả cầu sắt.
Tiếng người đàn bà cười hinh hích:
- Không phải thế ! Đưa ta chỉ cho.
Thiếu phụ nắm cán võ khí, thu sợi dây xích và quả cầu vào một tay, quay mình rồi xuất kỳ bất ý tung giây xích ra đánh rẹt. Sợi dây xích móc vào cây dao phát treo trên giá, cuốn luôn cây dao giật trở lại. Trong nháy mắt, cây dao đã nằm gọn trong tay trái thiếu phụ.
Musashi và gã mã phu trố mắt nhìn. Gã mã phu xuýt xoa:
- Ghê thật !
Vợ Kohei treo võ khí lên vách, nói:
- Công dụng của sợi dây xích là thế. Nó dùng để đoạt kiếm địch thủ. Nếu cần, bật lưỡi hái ra cắt tay địch thủ nếu hắn không chịu buông kiếm.
Musashi trân trân nhìn người đàn bà. Đối với hắn, giờ đây thiếu phụ này là một người khác. Sau thủ pháp vừa rồi, bà ta không còn là một người tầm thường, đần độn nữa.
Vợ Kohei ở lứa tuổi trung niên, da ngăm ngăm đen lại lùn, bình thường kể như vào hạng xấu. Nhưng sự khéo léo và nhanh nhẹn vừa qua, cách tung quả cầu ra và thu lưỡi dao về có một cái gì linh động, uyển chuyển khác thường làm hắn ngạc nhiên như vừa được xem một điệu vũ đặc biệt. Hắn hùa theo người mã phu:
- Ghê thật !
Và trong lòng hắn nghĩ không biết Kohei ra sao, kỹ thuật sử dụng võ khí của y cao đến mức nào mà vợ y lành nghề như thế ! Ý tưởng này làm hắn càng háo hức muốn gặp Kohei. Lợi dụng lúc thiếu phụ vào nhà trong lấy trà, hắn hỏi nhỏ người mã phu:
- Đền Arikida là đền gì, ở đâu ?
- Đó là đền xử nữ, thờ Thái Dương thần nữ, ở cách đây mấy dãy núi. Dòng họ Arikida trông nom đền, trồng trọt lấy thóc lúa và hoa quả dùng vào việc cúng lễ.
- Vậy ta tìm Kohei chắc cũng không khó.
Họ uống trà đến khuya. Khi vợ Kohei vào nhà trong rồi, cả hai chia phiên nhau canh bếp lửa tới sáng.
Hôm sau, Musashi trở dậy sớm. Vết thương ở chân hắn sưng to. Hắn lên cơn sốt không đi bộ được nữa nên lại phải thuê ngựa cưỡi đến trấn Yamada nghỉ tạm. Ở đó có chỗ trọ tử tế và may ra có lương y chữa trị. Musashi ngỏ lời với người mã phu, được gã bằng lòng ngay vì thấy ông khách lạ này cũng sòng phẳng tử tế, và nhất là ở Yamada dễ tìm được khách thuê ngựa đi ngược trở lại trấn Kuwana hơn.
Qúa trưa, Musashi đến Yamada, tìm chỗ trọ, trả tiền mã phu, rồi mượn người đến đền xử nữ hỏi thăm tin tức Kohei.
Yamada là một thị trấn nhỏ hẻo lánh, về mùa đông lại càng vắng vẻ. Vài chục ngôi nhà gỗ nghèo nàn bên một sơn đạo, tuyết rơi đêm trước còn phủ trắng mái nhà và lấp kín những gốc cây đổ sau trận bão vừa rồi. Quán Musashi ở trọ là một trà thất đơn sơ, hắn cũng lại là người khách duy nhất trong quán. Rủi cho Musashi, trấn này trước đây vẫn có tiệm thuốc, nhưng nay vì vắng khách, không còn ai ở lại hành nghề nữa. Người hắn mướn đi hỏi tin tức cũng đã về, nói không có ai tên Kohei ở đền Arikida cả, Musashi thất vọng, đành ngồi trong phòng chuyên tâm vào việc trị thương. Nghe nói dùng quả muồng muồng giã nhỏ đắp vào chỗ đau có thể khỏi, hắn cũng làm theo. Mùi muồng muồng xông lên hắc và ngái khiến hắn buồn nôn và hối hận đã rẽ vào vùng này mà chẳng được việc gì. Chỉ còn vài ngày nữa hết năm, Musashi đã viết thư gửi đi, hẹn tiết Nguyên tiêu trở lại Kyoto gặp Yoshioka phái, không lẽ bây giờ hủy bỏ cuộc gặp gỡ ấy chỉ vì cái chân đau. Lại còn việc hội ngộ với Matahachi ở dưới chân cầu Gojo nữa. Suy đi tính lại, việc quan trọng nhất bây giờ là phải làm sao cho vết thương ở chân được lành đã rồi rời nơi này ngay để đi Kyoto thì mới kịp.
Đêm ấy Musashi sốt nặng. Chủ quán đến săn sóc cho hắn, lột bỏ lớp đậu muồng muồng đi và rửa sạch chỗ chân đau, buộc lại cẩn thận. Sáng hôm sau cơn sốt lui nhưng vẫn còn sưng và đau lắm. Hắn có cảm tưởng như đeo một cục chì. Trong đời, Musashi chưa bao giờ bị bệnh nặng đến phải nằm liệt giường ba ngày liền, ngoại trừ một lần, lúc còn nhỏ bị cái nhọt trên đỉnh đầu.
“Bệnh hoạn thật là một kẻ thù đáng sợ mà ta không làm gì được ! Kẻ thù bên ngoài còn dễ đối phó, chứ kẻ thù từ trong ra, nó ăn ruỗng cơ thể và tâm hồn mình lúc nào không hay, khó mà lường nổi”. Nhưng nghĩ như thế, hắn lại thấy tâm thần khích động cho đó là một thách đố. Hắn tung chăn ngồi dậy, lẩm bẩm:
“Một vết thương nhỏ như thế này mà mình không quyết tâm khắc phục thì làm sao đương đầu với cả Yoshioka phái ?”.
Hắn nghiến răng chịu đau, thu chân lại ngồi theo thế kiết già, nước mắt chảy ràn rụa, tưởng ngất đi ngay trong lúc ấy. Nhưng sau một khắc tự chủ, hô hấp trở lại điều hòa, hắn thấy mắt bớt hoa, mạch máu hai bên thái dương dường như bớt đập mạnh và trong người thư thái hơn trước. Trước ý chí mãnh liệt của hắn, con quỷ đau đớn đã nhường bước, hắn nghĩ vậy. Musashi nhắm mắt, hai tay để lên đùi, tập trung hết ý chí vào việc điều hòa kinh mạch, đẩy máu độc ra ngoài. Mồ hôi vã ra như tắm, hắn cảm thấy vết thương dưới chân đang nứt ra, lần vải buộc ướt nhớp nháp.
Một lúc sau dừng lại, hắn duỗi chân. Lại lần nữa sự đau đớn làm mặt hắn co rúm.
Musashi thong thả cởi lần vải ngoài, quả nhiên máu mủ đã loang đầy mấy lần vải trong, ướt đẫm. Máu đen và mủ đặc vẫn tiếp tục ri rỉ chảy từ miệng vết thương ra, nhưng máu mủ chảy đến đâu, hắn thấy nhẹ người đi đến đấy. Hắn gọi người hầu lấy chậu nước, rửa sạch chỗ đau, buộc lại bằng vải mới, rồi ngồi xếp bằng nhìn ra ngoài.
Trước cửa sổ, rừng bách trải dài trên tuyết, gần đấy là đồi Mi Sơn, xế về phía đông, đồi Thạch Ấn nhô đầu khỏi hàng bách tuyết phủ trắng xóa. Giữa hai quả đồi là một ngọn núi cao, sườn dốc và trên đỉnh một tảng đá lớn nhô ra trông tựa mỏ chim. Trái núi giống con đại bàng nghiêng đầu nhìn cánh rừng trước mặt. Musashi càng nhìn càng thấy giống, không ngờ chính ngọn núi ấy mang tên Đại Bàng sơn, một tên do dân địa phương đặt cho không biết tự bao giờ.
Trông ngọn núi ngạo nghễ, hắn nghĩ đến tiên sinh Yagyu, từ trên mây nhìn xuống, chế giễu sự yếu đuối, vô dụng của hắn. Musashi nóng nảy muốn đi ngay, làm một cái gì, không phải vì hiếu thắng mà vì muốn chứng tỏ với chính mình sự quyết tâm và ý chí khắc phục trở ngại. Nhu cầu ấy cấp thiết, từ trong cõi sâu kín nhất của tâm thức thôi thúc, không cho hắn trì hoãn, mặc dầu cơ thể hắn đang trải qua cơn đau đớn ê chề. Hắn gọi chủ quán đến tính tiền, gói cho một ít lương khô để ngày hôm sau đi sớm.
Hôm sau, mới đầu giờ mão, Musashi đã trên đường dẫn đến đền Arikida.
Mỗi bước chân đi là một khó nhọc vô cùng, cơn đau dày vò làm hắn có cảm tưởng như chân sắp rời ra từng mảnh. Musashi biết rõ chuyện đó từ khi rời khỏi quán, nhưng hắn nghiến răng mà đi vì đây là một thử thách. Lội qua nước suối lạnh buốt, sang đến bờ bên kia thuộc địa phận đền Arikida, hắn gục xuống bên gốc cổ tùng rễ nổi cao trên mặt đất. Không khí trong lành, phong cảnh tịch mịch quanh ngôi đền và từ xa, xa lắm mơ hồ vẳng lại tiếng sáo theo một điệu nhạc cổ làm hắn em đi. Trong giấc mơ, dướng như hắn nghe tiếng chim hót và cả tiếng nghẹn ngào đứt quãng của những thiếu nữ hát đệm trong những buổi tế lễ xưa.
Musashi tỉnh dậy, nắng đã chan hòa đổ trên các mảng tuyết chưa tan. Hắn chỏi mắt, lấy tay sửa lại chiếc nón rồi men theo bờ suối đi ngược lên, khó nhọc trèo qua những tảng đá rêu phủ trơn trượt. Được một quãng thấy bức tường đất chắn ngang, chỉ còn để lại một lối đi nhỏ, và gần đấy có cửa khép kín, Musashi tháo kiếm và hành trang dựa cửa ngồi nghỉ. Hắn lấy lương khô ra ăn, múc nước suối uống rồi ngồi trên bờ suối cởi vết thương ra xem. Vết thương tuy còn đau nhưng đã đỡ nhiều, không sưng tấy lên như trước. Thò chân xuống nước lạnh, hắn lại thấy dễ chịu, nên nghĩ sao, cởi luôn quần áo nhảy xuống tắm. Hắn vùng vẫy, ngụp lặn dưới nước, tưởng như muốn để cho dòng nước trong sạch này rửa hết mọi nhơ bẩn của tâm hồn và thân thể cho hắn được thanh khiết hơn.
Nghe tiếng chim véo von, hắn cũng hòa theo mà ca hát. Giá có ai đi qua nhìn Musashi tắm vào lúc này tất cho hắn là một thằng điên, vì hỗn hào bị thần linh quở phạt như trước đây đã phạt hóa điên một tên thợ săn vào bắn trộm chim trong đền.
Đối với Musashi, sự tắm nước lạnh và dự định trèo lên đỉnh Đại Bàng sơn ngày hôm nay có một ý nghĩa đặc biệt. Cuộc giao đấu với Yoshioka phái là cuộc giao đấu sinh tử. Hắn không sợ chết, cũng không muốn chết anh hùng. Hắn muốn thắng một cách anh hùng nên hắn phải chuẩn bị. Để có một ý chí vững chắc như sắt đá. Để có một lòng tự tin không gì lay chuyển.
So sánh với Yagyu tiên sinh, Ozoin lão tăng và Takuan thiền sư, rõ ràng hắn còn yếu đuối, chưa đủ trưởng thành để biết phải làm gì và làm vào lúc nào. Cho nên hắn phải học cái dũng của họ, cái dũng của kẻ chiến thắng bản thân trước khi chiến thắng ngoại vật.
Musashi bơi sang bên kia suối, chui qua ngọn thác nhỏ, nước đổ xuống như trăm ngàn lưỡi dao bén chém vào da thịt. Da hắn đỏ au. Dưới chân hắn là vực sâu, bên kia, ngọn Đại Bàng sơn lừng lững đè lên hắn. Musashi đã quyết tâm chưa, đủ nghị lực chưa ? Bây giờ là lúc quyết định. Hắn hét to, vang động cả sơn cốc:
- Ta sẽ thắng !
Tiếng vọng từ khắp các vách đá dội lại, thôi thúc, cổ võ:
- Ta sẽ thắng ! Ta sẽ th ... ắng ! Ta sẽ th ... ắng ...
Nắm một dây leo dài, Musashi đánh đu xuống vực rồi chuyền cành nọ sang cành kia, chẳng mấy chốc đã đứng dưới chân núi. Nhìn hắn trần truồng leo qua những cành cây, bám vào ghềnh đá mới thấy sự táo bạo vô biên của hắn. Chỉ một cái xẩy tay hay trượt chân là tan xác. Không khác một người tiền sử ra sức chế ngự thiên nhiên để tìm sự sống. Gió núi thổi ào ào, tai hắn ù đi. Mỗi lần bám vào vách đá cao để leo lên, hắn lại gọi tên người hắn muốn tranh thắng. Này Takuan này ! Này Ozoin này ! Này Yagyu này ! Hắn trèo. Hắn đạp. Hắn bấu. Chỉ còn vài trượng nữa là tới đỉnh. Da hắn gai cào sứt đến rướm máu. Một chút cố gắng nữa ! Một chút nữa thôi !
Nói thì dễ nhưng làm thật khó. Chút cố gắng ấy chính là để phân định sự khác biệt giữa lưỡi gươm chiến thắng và lưỡi gươm chiến bại.
Musashi và trái núi bây giờ là một, nhưng trái núi ngạc nhiên và không muốn người ta làm rộn nên thỉnh thoảng lại đổi xuống rào rào sỏi với đá, không kiên trì bám vào những bụi cây mọc chồi ra, có lẽ đã bị kéo văng xuống vực rồi !
Đột nhiên, trong một cố gắng phi thường, Musashi rướn mình đi lên bám vào một phiến đá. Hắn nằm sấp trên phiến đá ấy, trông ra bốn bề không có gì ngăn cản, chỉ thấy trời xanh biếc. Bên dưới, mây nhẹ như khói bao phủ cả một vùng.
- Thắng rồi ! Ta thắng rồi !
Hắn đã lên tới đỉnh, bao nhiêu sức lực như sợi dây cung căng quá độ đứt phựt, bỏ hắn. Musashi thở hắt ra, nhắm mắt, bất tỉnh.
Khi tỉnh dậy, hắn nhìn xuống chân. Máu mủ ở vết thương tuôn ra, Musashi tưởng như đang kéo trôi tất cả những nhu nhược và mặc cảm của hắn. Trong cái thanh khiết chốn cao sơn dường như có mùi tinh lực con người, mùi dịu ngọt của phiền não đang tiêu tán.