Bạn đang xem trang 2 / 3 trang

Re:Khái yếu lịch sử Nhật Bản

Đã gửi: Tư T12 17, 2008 12:55 pm
Viết bởi AZ
Thanks Kongou-Musha vì những thông tin hữu ích.
Ở đây có 1 nhân vật liên quan tới Việt Nam, đó là 阿部仲麻呂.
Ông đã được nhà Đường cử làm An Nam Tiết độ sứ, và tới Hà Nội từ năm 761~ 767.
http://ja.wikipedia.org/wiki/%E9%98%BF%E5%80%8D%E4%BB%B2%E9%BA%BB%E5%91%82

Re:Khái yếu lịch sử Nhật Bản

Đã gửi: Sáu T12 19, 2008 12:36 pm
Viết bởi Kongou-Musha
VII.安土桃山時代


18.天下統一

織田信長は、尾張の国(愛知県)の小さな戦国大名であったが、つぎつぎに他の大名をたおし、勢力を広げて、全国を統一していた。信長は、ポルトガル人が種子島(鹿児島県)に来て伝えた(1543)鉄砲を戦いに有効に使ったことで知られている。1573年、信長は、将軍を京都から追い出して、室町幕府をほろぼし、安土(滋賀県)に立派な城(安土城)をつくり、天下統一の事業を進めた。

信長は、商業や手工業を事由に行う事(楽市.楽座)を許し、キリスト教を保護し、ポルトガル人やスペイン人と貿易(南蛮貿易)をした。キリスト教は、スペイン人でイエズス会の宣教師フランシスコ.ザビエルが鹿児島に来たとき(1549)から伝道がはじまった。ポルトガル人やスペイン人(南蛮人)は、キリスト教を広めるために貿易をし、信長は、仏教をおさえる手段としてキリスト教を保護し、貿易によってヨーロッパのすぐれた文物を手に入れた。
信長は、天下統一の事業を急速に進めたが、それが完成する少し前に、家臣の明智光秀に攻められて死んだ。(本能寺の変 1582)

信長の事業をうけついだのが、豊臣秀吉である。秀吉は尾張の国(愛知県)の貧しい農民の子であったが、武士となり、信長に仕えて次第に出世し、有力な武将となった。秀吉は、明智光秀を破り、主導権をにぎると、大阪に立派な城(大阪城)をつくり、そこを根拠地として、天下統一を進めた。秀吉は、農業の支配を確実にし、税の基礎を定めるために、田畑の広さと収穫高を調べて記録させ、税のとり方をきめた(太閤検地)。また、農民の一揆を防ぐために、農民から武器をとりあげた(刀狩)。これにより、兵農分離が進み、荘園制は消滅した。秀吉は、関白になり、翌年には、太政大臣になったのち、1590年、天下統一を完成した。
その後、秀吉は、朝鮮や中国にも勢いを広げようとして、朝鮮に二度兵を送った(朝鮮出兵)が、二度とも失敗におわった(文禄.慶長の役 1592.1597)。
信長.秀吉が活躍した時代を安土桃山時代という。


CHƯƠNG VII  THỜI ĐẠI AZUTI MOMOYAMA

18. Thống nhất thiên hạ


Oda Nobunaga chỉ là một Sengoku Daimyou nhỏ ở xứ Owari (ngày nay là tỉnh Aiti) nhưng đã lần lượt đánh đổ các Daimyou khác, bành trướng thế lực và thống nhất toàn quốc. Nobunaga còn nổi tiếng với việc sử dụng súng ống có hiệu quả trong các trận đánh, loại súng này lần đầu tiên được truyền đến đảo Tanegasima (thuộc Kagosima) theo bước chân của người Bồ Đào Nha. Năm 1573, Nobunaga đuổi Tướng Quân ra khỏi Kyoto, tiêu diệt Mạc Phủ Muromati, cho xây tòa thành hùng vĩ ở Azuti (tỉnh Siga), gọi là thành Azuti và tiến hành sự nghiệp thống nhất đất nước.



Oda Nobunaga

Nobunaga còn cho phép tự do thương nghiệp và thủ công nghiệp, bảo vệ đạo Cơ Đốc, giao thương với người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha (hai chủng người này được gọi bằng danh từ Nambanjin, người Nam Man). Đạo Cơ Đốc được truyền đạo khi nhà truyền giáo người Tây Ban Nha thuộc dòng Tên là Francisco Xavier đến Kagosima (1549, lúc bấy giờ là xứ Satuma). Người Nam Man vì mục đích quảng bá đạo Cơ Đốc nên buôn bán với Nhật, Nobunaga cũng bảo vệ đạo này như một phương tiện để đàn áp Phật giáo, nhận được nhiều sản phẩm văn hóa vượt trội của phương Tây từ việc mậu dịch này.
Sự nghiệp thống nhất thiên hạ của Nobunaga đang tiến triển nhanh chóng, sắp đến hồi hoàn thành thì Nobunaga chết đi khi gia thần là Aketi Mituhide phản bội (biến cố chùa Honnouji năm 1582).
Người kế tục sự nghiệp của Nobunaga là Toyotomi Hideyosi. Hideyosi vốn là con của một nông dân nghèo hèn ở xứ Owari nhưng sau đến phục vụ Nobunaga và trở thành võ tướng có thế lực của Nobunaga. Hideyosi thảo phạt xong Aketi Mituhide thì tự mình nắm thực quyền, cho xây tòa thành nguy nga ở Osaka (thành Osaka) và biến nơi này thành cứ điểm để thống nhất thiên hạ. Hideyosi xác thực quyền cai trị đối với nông dân bằng cách định rõ cơ bản về thuế, cho điều tra ghi chép về diện tích ruộng đất và khả năng thu hoạch, từ đó quyết định cách đánh thuế (chính sáchTaikou kenti). Và cũng để phòng những cuộc nổi loạn (Ikki) của nông dân, Hideyosi còn tịch thu hết vũ khí của nông dân (chính sách Katanagari). Vì những chính sách này nên nông dân và lực lượng quân sự bị phân ly, không còn dính dáng đến nhau nữa, thể chế trang viên bị tiêu diệt. Hideyosi nắm chức Quan Bạch (Kampaku), đến năm sau thì trở thành Thái Chính Đại Thần và đến năm 1590 thì hoàn thành công cuộc thống nhất thiên hạ.



Tượng Toyotomi Hideyosi

(Thái Cáp, Taikou là tên gọi cung kính đối với chức nhiếp chính, còn chỉ người đã nhường chức Quan Bạch cho con. Từ này còn được dùng để chỉ Toyotomi Hideyosi. Chính sách Taikou Kenti được thi hành năm 1582, theo đó quy định diện tích của đồng ruộng và chia thành 4 cấp là: thượng, trung, hạ và hạ hạ.Những ai từng đọc qua lịch sử môn võ Karate sẽ hiểu được sự khắc nghiệt của chính sách Katana gari, săn lùng đao kiếm, là như thế nào. Theo đó, Hideyosi quản lý nguồn vũ khí trong dân chúng triệt để, những đồ vật sắc nhọn bằng kim loại đều bị tịch thu hết và mỗi làng chỉ được có một con dao do lính canh giữ, ai muốn mượn về dùng phải đăng ký).



19.城

安土桃山の時代は、新しく生まれた戦国大名や豪商の影響をうけて豪華で雄大な文化になった。それをよくあらわしているのが城である。安土桃山時代の名も、信長の安土城と秀吉の桃山城の名によっている。

この時代には、大名は城を領地の中心の平地につくり、周囲に家来や商工業者を住まわせ、城下町を作るようになった。城は敵を防ぐためのものであるだけでなく、大名の住むところであり、政治を行う役所でもあったので、力を示すために雄大なものをつくった。信長の安土城、秀吉の桃山城を今見る事ができないが、姫路城(兵庫県)は今も残っていて、当時の城の雄大な姿を伝えている。城や住宅の壁やふすまなどに、金銀を使って華やかな絵を描いたのは、狩野派の画家である。

茶の湯がこの時代にさかんになった。茶の湯に使う茶(抹茶)は、鎌倉時代に中国から伝えられ、禅僧の間で薬として用いられていた。茶を楽しむ風習は、室町時代に貴族や武士、裕福な商人の間に広まり、それを千利休が、茶道という礼法として大成した。利休は、茶道の精神は、簡素な中に深く豊かなものをみつけ、それを最も美しいと感じる心であると考え、その精神を和敬静寂という言葉であらわした。利休は堺(大阪府)の裕福な商人(町衆)であった。
この時代には、南蛮貿易によって、いろいろな西洋のものが入ってきた。活版印刷術やめずらしい品々も伝えられた。現在も使われているパン、ズボン、カステラなどの外来語は、当時、ポルトガル語から日本語に入ったもの。イエズス会の宣教師でポルトガル人のロドリゲスは、秀吉の通訳をするほど日本語が上達し、「日本大文典」をまとめた。これは、外国人が作った最初の日本語の文法書である。


19. Thành quách


Thời đại Azuti Momoyama là thời đại của nền văn hóa "hùng vĩ", hào hoa chịu ảnh hưởng từ tầng lớp Sengoku Daimyou mới ra đời và tầng lớp phú thương. Tên gọi thời đại Azuti Momoyama cũng bắt nguồn từ thành Azuti của Nobunaga và thành Momoyama do Hideyosi xây dựng.

Trong thời đại này, các Daimyou cho xây thành ở trung tâm vùng đất bằng trong lãnh địa của mình, chung quanh là khu phố dưới thành (Jouka mati) và cho tập trung dân cư, các tầng lớp thương nhân sống ở đó (thời đại này, hầu như mỗi vị Daimyou đều xây dựng thành quách của riêng mình). Thành quách thời kỳ này không chỉ là thứ phương tiện để phòng địch mà còn là nơi ở của Daimyou, nơi thi hành chính trị và là nơi phô trương sức mạnh của mình. Thành Azuti của Nobunaga, thành Momoyama của Hideyosi ngày nay không còn nữa nhưng vẫn còn có thành Himeji (tỉnh Hyogo, di sản văn hóa Thế giới) cho chúng ta thấy được vẽ nguy nga tráng lệ của thành quách thời đó như thế nào. Thời đó cũng có các họa sư phái Kano chuyên dùng vàng bạc để vẽ những bức tranh tráng lệ lên cửa lùa, nhà cửa hay thành quách.



Thành Momoyama



Một tấm bình phong của phái họa Kano

Trà lễ (Tya no yu) cũng nở rộ trong thời kỳ này. Loại trà bột (mattya) dùng trong trà lễ được truyền từ Trung Hoa trong thời Muromati và được các Thiền sư sử dụng như một vị thuốc. Thú thưởng trà lan rộng trong giới quý tộc, võ sĩ và giới thương nhân giàu có, đến thời kỳ này thì Senno Rikyu đã đúc kết lại, hoàn thành quy tắc uống trà, gọi là Trà đạo (Sadou, Tyadou). Rikyu nghĩ rằng tinh thần của Trà đạo là tìm thứ sâu lắng, phong phú trong sự giản dị thanh bạch, đó là cái tâm cảm được cái đẹp nhất và dùng bốn từ "hòa kính thanh tịch" (Wakeiseijaku) để biểu thị tinh thần mỹ của Trà đạo. Rikyu là một thương nhân giàu có ở Sakai (thuộc Osaka).



Thành Himeji

(Hòa và kính là thái độ đối đãi giữa chủ và khách trong tiệc trà, thanh và tịch là thứ mà chủ và khách cùng cảm nhận được khi ngồi chung với nhau. Qua chén trà, tinh thần của chủ và khách tôn trọng lẫn nhau nhưng cũng đồng thời phá bỏ ranh giới trong tâm giữa người với người, không còn là chủ hay khách nữa)



Một trà thất

Trong thời này, Nhật Bản cũng nhận được nhiều thứ của Tây phương thông qua mậu dịch với người Nam Man (TBN và BĐN). Kỹ thuật in hoạt bản và nhiều thứ vật phẩm hiếm cũng được đưa tới Nhật. Những từ ngữ như Pan (bánh mỳ), Zubon (quần tây), Kasutera (bánh ngọt) được dùng hiện nay được truyền từ tiếng Bồ Đào Nha vào lúc bấy giờ. Bấy giờ có nhà truyền giáo dòng Tên người Bồ Đào Nha là Rodrguez thông thạo tiếng Nhật, làm thông dịch cho Hideyosi và biên soạn cuốn "Nihon daibunten". Đây là cuốn sách ngữ pháp tiếng Nhật đầu tiên do người ngoại bang biên soạn (xuất bản năm 1604~1608 ở Nagasaki).




Re:Khái yếu lịch sử Nhật Bản

Đã gửi: Bảy T12 20, 2008 11:05 am
Viết bởi iznogod
tớ góp ý 1 chút nhé. Bạn viết phiên âm tiếng Việt chưa chuẩn rồi. つ viết sang tiếng việt là tsu,し là shi,ち là chi, ちゃlà cha.Nếu viết không chuẩn sẽ gây hiểu lầm và khó khăn cho những người muốn tra cứu thêm  về thông tin bạn đưa. Rất cám ơn vì bài viết hay.

Re:Khái yếu lịch sử Nhật Bản

Đã gửi: Tư T12 24, 2008 10:42 pm
Viết bởi Kongou-Musha

tớ góp ý 1 chút nhé. Bạn viết phiên âm tiếng Việt chưa chuẩn rồi. つ viết sang tiếng việt là tsu,し là shi,ち là chi, ちゃlà cha.Nếu viết không chuẩn sẽ gây hiểu lầm và khó khăn cho những người muốn tra cứu thêm  về thông tin bạn đưa. Rất cám ơn vì bài viết hay.



Cám ơn  ý kiến của bạn. Về vấn đề này thì bạn tham khảo thêm bài dưới đây để rõ hơn

http://www.dongdu.info/cgi-bin/index.cgi?action=forum&board=hdc_ds&op=display&num=4500&start=30



Re:Khái yếu lịch sử Nhật Bản

Đã gửi: Tư T12 31, 2008 12:47 pm
Viết bởi Kongou-Musha
CHƯƠNG VIII  THỜI ĐẠI EDO

20. Thể chế Mạc phiên


Tokugawa Ieyasu là một Daimyou nhỏ ở xứ Mikawa (ngày nay là tỉnh Aiti) nhưng dần dần bành trướng thế lực, sau khi Hideyosi chết thì đánh thắng dòng họ Toyotomi trong trận Sekigahara năm 1600, trở thành Chinh Di Đại Tướng Quân năm 1603 và xây dựng chính quyền Mạc Phủ ở edo (ngày nay là Tokyo). Khoảng thời gian kéo dài 260 năm kể từ lúc này gọi là thời đại Edo (Edo Jidai).



Tokugawa Ieyasu

Mạc Phủ Edo chiếm một dải đất rộng chừng một phần tư lãnh thổ toàn quốc (đất của họ Tokugawa, gọi là Tenryou, thiên lãnh), ngoài ra còn trực tiếp quản lý những đô thị quan trọng như Kyoto, Osaka và Nagasaki. Họ Tokugawa còn ban phát đất đai cho dòng họ của mình (Shimpan Daimyou) và gia thần từ trước (Fudai Daimyou) những vùng đất quan trọng ở gần Edo, ban cho những kẻ trở thành gia thần của mình sau khi bại chiến trong trận Sekigahara (Tozama Daimyou) những vùng đất xa xôi ở tận miền đông bắc hay miền Kyushu phương nam. Lãnh địa mà Mạc Phủ ban cho chư hầu gọi là phiên (han) và lãnh chúa vùng đất đó gọi là Daimyou.
Để cai trị các phiên trên toàn quốc, Mạc Phủ đã đặt ra một tổ chức đơn giản nhưng lại hiệu quả (thể chế Mạc phiên-Bakuhan taisei). Theo đó, dưới Tướng Quân có chức Rouju (lão trung) giúp đỡ chính sự quan trọng, dưới đó nữa, chính sự được phân chia đều cho các quan Bugyou ở địa phương (kiểu quanh đứng đầu một xứ). Khi có chuyện khẩn cấp thì đặt ra chức Tairou (đại lão), chức quan cao nhất của Mạc Phủ. Mạc Phủ còn ban hành luật Bukeshohatto mà các Daimnyou phải tuân theo, nếu vi phạm thì sẽ bị hình phạt là tịch thu đất đai hoặc đổi sang đất khác (nhỏ hơn). Nhưng các Daimyou cũng có quyền tự do thi hành chính sách của riêng mình trong phiên, miễn là trong phạm vi cho phép của Mạc Phủ (kiểu các trường Đại học ở Tây phương, có quyền tự định giáo trình của mình mà nhà nước không can thiệp được). Ngoài ra Mạc Phủ cũng còn giới hạn quyền lực của Triều Đình, can thiệp vào hành động của chùa chiền.
Tướng Quân đời thứ 3 là Tokugawa Iemitu bắt vợ con của các Daimyou phải ở lại Edo, lập ra chế độ Sankinkoutai, theo đó thì mỗi Daimyou cứ một năm phải đến Edo túc trực một lần. Chính sách Sankinkoutai này gây tốn kém tiền bạc của Daimyou, hơn nữa Mạc Phủ còn bắt họ gánh chịu chi phí xây dựng các công trình lâm thời khiến các Daimyou khốn đốn về mặt kinh tế, không còn đủ sức để phản kháng lại Tướng Quân nữa.



Một cảnh sankinkoutai, đoàn người của Daimyou lũ lượt kéo về Edo




21.士農工商


幕府の最も重要な問題は、総人口の約80パーセントを占める農民をどのように支配するかであった。それは、農民から集める税(年貢)が幕府の主な財産だからである。家康は「百姓どもをば死なないように、生きないようによく考えて税をとれ」と言っている。幕府や各藩は、規則(慶長の御触書)をつくって農民の日常生活を細かく指示し、制限した。そこでは、「米は税(年貢米)として納めるものであるから、たくさん食べないように麦や大根などを入れて食べる事、酒や茶を買って飲まないこと、着るものは麻や木綿のほかは着ないこと」などとしている。また、家5~6戸で五人組をつくらせ、納税や防犯の責任を共同でとらせた。
幕府は、少しの武士が大勢の農民や町人を支配するために、士農工商(武士.農民.職人.商人)という身分制度をつくった。(商人の下にはさらに「えた.非人」と呼ばれる階級をおいて差別した)この社会では、最上位の武士は、武芸や学問を修め、腰に刀二本さし、農民や町人(職人.商人)が無礼な事をすれば、その場で斬り殺してもよいことになった(斬り捨て御免)。農民や町人は、武士と違って苗字(名字)もなく、大名行列に出会うと、道にすわって頭を下げなければならなかった(土下座)。このように上下を差別する考えは、武士社会では主人と家来の関係(主従関係)を、家庭内では親と子、夫と妻の関係をきめるもとになっていた。幕府はこのようにして幕藩体制を固め、封建社会を維持した。


21. Sĩ nông công thương


Vấn đề quan trọng nhất đối với Mạc Phủ là cai trị đám nông dân chiếm tới 80% dân số như thế nào. Bởi vì nguồn thuế thu từ nông dân (Nengu) chính là tài sản của Mạc Phủ. (Nengu là thuế đánh hàng năm, theo đó đối với ruộng thì thu bằng lúa gạo, đối với đồng thì thu bằng sản phẩm hoặc tiền. Sau này tất cả đều thay bằng tiền). Ieyasu cũng từng nói "hãy nghĩ cách thu thuế làm sao để bọn bách tính không chết nhưng cũng không sống được".

(Cách cai trị của Tokugawa Ieyasu thật sự rất xảo quyệt, điều đó thể hiện qua câu nói này. Nếu bần cùng quá thì dân chúng sẽ làm loạn, do đó chính quyền không để người dân phải bần cùng quá mức. Nhưng chính quyền Ieyasu cũng thực hiện chính sách ngu dân, đàn áp để dân trí không phát triển được, người dân luôn tốn thời gian vào cái ảo tưởng làm giàu nhưng không bao giờ giàu được, như thế sẽ không hơi đâu và cũng không đủ nhận thức, sức mạnh để chống đối chính quyền Tokugawa)

Chính quyền Mạc Phủ và các phiên còn đặt ra nguyên tắc, chỉ thị và giới hạn sinh hoạt thường nhật của nông dân từng ly từng tí (Ofuregaki, công văn thư của Mạc Phủ và các phiên công bố cho toàn dân chúng vào năm Keichou). Chỉ thị này có những điều như "gạo là vật để đóng thuế (nengumai) nên không được ăn nhiều mà phải độn lúa mạch và củ cải vào cơm mà ăn. Không được mua trà, uống rượu (vì là thứ xa xỉ), áo quần thì chỉ được mặc loại vải thô, vải bông". Và chỉ thị này còn bắt cứ 5,6 hộ dân phải lập ra một nhóm 5 người để có trách nhiệm cộng đồng trong việc phòng chống tội phạm và thu thuế.



Đậu phụ, Tofu là món ăn mà người bình dân đương thời không được phép ăn trong ngày thường. Nhưng mỗi buổi sáng Tướng Quân lại dùng nhiều loại đậu phụ khác nhau.

Và Mạc Phủ cũng đặt ra chế độ thân phân sĩ nông công thương (võ sĩ, nông dân, thợ thủ công, thương nhân) để một số ít võ sĩ có thể cai quản được đại bộ phận nông dân và dân thành thị. (Ngoài ra, dưới thương nhân còn có hạng cùng đinh bị gọi là "eta", "hinin"- bọn không phải con người). Trong xã hội này thì giai cấp võ sĩ là cao nhất, được quyền theo đuổi học vấn, luyện tập võ nghệ, đeo 2 kiếm bên hông, nếu bọn nông dân hay thị dân (thợ thủ công, thương nhân) mà dám hỗn láo là có quyền rút kiếm chém chết tại chỗ mà không bị tội (luật Kirisute gomen). Khác với võ sĩ, nông dân và thị dân không được quyền mang họ, khi gặp đoàn Daimyou đi kinh hành thì phải cuối dập đầu thi lễ bên vệ đường (dogeza). Sự phân biệt cao thấp trong suy nghĩ cũng đã hình thành nên tiêu chuẩn quan hệ giữa chủ và tớ, trong nhà thì là giữa phụ mẫu và con cái, vợ chồng. Mạc Phủ xiết chặt thể chế Mạc phiên này mà duy trì xã hội phong kiến.

(Mặc dù giai cấp võ sĩ có những đức tính hơn người như dũng cảm, sẵn sàng xã thân để bảo vệ đất nước, dòng tộc, thanh liêm chính trực, đoàn kết, kỷ luật chặt chẽ nhưng việc một phần lớn dân chúng phải è lưng lao động để nuôi và làm giàu cho một thiểu số võ sĩ, cán bộ của chính quyền Edo, là một điều bất công. Thời Edo không thiếu những cảnh võ sĩ, tức người của giai cấp cầm quyền, quát nạt bách tính và xem họ không bằng loài thú vật. Vì thế mô hình xã hội này đã không tồn tại được lâu, đi ngược lại với văn minh, nhân quyền của nhân loại trong thời đại mới. Đến đây người dịch thật sự thấy hạnh phúc và may mắn vì được sinh ra trong một xã hội thật sự bình đẳng, bác ái)



22.鎖国

家康は、はじめ、海外渡航をゆるし、朱印船で貿易することを許可した。それで、多くの日本人がフィリピンやタイ、ヴェトナムなどに出かけて活躍し、日本町をつくった。タイへ行った山田長政が活躍したのもこのころである。しかし、家康は、キリスト教が非常な勢いで広まるのを見て危険であると考え、キリスト教禁止令をだした。次いで、3代将軍家光の時代は、日本人の海外渡航と海外移住者の帰国を禁止し、この規則を破るものを死刑にした。
このような時、九州の島原(長崎県)で、農民が重税とキリスト教の禁止とに反抗し、16歳の少年天草四郎時貞を頭にして一揆をおこした(島原の乱 1637)。幕府は4ヶ月近くかかってこれをしずめた後、いっそうキリスト教を警戒した。そして、キリストやマリアの像の絵を踏ませる方法(踏み絵)などによって、キリスト教徒かどうかを見分け、キリスト教徒をさがし出しては罰した。しかし、それでもかくれて信仰する人(隠れキリシタン)がなくならず、幕府の弾圧とキリシタンの殉教がつづいた。
幕府は1639年に、ポルトガル人が日本に来ることを禁止(寛永の鎖国令)、キリスト教に関係のないオランダ人と中国人にだけ、長崎の出島で貿易することをゆるした。このように国が海外との交通.貿易などを禁止することを鎖国という。鎖国によって、日本は西洋の文明から孤立したが、日本独自の文化や産業が発達した。

22. Bế quan tỏa cảng


Tướng Quân Ieyasu ban đầu cho phép tàu bè Nhật vượt biển ra hải ngoại và cho phép thuyền Ấn đỏ (Shuin-sen, thuyền được đóng dấu đỏ, được phép mậu dịch với ngoại bang) buôn bán giao dịch với nước ngoài. Vì thế nên có nhiều người Nhật đã đến các xứ như Phi Luật Tân, Việt Nam và lập ra các khu phố Nhật Bản tại đó. Như có ông Yamada Nagamasa sang Xiêm La rồi nổi tiếng tại đó. Nhưng Ieyasu lại cho rằng đạo Cơ Đốc lúc này bành trướng rất mạnh, là nguy cơ nên đã cấm cửa tôn giáo này (lịch sử cho thấy tôn giáo này luôn là nỗi lo sợ của những nhà độc tài). Tiếp theo, đời Tướng Quân thứ 3 là Iemitu cũng cấm luôn người Nhật đã vượt biển và sống ở hải ngoại, kẻ nào vi phạm nguyên tắc này sẽ bị tử hình.

Trong tình hình này, ở Simabara xứ Kyushu (ngày nay là tỉnh Nagasaki) có thiếu niên 16 tuổi tên là Amakusa Sirou Tokisada đứng lên cầm đầu nông dân chống đối tô thuế nặng và lệnh cấm đạo Cơ Đốc (loạn Simabara năm 1637). Gần 4 tháng đàn áp, cuối cùng Mạc Phủ cũng đã dẹp yên loạn và cảnh cáo tôn giáo này. Cách làm của Mạc Phủ là bách tính dẫm đạp lên tranh tượng Jesus và mẹ Maria (fumie) để phân biệt đâu là tín đồ Cơ Đốc và hành hình họ. Nhưng số người lén lút thờ phụng Jesus vẫn không mất đi mà vẫn tiếp tục tử vì đạo dưới sự đàn áp của Mạc Phủ.



Fumie, người nào không dẫm lên sẽ bị coi là tín đồ Cơ Đốc.

Năm 1639, Mạc Phủ cấm không cho người Bồ Đào Nha đến Nhật nữa (lệnh tỏa quốc năm Kan-ei) và chỉ cho phép người Hòa Lan vốn không liên quan gì đến tôn giáo này và người Trung Quốc buôn bán ở Nagasaki mà thôi. Thời kỳ này nước Nhật đoạn tuyệt giao thông, mậu dịch với hải ngoại và gọi là thời kỳ tỏa quốc (sakoku). Nhưng cũng nhờ lệnh tỏa quốc mà Nhật Bản cô lập với văn minh phương Tây, phát triển nền văn hóa và nền sản nghiệp độc đáo của mình.



Re:Khái yếu lịch sử Nhật Bản

Đã gửi: Sáu T1 02, 2009 8:38 pm
Viết bởi Kongou-Musha
23.産業の発達


江戸幕府が全国を支配して、戦いのない世になると、農業はいっそう進歩した。農民は、荒地を開墾して田畑を広くしたり、農具を改良したり、作物の種類をふやしたりした。米のほかに、綿、生糸、菜種油など各地の特産物をつくって商人に売り、豊かになる農民もいた。絹織物、酒、紙などの手工業も発達した。
産業の発達や参勤交代の影響で交通も盛んになり、道路も発達した。江戸を中心に、海岸に沿って京都へ行く東海道、信農(長野県)を通って京都へ行く中山道、甲州(山梨県)へ行く甲州街道、奥州(東北地方)へ行く奥州街道、日光へ行く日光街道などの五街道ができ、街道には宿場がおかれた。しかし、幕府は軍事上の必要から、各地に通行人を調べる関所をおき、大井川や天竜川のような大きな川には、橋を架けなかった。米や大量の物資を運ぶには、船が盛んに使われるようになり、航路も発達した。

産業と交通の発達にともなって、商人もさかんになった。幕府や大名が集めた年貢米は、大阪に集めて現金と交換したので、大阪の鴻池、江戸の三井などのような大商人が次第に生まれた。
商業の発達にともなって政治の中心の江戸は、人口100万ちかくの大都市になり、玉川上水や神田上水のような大規模な水道工事も行われた。大阪のほうは町人の町で、経済の中心であったから、「天下の台所」とよばれた。

23. Phát triển sản nghiệp


Dưới sự thống trị của Mạc Phủ Edo, nước Nhật đã trải qua giai đoạn hòa bình không có chiến tranh nên nông nghiệp tiến bộ rõ rệt. Nông dân khai khẩn đất hoang, mở mang ruộng vườn, cải tạo nông cụ và gia tăng chủng loại cây trồng. Ngoài gạo còn có những sản vật đặc trưng của từng địa phương như bông, tơ tằm, dầu cải và cũng có một số nông dân giàu lên với việc trồng những thứ này và bán cho thương nhân. Những ngành thủ công nghiệp như dệt nay, nấu rượu, làm giấy cũng phát triển.



Một người bán dầu.

Do dảnh hưởng của chế độ Sankin Koutai và sự phát triển của sản nghiệp nên đường xá cũng phát triển. Lúc bấy giờ có 5 con đường lớn (Gokaidou) lấy Edo làm trung tâm (phát xuất từ Edo) như con đường Toukaidou men theo bờ biển đến Kyoto, con đường Nakasendou qua xứ Sinano (tỉnh Nagano ngày nay) đến Kyoto, con đường Koushu kaidou đến xứ Koushu (tỉnh Yamanasi ngày nay), con đường Oushu kaidou đi lên xứ Oushu (miền Đông bắc) và con đường Nikkou kaidou đi đến Nikkou. Trên những con đường này có các trạm dừng chân (shukuba, thời Edo còn phát âm là sikuba, đây là nơi dừng chân, đổi ngựa cho khách đi đường) nhưng Mạc Phủ không bắc cầu qua những con sông lớn như sông Ooi, sông Tenryu và đặt các trạm kiểm soát (sekisho) để kiểm tra người đi đường. Để vận chuyển gạo và một lượng lớn vật tư thì thuyền được sử dụng nhiều, do đó giao thông đường thủy cũng phát triển.




Cảnh nấu Shouyu (xì dầu Nhật)


Nền sản nghiệp và giao thông phát triển nên tầng lớp thương nhân cũng thịnh vượng hẳn lên. Vì lúa gạo nộp thuế (nengumai) cho Mạc Phủ và các Daimyou tập trung ở Osaka và trao đổi bằng tiềng mặt nên địa phương này lần lượt sản sinh ra những đại thương nhân như Kou-no-ike, Mitui (tiền thân của hai hãng Kou-no-ike và Mitui sau này mà cả Thế giới đều biết). Cùng với sự phát triển của thương nghiệp, Edo cũng trở thành trung tâm chính trị, một đại đô thị gần 100 vạn nhân khẩu và người ta cũng xây dựng những công trình thủy lợi lớn ở đây như Tamagawa Jousui (đường dẫn  nước được xây dựng từ năm 1653~1654). Trong khi đó thì Osaka là nơi tập trung của dân thành thị, trở thành trung tâm kinh tế và được gọi là "cái nhà bếp của thiên hạ" (Tenka no daitokoro).




Mô hình phục nguyên của thương điếm Mitui ở xứ Etigo.

(Tương quan giữa Edo và Osaka giống vị trí giữa thành phố Sài Gòn và Hà Nội. Nếu Edo là nơi tập trung quyền lực chính trị thì Osaka là nơi tập trung tiền bạc)


24.町人の文化

世の中が平和になると、学問や芸術が盛んになった。幕府が中国の学問である儒学、特に朱子学を保護し、幕府の学問所をつくって武士の子弟に学ばせた。朱子学は、主人と家来、親と子などの上下の秩序を守る事を重んじたので、幕府の政治に都合がよかった。町人も「読み、書き、そろばん」などの教育を重んじるようになった。庶民の教育は、はじめ寺院などで行われたが、後に各地に寺子屋といわれる教育機関がひらかれ、僧侶や神主、浪人などが教えた。寺子屋教育は、しだいに盛んになって、明治のはじめまでつづいた。

五大将軍徳川綱吉のころ(元禄時代)、上方(大阪や京都)で町人の新しい文化(元禄文化)が生まれた。大阪の町人井原西鶴は、元禄時代の町人の生活を「好色一代男」や「世間胸算用」などでとりあげた。西鶴の小説には、貨幣経済が発達し、金が人間の生活を支配するようになった社会で、金に運命を左右される町人の姿や、当時の開放的な享楽生活がリアルにえがかれている。

松尾芭蕉は、「古池や かわず飛び込む 水の音」のような五.七.五、合わせて十七字の詩である俳句を大成した。俳句は、連歌の最初の句が独立したもので、当時は俳諧といわれていた。「奥の細道」は、芭蕉が旅のことを書いた味わいの深い紀行文である。旅を愛した芭蕉は、「旅に病んで夢は枯野をかけめぐる」という句を最後に、旅の途中で死んだ。
美術では、本阿弥光悦や俵屋宗達、尾形光琳などが活躍した。それらの作品は、町人の趣味が強く反映し、豊かな色彩と新しい構図の装飾的なものであった。また、京都では美しい染物の友禅が、瀬戸(愛知県).九谷(石川県).有田(佐賀県)などでは、日本的な優れた陶器がつくられるようになった。

24. Văn hóa thị dân

Thời Edo không có chiến tranh nên các ngành học vấn và nghệ thuật cũng nở rộ. Mạc Phủ bảo hộ nền học vấn của Trung Hoa như Nho học, và đặc biệt là Chu Tử học, lập ra trường học (gakumonjo) cho con em giới võ sĩ theo học. Chu Tử học coi trọng trật tự trên dưới trong quan hệ chủ tớ, cha con nên rất thích hợp với nền chính trị của Mạc Phủ. Tầng lớp thị dân cũng đã coi trọng chuyện "đọc, viết và làm tính". Nền giáo dục của bình dân ban đầu được tổ chức trong các tự viện nhưng sau này Mạc Phủ còn cho mở những cơ quan gọi là Terakoya ở các địa phương để làm nhiệm vụ này. Tầng lớp tăng lữ, tư tế Thần đạo và võ sĩ vô chủ (Rounin) được chiêu mộ để dạy trẻ nít trong những Terakoya này. Nền giáo dục Terakoya rất thịnh hành và kéo dài đến đầu thời Meiji.



Quang cảnh một Terakoya.


Dưới thời Tướng Quân đời thứ 5 là Tokugawa Tunayosi (niên hiệu Genroku), ở miền Kamigata (nghĩa là miền trên, tên gọi chung cho khu vực quanh Osaka, Kyoto) đã nảy sinh ra nền văn hóa thị dân mới (gọi là văn hóa Genroku). Về sinh họat thị dân trong thời Genroku có thể kể đến Ihara Saikaku, thị dân Osaka với những tác phẩm văn học để đời như "Koushoku itidai no otoko" (một đời đàn ông háo sắc) và "Seken mune zan-you" (những điều tính toán trong lòng thế gian, tác phẩm này được viết năm Genroku thứ 5 với bối cảnh là đêm giao thừa, qua đó miêu tả mọi hỷ nộ ai lạc của tầng lớp thị dân). Tiểu thuyết của Saikaku miêu tả chân thật về sinh hoạt hưởng lạc không dấu giếm của tầng lớp thị dân đương thời cũng như xã hội mà đồng tiền đã chi phối sinh hoạt của con người khi nền kinh tế tiền tệ phát triển, miêu tả vận mệnh con người bị đồng tiền thao túng.



Ảnh minh họa cho cuốn "Koushoku itidai no otoko", vẽ một người đàn ông trèo mái nhà nhìn phụ nữ tắm.

Còn có thi tăng Matuo Bashou đã đúc kết thành công thể thơ Haiku với 3 câu gồm 5,7,5 âm tiết mà điển hình là một bài của ông: "Furuikeya kawazu tobikomu mizu no oto" (tạm dịch: cái ao cũ, con ếch nhảy vào, tiếng nước vang. Bài thơ này nổi tiếng đến độ nó được dịch sang rất nhiều thứ tiếng và người ta xem nó là biểu tượng không thể thiếu khi nói về Bahsou). Haiku đương thời được gọi là thơ Haikai, chính là 3 câu đầu của thể thơ Renka (thơ dài) và độc lập với phần còn lại. Bashou lang thang khắp nơi trên nước Nhật và ghi chép lại hành trình của mình qua những vần thơ Haiku trong cuốn "Oku no hosomiti" (tạm dịch: con đường nhỏ lên miền Đông bắc. Cuốn sách này đã được giáo sư Hoàng thân Vĩnh Sính dịch sang tiếng Việt và đã xuất bản tại Việt Nam).
Bashou là người ưa thích lang bạt giang hồ và đã mất khi đang trên đường rong rủi, cuối đời ông để lại bài Haiku bất hủ "tabi ni yande, yumeha kareno wo kakemeguru" (tạm dịch: bệnh trên đường giang hồ, hồn còn mộng trên cánh đồng khô).

Về mỹ thuật thì có những người nổi tiếng như Hon-ami Kouetu (nghệ thuật gia, đa tài đa nghệ, tinh thông việc rèn đao kiếm, họa gia, thư đạo gia, trà nhân. Những người từng đọc tác phẩm Miyamoto Musasi của Yosikawa Eiji chắc không thể quên được nhân vật Kouetu này), Tawaraya Soutatu, Ogata Kourin (cả hai đều là họa gia). Tác phẩm nghệ thuật của họ phản ánh rõ rệt sở thích của thị dân, với màu sắc phong phú và thủ pháp mang tính trang trí. Ở Kyoto thì có thương hiệu nhuộm Yuzen (nổi tiếng đến ngày nay), ở Seto (tỉnh Aiti), Kutani (tỉnh Isikawa), Arita (tỉnh Saga) cũng sản xuất những loại đồ gốm ưu việt đậm chất Nhật Bản.



Chén trà của Hon-ami Kouetu.



25.歌舞伎

元禄時代に非常に盛んになったものに歌舞伎がある。歌舞伎は、1600年ごろ出雲(島根県)の阿国という女が神社で踊った踊りからはじまり、しだいに発達した。しかし、初期のころは程度がひくく、風俗上もあまりよくなかったので、幕府に禁止された。その後、男(俳優)だけで演じられる歌舞伎となり、しだいに内容も芸も向上し、名優が出るようになった。そのころ、歌舞伎と並んで、人形を操って芝居をさせる人形浄瑠璃も興行されていた。これら、歌舞伎や人形浄瑠璃では、心中事件とか、赤穂(兵庫県)の四十七人の浪人が主人の仇討ちをした話(忠臣蔵)などの社会で起こった事件を戯曲にし、上演した。そのような演目は、人々の興味をひき、話題となって、隆盛期をむかえる理由にもなった。この歌舞伎は、今日も、当時のものや新作をくわえて上演されている。人形浄瑠璃のほうは、その後50年ぐらいでしだいに衰えてしまったが、江戸時代後期に、大阪の植村文楽軒が文楽座で再び興行し、それが、現在は文楽という名で無形文化財としてうけつがれている。
元禄時代に、歌舞伎.人形浄瑠璃の脚本を書いた人が、日本最大の劇作家といわれる近松門左衛門である。近松は、武士を捨てて町人になった人で、当時の封建的な道徳(義理)に縛られた社会の中で、人間的な気持ち(人情)を大切にして苦しむ男女を同情的な目で見ながら、「曽根崎心中」や「心中天網島」などの傑作を書いた。

25. Kịch Kabuki

Trong số những thứ thịnh hành nhất thời Genroku có Kabuki. Kabuki bắt đầu từ những điệu múa của vu nữ (cô gái nhảy múa trong đền Thần đạo) tên là Okuni ở xứ Izumo (tỉnh Simane) khoảng năm 1600 rồi dần phát triển lên. Nhưng thời kỳ đầu nó không được phổ biến rộng rãi lắm và không hợp với phong tục nên bị Mạc Phủ cấm chỉ. Đến sau này chỉ có diễn viên nam (haiyu) được quyền diễn và phát triển thành Kabuki, dần dần cả nội dung và hình thức của nó được nâng cao và xuất hiện nhiều diễn viên nổi tiếng (đương thời, diễn viên Kabuki rất được ái mộ như diễn viên điện ảnh, ca sĩ ngày nay. Thời ấy người nổi tiếng có thể kể đến Itikawa Danjurou, Sibaraku).




Tượng Sibaraku, diễn viên Kabuki được ái mộ nhất thời bấy giờ.



Sibaraku, tác phẩm Origami của Houjou Takasi do Hiến Chương (Vietnam Origami Group) gấp từ một tờ giấy vuông không cắt dán.


Cùng với Kabuki, bấy giờ còn có loại kịch múa rối là Joururi (Tịnh Lưu Ly) là những thứ giải trí rất được ưa chuộng. Đề tài biểu diễn của kịch Kabuki và múa rối Joururi là những sự việc có thật xảy ra trong xã hội như chuyện 47 võ sĩ Rounin thành Akou (tỉnh Hyogo) báo thù cho chủ (câu chuyện này được gọi là Chusingura, nổi tiếng không chỉ ở Nhật và gây xúc động mạnh cho người đọc, người xem) hay những vụ Sinju (Sinju là những vụ trai gái yêu nhau rồi tự sát vì gia đình cấm cản,.... Đương thời có nhiều đôi trai gái rủ nhau lên đỉnh núi lửa, nhảy vào miệng núi để phản đối gia đình). Nội dung, âm nhạc của những buổi diễn này luôn thu hút người xem và trở thành đề tài đàm tiếu trong thời gian dài và đó là thời cực thịnh của nó.




Tranh Ukiyo-e vẽ cảnh 47 Rounin thành Akou tập kích vào dinh thự Kira để báo thù cho chủ trong một đêm đông. Đây là sự kiện gây chấn động xã hội Nhật lúc bấy giờ.

Về kịch Kabuki thì ngày nay người ta vẫn còn diễn những vở ngày trước và còn viết thêm nhiều vở mới, nhưng múa rối Joururi thì bắt đầu suy thoái 50 năm sau đó. Đến cuối thời Edo thì có nhà Uemura Bunrakuken đã chấn hưng lại nghệ thuật rối này và đó chính là nghệ thuật rối Bunraku, tài sản văn hóa phi vật thể ngày nay.



Con rối Bunraku.

Viết kịch bản cho Kabuki, múa rối Bunraku trong thời Genroku thì có Tikamatu Monzaemon, người được mệnh danh là kịch tác gia lớn nhất Nhật Bản. Tikamatu xuất thân từ giai cấp võ sĩ nhưng đã vứt bỏ giai cấp mình, trở thành thị dân, tỏ ra đồng tình với những cặp nam nữ khổ não với cái xã hội bị trói buộc trong đạo đức phong kiến (giri, nghĩa lý) trong khi bản thân họ đề cao tình cảm con người (ninjou, nhân tình). Vì thế ông đã viết ra những kiệt tác mô tả những vụ Sinju như "Sonezaki Sinjou", "Sinju Tenmou jima".


Re:Khái yếu lịch sử Nhật Bản

Đã gửi: Chủ nhật T1 04, 2009 5:36 pm
Viết bởi Kongou-Musha
26.三大改革

江戸時代が始まって100年ほどすぎた元禄のころから、幕府の財産が苦しくなった。幕府は、質の悪い貨幣をたびたびつくったので、経済が乱れた。物価が上がり、人々の生活が苦しくなった。なかでも、下級の武士は、領主からもらう金(俸禄)での生活が苦しくなり、商人から借金をしたり、武士の身分を売る者もあらわれた。18世紀の前半に八代将軍徳川吉宗は、幕府の財政をたてなおすために、いろいろな改革(享保の改革)をした。まず、新田を開拓して税としての年貢米の増収を計画し、武士には、ぜいたくをやめて倹約することが命令した。
経済がますます発達し、貨幣が農村でも使われるようになると、農民の間の貧富の差が大きくなった。農村を離れて都市へ出る貧しい農民が多くなった。また、冷害などで大飢きんが発生し、飢え死にする人がたくさん出て、農村は悲惨な状態になった。18世紀のおわりに、幕府は、ふたたび、政治の改革をしようと、武士に倹約を命じ、学問や武芸の訓練をすすめたり、武士が商人から借金を返さなくてもよいという命令を出したりして武士の生活を助けたが、改革(寛政の改革)は失敗した。

幕府は財産が苦しいため、農民の税をますます重くした。生活に困った農民は、年貢を軽くすることを藩主や役人に要求し、聞き入れられないときには、力で戦った(百姓一揆)。幕府はこれを厳しく禁止したが、18世紀の中期以後には一揆がたびたびおこった。貧しい町人も、江戸や大阪で米の買占めをして値段を高くする米屋や高利貸しの大商人をおそって、家を壊したり、火をつけたり、品物をうばったりした(打ちこわし)。もと役人であった大塩平八郎は、貧しい人々のために、大阪で反乱をおこした(大塩の乱1837)が、すぐに沈められた。この乱の後、幕府は政治をたてなおそうとして三度目の改革(天保の改革)をして、武士には、倹約を命じ、大商人には買占めなどをする組合(株仲間)を禁止したが、これも成功しなかった。

26. Ba cải cách lớn

Từ thời Genroku, chỉ 100 năm sau kể từ khi Mạc Phủ Edo hình thành thì bộ máy này đã gặp khó khăn trong vấn đề kinh tế. Mạc Phủ thường xuất tiền đồng chất lượng xấu nên kinh tế rối loạn, vật giá gia tăng, sinh hoạt của bá tính khốn đốn. Trong số đó có những võ sĩ cấp thấp nhận bổng lộc từ lãnh chúa không đủ sống nên phải vay mượn của thương nhân, cũng có người bán thân phận võ sĩ của mình vì khốn đốn tiền bạc. Đầu thế kỷ 18, Tướng Quân đời thứ 8 là Tokugawa Yosimune đã thực hiện nhiều cải cách (cải cánh năm Kyouhou) nhằm gây dựng lại tài chánh cho Mạc Phủ. Cải cách này gia tăng tô thuế (nengumai) đối với ruộng đất mới khai khẩn, ra lệnh cấp giai cấp võ sĩ ăn tiêu phung phí.
Khi kinh tế dần phát triển, tiền đồng được sử dụng ở nông thôn thì sự chênh lệch giàu nghèo giữa nông dân với nhau ngày càng lớn. Có nhiều nông dân không sống nổi mà phải bỏ nông thôn đổ về nơi đô thị. Lại có tình trạng lạnh kéo dài khiến nạn đói phát sinh, nông tác vật không thu hoạch được, rất nhiều người chết đói, tình trạng nông thôn trở nên thê thảm. Cuối thế kỷ 18, Mạc Phủ lần nữa thực hiện cải cảnh (cải cách năm Kansei), ra lệnh cho võ sĩ phải tiết kiệm, khuyến khích luyện tập võ nghệ, học vấn và còn ra lệnh rằng võ sĩ trước kia có vay mượn tiền của thương nhân thì nay không cần phải trả (!!!). Cải cách này cũng cải thiện được sinh hoạt của võ sĩ nhưng rồi cũng thất bại.



Cảnh dựng nhà.

Vì tài sản của Mạc Phủ ngày càng giảm nên đánh thuế nông dân ngày càng nặng. Giai cấp nông dân khốn đốn phải đến cầu xin chúa phiên giảm tô thuế, nếu không nghe thì họ dùng vũ lực kháng cự (Hyakushou ikki, loạn bách tính). Tuy Mạc Phủ đã nghiêm cấm nhưng từ giữa thế kỷ 18 trở đi thì những cuộc loạn (ikki) này vẫn lần lượt nổ ra. Tầng lớp thị dân nghèo cũng tấn công, đập phá, đốt nhà, cướp đồ đạc của những những đại phú thương ở Edo và Osaka đã thu mua hết lúa gạo (đầu cơ) và những người cho vay nặng lãi. Bấy giờ có Oshio Heihatirou vốn là quan lại nhưng cũng vì dân nghèo mà đứng lên gây phản loạn ở Osaka (loạn Osio, 1837) nhưng nhanh chóng bị đàn áp. Sau cuộc nổi loạn này, Mạc Phủ thực hiện cải cách lần thứ 3 (cải cách năm Tempou), lệnh cho võ sĩ phải cần kiệm, cấm những tổ hợp thương nhân thu mua độc chiếm. Nhưng rồi cải cách này cũng thất bại.



27.新しい学問

元禄時代に栄えた町人文化は、関西が中心であったが、18世紀の後半から、江戸を中心とする文化が盛んになった(化政文化)。この時代の庶民の読み物としては、十返舎一九の「東海道中膝栗毛」が、明るいユーモアに富む道中記として有名である。俳句では、与謝蕪村が「菜の花や月は東に 日は西に」のような絵画的な美しいくをつくり、小林一茶が日常の生活の中から「やせがえる負けるな一茶これにあり」のような素朴で温かい気持ちのあふれる句を作った。
絵画では、浮世絵が最も盛んになった。浮世絵というのは、歌舞伎や相撲、遊里などの世界(浮世)を描いた絵で、元禄時代に菱川師宣が絵を木版で刷ることをはじめ、だれにでも手に入れられるようにしたので、流行し始めた。18世紀なかばに出た鈴木春信は版画を極彩色で刷りだし、それを錦絵ともいった。鈴木春信や北川歌麿の美人が、東洲斎写楽の歌舞伎役者の絵は有名である。浮世絵は、江戸時代の終わりごろになると、画題が風景に移り、葛飾北斎の「富岳三十六景」や、安藤広重の「東海道五十三次」のような傑作も生まれた。
学問では儒学が盛んであったが、それに批判的な立場の国学や、洋学(西洋の学問)などの新しい学問も生まれた。国学は日本の古典を研究して日本本来の思想を求める学問で、国学者は「万葉集」や「古事記」を実証的な方法で研究した。国学者の中では、「古事記伝」という「古事記」の注釈書を書いた本居宣長が有名である。国学は、のちに天皇の直接の政治を復活しようという考えの尊皇思想や、外国の勢力を追い出そうという考えの攘夷思想を育て、幕末におこった尊皇攘夷運動の推進力となった。
西洋の学問や知識は、鎖国のあいだ幕府が貿易をゆるしたオランダから伝えられたので、蘭学として発達した。中でも進んだのが医学の研究で、前野良沢と杉田玄白とは、オランダの解剖学の本を翻訳し、「解体新書」として出版した。また、平賀源内が新しく学んだ学問を応用して日本ではじめて発電器(エレキテル)を製作し、伊能忠敬が西洋の技術を取り入れて日本全国の実測の地図をつくった。
洋学によって、西洋の様子がわかってくると、幕府の鎖国政策や攘夷の思想に反対し、日本の開国を主張する者が増えてきた。そして、そうした考え方が倒幕運動に結びついていった。

27. Nền học vấn mới

Nền văn hóa thị dân nở rộ trong thời Genroku ban đầu tập trung quanh vùng Kansai (Kyoto, Osaka) nhưng từ nửa sau thế kỷ 18 trở đi thì tập trung ở Edo (văn hóa Kasei). Trong số sách đọc của giới bình dân lúc bấy giờ, nổi tiếng thì có tác phẩm "Toukaidou Nakahiza kurige" của Jippen Shaikku (tên thật là Sadakazu), một tác phẩm ghi chép trên đường đi mang tính uy-mua trong sáng. Về thơ Haiku thì có những bài tuyệt đẹp như một bức tranh của Yosabuson như "Na no hanaya tuki ha higasi ni hi ha nisi ni" (tạm dịch: ôi hoa cải dầu, vầng trăng mọc đằng Đông, thái dương treo trời Tây) và những bài thơ giản khiết, mang đậm hơi ấm tình người trong sinh hoạt thường nhật của Kobayasi Issa như "Yasegaeru makeruna Issa kore ni ari" (tạm dịch: này chú ếch còm, gắng lên nhé, Issa đứng ngóng chú đây).



Tranh Ukiyo-e, bức quang cảnh buổi sáng ở cầu Nihonbasi, một trong loạt tác phẩm "Toukaidou gojutugi" của Hirosige.

Về hội họa thì có loại tranh Ukiyo-e (tranh "phù thế", tranh về cuộc đời phù phiếm) rất thịnh hành. Ukiyo-e là loại tranh vẽ thế giới của Kabuki, Sumou và thế giới làng chơi, ban đầu được họa sư Hisikawa Moronobu in bằng kỹ thuật mộc bản vào đầu thời Genroku, sau trở nên thịnh hành đến nổi ai cũng có thể mua được. Trong số đó có tranh mỹ nhân của Suzuki Harunobu và Kitagawa Utamaro, tranh vẽ diễn viên Kabuki củan Toushusai Sharaku rất nổi tiếng. Đến cuối thời Edo thì đề tài của tranh Ukiyo-e chuyển sang phong cảnh và sản sinh ra những kiệt tác như "Fugaku sanjurokkei" (Phú nhạc tam thập lục cảnh: tranh vẽ 36 cảnh núi Phú Sĩ từ những góc độ khác nhau) của Katusika Hokusai và tranh "Toukaidou gojutugi" (Đường Toukaidou 50 trạm dừng) của Andou Hirosige.



Bức sóng ngoài khơi Kanagawa, một trong loạt tranh "Fugaku sanjurokkei" của Hokusai.


Về học vấn thì Nho học thịnh hành nhưng đồng thời cũng xuất hiện những nền học vấn mới với lập trường phê phán Nho học là quốc học (Kokugaku) và Tây học (Yougaku). Quốc học là nền học vấn nghiên cứu các tác phẩm cổ điển của Nhật Bản, tìm kiếm tư tưởng bản lai vốn có của dân tộc mình. Các học giả quốc học nghiên cứu những tác phẩm như "Man-youshu" và "Kojiki" bằng phương pháp thực chứng. Trong số học có người nổi tiếng như Motoori Norinaga, người đã viết cuốn "Kojikiden" chú thích cho sách "Kojiki". Nền quốc học này đã nuôi dưỡng tư tưởng Tôn Hoàng (Sonnou) chủ trương khôi phục lại quyền lực chính trị của Thiên Hoàng, tư tưởng Nhương Di (Jou-i) chủ trương đuổi thế lực ngoại quốc ra khỏi nước Nhật và là động lực thúc đẩy phong trào Tôn Hoàng Nhương Di (Sonnou Jou-i) vào cuối thời Mạc Phủ.
Tây học là nền học vấn, tri thức của phương Tây được truyền theo người Hà Lan vào nước Nhật vì trong thời tỏa quốc chỉ có Hà Lan mới được phép mậu dịch với Nhật. Đương thời nó được gọi là Rangaku (Lan học). Trong số các học giả phái này có hai ông Maeno Ryoutaku và Sugita Gempaku nghiên cứu nền y học tiên tiến của phương Tây, biên dịch sách giải phẫu của Hòa Lan và xuất bản với cái tên "Kaitai sinsyo" ("Giải thể tân thư": sách mới về giải phẫu). Lại có nhà bác vật Hiraga Gennai ứng dụng tri thức khoa học phương Tây để chế ra máy phát điện đầu tiên ở Nhật, có ông Inou Tadataka áp dụng kỹ thuật của phương Tây để vẽ bản đồ Nhật Bản thông qua đo đạc thực tế.



Sugita Gempaku

Thông qua Tây học mà người ta biết được tình hình các nước phương Tây nên ngày càng có nhiều người phản đối chính sách tỏa cảng của Mạc Phủ và tư tưởng Nhương Di, chủ trương đòi Nhật Bản phải mở cửa. Những tư tưởng này là mối liên hệ trực tiếp với phong trào Đảo Mạc (Toubaku, đánh đổ Mạc Phủ) sau này.

28.開国

日本が鎖国をつづけているころ、欧米の国々は近代国家の組織をととのえた。18世紀の後半、イギリスは、産業革命を行い、世界に進出して海外の市場を手に入れ、アメリカも、アジアに進出することを考えていた。
18世紀の終わり、ロシアが日本との通商を要求したが、幕府は鎖国を続けた。その後、イギリスやアメリカの船が日本の近海に来て、水.食糧などを要求することがたびたびあり、幕府はますます用心深くなって、異国(外国)船打払令(1825)を出し、また、開国論者を罰した。19世紀の中ごろには、欧米の国々が日本の開国を強く要求し、1835年には、アメリカの使節.ペリーが軍艦4隻とともに浦賀(神奈川県)に来た。幕府や江戸の人々は大砲のある軍艦におどろき、それを黒船と呼んでおそれた。1854年、幕府はアメリカの強い要求を受け入れて、ついに神奈川(横浜市)で、日米和親条約を結んだ。この条約で、幕府は外国が下田(静岡県)と函館(北海道)の2つ港を使うことを認めた。

次いで1858(安政5)年、アメリカの総領事ハリスが下田に来て、アメリカとの通商を要求した。幕府は、朝廷や大名に相談したが、反対された。そこで、大老井伊直弼は、朝廷の許可を待たずに
日米修好通商条約を結んだ。この条約で、5つの港を貿易のために使うことをゆるしたが、このほかに不平等な内容が2つあった。一つは、輸入品について、日本が自由に関税を決める権利(関税自主権)が認められないこと、もう一つは、外国人が日本で罪をおかしても、日本の法律で裁判ができないこと(治外法権)であった。尊皇論者や攘夷論者は、伊井大老が朝廷の許可を待たずにこのような条約を結んだことを強く非難した。井伊大老はそれらの反対派を死刑にしたり、きびしく罰した(安政の大獄 1858~1859)ため、江戸城の桜田門の近くで反対派に暗殺された(桜田門外の変1860)

28. Khai quốc

Trong thời gian Nhật Bản duy trì chính sách bế quan tỏa cảng thì các nước Âu Mỹ đã hoàn thiện tổ chức quốc gia cận đại. Nửa sau thế kỷ 18, Anh quốc đã thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp, tiến ra Thế giới, tìm thị trường ở hải ngoại. Nước Mỹ cũng đã nghĩ đến chuyện tiến về châu Á.
Đến cuối thế kỷ 18, nước Nga yêu cầu thông thương với Nhật Bản nhưng Mạc Phủ vẫn tiếp tục duy trì chính sách tỏa quốc. Sau đó, thuyền Anh, Mỹ nhiều lần đến gần biển Nhật Bản, yêu cầu cung cấp nước ngọt và lương thực. Trước tình hình đó, Mạc Phủ càng tỏ ra thận trọng hơn, năm 1825 đưa ra lệnh đánh đuổi thuyền ngoại quốc và xử phạt những người theo phe khai quốc luận. Đến giữa thế kỷ 19, các nước Âu Mỹ đã mạnh mẽ yêu cầu Nhật phải mở cửa và đến năm 1835 thì có sứ tiết Matthew Calbrainth Perry chỉ huy 4 chiếc quân hạm xuất hiện ở Uraga (tỉnh Kanagawa). Mạc Phủ và mọi người ở Edo sợ hãi đội quân hạm trang bị đại pháo này nên gọi chúng bằng danh từ "kurofune" (thuyền đen, vì thân thuyền được sơn đen). Năm 1854, Mạc Phủ chấp nhận yêu cầu của Mỹ và ký điều ước hữu hảo Nhật-Mỹ tại Kanagawa (thành phố Yokohama). Điều ước này thừa nhận việc ngoại quốc được quyền sử dụng hai cảng ở Simoda (tỉnh Sizuoka) và Hakodate (Hokkaidou).




Cảnh thị dân Edo hiếu kỳ xem "thuyền đen".


Tiếp đó, năm 1858 (niên hiệu Ansei thứ 5), tổng lãnh sự Mỹ là Townsend Harris đến Simoda đòi Nhật phải thông thương với Mỹ. Mạc Phủ đã đàm phán chuyện này với Triều Đình và các Daimyou nhưng bị phản đối. Lúc đó có quan Đại Lão (Tairou- xem bài 20) Iinaosuke không đợi Triều Đình cho phép mà tự động ký điều ước Nhật-Mỹ tu hảo thông thương. Theo điều ước này thì Nhật cho phép Mỹ sử dụng 5 cảng với mục đích mậu dịch và ngoài ra còn có 2 nội dung bất bình đẳng khác. Đầu tiên là Nhật không được quyền quyết định thuế đối với hàng hóa nhập vào (quan thuế tự chủ quyền-kanzei jishuken), thứ hai là người ngoại quốc có phạm tội trên đất Nhật cũng không được xử bằng luật pháp Nhật (trị ngoại pháp quyền-tigai houken). Những người theo phái Tôn Hoàng và Nhương Di đã chỉ trích Đại Lão là không được Triều Đình cho phép đã ký điều ước như thế này.

Đại Lão Iinaosuke đã tử hình, phạt nặng những người thuộc phe chống đối này (sự kiện Ansei no taigoku, 1858~1859) và sau đó ông bị phe chống đối ám sát ở gần cổng Sakurada trong thành Edo (sự kiện Sakuradamongai, 1860).



Cổng Sakurada, nơi xảy ra vụ ám sát Đại Lão Iinaosuke.



29.幕末

開国によって貿易が始まると、生糸や茶などの輸出が急に多くなって国内の物資が不足し、物価が上がり、経済が混乱した。そのため、下級の武士や庶民の生活がいっそう苦しくなった。このような時、薩摩(鹿児島県)と長州(山口県)との下級武士の間に、尊皇論と攘夷論が結びついた尊皇攘夷の運動がはじめられた。
幕府は、朝廷と協力して政治をすること(公武合体)を考えたが、薩摩や長州などの尊皇攘夷派はますます自分たちの考えを強めていった。そして、ついに、薩摩藩は、イギリスの艦隊と戦い(薩英戦争 1863)、長州藩はイギリス、フランス、アメリカ、オランダの4国の連合艦隊と戦った(下関事件 1864)。しかし、この戦いで、薩摩藩も長州藩も諸外国の力を知り、攘夷の不可能なことを認めた。そこで、両藩の若い武士は、幕府を倒し、天皇中心の新しい政治を行おうと考えて、尊王倒幕運動を進めた。薩摩藩の西郷隆盛、大久保利通らは、土佐(高知県)の坂本竜馬のなかだちで長州藩の木戸孝允らと新しい政府をつくるために両藩が手を結ぶこと(薩長同盟 1866)をひそかに約束した。そして、イギリスに近づき、西洋式の軍備をととのえた。他方、幕府もフランスの援助を受けて軍艦や武器を買って軍備を整え、二度にわったて長州藩を攻めたが、これは失敗した(長州征伐)。これを見た西郷、大久保、木戸らは、公家の岩倉具視らとともに、武力で幕府を倒す計画を進めた。

このころ、政治や経済の混乱から、江戸や大阪で大規模な打ちこわしがおこり、百姓一揆も全国におこった。また、社会の不安から救われたいと願って、伊勢神宮にお参りすることが流行したり、伊勢神宮のお札が降ったといって、「ええじゃないか」と熱狂的に踊り歩く騒ぎも全国に広がった。

このような中で、一五代将軍徳川慶喜は、危機をさけるために、1867年、政権を天皇に返上することを申し出た(大政奉還)。朝廷はこれを受け入れ、天皇の政治が復活したことを宣言した(王政復古)。しかし、新政府が、徳川慶喜に官位を与えず、領地を朝廷に納めることを決定したので、幕府側の武士がそれを不満として、京都で戦いをはじめた(鳥羽.伏見の戦い 1868)。新政府軍は、鳥羽.伏見で勝ち、将軍慶喜を討つために江戸に向かった。そのとき、幕府側の勝海舟と薩長側の西郷隆盛が会談し、幕府は新政府軍に江戸城を明け渡し、かわりに、徳川家を存続させる事を決めた。こうして、江戸の町は戦場とならずにすみ、約260年間続いた江戸幕府の政治がおわった。


29. Bakumatu

(Bakumatu: âm Hán Việt là Mạc mạt, cuối thời đại Mạc Phủ)

Khi bắt đầu mậu dịch sau khi khai quốc thì nước Nhật đột nhiên xuất khẩu nhiều sản vật như tơ lụa và trà nên phát sinh thiếu thốn vật tư trong nước, vật giá lên cao, kinh tế hỗn loạn. Vì vậy nên đời sống của võ sĩ cấp thấp và bình dân càng thêm khốn khó. Trong tình hình này, các võ sĩ cấp thấp của hai phiên Satuma (ngày nay là tỉnh Kagosima) và phiên Choushu (tỉnh Yamaguti) bắt tay với phe Tôn Hoàng và phe Nhương Di để hình thành phong trào Tôn Hoàng Nhương Di (Sonnou-Joui).
Mạc Phủ cũng đã nghĩ đến chuyện hợp lực với Triều Đình mà thi hành chính trị (Koubugattai, công-võ hợp thể. Công tức công hầu, quý tộc; võ tức võ gia, chính quyền Mạc Phủ) nhưng phe Tôn Hoàng Nhương Di của Satuma và Choushu càng lúc càng nhấn mạnh chủ trương của mình. Cuối cùng, phiên Satuma đã đánh nhau với hạm đội Anh quốc (chiến tranh Satuma-Anh năm 1863) và phiên Choushu đánh nhau với hạm đội liên hợp 4 nước Anh, Pháp, Mỹ và Hòa Lan (sự kiện Simonoseki năm 1864). Nhưng qua trận chiến này, cả Satuma và Choushu đều biết được thực lực của ngoại bang và thấy rằng chủ trương Nhương Di, đánh đuổi ngoại quốc là điều bất khả. Thế rồi các võ sĩ trẻ của hai phiên này nghĩ đến việc đánh đổ Mạc Phủ, thi hành nền chính trị lấy Thiên Hoàng làm trung tâm nên đã thúc đẩy phong trào Tôn Hoàng Đảo Mạc (Sonnou Toubaku). Bấy giờ có Saigou Takamori và Okubo Tosimiti của phiên Satuma, Sakamoto Ryouma người phiên Tosa (tỉnh Kouti ngày nay) đứng ra làm trung gian bí mật ước hẹn với Kido Takayosi người phiên Choushu, hẹn hai xứ này sẽ bắt tay với nhau để gây dựng chính phủ mới (liên minh Satu-Chou năm 1866). Hai phiên này tiếp cận Anh quốc để hoàn bị quân sự theo lối Tây phương. Trong khi đó thì Mạc Phủ cũng nhận viện trợ của Pháp, mua quân hạm và vũ khí, chỉnh đốn quân bị và đã hai lần tấn công phiên Choushu (Choushu seibatu, chinh phạt Choushu) nhưng đều thất bại.



Tượng Saigou Takamori.



Sakamoto Ryouma, được quốc dân Nhật xem là anh hùng trong số các anh hùng. Ryouma trở nên bất tử trong lòng dân chúng qua trường thiên tiểu thuyết "Ryouma ga yuku" của văn hào Siba Ryou Tarou.


Trong bối cảnh nền kinh tế, chính trị hỗn loạn đó thì tại Edo và Osaka đã xảy ra những vụ đập phá với quy mô lớn, những cuộc nổi loạn của dân chung (Hyakushou ikki) cũng xảy ra trên toàn quốc. Lúc bấy giờ phong trào đến viếng đề thờ Ise để cầu được thoát khỏi tình trạng xã hội bất an rất thịnh hành. Đại chúng đến viếng đền, bảo là con xăm của đền đã được hạ xuống rồi nhảy múa cuồng nhiệt, hát hò điên cuồng trên đường. (Phong trào này có tên "eijanaika", chẳng phải được đấy sao? Đại chúng đến viếng đền thờ, xin xăm rồi hát hò huyên náo. Phong trào này bắt đầu ở vùng Kinki rồi sau lan rộng khắp toàn quốc)



Quang cảnh "Eijanaika".

Trước tình hình này, để tránh nguy cơ, Tướng Quân đời thứ 15 là Tokugawa Yosinobu đã tuyên bố trao trả quyền lực chính trị lại cho Thiên Hoàng (Taisei houkan, 1867). Triều Đình nhận quyền lực, tuyên bố phục hồi nền chính trị lấy Thiên Hoàng làm trung tâm (Ousei fukko). Nhưng chính phủ mới đã không ban quan tước cho Tokugawa Yosinobu, tịch thu hết lãnh địa nên các võ sĩ phe Mạc Phủ bất mãn, đứng lên chống chính quyền ở Kyoto (trận đánh Toba, Fusimi năm 1868). Sau khi chiến thắng trận Toba, Fusimi quân chính phủ mới quay về Edo để thảo phạt Tướng Quân Yosinobu. Lúc này có đại thần của Mạc Phủ là Katu Kaishu đã hội đàm với Saigou Takamori của liên minh Satu-Chou và quyết định Mạc Phủ sẽ trao thành Edo cho chính phủ mới, bù lại họ Tokugawa được tiếp tục tồn tại. Vì thế nên thành phố Edo đã tránh được bãi chiến trường đẫm máu và chấm dứt 260 năm của nền chính trị Mạc Phủ Edo.



Re:Khái yếu lịch sử Nhật Bản

Đã gửi: Sáu T2 27, 2009 12:59 pm
Viết bởi vanbach21289
bác Kongou-Musha có thể up file gốc của tập tài liệu này lên mạng được không, tại em muốn tải về để in ra đọc. Cảm ơn bác trước.

Re:Khái yếu lịch sử Nhật Bản

Đã gửi: Bảy T2 28, 2009 1:31 am
Viết bởi nguyenhoangtue
Cams own Em Kongou-Musha nhieu! mottj mons quaf bo ich !


Re:Khái yếu lịch sử Nhật Bản

Đã gửi: Bảy T2 28, 2009 10:40 pm
Viết bởi Kongou-Musha
Cám ơn mọi người đã quan tâm. Lâu nay bận rộn tí chút công việc nên chưa thể tiếp tục được.

@vanbach21289: file gốc của tài liệu này chính là đoạn text tiếng Nhật mình post phía trên đoạn text tiếng Việt đó bạn. Cái này type lại từ quyển Nihon no rekisi.