Bạn đang xem trang 1 / 1 trang

Thành công của nền giáo dục Mỹ

Đã gửi: Chủ nhật T11 09, 2003 4:35 am
Viết bởi forward

So với thế giới, Mỹ là một nước trẻ. Nhưng hiện nay đất nước này lại đang dẫn đầu thế giới về nhiều mặt. Trong đó có giáo dục. Vì sao sinh viên quốc tế luôn ước mơ được đến Mỹ học. Bí quyết thành công của họ là gì?

Trong suốt hơn hai thế kỷ qua, các trường Đại học và Cao đẳng đã trở thành nền tảng cho sự phát triển của Mỹ. Các trường này đã đào tạo ra một lực lượng lao động về kỹ thuật, quản lý, và giáo dục dồi dào và đào tạo các nguyên thủ quốc gia từ thế hệ này đến thế hệ khác. Khả năng vượt trội trong lĩnh vực nghiên cứu đã đưa nước Mỹ vươn tới đỉnh cao về  khoa học, uyên thâm về khoa học xã hội và nhân văn. Nếu không có hệ thống các trường đại học, thì Mỹ sẽ không bao giờ được dẫn đầu như hiện nay.

Sự đa dạng hoá, phi tập trung hoá, sự tư do và sự phân quyền trong quản lý phát triển trong suốt hơn hai thế kỷ qua đã làm cho hệ thống giáo dục sau phổ thông của Mỹ trở thành một trong những hệ thống dân chủ và dễ tiếp cận nhất (với 4,2000 trường đại học và với 200 tỷ đô la ngân sách mỗi năm).

Ngày nay các nhà giáo dục đều hướng về Mỹ để học cao học. Họ dường như tìm được rất nhiều lý do để chứng minh cho sự vượt trội của các trường đại học Mỹ, trong đó bao gồm cả truyền thống hào hiệp của người Mỹ. Nhưng sau đây là 4 nguyên nhân chính nhất dẫn đến sự thành công của họ.

1. Giáo dục – giành cho tất cả mọi người

Năm 1862 Quốc hội Mỹ đã thi hành bộ luật Morril, tài trợ cho các trường Đại học. Bộ luật này đã mở rộng cánh cửa học đại học cho tất cả người dân Mỹ, bao gồm cả những người không được bỏ phiếu như phụ nữ và nhóm người thiểu số. Mỗi bang được phép bán một số đất và sử dụng số tiền thu được để trao cho ít nhất một trường công lập.

Khi bánh xe của cuộc Cách mạng Công nghiệp bắt đầu quay, thì bộ luật này đã giúp cung cấp các đề tài nghiên cứu và lực lượng lao động trình độ cao rất cần lúc bấy giờ.  Sau khi thành lập, các trường đại học và cao đẳng được tài trợ này đã cấp hơn 20 triệu tấm bằng. Mỗi năm họ cấp 500.000 tấm bằng trong đó 1/3 là bằng cử nhân và bằng thạc sỹ, và 60% là bằng tiến sỹ.

2. Cạnh tranh và thành công

Trải qua nhiều năm, tính đa dạng và phi tập trung hoá của các trường Đại học và Cao đẳng Mỹ đã kích thích sự cạnh tranh giữa sinh viên với nhau. Áp lực cạnh tranh bắt đầu trong suốt Cuộc nội chiến khi Tổng thống Lincoln xây dựng Viện hàn lâm Khoa học Quốc gia. Sự ảnh hưởng của Viện Hàn lâm thực sự lớn mạnh sau thế chiến thứ II khi tổng thống Franklin D. Roosevelt đưa ra một bản báo cáo có tính chất bước ngoặt rằng:

Chính chính phủ liên bang phải có trách nhiệm tài trợ đủ tiền cho những nghiên cứu cơ bản và rằng dĩ nhiên, các trường đại học trong nước là phù hợp nhất. Đây hoá ra là một chính sách sáng suốt. Thay vì tập trung đầu tư vào các phòng thí nghiệm của chính phủ như một số nước trên thế giới, các nghiên cứu khoa học lại đuợc phân bố tới các trường đại học và đã kích thích đầu tư rất lớn. Nó cũng tạo cơ hội nghiên cứu cho sinh viên, giúp mở rộng khám phá khoa học trên nhiều lĩnh vực: công nghiệp, y tế, và trên hết là xã hội.

3. Đầu tư cho tương lai

Cuối cuộc chiến tranh Thế giới lần II, nước Mỹ thông qua bộ luật công chức sửa đổi, được gọi là bộ luật GI. Bộ luật này, hỗ trợ những thương binh chiến tranh học Cao đẳng hoặc Đại học. Luật này đã làm cho hệ thống giáo dục Đại học của Mỹ có thể tiếp cận theo cách mà không một nước nào ở Châu Âu có thể có. Cánh cửa của những trường Đại học tốt nhất rộng mở cho những ai chưa từng mơ đến việc đi học đại học. Trong vòng 50 năm, bộ luật này đã thu hút được 60 tỷ đô la tiền đầu tư của công chúng cho giáo dục và đào tạo khoảng18 triệu thương binh, trong đó có 8,5 triệu học Cao học.

4. Thúc đẩy sự đa dạng

Sự thành lập Quỹ cho vay Liên bang, các chương trình trợ cấp, cũng như quỹ học bổng toàn phần đã mang đến sự đa dạng rất cần thiết cho giáo dục Đại học và nó đã dân chủ hóa sự tiếp cận của sinh viên. Từ khi hình thành, Chương trình cho các gia đình  vay của Liên bang đã hỗ trợ hơn 74 triệu sinh viên với tổng số tiền là hơn $180 tỷ. Và từ khi Chương trình học bổng Pell được thành lập, hơn 100 tỷ đô la đã được trao cho khoảng 30 triệu sinh viên.

Bốn nhân tố trên, cùng với lòng hào hiệp sẵn có trong mỗi cá nhân Mỹ đã làm cho giáo dục Đại học của Mỹ trở nên tốt nhất và dân chủ nhất thế giới. Lượng học sinh vào Đại học tăng từ 4% dân số ở độ tuổi học đại học năm 1900 lên đến 65% cuối thế kỷ 20. Và khi người Mỹ tiến vào thế kỷ 21, không phải nói ngoa rằng nước Mỹ đã tạo điều kiện cho dân Mỹ học Đại học với một tỷ lệ chưa từng có trong lịch sử thế giới.

Theo Newsweek