Bạn đang xem trang 1 / 2 trang

Cùng nhau đọc truyện : Rừng Na-uy

Đã gửi: Ba T10 24, 2006 6:25 pm
Viết bởi Ansamurai
Mình vừa bỏ nguyên hai ngày để đọc và vừa đọc xong dòng cuối cùng của truyện . Quả thực đã lâu lắm rồi mình mới đọc một truyện tiểu thuyết nào có thể lôi cuốn mình đến như vậy .Mình cũng chưa có thể nói lên cảm nghĩ của mình về truyện như thế nào ngay bây giờ nhưng chắc là nó sẽ làm tôi phải suy nghĩ nhiều và mình cũng sẽ đọc nó vài lần nữa .  

Nhưng điều mình suy nghĩ đến ngay lúc này là muốn cho ai đó cùng đọc truyện này .  Gửi các bạn
Rừng Na-uy  của Murakami Hikaru .  Bản dịch của Trịnh Lữ
Copy từ http://dactrung.net/truyen/noidung.aspx?BaiID=sNi9QwAb5DGMMwu3025GIQ%3d%3d


Rừng Na-Uy
Chương 1

Dịch giả: Trinh Lữ


Lúc ấy tôi đã ba mươi bảy tuổi, đang ngồi thắt chặt dây an toàn khi chiếc 747 kềnh càng nhào xuống qua tầng mây dày dặc về phía sân bay Hamburg. Những trận mưa tháng Mười một lạnh lẽo thấm đâm mặt đất, khiến mọi vật ảm đạm như trong một bức tranh phong cảnh Hà Lan ngày xưa: đám nhân viên mặt đất trùm áo mưa, mẳnh cờ u rũ trên nóc một toà nhà vuông vức trong sân bay, một tấm biển quảng cáo xe BMW. Chao ôi, lại nước Đức đây rồi.

Khi máy bay đang lăn bánh trên mặt đất, tiếng nhạc nhè nhẹ bắt đầu trôi ra từ hệ thống loa trên trần: một bản hoà tấu không lời ca khúc "Rừng Na-uy" của nhóm Beatles. Giai điệu ấy bao giờ cũng khiến toàn thân tôi run rẩy, nhưng lần này, nó làm tôi choáng váng hơn bao giờ hết.

Tôi cúi xuống, hai tay ôm mặt, cố giữ cho đầu mình khỏi nứt ra. Chẳng mấy chốc một chiêu đãi viên người Đức đến hỏi bằng tiếng Anh xem tôi có sao không.

"Không sao," tôi nói, "tôi chỉ hơi chóng mặt."

"Ông chắc vậy không?"

"Vâng, chỉ vậy thôi. Cám ơn cô."

Cô ta mỉm cười bỏ đi, và âm nhạc chuyển sang một điệu hát của Billy Joel. Tôi ngồi thẳng lên và nhìn qua cửa sổ về phía những đám mây đen đang lơ lửng trên Biển Bắc, nghĩ đến những mất mát trong cuộc đời mình: những thời đã qua không bao giờ trở lại, những bạn bè đã chết hoặc biệt vô âm tín, những cảm xúc mãi mãi không còn nữa.

Máy bay đã đến cửa lên xuống. Người ta bắt đầu tháo dây an toàn và kéo hành lý xuống từ khoang trên ghế ngồi, trong khi đó tôi chỉ thấy mình ngoài đồng cỏ. Tôi ngửi thấy cả mùi cỏ, cảm thấy gió mơn man trên mặt, nghe thấy tiếng chim kêu. Mùa thu 1969, lúc ấy tôi sắp hai mươi.

Cô chiêu đãi viên trở lại. Lần này thì cô ngồi xuống cạnh tôi và hỏi xem tôi có ổn cả không.

"Tôi không sao, cám ơn cô, "tôi nói và mỉm cười. "Chỉ thấy hơi bâng khuâng vậy thôi."

"Tôi hiểu chuyện đó," cô nói. "Tôi cũng thế, lâu lâu lại bị một lần."

Cô đứng lên và mỉm cười với tôi, vẻ thật đáng yêu.

"Vậy nhé, xin chúc ông một chuyến đi tốt đẹp. Auf Wiedersehen"

"Auf Wiederseben." (Tạm biệt - tiếng Đức)

Mười tám năm đã trôi qua, nhưng tôi vẫn có thể nhớ lại từng chi tiết của ngày hôm đó trên đồng cỏ. Được tắm rửa sạch sẽ bởi những ngày mưa nhẹ nhàng mùa hạ, những rặng núi xanh thăm như rõ ràng hăn lên. Làn gió nhẹ tháng Mười thổi đung đưa những ngọn cỏ trắng cao lút đầu người. Một dải mây dài lửng lơ vắt ngang vòm trời xanh im phăng phắc. Chỉ nhìn bầu trời thăm thăm ấy thôi cũng đã thấy nao núng cả cõi lòng. Một cơn gió ào qua đồng cỏ, qua mái tóc nàng, rồi lẻn vào rừng khiến cây lá xào xạc và gửi lại những âm dội ngắn của tiếng chó sủa ở rất xa - một âm thanh lung linh mờ ảo có vẻ đã vọng đến chúng tôi từ ngưỡng cửa của một thế giới khác. Chúng tôi không gặp ai. Chỉ thấy hai con chim màu đỏ giật mình nhảy lên từ giữa đồng có và bay vụt vào rừng. Trong khi chúng tôi lững thững bên nhau, Naoko nói với tôi về những cái giếng.

Ký ức thật ngộ. Khi còn ở trong cảnh thực thì tôi chẳng đề ý gì đến nó. Không bao giờ tôi nghĩ đến nó như một cái gì đó sẽ để lại một ấn tượng lâu dài, và chắc chắn là không thể tưởng tượng rằng mười tám năm sau tôi sẽ nhớ lại nó đến từng chi tiết. Ngày hôm đó tôi không quan tâm gì đến cảnh vật xung quanh. Tôi còn nghĩ đến bản thân mình, đến cô gái đẹp đang sánh bước với mình. Tôi đang nghĩ đến chuyện hai đứa với nhau, rồi lại đến bản thân mình. Tôi vẫn còn ở cái tuổi, ở cái đoạn của cuộc đời khi mọi cảnh trí, mọi cảm xúc, mọi ý nghĩ đều chỉ quay về chính bản thân mình như một chiếc boomerang.

Và tệ hơn nữa, tôi đang yêu. Mối tình đầy khúc mắc. Đầu óc tôi không thể để ý đến cảnh vật xung quanh được.

Ấy vậy mà giờ đây cái đầu tiên trở lại với tôi lại là cảnh trí đồng cỏ ngày hôm đó. Mùi cỏ, cảm giác hơi giá lạnh của ngọn gió, đường viền của những dải đồi, tiếng sủa của một con chó: đó là những thứ đầu tiên, và chúng hiện ra cực kì rõ ràng, tưởng như tôi có thể giơ tay ra và vuốt ve chúng. Thế nhưng, cho dù cảnh trí có rõ ràng đến mấy, vẫn không có ai trong đó cả. Không ai hết. Naoko không có ở đó, và cả tôi cũng vậy. Chúng tôi có thể biến đi đâu được chứ? Làm sao chuyện đó có thể xảy ra được?

Tất cả những gì ngày đó còn có vẻ quan trọng - Naoko, cái bản ngã tôi có lúc bấy giờ, và cái thế giới tôi có lúc ấy: chúng có thế biến đi đâu được chứ? Thật sự là ngay cả gương mặt nàng tôi cũng không thể nhớ lại được - không ngay lập tức, ít nhất là thế. Tôi chỉ còn nắm giữ được một cái phông, đơn thuần cảnh trí, không có một người nào ở cận cảnh hết.





Re:Cùng nhau đọc truyện : Rừng Na-uy

Đã gửi: Ba T10 24, 2006 6:27 pm
Viết bởi Ansamurai
Rừng Na-Uy
Chương 2

Dịch giả: Trinh Lữ

Đã có một thời, nhiều năm trước đây - đúng ra là hai mươi năm trước đây - tôi đã sống trong một khu học xá. Tôi mười tám tuổi và là sinh viên năm thứ nhất. Tôi mới đến Tokyo và chưa sống một mình bao giờ nên cha mẹ tôi rất lo, và họ thu xếp cho tôi ở trong một khu học xá tư nhân chứ không thuê một căn phòng riêng cho tôi như hầu hết các sinh viên khác. Khu học xá phục vụ cả ăn uống và nhiều tiện nghi khác nên có thể sẽ giúp đứa con mười tám tuổi đầu còn lớ ngớ của họ sống sót được. Và còn cả chuyện chi phí nữa. Ở khu học xá rẻ hơn nhiều so với thuê phòng riêng. Chỉ cần chăn chiếu và một cái đèn thôi là đủ, không phải mua thêm đồ đạc gì nhiều. Riêng tôi vẫn muốn thuê một căn hộ và sống thoải mái một mình, nhưng biết rằng cha mẹ còn phải trả tiền học và các thứ lệ phí khác cho cái trường đại học tư mà mình đã đỗ vào, nên tôi không dám đòi hỏi gì thêm. Ngoài ra, thực tình tôi cũng chẳng mấy quan tâm đến nơi ăn chốn ở của mình.

Nằm trên một quả đồi ở trung tâm thành phố với tầm nhìn rộng rãi, khu học xá có một khuôn viên vuông vức và có tường bê-tông bao quanh. Một cái cây zelkova (Một loài cây thay lá, lá dài mép răng cưa và hoa nhỏ màu xanh, thuỷ tổ ở Trung Quốc, Nhật Bản và vùng núi Caucasus ở Nga - ND) khổng lồ cao vút mọc ngay ở sau chỗ cổng trước. Người ta nói nó đã một trăm năm mươi tuổi là ít. Đứng dưới gốc mà nhìn lên thì những tán lá xanh dày đặc của nó che kín hết cả trời.

Lối đi lát gạch từ cổng vào chạy vòng quanh cái cây ấy rồi tiếp tục thẳng tuột qua giữa khu đất vuông của khu học xá. Hai dãy nhà ba tầng bằng bê-tông nằm đối diện nhau qua lối đi ấy. Chúng to lừng lững với rất nhiều cửa sổ và làm người ta có ấn tượng như chúng là những toà chung cư được cải tạo thành nhà tù hoặc là nhà tù cải tạo thành khu chung cư. Tuy nhiên chúng không có vẻ gì là bẩn thỉu, mà cũng không gây cảm giác tăm tối. Có thể nghe thấy tiếng radio vọng ra từ những cửa sổ để mở, và tất cả cửa sổ đều mắc một loại rèm màu kem mà nắng không thể làm bạc thêm được nữa.

Qua khỏi hai dãy nhà đó, lối đi dẫn đến một toà nhà sinh hoạt chung có hai tầng, tầng dưới là nhà ăn và khu nhà tắm, tầng trên có một giảng đường, các phòng họp, và bảy phòng dành cho khách mà tôi không bao giờ biết họ là ai. Bên cạnh toà nhà sinh hoạt chung ấy lại là một khu nhà ở nữa, cũng ba tầng. Khắp khuôn viên vuông vức ấy phủ đầy những sân cỏ rộng rãi, và nước phun từ các vòi tưới xoay tròn lấp loá dưới nắng trờỉ. Phía sau toà nhà sinh hoạt chung là một sân có dùng để chơi bóng chày và bóng bầu dục, và sáu sân bóng quần. Khu học xá có đủ thứ ta có thể cần đến.

Nó chỉ có mỗi một vấn đề: mùi vị chính trị của chính nó. Khu học xá được đặt dưới quyền của một kiểu tổ chức mờ ám xoay quanh một nhân vật cực hữu, và đối với tôi thì có một cái gì đó rất xiên xẹo trong cách họ điều hành cơ sở này. Có thể thấy điều đó trong cuốn sách nhỏ họ phát cho sinh viên mới đến và trong cả nội quy của khu học xá. Họ tuyên bố rằng khu học xá được thành lập theo "tinh thần chủ đạo" là "nỗ lực bồi dưỡng nguồn nhân lực quốc dân thông qua chất lượng tối cao của những cơ sở giáo dục", và nhiều đại gia tài chính ủng hộ

"tinh thần" này đã đóng góp tiền riêng của họ vào việc xây dựng nó. Đó là bộ mặt công khai của dự án, mặc dù bên dưới đó là gì thì còn cực kỳ mơ hồ. Có người nói đây là một kiểu công trình trốn thuế, có người lại coi đây là một màn trình diễn lấy danh tiếng của những nhân vật góp vốn, lại cũng có người nói rằng việc xây khu học xá chỉ là để che đậy hành vi chiếm đoạt một miếng gan miếng tiết của bất động sản công cộng. Nhưng có một chuyện chắc chắn là có thật: trong kí túc xá có một câu lạc bộ đặc tuyển gồm toàn những sinh viên thượng lưu từ nhiều trường đại học khác nhau. Họ lập ra nhưng "nhóm học tập" họp nhau nhiều lần một tháng với sự tham gia của cả nhiều sáng lập viên. Thành viên nào của câu lạc bộ này cũng chắc chắn sẽ có công ăn việc làm ngon lành sau khi tốt nghiệp. Tôi cũng chẳng biết trong những lý thuyết này, nếu có thể gọi thế, có cái nào đúng không, nhưng tất cả chúng đều có chung một giả định rằng có gì đó mờ ám về cơ sở này.

Dù sao, tôi cũng đã có hai năm - từ mùa xuân 1968 đến mùa xuân 1970 - sống trong cái khu học xá "mờ ám" ấy. Cũng không thể giải thích được tại sao tôi lại chịu đựng được nó lâu đến thế. Về mặt sinh hoạt hàng ngày thì dù nó có là hữu khuynh hay tả khuynh hoặc gì gì đi nữa thì cũng chẳng khác gì đối với tôi.

Ngày nào cũng khởi đầu bằng một lễ kéo cờ trịnh trọng. Họ chơi cả nhạc quốc thiều, tất nhiên rồi. Hai việc ấy không thể thiếu nhau được. Cột cờ trồng ở chính giữa khu học xá, có thể nhìn thấy từ cửa sổ của cả ba khu nhà ở.

Trưởng khu nhà ở phía đông (nơi tôi kí túc) là người phụ trách lá cờ. Ông ta cao lớn, mắt diều hâu, tuổi trạc già năm mươi non sáu mươi. Mớ tóc xù của ông đã điểm bạc, và cái cổ rám nắng của ông có một vết sẹo dài. Người ta kháo nhau rằng ông đã tốt nghiệp trường huấn luyện tình báo Nakano từ thời chiến tranh, nhưng không ai biết chắc cả. Đứng cạnh ông là một sinh viên trợ lí. Cả anh chàng này cũng không ai biết rố lai lịch. Anh ta có mái đầu húi cua ngắn nhất thế giới và lúc nào cũng mặc đồng phục sinh viên màu xanh thuỷ quân. Tôi không biết tên anh ta, cũng chẳng biết anh ta ở phòng nào, không bao giờ gặp anh ta trong nhà ăn hoặc nhà tắm. Thậm chí tôi không chắc anh ta có phải là sinh viên hay không nữa, mặc dù ai cũng nghĩ anh ta phải là sinh viên, vì cái bộ đồng phục ấy, vốn đã nhanh chóng trở thành biệt hiệu của anh ta. Trái ngược với Ngài Nakano, "Đồng phục" lùn tè, phục phịch, mặt mũi nhợt nhạt. Hai con người làm thành một cặp trông ghê ghê ấy ngày nào cũng kéo lá cờ Mặt trời mọc lên vào lúc sáu giờ sáng.

Khi tôi mới vào khu học xá, cái mới lạ của sự kiện đó thường khiến tôi dậy sớm để kịp chứng kiến nghi thức ái quốc này. Hai người sẽ xuất hiện dưới sân hầu như đúng vào lúc đài phát thanh phát đi tín hiệu sáu giờ.

"Đồng phục" mặc đồng phục, tất nhiên rồi, với giày da đen, còn Nakano thì xách theo bên mình một máy ghi âm hiệu Sony. Ông đặt cái máy xuống cạnh chân cột cờ trong khi "Đồng phục" mở một cái hộp để lộ lá cờ được gấp gọn gàng ở bên trong. Anh ta kính cẩn dâng lá cờ cho Nakano. Ông này mắc nó vào dây trên cột cờ, để lộ hình tròn đỏ chói của Mặt trời mọc trên nền trắng tinh khiết.

Sau đó, "Đồng phục" bấm nút cho chạy nhạc quốc thiều.

"Cầu cho Chúa tể chúng ta sẽ ngự trị…"

Và lá cờ sẽ leo lên.

"Cho đến khi sổi cuội thành đá tảng…"

Nó sẽ lên đến nửa cột.

"Và được rêu xanh bao phủ…"

Bây giờ thì nó đã ở trên ngọn cột. Hai người ấy đứng nghiêm, im phăng phắc, ngẩng nhìn lá cờ lúc ấy đã là cả một hình ảnh kì vỹ trong những ngày đẹp trời lộng gió.

Lễ hạ cờ được cử hành lúc chiều tối với cùng một vẻ trang nghiêm như thế, nhưng theo trình tự ngược lại. Lá cở sẽ trèo xuống và tìm về chỗ của nó trong chiếc hộp.

Quốc kỳ không tung bay trong đêm tối.

Tôi không biết tại sao lá cờ phải được hạ xuống vào ban đêm. Quốc dân vẫn tiếp tục tồn tại qua đêm tối, và biết bao nhiêu người vẫn làm việc suốt đêm - thợ xây dựng đường sắt và những người lái taxi, rồi chủ các quán bar, lính cứu hoả, người gác đêm. Tôi thấy có vẻ thật bất công khi những người này bị tước mất quyền được lá cờ bảo vệ. Hoặc giả chuyện này cũng chẳng hệ trọng đến thế mà cũng chẳng có ai quan tâm - trừ tôi. Cũng chẳng phải là tôi thực sự quan tâm. Chỉ vì nó tình cờ đi qua tâm trí tôi thế thôi.

Nội quy bắt buộc sinh viên năm đầu và năm thứ hai phải ở hai người một phòng, còn sinh viên năm thứ ba và năm cuối thì được ở riêng mỗi người một phòng. Phòng đôi thì dài hơn và hẹp hơn cỡ phòng bề ba mét bề bốn mét một chút, với một cửa sổ khung nhôm kính trên bức tường đối diện cửa ra vào và hai chiếc bàn kê cạnh đó theo lối để hai người ngồi học quay lưng vào nhau. Bên trái cửa ra vào kê một bộ giường tầng khung thép. Đồ đạc đi liền với phòng đều chắc chắn và giản dị, bao gồm hai tủ sắt đựng quần áo có khoá, một bàn nước nhỏ, và một số giá đỡ liền tường. Ngay cả người dễ tính nhất cũng khó lòng gọi cách bài trí ấy là thơ mộng. Trên giá đỡ của hầu hết các phòng đều thấy để những đồ như đài bán dẫn, máy sấy tóc, ấm đun nước và nồi cơm điện, cà-phê tan, trà túi, đường miếng, và những nồi bát đơn giản để nấu mì ăn liền. Trên tường treo đầy những ảnh cắt từ tạp chí dành cho con gái hoặc bích chương quảng cáo phim ảnh khiêu dâm ăn trộm được. Một gã có hình chụp lợn đang đi tơ nhau, nhưng đó là một ngoại lệ đặc biệt so với đa số hình ảnh đàn bà trần truồng bình thường, các nữ ca sĩ phổ thông hoặc nữ diễn viên. Giá sách phía trên bàn học thì đựng sách giáo khoa, tự điển và tiểu thuyết.

Rác rưởi của những căn phòng toàn bọn con trai này thật khủng khiếp. Vỏ quýt mốc meo dính chặt vào đáy những bồ đựng giấy loại. Những vỏ đồ hộp dùng làm gạt tàn chất đầy đầu mẩu thuốc lá, và khi chúng bắt lửa âm ỉ cháy thì liền bị giội cà-phê hoặc bia rồi đề mặc đó cho đến lúc bốc mùi chua loét. Bụi đen và những vụn bẩn vô tăm tích bám đầy bát đĩa trên, các giá đỡ, và sàn nhà thì đầy những vỏ mì ăn lỉền và hộp bia rỗng cùng những nắp đậy của thứ này thứ kia vứt lung tung. Không ai nghĩ đến việc quét nhà và dọn rác. Cơn gió nào thổi qua phòng cũng làm bụi bốc lên mù mịt. Mỗi phòng có một mùi gớm guốc riêng của mình, nhưng cấu phần của cái mùi ấy thì đều như nhau: mồ hôi, mùi thân thế bẩn thỉu, và mùi rác rưỡi. Quần áo bẩn chất đống dưới gầm giường, và vì không có ai thèm phơi phóng chăn nệm thường xuyên nên những thứ vải vóc ngấm đẫm mồ hôi ấy bốc mùi hôi hầm không thể cứu chữa nổi. Nghĩ lại, có vẻ thật kì diệu là những đống hôi thối ấy không làm nay sinh dịch bệnh chết người nào.

Nhưng buồng tôi ở lại sạch tinh tươm như một phòng ướp xác. Sàn nhà và cửa sổ không một vết bẩn, chăn nệm tuần nào cũng được phơi phóng, tất cả bút chì đều đứng ngay ngắn trong hộp đựng của chúng, thậm chí màn cửa cũng được giặt mỗi tháng một lần. Bạn cùng phòng với tôi là một gã sạch sẽ đến mức bệnh hoạn. Khỏng có ai trong khu học xá tin lời tôi khi tôi kề chuyện giặt màn cửa phòng mình. Chúng không biết rằng màn cửa lại có thể giặt được. Hình như chúng tin rằng màn cửa là một bộ phận bán thường xuyên của kết cấu cửa sổ.

"Thằng cha đó hỏng rồi," chúng nói, và đặt biệt danh cho anh bạn tôi là một thằng lính phát xít, một tên Quốc-xã.

Thậm chí chúng tôi không có cả ảnh trên tường. Không, chúng tôi có bức ảnh chụp một con kênh đào ở Amsterdam. Trước đấy tôi đã ghim một tấm ảnh khoả thân lên rồi, nhưng bạn cùng phòng với tôi lại hạ nó xuống. "Này, Watanabe," hắn nói, "tơ-tơ-tớ không khoái mấy của này lắm đâu," rồi găm luôn cái ảnh kênh đào lên thay. Tôi cũng không mặn mà gì với cái ảnh khoả thân, nên chẳng buồn phản đối làm gì.

"Cái quái gì thế kia hả?" Đó là câu cảm thán đôi với bức ảnh kênh đào Amsterdam của tất cả bọn con trai đã từng vào phòng tôi.

"À, Quốc-xã nó thích vừa nhìn cái đó vừa cho ra bằng tay," tôi nói.

Tôi chỉ định đùa thôi, nhưng tất cả bọn chúng lại tin là thật - đến nỗi chính tôi cũng bắt đầu tin đó là chuyện thật.

Ai cũng tỏ vẻ thương tôi vì phải ở chung với Quốc-xã, nhưng thực tình tôi không khó chịu gì chuyện đó. Hắn để tôi yên thân chừng nào tôi giữ chỗ của mình thật sạch sẽ, và thực tế là ở cùng phòng với hắn lại dễ chịu hơn trong nhiều chuyện. Hắn làm tất các việc dọn dẹp, hắn phơi phóng chăn nệm, hắn thu dọn và đổ rác. Hắn hít hít mấy cái và khuyên tôi nên đi tắm nếu tôi đã quá bận đến nỗi mấy ngày rồi chưa tắm. Thậm chí hắn còn nhắc tôi đã đến lúc phải đi cắt tóc hoặc tỉa lông mũi. Chỉ có một thứ làm tôi khó chịu, đó là cái lối hắn phun thuốc trừ sâu mù mịt mỗi khi phát hiện ra dù chỉ một con ruồi thôi ở trong phòng, vì lúc ấy tôi sẽ phải tị nạn sang một cái chuồng chỗ hàng xóm nào đó.

Quốc-xã học địa lý ở một trường đại học quốc gia.

Như lời hắn nói ở buổi sơ giao, "Tớ học về bờ-bờ-bản-bản đồ."

"Cậu thích bản đồ à?" Tôi hỏi.

"Đúng vậy. Khi tốt nghiệp, tớ sẽ vào làm việc cho Viện Địa Đạc và làm bờ-bờ-bản-ban đồ."

Tôi bị ấn tượng rất mạnh khi thấy cuộc đời có thể cho người ta nhiều ước mơ và mục đích khác nhau đến thế. Đó là một trong những ấn tượng đầu tiên của tôi khi lần đầu đặt chân đến Tokyo. Một ý nghĩ chợt đến với tôi là xã hội cần một vài người - chỉ vài người thôi - có ý thích và thậm chí say mê việc làm bản đồ. Kể cũng lạ, vì cái người muốn làm việc cho Viện Địa Đạc lại cứ lắp bắp mỗi khi nói đến chữ "bản đồ". Quốc-xã thường không lắp bắp bao giờ, chỉ trừ mỗi khi hắn phát âm từ

"bản đồ", mà chắc chắn trăm phần trăm là hắn phải lắp bắp cái từ ấy.

"Cậu sẽ học ca-ca-cái gì?" hắn hỏi tôi.

"Sản khấu," tôi đáp.

"Cậu sẽ dàn dựng các vở kịch à?"

"Không, chỉ đọc kịch bản và nghiên cứu thôi. Racine, Ionesco, Shakespeare, đại loại thế."

Hắn nói đã nghe tiếng Shakespeare, nhưng không biết những người khác. Tôi cũng chẳng biết gì mấy về những tác giả kia, mới chỉ thấy tên họ trong các giấy tờ giới thiệu bài giảng.

"Cậu thích kịch à?" hắn hỏi.

"Cũng không hẳn thế."

Thế là hắn thấy lẫn lộn, và khi lẫn lộn thì hắn lắp bắp tợn. Tôi thấy hối hận vì đã nói vậy với hắn.

"Tớ có thể chọn bất kỳ môn gì," tôi nói. "Nhân chủng học, lịch sử châu Á. Tớ chọn sân khấu chỉ là tình cờ thôi, chẳng có gì khác." Thật là một cách giải thích không mấy thuyết phục.

"Tớ chịu không hiểu nổi," hắn nói, mặt mũi có vẻ như không hiểu thật. "Tớ thích bờ-bản-ban đồ, nên tớ quyết định đến Tokyo và xin bố mẹ tớ gư-gửi tiền để tớ có thể học về bờ-ban-bản đồ. Nhưng cậu lại không thế, hả?"

Cách đặt vấn đề của hắn có lí hơn của tôi. Tôi chịu không thể giải thích được cho mình. Thế rồi chúng tôi rút thăm (bằng que diêm) để chọn giường. Hắn trúng tầng trên.

Cao lớn, với một cái đầu của và hai gò má cao, lúc nào hắn cũng đóng một bộ: sơ-mi trắng, quần dài đen, giày đen, áo len cộc tay màu xanh thuỷ quân. Đi học thì hắn thêm cái áo tây đồng phục và mang theo một chiếc cặp đen: một sinh viên hữu khuynh điển hình. Chính thế mà mọi người gọi hắn là Quốc-xã. Nhưng thực ra thì hắn hoàn toàn không để ý gì đến chính trị. Hắn mặc đồng phục để khỏi phải nghĩ ngợi về quần áo. Hắn chỉ quan tâm đến những chuyện như biến động bờ biển hoặc sự kiện hoàn thành một đường hầm cho xe lửa chạy xuyên qua núi. Không có gì khác. Một khi đã nói đến chuyện như thế thì hắn sẽ thao thao bất tuyệt hàng nhiều giờ liền, cho đến lúc ta phải bỏ đi chỗ khác hoặc ngủ thiếp lúc nào không hay.

Sáng nào hắn cũng dậy lúc sáu giờ theo hồi quốc thiều kéo cờ. Có nghĩa là cái lễ kéo cờ khoa trương kia cũng không phải hoàn toàn vô dụng. Hắn mặc quần áo, vào nhà tắm rửa mặt - lâu không thể tả được. Đôi khi tôi có cảm giác như hắn đang tháo từng cái răng ra và chải rửa lần lượt từng cái một. Trở lại phòng, hắn sẽ vuốt phẳng chiếc khăn mặt và trải lên dàn sưởi cho khô, rồi để bàn chải đánh răng và xà-phòng vào chỗ của chúng ở trên kệ. Cuối cùng, hắn tập bài thể dục theo đài phát thanh cùng với nhân dân cả nước.

Tôi quen đọc sách khuya và ngủ đến tám giờ mới dậy, nên dù hắn có lục sục trong phòng và bắt đầu tập thể dục, tôi vẫn cứ không biết gì - cho đến khi hắn vào động tác nhảy. Hắn làm động tác này một cách nghiêm chỉnh, thình thịch rung hết cả giường. Tôi chịu đựng trong ba ngày, vì người ta đã dặn chúng tôi rằng sống chung là phải biết nhường nhịn nhau cho chừng mực, nhưng đến buổi sáng thứ tư thì tôi không thể chịu nổi nữa.

"Này, cậu có thể làm động tác ấy ở trên mái nhà hoặc ở đâu đó không hử?" tôi bảo. "Tớ không thể ngủ được."

"Nhưng đã sáu rưỡi rồi còn gì?" hắn đáp, miệng há hốc.

"Phải, tớ biết đã sáu rưỡi rồi. Nhưng tớ vẫn phải ngủ. Tớ không biết nói thế nào, nhưng phải như vậy tớ mới sống được."

"Nhưng mà tớ không thể lên mái nhà được. Sẽ có người ở tầng ba họ phàn nàn. Chỗ này của bọn mình ở bên dưới chỉ là nhà kho."

"Thế thì cậu ra sân. Ra bãi cỏ ấy."

"Thế cũng không được. Tớ không có đài chạy pin. Tớ phải cắm điện. Mà tập thể dục buổi sáng thì phải theo nhạc mới được."

Đúng vậy, cái đài của hắn cũ rích và không chạy pin. Đài của tôi là bán dẫn di động được, nhưng lại chỉ có sóng FM để nghe nhạc mà thôi.

"Thôi được rồi, mình nhượng bộ nhau nhé," tôi nói. "Cậu cứ việc tập thể dục nhưng bỏ cái động tác nhẩy ấy đi! Nó ầm ĩ bỏ mẹ. Được chứ."

"Nh-nha-nhảy ư? Là động tác nào thế?"

"Nhảy là nhảy chứ còn gì nữa. Cứ nẩy lên nẩy xuống ấy mà."

"Nhưng làm gì có động tác nhảy."

Đầu tôi bắt đầu thấy nhức nhối. Tôi đã định đầu hàng, nhưng lại muốn làm rõ ý mình. Tôi ra khỏi giường và bắt đầu nhảy tưng tưng, miệng hát điệu nhạc mở đầu của chương trình thể dục buổi sáng của đài NHK. "Là cái này này," tôi nói.

"Ô, cái đó. Có lẽ cậu nói đúng. Tớ chưa bao giờ để ý chuyện đó."

"Cậu hiểu ý tớ chưa? tôi nói, ngồi xuống mép giường. "Cứ bỏ cái động tác ấy thôi. Tới có thể chịu được những cái khác. Đừng nhảy nữa để cho tớ ngủ."

"Nhưng không thể thế được," hắn nói, giọng tỉnh bơ. "Tớ không thể bỏ một động tác nào. Tớ đã tập thế này mỗi sáng trong suốt mười năm qua, và hễ bắt đầu là mọi thứ cứ thế tự động diên ra một cách vô thức. Bỏ một động tác nào là tớ phải bỏ hết mất."

Tôi không biết nói gì thêm. Còn nói gì được nữa? Cách nhanh nhất để chấm dứt tình trạng ấy là đợi cho hắn ra khỏi phòng và quăng cái đài chết tiệt của hắn qua cái cửa sổ chết dẫm kia, nhưng tôi biết nếu làm vậy thì mọi việc sẽ tá hoả tam tinh. Quốc-xã quý hoá đồ của hắn lắm. Hắn mỉm cười khi thấy tôi ngồi thừ trên mép giường, và cố an ủi tôi.

"Này, Watanabe, sao cậu không dậy tập thể dục cùng với tớ cho xong?" Rồi hắn đi ăn sáng.

***

Naoko chặc lưỡi khi tôi kể cho nàng về Quốc-xã và những bài tập thể dục theo đài của hắn. Tôi không định làm nàng cười, nhưng chính tôi lại phì cười vì câu chuyện của mình. Nàng chỉ hơi mỉm cười một chút, nhưng đó là lần đầu tôi thấy một nụ cười ở nàng và cảm thấy vui vì nó trong một lúc thật lâu.

Chúng tôi vừa xuống tàu ở ga Yotsuya và đang đi bộ dọc bờ kè bên ngoài nhà ga. Đó là một chiều Chủ nhật khoang giữa tháng Năm. Nhưng trận mưa rào ngắn ngủi suốt buổi sáng đã tạnh hẳn, và gió nam đã xua tan những đám mây là là mặt đất. Những đám lá anh đào xanh biếc xào xạc trong không trung, long lanh hắt nắng đi tứ phía. Đó là một ngày đầu hè. Nhưng người đi ngang chúng tôi đều vắt áo len hoặc áo ngoài của họ trên vai, hoặc cầm ở tay. Ai cũng có vẻ đang vui hướng một chiều Chủ nhật đầy nắng ấm. Đám thanh niên chơi bóng quần trong khu sân ở phía bên kia bờ kè đã cởi trần mặc quần cộc. Chỉ có chỗ hai bà sơ vẫn mặc trang phục mùa đông đang ngồi chuyện trò trên một chiếc ghế dài là có vẻ chưa có mùa hè, mặc dù họ đều ngồi ngay dưới nắng.

Mười lăm phút đi bộ và tôi đã toát mồ hôi đến mức phải cởi cả chiếc sơ-mi vải bông dày của mình và đi tiếp với chiếc áo phông còn lại trên người. Naoko đã xắn cao tay áo chiếc sơ-mi màu xám nhạt của nàng. Chiếc sơ-mi phai màu rất đẹp, rõ ràng đã giặt rất nhiều lần. Tôi cảm thấy như đã thấy nàng mặc chiếc sơ-mi ấy từ rất lâu rồi.

Chỉ là cảm giác thế thôi, tôi nhớ không rõ lắm. Lúc ấy tôi vẫn chưa có gì nhiều để nhớ về Naoko.

"Sống tập thể thế cậu có thích không? Nàng hỏi. "Sống chung với nhiều người thế có vui không?"

"Mình không biết, mình mới sống thế chừng một tháng. Không đến nỗi tệ như người ta tưởng, mình có thể chịu được."

Nàng dừng lại bên một vòi nước uống và nhấp một ngụm, lau miệng bằng một chiếc khăn tay trắng lấy từ túi quần ra. Rồi nàng cúi xuống và cẩn thận buộc lại dây giày.

"Cậu nghĩ mình có sống thế được không?"

"Cái gì kia? Sống trong một khu học xá ấy à?"

"Ờ"

"Mình nghĩ chỉ là vấn đề thái độ thôi. Nếu muốn thì có rất nhiều thứ có thể làm ta bực bội - nào nội quy, nào những thằng ngốc mà lại tưởng mình là ghê lắm, ấy là chưa kể bạn cùng phòng nhất định tập thể dục theo đài vào lúc sáu rưỡi sáng. Nhưng thật ra ở đâu thì cũng vậy thôi, rồi cũng xong cả."

"Có lẽ thế," nàng gật đầu. Hình như nàng đang suy nghĩ điều gì đó. Rồi nàng nhìn thẳng vào mắt tôi như thể đang xoáy vào một thứ gì lạ lẫm lắm. Lúc ấy tôi mới thấy mắt nàng sâu thăm và trong vắt đến mức chúng làm tôi như ngộp thở. Tôi chợt nhận ra mình đã chưa khi nào có dịp nhìn vào mắt nàng như thế. Đó là lần đầu tiên hai chúng tôi đi bộ với nhau và nói chuyện lâu như vậy.

"Cậu đang nghĩ sẽ vào một khu học xá sống hay sao đấy?" tôi hỏi.

"Ờ," nàng đáp. "Mình chỉ đang không biết sống tập thể sẽ ra sao. Với lại…" Có vẻ như nàng đang cố tìm từ hoặc cách diễn đạt cho chính xác mà chưa được. Rồi nàng thở dài, mắt nhìn xuống. "Ôi chao, mình cũng không biết nữa. Cậu đừng để ý làm gì."

Cuộc nói chuyện đến đấy là hết. Nàng tiếp tục đi về phía đông, và tôi bước ngay sau nàng.

Đã gần một năm rồi tôi mới gặp lại Naoko, và nàng đã sút cân đến nỗi trông như một người khác. Cặp má phinh phính rất đặc biệt của nàng hầu như không còn nữa, và cổ nàng đã mảnh dẻ hẳn đi. Không phải nàng có vẻ gày gò hoặc ốm yếu: cái vẻ thanh mảnh ấy của nàng có cái gì rất tự nhiên và bình thản, như thể nàng đã ẩn náu trong một không gian hẹp và dài cho đến lúc bản thân nàng trở thành hẹp và dài vậy. Và xinh đẹp ra nhiều. Tôi muốn nói với nàng điều đó, nhưng không thể tìm được cách nói cho hay.

Chúng tôi đã không hẹn mà tình cờ gặp nhau trên tuyến tàu Chuo vẫn đưa chúng tôi đi học hàng ngày.

Nàng đã quyết định đi xem phim một mình, còn tôi đang trên đường đến mấy hiệu sách ở Kanda - cả hai đứa đều chẳng có việc gì gấp. Nàng nêu ý kiến bỏ tàu ra ngoài phố, và chúng tôi đã làm vậy ở ga Yotsuya, nơi có thể đi bộ rất hay dọc bờ kè có trồng cây của con hào bao quanh một lâu đài cổ. Khi còn hai đứa với nhau, chúng tôi chẳng có chuyện gì đặc biệt để nói, và tôi cũng chẳng biết tại sao Naoko lại thích ra khỏi tàu. Từ trước chúng tôi cũng đã chẳng có gì nhiều để nói cùng nhau.

Vừa ra đến phố là Naoko bắt đầu bước đi, và tôi phải rảo bước mới theo kịp, cách nàng vài bước. Tôi có thể đuổi kịp nàng, nhưng có cái gì đó ngăn tôi lại. Tôi bước đi, mắt nhìn bờ vai nàng và mái tóc đen buông thẳng của nàng. Nàng dùng một dai buộc tóc màu nâu rộng bản, và mỗi khi nàng quay đầu, tôi lại thoáng thấy một vành tai trắng nhỏ của nàng. Thỉnh thoảng nàng nhìn lại sau và nói điều gì đó. Có khi là một câu nhận xét mà tôi có thể đáp lại được; có khi là cái gì đó tôi chịu không thể hiểu và đáp được. Một khi đã nói xong điều muốn nói, nàng lại hướng về phía trước và tiếp tục bước đi ôi chao, thì có làm sao, tôi tự nhủ, chẳng phải là một ngày đẹp trời để đi dạo đó sao.

Nhưng với Naoko thì đó không phải chỉ là một cuộc dạo chơi đơn thuần. Cứ đề ý thì thấy ngay: nàng rẽ phải ở Iidabashi, ra chỗ hào nước, vượt ngã tư ở

Jinbocho, lên quả đồi ở Ochanomizu và ra khỏi khu vực đó ở Hongo. Từ đó nàng đi theo đường tàu điện đến tận Komagome. Một lộ trình rất mệt. Lúc chúng tôi đến Komagome thì đã xế chiều và ngày đầu hè ấy đã thành ra một tối mùa xuân dìu dịu.

"Chúng mình đang ở đâu ấy nhỉ?" Naoko hỏi, có vẻ như vừa sực tỉnh và nhìn quanh mình lần đầu tiên.

"Komagome," tôi nói. "Cậu không biết ư? Chúng mình đã đi một vòng lớn."

"Sao mình lại đến đây?"

"Cậu dẫn đường mà. Mình chỉ đi theo cậu thôi."

Chúng tôi đến một cửa hàng cạnh ga tàu điện để ăn một bát mì. Khát quá, tôi uống hết cả một chai bia. Không đứa nào nói gì từ lúc gọi đồ ăn cho tới lúc ăn xong. Tôi mệt lử sau cuốc đi bộ dài ấy, còn nàng thì ngồi dể hai tay lên bàn, miệng lại lẩm nhẩm chuyện gì đó. Bản tin trên TV đang nói rằng tất cả những địa điểm vui chơi giải trí trong ngày Chủ nhật ấm áp đó đều đã đông nghịt người. Còn chúng tôi thì đã đi bộ từ Yotsuya cho đến tận Komagome, tôi tự nhủ.

"Này, cậu khỏe thật đấy," tôi lên tiếng sau khi đã ăn hết bát mì.

"Ngạc nhiên không?"

"Có"

"Mình đã từng là vận động viên chạy đường dài ở trường trung học. Nói để cậu biết thế. Mình thường chạy những chặng mười cây số một. Và từ lúc mình bắt đầu có kí ức thì Chủ nhật nào bố mình cũng đưa mình đi leo núi. Cậu biết nhà mình không, ở ngay kia kìa, cạnh núi ấy. Chân mình lúc nào cũng khỏe."

"Nhìn cậu thì không biết được," tôi nói.

"Mình biết," nàng đáp. "Mọi người đều tưởng mình chỉ là một con nhóc yếu ớt. Nhưng không thể nhìn bìa mà đánh giá cuốn sách được." Rồi nàng thêm một thoáng mỉm cười vào câu nói ấy."

"Điều ấy đúng với mình quá," tôi nói. "Mình mệt nhoài ra rồi."

"Thôi chết, xin lỗi nhé, mình đã lôi cậu đi quanh quẩn suốt cả ngày."

"Dù sao, mình rất vui là chúng ta đã có dịp chuyện trò. Hai đứa mình chưa có dịp nào thế này, chỉ có hai đứa với nhau," tôi nói, cố nghĩ xem chúng tôi đã nói những chuyện gì với nhau mà không được.

Nàng đang nghịch cái gạt tàn trên bàn.

"Không biết…" nàng bắt đầu, "…nếu cậu không phản đối… mình muốn nói là, nếu thực sự cậu không thấy phiền… Cậu nghĩ chúng mình có nên gặp lại nhau nữa không? Mình biết mình chẳng có quyền gì mà hỏi cậu chuyện này."

"Có quyền gì ư? Cậu nói gì thế?"

Nàng đỏ bừng mặt. Phản ứng của tôi với lời đề nghị của nàng có lẽ hơi mạnh.

"Mình không biết… Thực là mình không thể giải thích được," nàng nói, trong khi kéo tay áo lên quá khuỷu rồi lại hạ xuống. Lớp lông mịn trên cánh tay nàng ánh lên một màu vàng thật đáng yêu dưới ánh đèn của cửa hàng.

"Mình không định nói "quyền" theo nghĩa chính xác của từ đó. Mình đang tìm cách nói khác."

Hai khuỷu tay đặt trên bàn, nàng chăm chú nhìn lên tờ lịch treo trên tường, gần như thể đang hy vọng sẽ tìm thấy cách diễn đạt thích hợp nhất ở đó. Không thấy gì nàng thở dài, nhắm mắt và mân mê dải buộc tóc.

"Đừng bận tâm thế," tôi nói. "Có lẽ mình đã hiểu cậu muốn nói gì. Mình cũng chẳng biết nói điều đó như thế nào nữa."

"Chẳng bao giờ mình có thể nói được điều mình muốn nói," Naoko tiếp lời. "Như vậy cũng lâu lâu rồi. Mình cố nói một điều gì đó, nhưng nói ra từ nào là sai từ ấy chúng đều không đúng hoặc ngược hẳn lại với điều mình định nói. Mình cố khắc phục, nhưng chỉ càng tệ hơn. Thứ nhất là mình quên luôn cả điều định nói. Giống như mình bị chẻ ra làm hai và phải theo dõi lẫn nhau. Nửa này đang đuổi theo nửa kia, vòng quanh một cái cột to bự. Nửa kia của mình có những từ đúng, nhưng nửa này của mình lại không thể bắt được nó." Nàng ngẩng lên nhìn vào mắt tôi. "Chuyện đó có tí ý nghĩa gì với cậu không?"

"Nhưng ở một chừng mực nào đó thì ai cũng cảm thấy thế cả," tôi nói. "Ai cũng đều cố diễn đạt mình và đều thấy phiền lòng khi không thể làm tốt được việc đó."

Naoko có vẻ thất vọng vì câu đáp của tôi. "Không, càng không phải là như vậy?" nàng nói và không giải thích gì thêm.

"Nhưng mà mình sẽ rất thích được gặp lại cậu," tôi nói. "Chủ nhật nào mình cũng rảnh, và đi bộ sẽ rất tốt với mình.

Chúng tôi lên tàu chạy đường Yamanote, và Naoko chuyển sang tuyến Chuo ở ga Shinjuku. Nàng sống trong một căn hộ tí xíu ở mãi khu ngoại ô phía tây Kokubunji.

"Này cậu, nàng nói lúc chia tay." Lối nói chuyện của mình có gì khác trước không?"
"Mình nghĩ là có," tôi nói, "nhưng không biết rõ thế nào. Nói thật với cậu, mình biết là hồi trước mình gặp cậu rất nhiều, nhưng hình như cũng chẳng chuyện trò nhiều nhặn gì lắm thì phải."

"Đúng vậy, nàng nói. "Thôi nhỉ, mình gọi cậu thứ Bảy tới được chứ."

"Tất nhiên rồi. Mình sẽ đợi đấy."

Tôi gặp Naoko lần đầu tiên lúc còn học lớp Sáu trung học. Nàng cũng đang lớp Sáu nhưng học ở một trường nữ sinh Cơ Đốc giáo vào loại hạng nhất. Cái trường ấy sang đến mức nếu học gạo quá sẽ bị coi là thô thiển. Naoko là bạn gái của người bạn thân nhất (và duy nhất) của tôi là Kizuki. Naoko và Kizuki đã thân thiết với nhau gần như từ hồi mới đẻ, hai gia đình sống cách nhau chưa đầy hai trăm mét.

Cũng như hầu hết những cặp trai gái đã chơi với nhau từ thuở ấu thơ, quan hệ của Kizuki và Naoko có một không khí cởi mở rất thoải mái và họ cũng chẳng thấy cần phải được bên nhau một mình. Họ luôn đến nhà nhau, ăn uống và chơi mạt chược với mọi người khác trong gia đình nhau. Tôi đã đi chơi tay bốn cùng họ rất nhiều lần. Naoko sẽ dẫn một bạn ở trường nàng đến cho tôi và bốn chúng tôi cùng đi chơi bách thú hoặc đánh bi-a hoặc xem phim với nhau. Những cô bạn nàng dẫn về cho tôi đều xinh đẹp nhưng hơi sang trọng quá so với thị hiểu của tôi. Tôi dễ chơi hơn với những cô gái có vẻ thô thiển hơn ở cùng trường công với tôi, thấy dễ chuyện trò hơn. Tôi chưa bao giờ đoán được chuyện gì đang diễn ra trong những cái đầu xinh đẹp của các cô gái mà Naoko dẫn theo nàng, và có thể là họ cũng không thể hiểu được tôi.

Được một thời gian thì Kizuki từ bỏ ý định ghép bạn cho tôi, và thế là ba chúng tôi chơi cùng nhau. Kizuki và Naoko và tôi: cũng lạ, nhưng đó lại là một cấu hình thoải mái nhất. Đưa thêm một người thứ tư vào cấu hình đó lúc nào cũng khiến mọi chuyện thành vụng về khó xử.

Chúng tôi giống như đội làm chương trình gặp gỡ chuyện trò trên TV, với tôi đóng vai khách, Kizuki làm người dẫn chương trình, và Naoko là trợ lí của cậu ta.

Kizuki giỏi việc thủ những vai trò trung tâm như thế. Thực tình, cậu ấy có một vẻ giễu cợt thường khiến mọi người nghĩ là cậu ngạo mạn, nhưng thật sự thì cậu là một người rất công bình và chu đáo. Cậu biết phân phát những lời nhận xét và đùa bỡn một cách công bằng cho cả Naoko và tôi, cẩn thận để không đứa nào cảm thấy bị bỏ rơi. Nếu một trong hai đứa im lặng quá lâu, cậu sẽ hướng câu chuyện về đó để người ấy phải lên tiếng. Cậu biết cách theo dõi và điều chỉnh không khí xung quanh từng giây một, và chuyện đó chắc chắn không dễ dàng như ta thấy chút nào. Ngoài ra, cậu còn có một cái tài rất hiếm là biết tìm thấy những cái thú vị trong những câu nói chung chung chẳng thú vị chút nào của người khác, cho nên khi chuyện trò với Kizuki, ta cẳm thấy như mình là một con người đặc biệt thú vị với một cuộc sống đặc biệt thú vị.

Ấy vậy, mà cậu lại chẳng quảng giao chút nào. Tôi là thằng bạn thực sự duy nhất của cậu ở trường. Tôi không thể hiểu tại sao một diễn giả thông minh và đầy năng lực như thế lại không hướng tài năng của mình vào cái thế giới mênh mông ở ngoài kia mà lại bằng lòng tập trung vào bộ ba nhỏ bé của chúng tôi. Mà tôi cũng không biết tại sao cậu chọn tôi làm bạn. Tôi chỉ là một thằng nhóc bình thường thích đọc sách, nghe nhạc và không hề có gì nổi bật để có thể khiến cho một người như Kizuki phải để ý đến. Thế mà chúng tôi đã thân nhau ngay lập tức. Cha cậu là một nha sĩ, nổi tiếng thạo nghề và lấy tiền công rất cao.

"Chủ nhật này có muốn đi chơi cặp đôi với bọn tớ không?" Cậu hỏi tôi ngay sau khi mới gặp nhau. "Bạn gái tớ học trường nữ sinh, cô ấy sẽ dẫn theo một người đẹp cho cậu."

"Được thôi," tôi nói. Tôi đã gặp Naoko như vậy đấy!"

Ba đứa chúng tôi chơi với nhau rất nhiều, nhưng hễ Kizuki cứ ra khỏi phòng là Naoko và tôi lại thấy lúng túng chẳng biết nói gì với nhau. Chúng tôi chưa bao giờ biết nên nói vđi nhau về chuyện gì. Và sự thực là chúng tôi không có chung một chủ đề nào để cùng trò chuyện. Thay vì nói chuyện, chúng tôi hết uống nước lại nghịch ngợm gì đó trên bàn và đợi Kizuki về để lại bắt đầu tán chuyện. Naoko không phải là người hay nói, còn tôi thì nghe giỏi hơn nói, nên tôi luôn thấy lúng túng khi một mình với nàng. Không phải chúng tôi không hợp nhau. Chúng tôi chỉ không có gì để nói.

Naoko và tôi chỉ gặp nhau một lần sau tang lễ của Kizuki. Hai tuần sau sự kiện đó, chúng tôi gặp nhau tại một quán cà-phê để giải quyết vài việc nhỏ, và khi xong rồi thì chúng tôi chẳng còn gì để nói. Tôi cố đưa ra nhiều chủ đề khác nhau nhưng chẳng đi đến đâu. Và khi Naoko mở miệng thì giọng nàng gay gắt thế nào đó. Nàng có vẻ giận dữ với tôi, nhưng tôi chịu không biết tại sao. Chúng tôi không gặp lại nhau lần nào nữa, cho mãi đến một năm sau, khi chúng tôi tình cờ thấy nhau trên tuyến tàu Chuo ở Tokyo ngày đó.

Có lẽ Naoko đã giận tôi vì chính tôi, chứ không phải nàng, đã là ngưởi cuối cùng gặp Kizuki. Có lẽ nói thế cũng chưa chính xác, nhưng tôi hiểu tình cảm của nàng, không ít thì nhiều. Nếu có thể, tôi đã đánh đổi địa vị ấy với nàng, nhưng nói cho cùng thì chuyện gì xảy ra cũng đã xảy ra rồi, và tôi chẳng thể làm gì được nữa.

Đó là một chiều tháng Năm đẹp trời. Sau bữa trưa, Kizuki gợi ý chúng tôi bỏ lớp để chơi bi-a hoặc đi đâu đó. Tôi cũng chẳng quan tâm gì đến những giờ học buổi chiều của mình, và thế là chúng tôi cùng ra khỏi trường, lững thững xuống đồi tới một phòng bi-a ngoài bến cảng và chơi bốn ván. Khi tôi thắng ván chơi thoải mái đầu tiên, Kizuki trở nên trang nghiêm và thắng liền ba ván tiếp theo. Có nghĩa là tôi phải trả tiền theo thông lệ vẫn có giữa chúng tôi. Kizuki không nói đùa câu nào khi chúng tôi chơi với nhau. Điều đó rất bất thường. Chơi xong chúng tôi hút thuốc.

"Sao cậu nghiêm trang thế?" tôi hỏi.

"Tớ không muốn bị thua hôm nay," Kizuki nói với một nụ cười thoả mãn.

Cậu chết đêm hôm đó, trong nhà để xe. Cậu đã đưa một đường ống cao su từ miệng ống xả chiếc N-360 của mình vào một cửa sổ của chiếc xe, lấy băng dính bịt kín các chỗ hở, rồi nổ máy. Tôi không biết phải bao nhiêu lâu cậu mới chết được. Cha mẹ cậu đang đi thăm một người họ hàng bị ốm, và khi họ mở cửa vào thì cậu đã chết rồi. Radio trên xe vẫn kêu, và một cái hoá đơn mua xăng thì kẹp dưới một cần gạt nước ở kính xe.

Kizuki không để lại một dòng tuyệt mệnh nào, và không ai có thể nghĩ ra lí do tự tử của cậu là gì. Vì là người cuối cùng đã gặp cậu nên tôi bị cảnh sát triệu lên hỏi. Tôi nói với viên sĩ quan điều tra rằng Kizuki đã không biểu lộ tí dấu hiệu nào của việc cậu sắp làm, rằng cậu đã vẫn hệt như mọi khi. Viên cảnh sát trước đây đã có ấn tượng không hay về cả Kizuki và tôi, như thể người ta hễ cứ hay bỏ học và chơi bi-a thì dĩ nhiên là sẽ có ngày tự tử vậy. Một bài báo ngắn đã kết thúc sự vụ. Cha mẹ Kizuki tống khứ chiếc N-360 màu đỏ của cậu đi. Trong một thời gian, chỗ bàn cậu vẫn ngồi trong lớp lúc nào cũng có một đoá hoa trắng.

Trong khoảng mười tháng kể từ lúc Kizuki chết đến kỳ thi của tôi, tôi không biết mình đang ở đâu trong cái thế giới này. Tôi bắt đầu ngủ với một người trong đám hạn gái ở trường, nhưng quan hệ ấy chẳng được đến sáu tháng. Chẳng có gì ở cô ta can hệ được đến tôi. Tôi nộp đơn vào một trường đại học tư ở Tokyo, một loại trường mà tôi không phải học gì nhiều cũng thi vào được, và đỗ mà chẳng thấy vui mừng gì hết. Cô gái kia xin tôi đừng đi Tokyo - "Cách đây những năm trăm dặm!" Cô ta nài nỉ : nhưng tôi phải đi khỏi Kobe bằng bất cứ giá nào. Tôi muốn bắt đầu một cuộc sống mới ở một nơi mà tôi không biết một ma nào hết.

"Anh không còn nghĩ gì đến tôi nữa, sau khi đã ngủ với tôi" cô ta vừa nói vừa khóc.

"Không phải thế," tôi cương quyết. "Nhưng tôi nhất định phải đi khỏi thành phố này." Nhưng cô ta đã không chịu hiểu tôi. Và cứ thế chúng tôi giã biệt nhau.

Khi ngồi trên tàu hoả cao tốc đi Tokyo, nhớ đến tất cả những gì đã làm cô hay hơn nhiều so với các cô gái khác ở nhà, tôi cảm thấy hành vi của mình thật kinh khủng, nhưng chẳng có cách gì gỡ lại được nữa. Tôi sẽ cố quên cô ta.

Có một điều duy nhất mà tôi phải làm khi bắt đầu cuộc sống mới của mình trong khu học xá, đó là thôi không coi chuyện gì ở đời là quan trọng nữa, và thiết lập một khoảng cách thích hợp giữa bản thân với tất cả mọi chuyện. Hãy quên những chiếc bàn bi-a màu xanh nâu và những chiếc N-360 màu đỏ cùng những đoá hoa trắng trên bàn học; quên đám khói bốc lên từ những ống khói ngất ngưởng của lò thiêu xác, những cục chặn giấy kếch xù trong phòng hỏi cũng của cảnh sát. Lúc đầu việc đó có vẻ hiệu nghiệm. Tôi đã cố gắng để quên, nhưng bên trong tôi vẫn có một chút khí vón cục lại một cách mơ hồ. Và khi thời gian cứ trôi đi, cục khí vón ấy bắt đầu có hình hài rõ rệt và đơn giản, một hình hài mà tôi có thể ta được bằng lời, như sau:

Cái chết là có thực, nó không phải là đối nghịch của cuộc sống, mà là một phần của cuộc sống.

Nói ra như vậy nghe thật sáo mòn, nhưng đã có thời tôi cảm thấy cái hình hài ấy không phải bằng lời mà như một cục khí vón lại ở trong tôi. Cái chết là có thực - trong một cục chặn giấy, trong bốn trái bóng đỏ và trắng trên mặt bàn bi-a - và chúng ta tiếp tục sống và hít thở nó vào phổi như những làn bụi mịn.

Trước đó, tôi đã hiểu cái chết như một cái gì hoàn toàn tách biệt và độc lập với sự sống. Bàn tay của sự chết nhất định sẽ túm lấy chúng ta, tôi cảm thấy thế, nhưng cho tới ngày nó tìm đến ta, nó vẫn để ta được yên thân. Điều đó dường như là một chân lý đơn giản và hợp logic đối với tôi. Sự sống ở đây, sự chết thì ở kia. Tôi đang còn ở đây, chưa phải ở đó.

Tuy nhiên, đêm hôm Kizuki chết, tôi đã mất khả năng nhìn nhận sự chết (và sự sống) một cách giản dị như vậy/ Chết không phải là đối nghịch của sống. Nó đã đang ở đây rồi, ngay bên trong tôi, nó đã luôn luôn ở đây, và không có gì có thể cho phép tôi quên được điều đó. Khi nó lấy đi Kizuki mới mười bảy tuổi đầu trong cái đêm tháng Năm ấy, sự chết đã túm được cả tôi.

Tôi sống qua mùa xuân sau đó, ở tuổi mười tám, với cục khí vón trong ngực mình, nhưng không lúc nào ngưng tranh đấu chống lại sự hồi sinh của thái độ coi trọng mọi sự ở đời. Coi trọng sự đời không phải là cách tiếp cận chân lý, tôi cảm thấy như vậy, cho dù vẫn mơ hồ. Nhưng sự chết là một thực tế, một thực tế nghiêm cẩn, dù ta có nhìn nhận nó kiểu gì đi nữa. Mắc kẹt trong mối mâu thuẫn nghẹt thở ấy, tôi lẩn quẩn trong một vòng tròn vô tận. Bây giờ nhìn lại, những ngày ấy thật lạ lùng. Ở đoạn giữa của cuộc đời, mọi thứ




Re:Cùng nhau đọc truyện : Rừng Na-uy

Đã gửi: Ba T10 24, 2006 6:28 pm
Viết bởi Ansamurai
Rừng Na-Uy
Chương 3

Dịch giả: Trinh Lữ





Naoko gọi tôi hôm thứ Bảy, và chúng tôi hẹn sẽ đi chơi với nhau vào Chủ nhật đó. Có lẽ tôi có thể gọi đó là một cuộc hẹn hò. Tôi chẳng tìm được từ nào thích hợp hơn.

Cũng như lần trước, chúng tôi đi bộ ngoài phố. Chúng tôi ghé qua uống cà-phê ở đâu đó, rồi đi tiếp, rồi ăn tối với nhau, rồi chia tay. Cũng như lần trước, nàng chỉ trò chuyện nhát gừng, nhưng có vẻ không thấy lúng túng gì về chuyện ấy, mà tôi cũng chẳng mấy bận tâm duy trì câu chuyện. Chúng tôi nói đến bất kỳ cái gì hiện đến trong đầu mình - những việc thường ngày, chuyện ở trường, chuyện gì cũng chỉ là những mảnh vụn nho nhỏ chẳng đi đến đâu. Chúng tôi không đả động gì đến quá khứ. Và phần lớn thời gian chúng tôi chỉ cắm cúi đi, cứ thế bước, đi mãi. May mà Tokyo là một thành phố rộng lớn và chúng tôi không thể đi hết mọi chỗ.

Hầu như cuối tuần nào chúng tôi cũng đi bộ như thế. Nàng sẽ đi trước, còn tôi thì theo sát đằng sau. Naoko có nhiều dải buộc tóc khác nhau nhưng luôn luôn buộc theo kiểu để lộ tai bên phải. Tôi nhớ nàng rõ nhất như thế, nhìn từ phía sau. Hễ lúng túng chuyện gì là nàng lại có lối nghịch dải buộc tóc của mình. Và lúc nào cũng chấm chấm một cái khăn tay lên miệng. Hễ nói gì là nàng lại làm vậy. Càng quan sát những thói quen ấy của nàng, tôi càng thấy thích nàng hơn.

Naoko học ở một trường nữ sinh đại học tại một vùng ven đô thôn đã ở phía tây Tokyo, một trường nhỏ rất nổi tiếng về đào tạo Anh ngữ. Gần trường có một con kênh đào hẹp nước rất sạch và trong, chúng tôi thường đi bộ dọc hai bên bờ của nó. Có khi Naoko mời tôi lên căn hộ của nàng và nấu cơm cho tôi ăn. Hình như chẳng bao giờ nàng bận tâm về chuyện hai đứa chúng tôi gần gụi nhau trong một nơi chật hẹp như thế. Căn phòng nhỏ, gọn gàng và thiếu những thứ rườm rà đến mức chỉ có mấy đôi tất phơi ở góc phòng gần cửa sổ là cho thấy có một cô gái đang sống ở đó. Nàng sống thật tùng tiệm và đơn giản, và hầu như không có bạn. Không ai đã từng biết nàng hồi trung học có thể tưởng tượng nàng lại như vậy. Hồi đó nàng ăn vận rất đỏm dáng và có vô số bạn bè vây quanh. Khi thấy phòng nàng ở, tôi nhận ra rằng cũng như tôi, nàng muốn đi đại học để bắt đầu một cuộc sống mới thật xa những người mà nàng đã biết.

"Biết tại sao mình chọn chỗ này không? Nàng hỏi, miệng mỉm cười. "Bởi vì những người ở nhà sẽ không ai tìm đến đây. Ai cũng nghĩ mình sẽ phải ở một chỗ nào đó sành điệu hơn. Cậu hiểu mình nói gì không?"

Dù sao, quan hệ của tôi với Naoko không phải là không tiến triển. Dần dà, nàng quen thuộc với tôi hơn, và tôi cũng vậy. Đến cuối hè và vào học kỳ mới, Naoko bắt đầu sánh vai cùng tôi như thể đó là một việc tự nhiên nhất trên đời. Nàng đã coi tôi là bạn rồi, tôi kết luận vậy và sánh bước cùng một cô gái đẹp như vậy hoàn toàn chẳng nặng nhọc gì đối với tôi. Chúng tôi vẫn tiếp tục đi bộ khắp Tokyo theo một lộ trình ngoằn ngoèo, lên đồi, qua sông và những con đường tàu, cứ thế bước đi mà không hề nghĩ sẽ đến đích ở nơi nào. Chúng tôi cứ nhằm thẳng phía trước mà đi, như thề việc đi bộ là một nghi lễ tôn giáo sẽ chữa lành đôi linh hồn bị tổn thương của chúng tôi. Nếu trời mưa, chúng tôi dùng ô che, nhưng vẫn sẽ đi cho dù thế nào.

Rồi mùa thu đến. Sân trong khu học xá phủ đầy lá zelkova. Hương thơm nhè nhẹ của buổi sang mùa đượm trong không gian khi tôi mặc lên người chiếc áo len đầu tiên. Sau khi đã đi mòn một đôi giày, tôi mua thêm hẳn vài đôi da lộn.

Tôi vẫn không thể nhớ lại hai đứa đã nói với nhau những chuyện gì. Chẳng có gì đặc biệt, có lẽ vậy. Chúng tôi tiếp tục tránh không nhắc đến quá khứ và hiếm khi nói về Kizuki. Chúng tôi có thể đối diện nhau khi uống cà phê trong im lặng hoàn toàn.

Naoko thích nghe tôi kể chuyện về Quốc-xã. Một lần hắn đi chơi với một sinh viên cùng lớp (một cô gái học dịa lý, tất nhiên rồi) nhưng còn sớm đã thấy về với bộ mặt ỉu xìu. "Này, W-W-Watanabe, với bọn con g-gơ-gơ gái thì cậu nói những chuyện gì?" Không nhớ là tôi đã trả lời hắn thế nào, nhưng rõ ràng là Quốc-xã đã chọn lầm người để hỏi chuyện đó. Hồi tháng Bảy, có kẻ trong khu học xá đã bỏ cái ảnh con kênh đào ở Amsterdam của Quốc-xã xuống và treo thay vào đó một bức ảnh chụp cây Cầu Cổng vàng. Hắn bảo tôi hắn muốn biết xem Quốc-xã có thủ dâm được với cái Cầu Cổng vàng hay không.

"Nó sướng rơn," tôi báo cáo lại mấy hôm sau đó. Và thế là có kẻ lại thay vào đó một bức ảnh chụp núi băng trôi ngoài biển. Mỗi lần bị thay ảnh như thế, Quốc-xã đều khó chịu.

"Đứ đứ đứa nào làm cái trò này thế?" hắn hỏi.

"Tớ cũng đang thắc mắc đây," tôi đáp. "Nhưng có sao đâu? Đều là ảnh đẹp cả. Cậu phải biết ơn mới phải."

"Ờ tớ cũng nghĩ thế, nhưng cũng kì thật."

Những mẩu chuyện của tôi về Quốc-xã lúc nào cũng làm cho Naoko phì cười. Không dễ gì làm được chuyện đó, nên tôi thường xuyên nói đến hắn, mặc dù không mấy tự hào vì đã dùng hắn vào việc ấy. Quốc-xã chỉ là đứa con trai út trong một gia đình chẳng giàu có gì và tình cờ lớn lên với thái độ quá coi trọng việc tu dưỡng bản thân của chính mình. Làm bản đồ là một mơ ước nhỏ nhoi của cuộc đời nhỏ nhoi của hắn. Ai có quyền gì đem hắn ra làm trò cười như vậy?

Thế nhưng đến lúc ấy thì những mẩu chuyện đùa bỡn về Quốc-xã đã trở thành nguồn đề tài tán dóc trong khu học xá, và chẳng cách gì để tôi có thể cứu vãn được chuyện đó. Ngoài ra, hình ảnh gương mặt mỉm cười của Naoko đã trở thành nguồn khoái lạc đặc biệt của tôi. Và tôi tiếp tục cũng cấp cho thiên hạ những mẩu chuyện mới.

Một lần Naoko đã hỏi tôi, chỉ một lần thôi, rằng tôi đã có cô gái nào ưa thích chưa. Tôi kể cho nàng nghe về cô gái tôi đã bỏ lại ở Kobe. "Cô ta tốt," tôi nói, "mình thích ngủ với cô ta, và đôi lúc vẫn còn nhớ cô ta, nhưng nói cho cùng thì cô ta không làm mình xúc động. Mình không biết, đôi khi mình nghĩ trong lòng mình có một cái nhân cứng ở đây này, và không gì có thể thâm nhập nó. Có lẽ mình không thể thực sự yêu ai."

"Thế cậu đã từng yêu chưa? Naoko hỏi.

"Chưa bao giờ," tôi đáp.

Và nàng không hỏi thêm nữa.

Khi mùa thu đã tàn và những cơn gió lạnh bắt đầu tràn về qua thành phố, Naoko sẽ thường nép chặt vào cánh tay tôi. Tôi có thể cảm thấy hơi thở của nàng qua lần vải dày của chiếc áo khoác nàng mặc. Nàng sẽ khoác chặt lấy tay tôi, hoặc thọc tay vào túi áo tôi, hoặc nếu trời thật lạnh thì nàng run rẩy bám chặt lấy cánh tay tôi.

Những cái đó chẳng có ý nghĩa gì đặc biệt. Tôi vẫn tiếp tục bước, hai tay đút túi. Giày có đế cao-su của chúng tôi không gây tiếng động nào trên mặt vỉa hè, trừ những tiếng lạo xạo khô khốc mỗi khi chúng tôi giẫm phải những đám lá khô héo trên đường. Mỗi khi nghe tiếng động ấy, tôi thương cảm cho Naoko lắm. Cánh tay tôi không phải là cánh tay nàng cần, mà là tay người khác kia. Hơi ấm của tôi không phải là cái nàng cần, mà là hơi ấm của người khác kia. Tôi thấy gần như có tội vì đã là chính mình.

Càng vào sâu mùa đông, cái vẻ trong vắt của đôi mắt Naoko hình như cũng rõ ràng mãi lên. Đó là một thứ rõ ràng không biết sẽ dẫn tới đâu. Đôi khi Naoko khoá chặt tia nhìn của nàng vào mắt tôi mà không có lí do gì rõ rệt. Hình như nàng đang tìm kiếm một cái gì, và điều đó khiến tôi tràn ngập một cầm giác vô vọng và cô đơn kì lạ.

Tôi tự hỏi có phải là nàng đang cố truyền đạt một điều gì đó cho tôi, một điều gì đó mà nàng không thể nói nên lời - một điều gì đó có trước cả ngôn từ mà nàng không thể nắm bắt và do đó không thể hy vọng sẽ biến nó thành lời. Và thế là nàng sẽ nghịch cái dải buộc tóc, chấm chấm chiếc khăn tay lên miệng, hoặc nhìn vào mắt tôi với một vẻ vô nghĩa như thế. Tôi những muốn ôm chặt lấy nàng những lúc ấy, nhưng lại do dự và khựng lại. Tôi sợ mình sẽ làm nàng đau đớn. Và thế là hai chúng tôi cứ đi mãi trên những con phố Tokyo, trong khi Naoko cứ tìm kiếm lời lẽ trong không gian trống vắng.

Tụi con trai trong khu học xá luôn trêu chọc tôi mỗi khi tôi nhận điện thoại của Naoko hoặc ra đi vào một sáng Chủ nhật. Chúng đồ rằng, mà cũng tự nhiên thôi, tôi đã có bồ. Không thể giải thích sự thật cho chúng, và cũng chẳng cần phải thế, nên tôi để mặc cho chúng muốn nghĩ sao thì nghĩ. Tối về tôi phải chịu trận với hàng loạt các câu hỏi tọc mạch của chúng: Bọn tôi đã thử những động tác gì? Chỗ ấy của con bé nó ra sao? Đồ lót của nó hôm ấy màu gì? Chúng muốn nghe gì thì tôi trả lời theo thế.

Cứ như thế, tôi đi từ tuổi mười tám sang tuổi mười chín. Ngày nào mặt trời cũng mọc lên rồi lặn xuống, lá cờ cũng được kéo lên rồi hạ xuống. Chủ nhật nào tôi cũng đi chơi với cô gái của đứa bạn quá cố. Tôi không biết mình đang làm gì hoặc sẽ làm gì. Ở lớp thì tôi đọc Claudel và Racine và Eisenstein, nhưng họ hầu như chẳng có nghĩa lý gì với tôi. Ở lớp không đánh bạn với ai, và cũng hầu như chẳng quen ai trong khu học xá. Mọi người tưởng tôi muốn trở thành nhà văn vì lúc nào tôi cũng chỉ một mình với một cuốn sách, nhưng tôi đâu có tham vọng ấy. Tôi chẳng muốn thành một cái gì cả.

Tôi định nói về cảm giác ấy với Naoko. Ít ra thì nàng cũng có thể hiểu được tôi đang cảm thấy gì với một mửc độ chính xác nào đó, tôi nghĩ vậy. Nhưng tôi không bao giờ tìm được từ để diễn đạt mình. Lạ thật. Có vẻ như tôi đã lây căn bệnh thiếu lời của nàng.

Những tối thứ Bảy, tôi sẽ ngồi cạnh máy điện thoại ở dưới sảnh, đợi cú gọi của Naoko. Hầu hết mọi người đều đi cả nên sảnh nhà thường vắng teo. Tôi sẽ nhìn chăm chú những hạt sáng lửng lơ trong cái không gian im lìm ấy, cố sức nhìn vào chính cõi lòng mình. Tôi muốn gì? Và những người khác muốn gì ở tôi? Nhưng chẳng bao giờ tôi tìm được lời đáp. Đôi khi tôi sẽ đưa tay ra cố bắt lấy những hạt sáng kia, nhưng ngón tay tôi chẳng chạm thấy cái gì hết.

Tôi đọc nhiều, nhưng không nhiều sách khác nhau. Tôi thích đọc đi đọc lại những tác giả mà mình ưa thích nhất. Hồi đó là Truman Capote, John Updike, E Scott Fiagerald, Raymond Chandler, nhưng tôi không thấy có ai ở lớp hoặc trong khu học xá cũng đọc những tác giả ấy. Họ thích Kazumi Takahashi, Kenzaburo Oe, Yukio Mishima, hoặc những tiếu thuyết gia đương đại Pháp. Đó cũng là lí do tại sao tôi chẳng có gì nhiều để chuyện trò với ai mà chỉ lui thui với những cuốn sách của mình. Tôi thường nhắm nghiền mắt lại, chạm tay vào một cuốn sảch quen thuộc rồi rút lấy hương vị của nó vào sâu thẳm lòng mình. Thế là đủ để tôi hạnh phúc.

Tuổi mườì tám, cuốn sách yêu thích nhất của tôi là cuốn Nhân mã của John Updike, nhưng sau khi đã đọc nó một số lần, nó bắt đầu mất dần ánh hào quang ban đầu và phải nhường ngôi trên ấy cho cuốn Gatsby vĩ đại. Gatsby ở ngôi ấy một thời dài sau đó. Tôi thường rút nó ra khỏi giá sách mỗi lúc hứng chí và đọc một đoạn bất kì. Chưa bao giờ nó làm tôi thất vọng. Không có một trang buồn tẻ nào trong cuốn sách ấy. Tôi muốn nói cho mọi người biết rằng đó là một cuốn tiểu thuyết tuyệt vời, nhưng xung quanh tôi chưa có ai đã từng đọc Gatsby vĩ đại hoặc có ý muốn đọc nó. Mà giới thiệu và khuyến khích người khác đọc E Scott Fitzgerald, mặc dù không phải là một hành vi phản động, thật sự là một việc không thể làm được hồi 1968.

Khi cuối cùng gặp được một người trong thế giới của tôi đã từng đọc Gatsby vĩ đại, chúng tôi lập tức thành bạn của nhau. Tên hắn là Nagasawa. Hắn hơn tôi hai tuổi và, vì đang học luật tại Đại học Tokyo danh tiếng, hắn đã thuộc loại được đặc tuyển để sẽ gia nhập hàng ngủ lãnh đạo quốc gia. Chúng tôi ở cùng trong khu học xá và chỉ mới biết mặt nhau, cho đến một hôm tôi ngồi đọc Gatsby vĩ đại ở một chỗ sáng trong nhà ăn. Hắn ngồi xuống cạnh tôi và hỏi tôi đang đọc gì. Tôi bảo hắn, và hắn hỏi tôi có thích cuốn sách không. "Tôi đang đọc nó lần này là lần thứ ba" tôi đáp, "và lần nào cũng thấy có cái gì đó mới mẻ thích thú hơn lần trước."

"Người này nói hắn đã đọc Gatsby vĩ đại ba lần," hắn nói như thể độc thoại. "Hãy nghe đây, bất kì người bạn nào của Gatsby vĩ đại cũng là bạn của tôi."

Và thế là chúng tôi thành bạn. Chuyện đó diễn ra hồi tháng Mười.

Càng biết thêm về Nagasawa, hắn càng có vẻ lạ lùng hơn. Trong đời tôi đã gặp khối kẻ lạ lùng, nhưng không ai lạ bằng Nagasawa. Hắn mọt sách hơn tôi rất nhiều, nhưng hắn có lệ không bao giờ động đến một cuốn sách nếu tác giả của nó chết chưa được ba mươi năm. "Chỉ có sách loại ấy tớ mới tin được," hắn nói.

"Không phải tớ không tin vào văn học đương đại," hắn nói thêm, "nhưng tớ không muốn phí ngày giờ quý báu để đọc những thứ chưa được thời gian chấp nhận. Đời ngắn lắm."

"Cậu thích những tác giả kiểu gì?" tôi hỏi ngưởi trên mình hai tuổi bằng giọng cung kính.

"Balzac, Dante, Joseph Conrad, Dickens," hắn đáp liền.

"Không được thời thượng cho lắm."

"Chính thế nên tớ mới đọc họ. Nếu đọc những sách mọi người đều đang đọc, cậu sẽ chỉ nghĩ nhưng gì mọi người đang nghĩ mà thôi. Đó là thế giới của bọn cà tầm và rởm đời. Người chân chính sẽ rất xấu hổ nếu phải làm như vậy. Cậu không thấy thế sao hở Watanabe? Cậu với tớ là những con người đích thực duy nhất trong cái khu học xá này. Những thằng khác đều là đồ bỏ đi hết."

Tôi thật sự choáng. "Sao cậu có thể nói như vậy được?"

"Vì đó là sự thật. Tớ biết. Tớ có thể thấy rõ điều đó. Giống như chúng ta có dấu hiệu đặc biệt ở trên trán vậy. Và ngoài ra, cả hai ta đều đọc Gatsby vĩ đại."

Tôi tính nhẩm thật nhanh. "Nhưng Fitzgerald mới chết được hai mươi tám năm," tôi nói.

"Thì đã sao? Hai năm ư? Với Fitzgerald thì tính thêm lên thế được rồi."

Không có ai khác trong khu học xá biết chuyện Nagasawa là một độc giả bí mật của tiểu thuyết cổ điển, mà nếu họ có biết cũng chẳng làm sao. Nagasawa nổi tiếng thông minh. Hắn đỗ vào Đại học Tokyo như đi chơi, hắn được toàn điểm tốt, hắn sẽ thi hành chính quốc gia, vào Bộ Ngoại giao và trở thành một chính khách. Gia đình hắn giàu có. Cha hắn là chủ một bệnh viện lớn ở Nagoya, anh hắn cũng đã tốt nghiệp ở Tokyo, theo học y khoa, và một ngày nào đó sẽ thừa hưởng cái bệnh viện.

Nagasawa lúc nào cũng có đầy tiền trong túi, và hắn cư xử rất đường hoàng đĩnh đạc. Mọi người đều tôn trọng hắn, ngay cả ông giám đốc khu học xá. Khi hắn nhờ ai làm việc gì, người ấy sẽ cũng cúc làm ngay. Chuyện ấy không có lựa chọn nào khác.

Nagasawa có một phẩm chất tự nhiên nào đó hấp dẫn được mọi người và khiến mọi người phải theo mình.

Hắn biết phải làm đầu đàn ra sao, biết đánh giá tình thế, biết ra những mệnh lệnh vừa chính xác vừa lịch thiệp khiến người khác phải tuân thủ. Trên đầu hắn lơ lửng một vòng sáng tiết lộ quyền lực của hắn giống như vòng hào quang của thiên thần, và chỉ nhìn thấy thế cũng đủ làm người ta phải khiếp sợ con người siêu việt này. Cũng chính vì thế mà mọi người đều choáng khi thấy Nagasawa chọn tôi, một kẻ chẳng có phẩm chất gì nổi bật, làm người bạn đặc biệt của hắn. Vì thế mà có những người tôi hầu như không quen biết lại đối xử với tôi có phần rất trọng thị, nhưng điều dường như họ không nhận ra lại đơn giản thế này thôi: sở dĩ Nagasawa chọn tôi là vì tôi cư xử với hắn hoàn toàn chẳng có tí e dè nể sợ như hắn vẫn thấy ở tất cả những người khác. Đúng là tôi có thích thú với những phương diện phức tạp lạ lùng trong bản chất của hắn, nhưng chẳng có gì trong những thứ kia - nào điểm tốt, nào hào quang, nào vẻ ngoài của hắn – có được tí ấn tượng gì với tôi. Chắc điều đó phải là cái gì mới mẻ đối với hắn.

Trong nhân cách của Nasagawa có những cái cực kì mâu thuẫn với nhau. Có nhiều lần chính tôi cũng phải cảm động vì lòng tốt của hắn, nhưng hắn cũng có thể nhẫn tâm và đểu cáng không kém. Hắn vừa là một đạo linh hồn cao thượng tuyệt vời, vừa là một hạng rác rưởi cống rãnh vô phương cứu chuộc. Hắn có thể vẫn xốc tới như một vị lãnh tụ lạc quan trong khi chính con tim hắn đang khô héo giữa một đầm lầy cô độc. Ngay từ đầu tôi đã thấy những phẩm chất đầy nghịch lý này của hắn, và tôi vẫn không thể hiểu nổi tại sao chúng lại không hiển hiện rõ ràng trong mắt mọi người khác. Hắn sống trong cõi địa ngục đặc biệt của riêng mình.

Dù sao, có lẽ tôi đã luôn cố gắng nhìn hắn dưới một ánh sáng rõ ràng nhất. Cái phẩm giá lớn nhất của hắn là lòng trung thực. Không những hắn không bao giờ nói dối, hắn còn luôn sẵn sàng nhận khuyết điểm của mình. Không khi nào hắn định che giấu những gì có thể gây lúng túng cho bản thân. Và đối với tôi, hắn lúc nào cũng tử tế và sẵn sàng giúp đỡ. Nếu không có hắn, cuộc sống của tôi trong khu học xá sẽ buồn chán hơn rất nhiều. Thế nhưng tôi vẫn chưa một lần nào cởi mở lòng mình với Nagasawa, và trong chuyện này thì quan hệ của tôi với hắn hoàn toàn trái ngược với quan hệ của tôi với Kizuki.

Lần đầu tôi thấy Nagasawa say rượu và hành hạ một cô gái, tôi đã thề với mình sẽ không bao giờ, trong bất cứ hoàn cảnh nào, được cởi mở lòng mình với hắn.

Khu học xá lan truyền nhiều "truyền thuyết" về

Nagasawa. Một truyền thuyết nói đã có lần hắn ăn liền ba con ốc sên. Một truyền thuyết nữa nói hắn có một bộ củ khổng lồ và đã ngủ với hơn một trăm cô gái.

Câu chuyện ốc sên là có thật. Chính hắn kể vậy với tôi "Ba con mẹ to đùng," hắn nói. "Nuốt chửng tất cả một lúc."

"Để làm cái quái gì vậy?"

"À, chuyện đó xảy ra trong năm đầu tiên tớ đến sống ở đây," hắn nói. "Có vài chuyện như cứt xảy ra giữa bọn năm đầu và bọn năm thứ ba. Bắt đầu từ tháng Tư và đến tháng Chín thì căng thẳng cực độ. Vì là đại diện cho bọn năm đầu, tớ đi dàn hoà với bọn năm thứ ba. Một bọn hữu khuynh khốn nạn thực sự. Chúng đều đeo kiếm gỗ kendo, và rõ ràng chẳng có tí ý định dàn hoà. Thế là tớ bảo, "Thôi được, ta hãy chấm dứt sự việc ở đây. Bọn bay muốn làm gì tao thì làm, nhưng hãy để cho bọn năm đầu được yên thân". Thế là chúng nó bảo, "Ôkê, hãy nuốt chửng vài con ốc sên cho chúng tao xem". "Được thôi," tớ nói, "đem chúng đến đây." Bọn khốn ra ngoài và đem về ba con to dùng. Và tớ nuốt chửng cả ba."

"Nó ra làm sao?"

"Nó ra làm sao hả? Cậu phải tự nuốt chúng thì mới biết được. Cái cách nó chuồi vào cuống họng rồi trôi dần xuống tận bụng… lành lạnh, và sau đó thì có một dư vị rất kinh khủng… yyyyặc! Chỉ nghĩ đến thôi tớ cũng thấy lạnh cả người. Tớ muốn nôn lắm nhưng cố nhịn. Bởi vì nếu mà nôn ra, tớ sẽ phải nuốt tất cả chúng lại một lần nữa. Thế là tớ nhịn bằng được. Cả ba con nằm im trong bụng."

"Rồi thì sao?"

"Tớ về phòng mình và uống một xô nước muối. Làm thế đếch nào được nữa."

"Ờ tớ cũng đoán thế."

"Nhưng sau đó, không ai có thể nói gì được tớ. Cả bọn năm thứ ba cũng vậy. Tớ là thằng duy nhất ở đây có thể nuốt chửng liền ba con ốc sên."

"Chắc chắn rồi."

Tìm xem bộ củ của hắn to cớ nào thì dễ ợt. Tôi chỉ việc vào tắm chung với hắn trong nhà tắm công cộng của khu học xá. Công nhận là hắn có một bộ củ thực to. Nhưng một trăm cô gái thì có thế là thậm xưng.

"Có thể là bảy mươi lăm, hắn nói. "Tớ không thể nhớ hết bọn chúng, nhưng chắc chắn ít nhất cũng phải là bảy mươi."

Khi tôi bảo hắn tôi mới chỉ ngủ với một cô gái, hắn nói:

"Ôi dào, mình sẽ điều chỉnh việc đó, dễ mà. Lần sau cậu đi với tớ. Tớ sẽ kiếm ngay một đứa cho cậu, dễ lắm."

Tôi không tin hắn, nhưng hoá ra hắn nói đúng. Dễ thật. Hình như còn hơi dễ quá, khi đã lên men với những cốc bia đã hả. Chúng tôi đến một chỗ như là một quầy bar ở Shibuya hoặc Shinjuku gì đó (hắn có những địa điểm ưa thích riêng), thấy một cặp bạn gái (thế giới đầy những cặp bạn gái), nói chuyện với chúng, uống, về một khách sạn, và làm tình với chúng. Hắn tán chuyện cực giỏi. Không phải là hắn có những chuyện hay ho gì, mà là bọn con gái hễ cứ nghe tiếng hắn nói là mê tơi, rồi uống rõ nhiều, và cuối cùng thì ngủ với hắn. Tôi đoán chúng thích được ở bên cạnh một người hay như vậy, đẹp trai và thông minh như vậy. Và điều đáng kinh ngạc nhất là, chỉ vì tôi đi cùng với hắn, tôi có vẻ cũng trở nên hấp dẫn hệt như hắn. Nagasawa thường giục tôi tán chuyện đi, và bọn con gái sẽ quay sang tôi với những nụ cười khâm phục hệt như đối với hắn. Hắn sử dụng phép thuật của mình, một tài năng thực sự vẫn luôn gây ấn tượng với tôi. So với Nagasawa, tài nói chuyện của Kizuki chỉ là trò trẻ con. Đây hoàn toàn là một đẳng cấp khác. Ấy thế mà dù có thấy mình bị quyền phép của Nagasawa chi phối đến mấy, tôi vẫn nhớ tiếc Kizuki. Tôi có một cảm xúc khâm phục mới mẻ đối với tính trung thực của Kizuki. Cậu chỉ chia sẻ tất cả tài năng của mình cho tôi và Naoko, trong khi Nagasawa lại thích phân phát những món quà quý giá của hắn cho tất cả mọi người xung quanh. Không phải vì hắn thèm được ngủ với những cô gái hắn tìm thấy, mà đó chỉ là một trò chơi với hắn vậy.

Tôi không quá máu mê trong chuyện ngủ với những cô gái không quen biết. Dĩ nhiên đó là cách giải toả bức xúc xác thịt của tôi, và tôi cũng thích tất cả những trò ôm ấp đụng chạm kia, nhưng tôi ghét những buổi sáng hôm sau thậm tệ. Tôi sẽ thức giấc và thấy cô gái lạ ấy nằm ngủ ngay cạnh mình, gian phòng thì sặc mùi rượu, còn cái giường cùng với đèn đóm và rèm cửa thì đều lòe loẹt chướng mắt theo kiểu các "khách sạn tình yêu" và đầu tôi thì mụ mị như trong sương mù sau một đêm bí tỉ. Thế rồi cô gái sẽ thức giấc và bắt đầu mò mẫm xung quanh tìm những đồ bà rằn của mình và trong khi xổ bít-tất cô ta sẽ nói những câu đại loại như, "Em hy vọng đêm qua anh có dùng cái ấy. Tháng này thì đây là ngày tệ nhất của em đấy." Rồi cô ta sẽ ngồi xuống trước gương và bắt đầu lầu bầu về cơn nhức đầu hoặc về sự lủng củng của các món đồ trang điểm trong lúc tô lại môi hoặc dính lại hàng mì giả. Tôi vẫn thích không phải ở cả đêm với họ, nhưng ta không thể lo đối phó với lệnh cấm trại ban đêm của khu học xá trong khi đi ve gái (dù sao thì nó cũng trái với các quy luật vật lý), Và bao giờ tôi cũng phải mang theo giấy thông hành qua đêm. Điều đó có nghĩa là tôi sẽ phải ở lại bên ngoài cho đến sáng và trở về khu học xá với đầy những thất vọng và ghê tởm bản thân trong khi nắng sáng như dao đâm vào mắt, mồm miệng khô như ngậm cát, còn đầu óc thì như của ai khác vậy.

Khi đã ngủ với ba hoặc bốn cô gái theo kiều ấy, tôi hỏi Nagasawa, "Sau khi cậu đã làm chuyện này bảy mươi lần, nó có bắt đầu trở nên vô nghĩa không?"

"Điều đó chứng tỏ cậu là một người đàng hoàng tử tế", hắn nói. "Xin chúc mừng. Dứt khoát là chẳng được gì hết khi ta ngủ với hết đàn bà lạ này sang đàn bà lạ khác. Nó chỉ làm ta kiệt sức và khiến ta ghê tởm chính mình. Với tớ cũng thế thôi."

"Vậy thì vì lí do quái gì mà cậu cứ tiếp tục như thế?"

"Khó nói thật. Mà này, chắc cậu đã biết Dostoyevski viết gì về cờ bạc rồi chứ? Nó như vậy đấy. Khi ta bị vây quanh bởi vô vàn những cơ may, việc khó làm nhất là để tuột mất chúng. Hiểu điều tớ nói không?"

"Vậy vậy thôi."

"Nghe đây. Mặt trời lặn xuống. Bọn con gái ra ngoài và uống rượu. Chúng lang thang xung quanh và tìm kiếm cái gì đó. Tớ có thể cho chúng cái đó. Đó là việc dễ dàng nhất thế giới, như uống nước vặn ở vòi ra vậy. Chưa kịp nghĩ ngợi gì thì tớ đã đè chúng ra rồi. Đó là cái chúng mong đợi. Đó là cái mà tớ gọi là cơ may. Nó đầy rẫy xung quanh. Làm sao có thể phớt lờ nó được? Ta có khả năng và cơ hội để tận dụng nó. Cậu có thể cứ ngậm miệng và để nó tuột mất chăng?

"Tớ không biết, tớ chưa bao giờ ở trong một tình huống như thế," tôi nói vớỉ một nụ cười. "Tớ không thể tưởng tượng nó ra làm sao."

"Thật may mắn cho cậu," Nagasawa nói.

Máu ham gái là lí do Nagasawa sống trong khu học xá mặc dù gia đình hắn rất giàu có. Sợ rằng Nagasawa sẽ không làm một việc gì khác khi sống một mình ở

Tokyo, cha hắn đã buộc hắn phải sống cả bốn năm đại học trong khu học xá. Chuyện đó cũng chẳng nhằm nhò gì lắm với Nagasawa. Hắn chẳng chịu để một vài điều kỷ luật quấy rầy đến mình. Hễ khi nào thích, hắn sẽ lấy một thông hành qua đêm và đi săn gái hoặc ngủ lại ở căn hộ cô bồ của hắn. Những giấy thông hành này lấy được cũng không dễ gì, nhưng với hắn thì chúng cứ như giấy cho không - cả với tôi nữa cũng thế, nếu hắn là người đứng ra xin.

Nagasawa cũng có một cô bồ bền chặt mà hắn đã cặp ngay từ năm thứ nhất. Tên cô ta là Hatsumi, và cô cùng tuổi với Nagasawa. Tôi đã gặp cô vài lần và thấy cô rất hay. Cô ta không có cái vẻ ngoài nhìn một cái là thấy hấp dẫn ngay, và quả thực cô bình thường đến mức khi gặp lần đầu tôi đã phải tự hỏi tại sao Nagasawa không tìm một ai xinh đẹp hơn, nhưng hễ ai đã có dịp chuyện trò với cô cũng đều lập tức thích cô ngay. Ít nói, thông minh, dí dỏm, biết quan tâm đến người khác, lúc nào cô cũng ăn vận với một thị hiểu không thể chê vào đâu được. Tôi thích cô ghê lắm và biết rằng nếu tôi có thể có được một bạn gái như Hatsumi, tôi sẽ không lang chạ với đám gái linh tinh lang tang kia làm gì. Cô cũng thích tôi, và đã cố sức gán ghép tôi với một cô bạn năm thứ nhất trong cùng câu lạc hộ với cô để cả bốn đứa có thể cùng đi chơi với nhau, nhưng tôi thường bịa lí do để tránh lặp lại những sai lầm trong quá khứ. Hatsumi học ở một đại học nữ cao giá nhất nước, và không có cách gì để tôi có thể chuyện trò được với một trong những nữ chúa siêu giàu có ấy.

Hatsumi biết thừa là Nagasawa lang chạ lung tung, nhưng cô không bao giờ ca thán gì với hắn. Cô thực sự yêu nhưng không bao giờ đòi hỏi.

"Tớ không xứng với một cô gái như Hatsumi," Nagasawa có lần nói với tôi. Tôi phải đồng tình với hắn thôi.

Mùa đông ấy tôi kiếm được một việc làm thêm trong một tiệm bán đĩa nhạc ở Shinjuku. Tiền chẳng được mấy, nhưng công việc dễ dàng - chỉ có canh chừng cửa hàng ba đêm một tuần - và họ cho tôi được mua đĩa giá rẻ. Dịp Giáng sinh tôi mua cho Naoko một bộ đĩa Henry Mancini trong đó có bài "Trái tim Yêu dấu ưa thích của nàng. Tôi tự tay gói ghém món quà, đính cả một dải ruy-băng đỏ rực. Nàng tặng tôi một đôi găng tay len nàng đan. Ngón cái hơi bị ngắn, nhưng chúng giữ đôi bàn tay tôi ấm áp.

"Ôi chao, xin lỗi nhé," nàng nói, mặt ửng đỏ, "Mình đan kém quá!"

"Có sao đâu, chúng rất vừa mà," tôi nói, giơ cả hai bàn tay đi găng ra cho nàng.

"Cũng được, ít nhất thì cậu cũng không phải hai tay đút túi quần mãi nữa, phải không nào?"

Naoko không về nhà ở Kobe kỳ nghỉ đông ấy. Tôi cũng ở lại Tokyo, làm việc ở tiệm đĩa nhạc cho đến tận cuối năm. Tôi chẳng có gì đặc biệt vui vẻ để làm ở Kobe, cũng chẳng có ai tôi muốn gặp ở đó. Nhà ăn khu học xá đóng cửa trong kỳ nghỉ, và tôi đến ăn cơm ở căn hộ của Naoko. Đêm Giao thừa, hai đứa ăn bánh gạo và súp như tất cả mọi người.
Rất nhiều chuyện xảy ra từ cuối tháng Giêng đến tháng Hai năm ấy, 1969.

Cuối tháng Giêng, Quốc-xã liệt giường vì một trận sốt cấp tính. Có nghĩa là tôi phải thất hứa với Naoko đúng ngày hôm đó. Tôi đã phải chạy vạy mãi mới có được mấy tấm vé hoà nhạc không mất tiền. Nàng đã rất khấp khởi muốn đi nghe vì dàn nhạc sẽ chơi một trong những bản nhạc ưa thích nhất của nàng là Giao hưởng số Bốn của Brahm. Nhưng với Quốc-xã đang vật vã trên giường và có vẻ như đang sắp chết một cách đớn đau, tôi không thể bỏ mặc hắn ở đó, và cũng không thể tìm được ai ngu xuẩn đến mức thay tôi chăm sóc hắn. Tôi mua ít nước đá và dùng nhiều lớp túi nilông để chườm đá lên trán hắn, lau mồ hôi trên mặt hắn bằng khăn ướp lạnh, cặp nhiệt độ hàng giờ cho hắn, và thay cả áo chẽn cho hắn. Cơn sốt kéo dài một ngày, nhưng sáng hôm sau hắn đã nhảy ra khỏi giường và tập thể dục như không có chuyện gì xảy ra. Thân nhiệt hắn lại hoàn toàn bình thường. Khó có thể tin hắn là một con người.

"Lạ thật," Quốc-xã nói. "Suốt đời tớ có bao giờ sốt siếc gì đâu." Gần như là hắn đang đổ lỗi cho tôi vậy.

Đíều đó làm tôi phát điên. "Nhưng mà cậu vừa bị một cơn sốt xong," tôi khăng khăng, cho hắn coi hai tấm vé bị bỏ phí.

"May mà chúng không mất tiền mua," hắn nói. Tôi đã định giật lấy cái đài của hắn và quẳng nó ra ngoài cửa sổ, nhưng lại lên giường nằm với một cơn nhức đầu.

Tuyết rơi nhiều lần trong tháng Hai.

Gần cuối tháng, tôi sa vào một trận cãi cọ ngu xuẩn với một gã năm thứ ba ở cùng tầng với tôi và ra tay đấm hắn. Hắn bị dập đầu vào tường bêtông, nhưng bị thương không nặng lắm, và Nagasawa đã ra tay giải quyết sự vụ ổn thổa cho tôi. Nhưng tôi vẫn bị gọi lên văn phòng giám đốc khu học xá và bị cảnh cáo. Sau đó, cuộc sống trong khu học xá mỗi ngày một thêm khó chịu đối với tôi.

Năm học kết thúc vào tháng Ba, nhưng tôi bị thiếu một vài học phần. Kết quả thi của tôi trung bình - hầu hết là C với D, chỉ có vài con B. Naoko có được đủ những điểm cần thiết để sang học kỳ mùa xuân của năm thứ hai.

Chúng tôi đã xong được một chu kỳ đầy đủ của bốn mùa.

Đến giữa tháng Tư thì Naoko tròn hai mươi tuổi. Nàng hơn tôi bảy tháng. Sinh nhật tôi là vào tháng Mười một.

Có cái gì đó là lạ trong việc nàng đã tròn hai mươi. Tôi cảm thấy dường như chỉ có duy nhất một thứ có ý nghĩa với Naoko cũng như với tôi, và đó là cứ tiếp tục qua lại mãi giữa tuổi mười tám và mười chín. Sau tuổi mười tám sẽ là tuổi mười chín, và sau mười chín lại đến mười tám, tất nhiên rồi. Nhưng nàng đã tròn hai mươi. Và đến mùa thu thì tôi cũng vậy. Chỉ có người chết mới mãi mãi ở tuổi mười bảy mà thôi.

Trời mưa hôm sinh nhật nàng. Sau giờ học tôi mua một cái bánh gatô ở gần đó rồi lên tàu điện đến căn hộ của nàng. "Chúng ta phải ăn mừng chứ," tôi bảo nàng.

Có thể tôi cũng sẽ muốn như thế nếu ở địa vị nàng. Sinh nhật lần thứ hai mươi mà chỉ có một mình thì sợ quá. Tàu điện chật ních người và chạy giật cục kinh hồn đến nỗi khi tôi đến nơi thì cái bánh trông như toà đấu trường La Ma đổ nát chứ không ra hình thù gì khác. Dù sao, lúc tôi đã cắm được hai mươi cái nến đem theo, thắp sáng chúng, kéo rèm cửa và tắt đèn đi thì chúng tôi cũng vẫn có đầy đủ một buổi liên hoan mừng sinh nhật. Naoko mở một chai vang. Chúng tôi uống, ăn một ít bánh, và thương thức một bữa tối giản dị.

"Mình không biết nữa, thật ngu xuẩn khi hai mươi tuổi, nàng nói. "Mình chưa sẵn sàng. Là lạ thế nào ấy. Giống như có ai cứ đẩy mình từ sau lưng."

"Mình còn bảy tháng nữa để sẵn sàng," tôi nói và cười vang.

"Cậu thật may mắn! Vẫn mười chín tuổi!" Naoko nói hơi có giọng ganh tị.

Trong lúc ăn tôi kể cho nàng về cái áo len cộc tay mới của Quốc-xã. Từ trước hắn vẫn chỉ có độc một cái màu xanh thuỷ quân, nên bây giờ có cái thứ hai là cả một chuyển biến lớn. Bản thân cái áo thì cũng hay, màu đỏ và đen, đan có trang trí hình con hươu, nhưng mặc vào người hắn thì ai thấy cũng phải phì cười. Hắn không hiểu ra làm sao cả.

"C cơ cai-cái gì mà họ cười thế hả, Watanabe?" hắn hỏi, ngồi xuống cạnh tôi trong nhà ăn. "Có cái gì dính trên trán tớ à?"

"Có gì đâu," tôi nói, cố giữ vẻ mặt bình thường.

"Có gì buồn cười đâu. Cái áo len đẹp đấy."

"Cảm ơn," hắn nói, mặt rạng rỡ.

Naoko thích chuyện ấy quá. "Mình phải gặp anh chàng đó mới được," nàng bảo. "Chỉ một lần thôi."

"Không thể được," tôi nói. "Cậu sẽ phì cười vào mặt hắn thôi."

"Cậu nghĩ thế à?"

"Mình cuộc là vậy. Ngày nào mình cũng thấy hắn và nhiều khi vẫn không thể nhịn được cười."

Chúng tôi dọn bàn rồi ngồi xuống sàn, nghe nhạc và uống nốt chỗ rượu vang. Khi tôi uống hết một cốc thì nàng đã cạn hết hai.

Đêm ấy Naoko nói nhiều khác thường. Nàng kể cho tôi về thời thơ ấu của nàng, trường học và gia đình nàng. Chuyện nào cũng dài, mà kể thật tỉ mỉ chi tiết như một bức tiểu hoạ. Tôi kinh ngạc thấy kí ức nàng mạnh đến vậy, nhưng khi ngồi lắng nghe nàng, tôi bỗng chợt thấy có cái gì đó không ổn trong lối kể chuyện của nàng, một cái gì đó lạ lùng, thậm chí méo mó. Mỗi câu chuyện đều có cái logic riêng của nó, nhưng mối liên hệ của chúng với nhau thì lại bất thường. Chưa kịp nghe thủng thì chuyện A đã nhập vào với chuyện B, vốn đã có ở A rồi, và sau đó thì chuyện C lại xuất hiện từ cái gì đó ở chuyện B, cứ thế không bao giờ dứt. Lúc đầu tôi còn cố tìm cách đối đáp, nhưng một lúc sau thì chịu chết. Tôi đặt một đĩa hát lên máy và khi hết thì nhấc kim ra và thay một đĩa khác vào đó. Chạy hết đã cuối cùng thì tôi quay lại đĩa đầu tiên. Nàng chỉ có sáu đĩa tất cả. Chu kỳ âm nhạc bắt đầu bằng bài Băng nhạc câu lạc bộ những trái tim cô đơn của Sgt. Pepper và kết thúc bằng bản Điệu Van-xơ cho Debbie của Bill Evan. Mưa cứ rơi ngoài cửa sổ.

Thời gian chầm chậm trôi. Naoko tiếp tục nói chuyện một mình.

Cuối cùng thì tôi đã hiểu ra cái gì không ổn: Naoko đang hết sức cảnh giác không động đến một số điều gì đó trong khi nàng kể chuyện. Một là Kizuki, tất nhiên rồi, nhưng còn hơn thế nữa. Và mặc dù đã có một số chủ đề nàng cương quyết lảng tránh, Naoko vẫn cứ nói mãi và tỉ mẩn không thể tưởng tượng được về những thứ linh tinh vụn vặt và tầm thường nhất. Tôi chưa bao giờ nghe nàng nói hùng hồn đến thế nên không dám ngắt lời.

Khi đồng hồ điểm mười một giờ thì tôi bắt đầu thấy bồn chồn. Naoko đã nói liền tù tì hơn bốn tiếng rồi. Tôi cần phải lo đến chuyến tàu cuối cùng của mình cũng như lệnh giới nghiêm nửa đêm của khu học xá. Tôi chộp lấy một cơ hội và cắt lời nàng.

"Đã đến lúc lính tráng phải về," tôi nói, mắt nhìn đồng hồ đeo tay. "Sắp đến chuyến tàu cuối rồi."

Lời tôi nói có vẻ không đến được tới nàng. Hoặc nếu được thì nàng đã không thể hiểu chúng có nghĩa gì.

Nàng ngậm chặt miệng chưa đến một giây, rồi lại tiếp tục nỏi. Tôi đầu hàng, sửa lại tư thế ngồi cho thoải mái hơn và uống nốt chỗ vang còn lại của cái chai thứ hai. Tôi nghĩ cứ nên mặc nàng nói cho hả thì thôi. Lệnh giới nghiêm và chuyến tàu cuối cùng sẽ phải tự chúng giải quyết với nhau.

Nhưng nàng cũng không tiếp tục lâu nữa. Khi tôi để ý thì nàng đã ngừng rồi. Phần cuối tơi tả của lời nàng dường như đang bồng bềnh trong không gian, nơi chúng đã bị bóc xuống từ nãy đến giờ. Nàng không thực sự kết thúc những gì đang nói. Chỉ đơn giản là lời nàng đã biến thành không khí hết cả. Nàng vẫn muốn tiếp tục, nhưng chẳng còn gì ở đó nữa. Một cái gì đó vừa biến mất, và có thể tôi đã là kẻ gây ra điều tàn hại ấy. Lời tôi nói có thể cuổi cùng đã đến được tới nàng, chờ ở đó để được nàng hiểu, và tiêu diệt hết phần năng lượng đã khiến nàng nói chuyện được lâu đến thế. Đôi môi hơi hé mở, nàng quay cặp mắt chưa biết nhìn vào đâu về phía tôi. Trông nàng giống như một cỗ máy đang chạy đều thì bị người rút mất điện. Mắt nàng có vẻ mờ mịt, như bị một thứ màng mỏng và trong veo kéo qua che kín.

"Mình xin lỗi đã ngắt lời cậu," tôi nói, "nhưng đã muộn rồi, và…"

Một giọt lệ lớn từ mắt nàng tràn ra, trôi xuống má và rơi xuống một cái vỏ đĩa hát. Sau giọt đầu tiên ấy, nước mắt nàng trào ra như suối. Naoko gập người bò xuống nền nhà, úp cả bàn tay xuống chiếu và bắt đầu kêu khóc quằn quại như một người đang nôn thốc nôn tháo vậy.

Trong đời tôi chưa bao giờ thấy có ai khóc dữ dội như thế. Tôi vươn tới và đặt một bàn tay lên bờ vai đang rung bần bật của nàng. Thế rồi, hoàn toàn chỉ là bản năng, tôi ôm nàng vào lòng. Nép chặt vào tôi, toàn bộ thân thể nàng run lên, và nàng tiếp tục khóc không ra tiếng. Sơ-mi tôi ướt đẫm, sũng nước mắt nàng và hơi thở nóng hổi của nàng. Chẳng mấy chốc những ngón tay nàng bắt đầu chạy khắp qua lưng tôi như thể tìm kiếm một thứ gì, một thứ gì đó quan trọng vẫn luôn ở đó. Đỡ nàng bằng tay, tôi dùng tay phải vuốt ve mái tóc thẳng và mềm mại của nàng. Và tôi chờ đợi. Trong tư thế ấy, tôi chờ đợi cho Naoko nín khóc. Và tôi cứ đợi như thế mãi. Nhưng Naoko chẳng bao giờ ngừng khóc.

Đêm đó tôi đã ngủ với Naoko. Làm vậy có phải không ư? Tôi không biết nữa. Ngay cả bây giờ, gần hai mươi năm đã qua, tôi vẫn không biết chắc. Có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ biết. Nhưng lúc bấy giờ, tôi chỉ có thể làm được có vậy mà thôi. Nàng đang trong tình trạng căng thẳng và rối trí cao độ, và nàng nói rõ rằng nàng muốn tôi giải toả cho nàng. Tôi hạ bớt ánh sáng đèn và bắt đầu cởi bỏ quần áo nàng, từng thứ một, với những động chạm nhẹ nhàng nhất. Rồi tôi cởi quần áo mình. Trời đủ ấm, cái đêm mưa tháng Tư ấy, để chúng tôi có thể bám chặt lấy sự trần trụi của nhau mà không thấy lạnh lẽo.

Chúng tôi khám phá thân thể nhau trong bóng tối, không nói một lời. Tôi hôn nàng và nâng đôi vú mịn màng của nàng trong tay. Nàng siết chặt lấy sự cương cứng của tôi. Châu thân nàng mở ra nóng âm, ướt át và mong ngóng tôi.
Thế mà khi tôi vào đến trong nàng, Naoko bỗng cứng người lại vì đau đớn. Đây là lần đầu của nàng ư? tôi hỏi, và nàng gật đầu. Giờ thì đến lượt tôi thấy rối trí. Tôi vẫn tưởng rằng Naoko đã ngủ với Kizuki trong suốt thời gian ấy. Tôi tìm vào nàng thật sâu, đến tận cùng của chính mình, và ở lại đó một lúc lâu, im lìm ôm ấp nàng.

Thế rồi, khi nàng đã bắt đầu có vẻ bình tĩnh hơn, tôi thả cho mình chuyển động bên trong nàng với những động tác thật chậm rãi và nhẹ nhàng để phải thật lâu mới tới vùng cực cảm. Lúc ấy nàng mới phá vỡ sự im lặng của mình và siết chặt lấy tôi bằng cả hai cánh tay. Tiếng kêu của nàng là âm thanh cực cảm buồn thảm nhất mà tôi đã từng nghe.

Khi mọi thứ đã xong, tôi hỏi Naoko tại sao nàng lại chưa bao giờ ngủ với Kizuki. Đó thực là một sai lầm.

Tôi vừa dứt lời thì nàng liền bỏ tay ra và lại bắt đầu khóc không thành tiếng. Tôi lấy chăn nệm từ trong hộc tủ, trải chúng xuống sàn nhà lót chiếu, và đặt nàng vào giữa lần chăn nệm ấy. Vừa hút thuốc, tôi vừa ngắm nhìn màn mưa tháng Tư đang rơi như không bao giờ ngừng ở bên ngoài cửa sổ.

Mưa đã tạnh khi trời hửng sáng. Naoko đang nằm ngủ quay lưng về phía tôi. Hoặc giả nàng đã chẳng ngủ tí nào.

Thức hay ngủ, nàng cũng chẳng còn lời nào trên môi nữa, và thân xác nàng giờ đây có vẻ cứng nhắc, gần như đóng băng vậy. Tôi đã cố nói với nàng nhiều lần, nhưng nàng không hề đáp lại, không hề động cựa. Tôi ngắm nhìn bờ vai trần của nàng rất lâu, nhưng cuối cùng thì hết hy vọng có thể làm cho nàng đáp lại mình và quyết định phải dậy.

Sàn nhà vẫn lăn lóc những vỏ đĩa hát, chai, cốc, và chiếc gạt tàn tôi đã dùng. Một nửa cái bánh sinh nhật nhàu nát vẫn ở trên bàn. Hình như thời gian đã dừng lại.

Tôi nhặt nhạnh mọi thử ở dưới sàn lên và uống hai cốc nước vặn ở vòi ra. Trên bàn học của Naoko có một cuốn tự điển và một biểu đồ chia động từ tiếng Pháp. Tường phía trên bàn có treo một tờ lịch, loại không có hình minh hoạ hoặc ảnh chụp, chỉ có ngày tháng với các con số. Không có một ghi nhớ hoặc đánh dấu nào viết trên các ô ngày tháng của tờ lịch ấy.

Tôi nhặt quần áo mặc vào người. Ngực chiếc sơ-mi vẫn còn ẩm và lạnh. Nó có mùi Naoko. Tôi viết lên tập giấy ghi chú để trên bàn: Mình muốn nói chuyện với cậu thật dài và cẩn thận khi nào cậu đã bình tĩnh lại. Làm ơn gọi mới sớm nhé. Chúc mừng sinh nhật. Tôi quay lại nhìn bờ vai Naoko lần nữa, rồi bước ra ngoài và nhẹ nhàng đóng cửa lại.

Không có cú gọi nào mặc dù một tuần lễ đã trôi qua. Chỗ Naoko ở không có hệ thống gọi mọi người ra nhận điện thoại, và thế là sáng Chủ nhật tôi lên tàu đi Kokubunji.

Nàng không có đó, và tên nàng đã không còn thấy niêm yết ngoài cửa. Các cửa sổ đều đóng chặt cả kính lẫn chớp.

Người quản lí bảo tôi Naoko đã dọn đi ba ngày trước đó. Ông ta không biết nàng dọn đi đâu.

Tôi trở về khu học xá và viết cho Naoko một bức thư dài, đề gởi đến địa chỉ gia đình nàng ở Kobe. Nàng ở đâu thì họ cũng sẽ chuyển nó đến cho nàng. Tôi hy vọng thế.

Tôi viết cho nàng thật trung thực về những cảm xúc của mình. Có rất nhiều điều tôi vẫn chưa hiểu, tôi viết thế, và mặc dù là tôi đang cố gắng để hiểu, việc đó cần có thời gian. Hiện tại tôi không thể biết khi đã hiểu hết mọi chuyện thì tôi sẽ ra sao, cho nên tôi không thể hứa hẹn hoặc đòi hỏi gì, cũng không thể viết ra những lời hoa mỹ được. Có một điều là chúng ta biết quá ít về nhau. Tuy nhiên, nếu nàng cho tôi có thời gian, tôi sẽ dùng nó cho những nỗ lực tốt đẹp nhất của mình, và hai đứa chúng mình sẽ hiểu rõ nhau hơn. Trong hoàn cảnh nào đi nữa, tôi rất muốn được gặp lại nàng và nói chuyện thật lâu với nàng. Khi tôi mất Kizuki, tôi đã mất một người có thể chia sẻ những tình cảm trung thực nhất của mình, và tôi nghĩ rằng Naoko cũng như vậy. Nàng và tôi cần đến nhau nhiều hơn là chúng tôi tưởng. Và điều đó, không nghi ngờ gì nữa, chính là lí do tại sao quan hệ của chúng tôi đã có một bước ngoặt lớn như vậy, và theo một nghĩa nào đó, đã trở nên vênh váo.

Có lẽ mình không nên làm vậy, nhưng mình vẫn tin rằng mình chỉ có thể làm được đến thế. Những tình cảm ấm áp và gần gũi mà mình có với cậu vào lúc đó là một cái gì đó mình chưa bao giờ được nếm trải. Mình cần cậu đáp lại bức thư náy. Dù lời đáp của cậu là thế nào đi nữa, mình vẫn cần có nó.

Vẫn không có một lời phúc đáp nào.

Một cái gì đó bên trong tôi đã rơi ra mất, và chẳng gì đến lấp cho tôi chỗ trống ấy trong lòng. Thân thể tôi bỗng nhẹ nhõm bất thường, và bất kì âm thanh nào cũng có một tiếng vọng cồn cào đuổi theo. Tôi đến lớp đều đặn chưa từng thấy. Lớp nào cũng tẻ ngắt, tôi chẳng bao giờ chuyện trò với bạn cùng lớp, nhưng tôi chẳng có việc gì khác để làm. Tôi chỉ ngồi một mình ở ngay hàng ghế trên cùng của giảng đường, không nói năng với ai, và ăn một mình. Tôi bỏ thuốc lá.

Cuộc bãi khoá của sinh viên nổ ra vào cuối tháng Năm. "Giải tán Đại học" tất cả chúng đều gào thét như vậy. Phải đấy, cứ làm đi, tôi nghĩ. Giải tán đi. Phá mẹ nó đi. Đập vụn nó ra. Việc đếch gì đến tôi. Có khi thế lại dễ thở chưa biết chừng. Tôi cũng sẵn sàng rồi đây. Nếu cần thì tôi cũng giúp một tay. Cứ việc làm tới đi.

Trường bị bao vây và các lớp học bị đình chỉ, tôi bèn đi làm cho một công ty chuyên giao hàng. Ngồi cạnh tài xế, chất hàng dỡ hàng lên xuống các xe tải, đại loại thế.

Công việc nặng nhọc hơn tôi tưởng. Lúc đầu tôi tưởng không thể nhấc được mình ra khỏi giường vì nhức mỏi. Nhưng tiền kiếm lại khá, và chừng nào thân xác tôi được hoạt động liên tục thì tôi còn có thể quên được khoảng rỗng trong người mình. Tỏi đi làm theo xe tải năm ngày một tuần, và vẫn tiếp tục làm ba đêm một tuần ở tiệm ca nhạc. Những đêm không đi làm thì tôi tiêu thời gian bằng rượu whisky và đọc sách. Quốc-xã không chịu đụng đến whisky và không chịu được mùi rượu, nên khi tôi nằm dài trên giường tu thẳng từ chai thì hắn phàn nàn là mùi rượu làm hắn không thể học bài được và đề nghị tôi mang cái chai ra bên ngoài.

"Có cậu cút ra ngoài thì có," tôi lầu bầu.

"Nhưng cậu biết uống rượu trong khu học xá là vi ph-phơ-phờ-phạm nội quy mà?"

"Tớ đếch cần. Cậu cút đi."

Hắn không phàn nàn nữa, nhưng tôi lại thay áy náy. Tôi lên mái nhà và uống một mình ở đó.

Tháng Sáu, tôi viết cho Naoko một lá thư dài nữa, cũng gửi đến địa chỉ gia đình nàng ở Kobe. Nó cũng nói những chuyện gần giống hệt như trong bức thư đầu tiên, nhưng ở cuối thư tôi viết thêm:

Chờ cậu trả lời là một trong những việc đau đớn nhất mà mình đã từng phải chịu đựng. Ít nhất thì cũng cho biết là mình có làm cậu đau khổ hay không?

Khi gửi lá thư đó đi, tôi cảm thấy cái lỗ trống trong người mình lại lớn thêm ra.

Tháng Sáu ấy tôi lại đi chơi gái hai lần nữa với Nagasawa. Cả hai lần đều dễ. Cô gái thứ nhất chống cự ghê gớm lúc tôi cố lột quần áo và ấn cô lên giường khách sạn, nhưng khi thấy không đáng phải làm thế, tôi bèn lấy sách ra nằm đọc một mình, và lúc ấy thì cô ta lại trở lại nũng nịu với tôi. Còn sau khi đã ngủ với cô thứ hai thì cô này lại bắt đầu hỏi tôi rặt những chuyện riêng tư - Tôi đã ngủ với bao nhiêu cô rồi? Quê quán ở đâu? Học đại học nào? Thích nhạc gì? Đã bao giờ đọc tiểu thuyết của Osamu Dazai chưa? Nếu được đi chơi nước ngoài thì thích đi đâu? Tôi có thấy đầu vú cô quá to không? Tôi bịa vài câu trả lời rồi lăn ra ngủ, nhưng sáng hôm sau cô ta nói muốn được ăn sáng với tôi, và lại tiếp tục hỏi liên miên trên món trứng vô vị với bánh mì nướng và cà-phê. Cha tôi làm công việc gì? Ở trường tôi có được điểm tốt không? Tôi sinh tháng nào? Đã bao giờ ăn thịt ếch chưa? Cô ta làm tôi nhức đầu, và vừa ăn xong tôi bèn nói là tôi phải đi làm ngay.

"Liệu em có gặp lại anh nữa không?" cô ta hỏi, về mặt buồn rầu.

"Ồ, nhất định là chúng mình sẽ sớm gặp lại nhau ở đâu đó mà," tôi nói, rồi bỏ đi. Tôi đang làm cái trò gì vậy?

Vừa một mình là tôi đã tự hỏi và thấy ghê tởm bản thân quá. Nhưng mà tôi chỉ có thể làm được có vậy. Thân thể tôi đói đàn bà. Trong suốt những lần ngủ với những cô gái kia, tôi đều nghĩ đến Naoko, đến dáng hình trăng trắng của tấm thân trần truồng của nàng trong bóng tối, những tiếng thở dài của nàng, tiếng mưa rơi. Càng nghĩ đến những cái đó, thân xác tôi càng thêm thèm muốn.

Tôi lên mái nhà với chai whisky và tự hỏi không biết cuộc đời mình đang đi về đâu.

Cuối cùng, vào đầu tháng Bảy, tôi nhận được một lá thư của Naoko. Một lá thư ngắn ngủi.

"Làm ơn tha lỗi cho mình đã không trả lời sớm hơn. Nhưng hãy cố hiểu cho mình. Sau một thời gian dài mình mới có tâm trạng để có thể viết, ít nhất mình đã viết bức thư này đến hàng chục lần. Với mình, viết là một quá trình đau đớn. Cho phép mình bắt đầu bằng một kết luận nhé.

Mình đã quyết định nghỉ học một năm. Chính thức thì là nghỉ, nhưng có lẽ mình sẽ không bao giờ quay lại nữa. Chuyện này có thể làm cậu ngạc nhiên, nhưng thực ra mình đã nghĩ đến nó từ rất lâu rồi. Đã có một vài lần mình cố nói cho cậu biết, nhưng không biết mở đầu cách nào. Mình sợ cả việc phát phát âm ra. Hay cố đừng để mọi thứ làm mình căng thẳng.

Cho dù có chuyện gì đi nữa, hoặc chẳng có chuyện gì đi nữa, thì kết cục cũng như nhau cả thôi. Nói thế này có lẽ không phải là cách tốt nhất, nhưng xin lỗi đã làm cậu phải đau đớn. Điều mình đang cố nói với cậu là: mình không muốn cậu đổ lỗi cho bản thân vì những gì đã xảy đến với mình. Đó là chuyện mình phải tự quyết định lấy. Mình đã trì hoãn nó trong hơn một năm, và cuối cùng thì lại làm khó cho cậu. Có lẽ không thể trì hoãn thêm được nữa.

Sau khi dọn đi, mình về nhà ở Kobe và đi bác sĩ một thời gian. Ông ta bảo có một chỗ trên vùng núi bên ngoài Kyoto có thể là hoàn hảo cho mình, và mình đang nghĩ sẽ lên đó một thời gian ngắn xem sao.

Đó không hẳn là một bệnh viện, mà giống một khu an dưỡng và cách điều trị cũng phóng khoáng hơn nhiều. Thư sau mình sẽ kể chi tiết hơn. Cái mình cần bây giờ là để cho thần kinh được nghĩ ngơi ở một nơi yên tĩnh cách biệt hẳn với thế giới.

Mình biết ơn cậu, theo cách riêng của mình, vì đã dành cho mình cả một năm trời. Cậu làm ơn hãy tin mình chuyện này nếu như cậu không tin gì khác.

Cậu không phải là người làm cho mình đau khổ. Chính mình là người làm chuyện đó. Mình thực sự cảm thấy thế.

Dù sao, bây giờ mình vẫn chưa sẵn sàng để gặp cậu đâu. Không phải mình không muốn gặp cậu. Chỉ đơn giản là mình chưa thể. Khi nào có thể, mình sẽ viết cho cậu. Như lời cậu nói, đây có lẽ là việc chúng ta nên làm: hãy tìm cách hiểu nhau hơn.

Tạm biệt."

Tôi đọc đi đọc lại lá thư của Naoko, và lần nào cũng thấy mình chìm ngập trong cùng một nỗi buồn không thể chịu đựng nổi mà tôi vẫn cảm thấy mỗi khi Naoko chăm chú nhìn vào mắt mình. Tôi không có cách gì đương đầu với nỗi buồn ấy, không biết đem nó đi đâu, giấu nó vào đâu. Giống như gió thổi qua thân xác tôi, nó không có hình thù, cũng không có sức nặng, và tôi cũng không thể quấn nó quanh mình. Những vật thể trong cảnh trí ấy sẽ bồng bềnh trôi qua ngay bên tôi, nhưng lời chúng nói không bao giờ đến được tai tôi.
ôi tiếp tục ngồi lì suốt những tối thứ Bảy dưới sảnh nhà. Không hy vọng sẽ có cú điện thoại nào gọi mình, nhưng tôi chẳng biết dùng thời gian ấy vào việc gì khác. Tôi sẽ vặn chương trình bóng chày lên và giả vờ xem, rồi cứ thế cắt khoảng không giữa tôi và cái TV ra làm hai, rồi lại cắt mỗi nửa ấy ra làm hai nữa, cứ thế cho đến lúc có một khoảng không đủ nhỏ trong lòng bàn tay mình.

Tôi sẽ tắt TV lúc mười giờ, về phòng mình, rồi đi ngủ.

Cuối tháng ấy, Quốc-xã cho tôi một con đom đóm. Nó ở trong một cái lọ vẫn đựng cà-phê tan, nắp có đục lỗ thông hơi, với mấy cọng cỏ và một ít nước. Trong phòng có đèn sáng, con đom đóm trông như một thứ côn trùng bình thường đen xì vẫn thường thấy ở ao hồ, nhưng Quốc-xã khăng khăng nó là đom đóm thứ thiệt. "Đom đóm thì tớ nhìn là biết liền", hắn nói, và tôi chẳng có lí do hoặc cơ sở gì để không tin hắn.

"Được rồi," tôi bảo. "Đom đóm thì đom đóm."

Trông nó như buồn ngủ, nhưng nó cứ không ngừng trèo lên thành thuỷ tinh trơn tuột của cái lọ rồi lại ngã xuống.

"Tớ thấy nó ở ngoài sân," hắn nói.

"Ở đây? Cạnh nhà mình à?"

"Ứ. Cậu biết cái khách sạn ở cuối phố chứ? Họ thả đom đóm trong vườn để hầu khách mùa hè. Con này chắc bay lạc đến đây."

Vừa nói, Quốc-xã vừa loay hoay nhét quần áo sách vở vào cái túi xách Boston màu đen của hắn.

Chúng tôi nghỉ hè đã được nhiều tuần. Có lẽ chỉ còn có tôi và hắn ở lại trong khu học xá. Tôi tiếp tục đi làm chứ không muốn về Kobe. Hắn ở lại theo một lớp thực tập. Lớp ấy vừa xong, nên hắn sắp sửa về nhà ở vùng núi Yamanashi.

"Cậu có thể tặng nó cho bạn gái cậu," hắn bảo. "Nhất định là cô ta thích đấy."

"Cám ơn," tôi nói.

Tối đến, khu nhà ngủ im lìm như một nơi hoang phế. Lá cờ đã được hạ xuống và chỉ có đèn sáng ở cưa sổ nhà ăn. Còn ít sinh viên ở lại quá, người ta đã tắt bớt nửa số đèn trong khu học xá, nửa bên phải thì tối còn nửa bên trái thì sáng. Nhưng vẫn ngửi thấy mùi từ nhà ăn bay ra, một món thịt hầm xốt kem gì đó.

Tôi đem lọ đom đóm lên mái nhà. Không có ai trên đó Một cái áo chen phơi trên dây của ai bỏ quên đang phất phơ trong gió như cái vỏ lột của một con côn trùng khổng lồ. Tôi trèo cái thang sắt ở góc mái lên hẳn nóc bể chứa nước của khu nhà. Cái bể vẫn còn ám vì đã phơi nắng cả ngày. Tôi ngồi trên khoảng nóc bể chật hẹp, dựa vào lan can và thấy mình trực diện với vầng trăng gần tròn bệch bạc. Những ánh đèn của khu Shinjuku nhấp nhoáng phía bên phải, Ikebukuro phía bên trái. Đèn ô-tô chạy thành những dòng dài sáng rực từ vùng sáng này sang vùng sáng kia. Những tiếng động hỗn độn của thành phố hoà vào nhau thành một âm thanh âm ỉ như mây lơ lửng trên không trung.

Con đom đ

Re:Cùng nhau đọc truyện : Rừng Na-uy

Đã gửi: Ba T10 24, 2006 6:30 pm
Viết bởi Ansamurai
Rừng Na-Uy
Chương 4

Dịch giả: Trinh Lữ





Trong những ngày nghỉ hè ấy nhà trường gọi cảnh sát dã chiến đến. Họ dỡ hết những chướng ngại vật và bắt nhiều sinh viên. Chuyện ấy chẳng có gì lạ. Hồi bấy giờ sinh viên là vậy. Các trường đại học không dễ gì bị "giải tán". Hàng núi của đã được người ta đầu tư vào cho chúng, và chúng không thể cứ thế tan rã chỉ vì một số sinh viên hứng trí làm càn. Mà thực sự thì lũ sinh viên đã bao vây trường kia cũng chẳng muốn giải tán trường. Tất cả ý muốn thực của chúng chỉ là thay đổi cán cân quyền lực trong nội bộ nhà trường, mà chuyện ấy thì tôi không bao giờ quan tâm. Cho nên khi cuộc bãi khoá cuối cùng chấm dứt, tôi chẳng có tí xúc cảm nào.

Tháng Chín, tôi vào trường và tưởng sẽ thấy toàn cảnh đổ nát. Nhưng mọi thứ vẫn y nguyên. Sách trong thư viện vẫn đâu vào đó, các phòng giáo viên vẫn không bị phá, phòng giáo vụ vẫn không bị đốt. Tôi kinh ngạc vô cùng. Lũ chúng nó đã làm gì sau những đông chướng ngại vật ấy?

Sau khi cuộc bãi khoá đã tịt ngòi và các giờ lên lớp lại bắt đầu trong khi cảnh sát vẫn chiếm đóng nhà trường, bọn đầu tiên đến lớp lại chính là lũ khốn đã cầm đầu cuộc bãi khoá. Như đã không có chuyện gì xảy ra, chúng ngồi đó, ghi ghi chép chép và trả lời "có mặt" khi điểm danh. Thật không thể tin được. Dù thế nào đi nữa thì cuộc bãi khoá vẫn còn chứ đã xong đâu. Chưa có tuyên bố kết thúc gì hết. Chỉ mới có chuyện nhà trường gọi cảnh sát vào dỡ bỏ các chướng ngại vật, còn cuộc bãi khoá nhẽ ra vẫn đang tiếp tục mới đúng. Lũ khốn này đã vừa mới gào thét như điên, chửi cả những sinh viên phản đối bãi khoá (hoặc mới chỉ tỏ ra nghi ngại), và đôi khi còn đem họ ra xử trong những toà án chuột do chính chúng dựng nên. Không nhịn được, tôi đã gặp bọn đầu sỏ này và hỏi tại sao chúng lại đến lớp nghe giảng chứ không tiếp tục bãi khoá, nhưng đứa nào cũng ấp a ấp úng không ra sao hết. Mà chúng có thể nói gì được chứ? Rằng chúng sợ mất điểm vì bỏ lớp ư? Cứ nghĩ chính bọn này đã hò hét đòi giải tán đại học! Thật là một trò đùa. Gió chỉ đổi chiều một chút thôi, nhưng tiếng thét của chúng đã chỉ còn là những lời thì thào thiểu não.

Này Kizuki, tôi nghĩ cậu chẳng lỡ làng cái quái hì đâu. Thế giới này là một bãi cứt. Lũ khôn kia đang được điểm tốt và sẽ tạo ra một xã hội theo hình ảnh ghê tởm của chính chúng.

Trong một thời gian tôi vẫn đến lớp nhưng không chịu lên tiếng lúc điểm danh. Tôi biết đó chỉ là một cư chỉ vô nghĩa, nhưng rất buồn vì chẳng có cách nào khác.

Tôi chỉ còn cách hết sức xa lánh những sinh viên khác.

Cứ im lặng mỗi khi nghe gọi đến tên mình, ít nhất tôi cũng làm cho mọi người phải khó chịu mất mấy giây.

Không có đứa nào nói năng gì với tôi, và tôi cũng không hé răng với một đứa nào trong bọn chúng.

Sang tuần thứ hai của tháng Chín thì tôi đi đến kết luận rằng học đại học là một việc làm vô nghĩa. Tôi quyết định sẽ coi đó là một giai đoạn luyện tập các kỹ năng đối phó với buồn chán. Tôi chẳng có gì đặc biệt phải làm ở ngoài đời để phải bỏ học ngay lập tức, nên tôi vẫn đến lớp hàng ngày, ghi chép, và thời gian rỗi thì vào thư viện đọc sách hoặc ngó nghiêng linh tinh.

Và mặc dù cái tuần lễ thứ hai của tháng Chín ấy đã sắp hết, vẫn chưa thấy tin tức gì của Quốc-xã. Còn hơn là bất thường, đây là một chuyện long trời lở đất. Trường đã vào chương trình rồi, và không ai có thể tưởng tượng là Quốc-xã lại để lỡ những buổi học của hắn. Một lớp bụi mỏng đã phủ trên bàn học và cái đài của hắn. Cái cốc nhựa và bàn chải đánh răng, hộp trà bằng thiếc, ống thuốc xịt giết sâu bọ và những đồ linh tinh khác vẫn xếp gọn gàng trên giá.

Tôi vẫn giữ căn phòng sạch sẽ lúc vắng mặt hắn.

Trong một năm rưỡi qua tôi đã nhiễm thói sạch sẽ, và không có hắn dọn phòng, tôi chẳng còn cách nào khác là phải tự mình làm chuyện đó. Tôi quét nhà hàng ngày, lau cửa sổ ba ngày một lần, và phơi chăn nệm mỗi tuần một lần, chờ hắn về và có lời khen ngợi tôi.

Nhưng hắn không bao giờ trở lại nữa. Một hôm tôi đi học về và thấy tất cả đồ của hắn đã biến mất và tên hắn ở cửa cũng bị bóc đi. Tôi đến chỗ ông giám thị để hỏi xem có chuyện gì.

"Anh ấy ra khỏi khu học xá này rồi," ông ta nói. "Hiện thời thì anh ở một mình trong phòng đó."

Tôi không thể làm cho ông ta nói thật chuyện gì đã xảy ra với Quốc-xã. Niềm vui lớn lao nhất của con người ấy là kiểm soát mọi chuyện và không cho ai biết gì hết.

Bức ảnh núi băng trôi của Quốc-xã ở lại trên tường thêm một thời gian, nhưng cuối cùng tôi cũng hạ nó xuống và thay bằng ảnh Jim Morrison và Miles Davis. Cái đó khiến căn phòng có vẻ là của tôi hơn một chút. Tôi dùng một ít tiền đi làm dành dụm được mua một máy stereo nho nhỏ. Đêm đến tôi thường uống rượu và nghe nhạc một mình. Thỉnh thoảng tôi vẫn nghĩ đến Quốc-xã, nhưng tôi thấy ở một mình thật là thích.

Mười một giờ rưỡi một sáng thứ Hai nọ, sau giờ giảng về Euripides trong lớp Lịch sử sân khấu, tôi đi bộ mười phút đồng hồ đến một quán ăn nhỏ và ăn trưa với món trứng rán lòng đào và một đĩa rau trộn. Cái quán nằm trong một ngõ nhỏ yên tĩnh và hơi đắt hơn nhà ăn sinh viên, nhưng ngồi ở đó có thể thư giãn được, và họ biết cách làm món trứng lòng đào tuyệtt ngon. "Họ" đây là một cặp vợ chồng rất ít khi nói gì với nhau, với một người chạy bàn làm việc nửa thời gian. Khi tôi ngồi ăn cạnh cửa sổ, một nhóm bốn sinh viên bước vào quán, hai trai hai gái, tất cả đều ăn mặc gọn gàng. Họ ngồi gần cửa ra vào, xem thực đơn và bàn thảo một lúc cho đến khi một người lên tiếng gọi món cho cả bọn.

Một lúc sau tôi để ý thấy một trong hai cô gái cứ liếc mắt về phía tôi. Cô ta có mái tóc cực ngắn và đeo kính râm, mặc một bộ ảo váy mini bằng vải bông trắng. Tôi không hề biết cô ta là ai, nên cứ tiếp tục ăn, nhưng rồi cô lách ra khỏi bàn đang ngồi và bước đến chỗ tôi. Đặt một bàn tay lên mép bàn tôi đang ngồi, cô nói, "Cậu là Watanabe có phải không?"

Tôi ngẩng lên và nhìn cô kỹ hơn. Nhưng vẫn không nhớ ra đã gặp cô lần nào chưa. Cô ta thuộc loại con gái hễ thấy là phải để ý, cho nên nếu đã gặp rồi thì nhẽ ra tôi phải nhận ra ngay mới phải. Nhưng ở trường cũng chẳng có mấy ai biết tên tôi như thế.

"Tôi ngồi được không?" cô ta hỏi. "Hay cậu đang đợi ai?"

Vẫn không biết thế nào, tôi lắc đầu. "Không. Không ai đến đâu. Mời cậu ngồi". Cạch một cái, cô ta đã kéo một chiếc ghế ra và ngồi xuống đối diện tôi, nhìn tôi chằm chằm qua cặp kính râm, rồi liếc xuống đĩa.

"Trông ngon nhỉ," cô nói.

"Ngon lắm. Trứng nấm lòng đào và rau trộn đậu đũa"

"Khỉ thật," cô nói. "Nhưng thôi không sao, lần sau tôi sẽ ăn món đó. Vừa mới gọi món khác xong."

"Món gì thế?"

"Mỳ ống với phó-mát."

"Mỳ ống với phó-mát của họ cũng được đấy," tôi nói. "Cũng xin được hỏi, tôi có biết cậu không nhỉ? Tôi vẫn chưa nhớ…"

"Euripides," cô nói. "Electra. "Không vị thần nào nghe thấy giọng nói của Electra lầm lạc." Bạn biết đấy, lớp học vừa mới xong mà."

Tôi nhìn cô thật kỹ. Cô ta bỏ kính râm ra. Cuối cùng thì tôi nhớ - một sinh viên năm đầu tôi đã gặp trong lớp Lịch sử sân khấu. Kiểu tóc thay đổi dữ dội quá làm tôi không thể nhận ra cô được.

"Ồ," tôi nói, tay chỉ vào một điểm ở dưới vai mình độ năm sáu phân, "Hồi trước nghỉ hè tóc cậu để dài xuống tận đây."

"Đúng rồi," cô nói. "Hè rồi tôi đi uốn tóc, kinh quá. Thà chết còn hơn. Ra bãi biển trông tôi như một con chết đuối đầu vướng đầy rong. Cho nên tôi quyết định nếu còn chưa muốn chết thì phải cắt hết tóc đi cho rồi. Ít ra thì nó cũng mát mẻ hơn trong mùa hè." Cô đưa tay vuốt qua những chỏm tóc cắt theo kiểu răng cưa nhọn hoắt và mỉm cười với tôi.

"Trông đẹp đấy chứ," tôi nói, miệng vẫn nhai món trứng. "Cậu quay nghiêng cho tôi xem nào."

Cô ta quay nghiêng và giữ tư thế ấy một vài giây.

"Phải, tôi biết mà. Kiểu này rất hợp với cậu đấy. Khổ đầu đẹp lắm. Tai cũng thế, nhất là để lộ như thế kia."

"Vậy là tôi không đến nỗi khùng phải không! Tôi đã nghĩ trông mình sẽ khá hơn khi cắt hết tóc đi. Nhưng chẳng có thằng cha nào thích cả. Tất cả chúng nó đều bảo tôi trông như một nạn nhân sống sót ở trại tập trung. Có gì mà con trai cứ thích con gái phải để tóc dài thế nhỉ? Bọn phát xít, cả lũ chúng nó? Tại sao con trai ai cũng cho là con gái tóc dài mới là sang trọng nhất, dịu dàng nhất, có nữ tính nhất? Thế này nhé, bản thân tôi đã biết ít nhất đến hai trăm năm mươi đứa con gái tóc dài mà chẳng sang trọng tí gì. Thật đấy."

"Tôi nghĩ bây giờ trông cậu hay hơn trước nhiều," tôi nói. Và tôi nghĩ thế thật. Theo trí nhớ của tôi thì với mái tóc dài cô ta cũng chỉ như một sinh viên xinh xắn thế thôi. Còn cô gái ngồi trước mặt tôi thì đang căng tràn một sinh lực tươi mát. Cô giống như một con thú nhỏ vừa nhảy póp một cái vào cuộc đời lúc xuân sang. Cặp mắt cô chuyển động như một cơ thể độc lập với niềm vui sướng, tiếng cười, nói giận dữ, kinh ngạc và tuyệt vọng.

Đã lâu lắm tôi mới được thấy một gương mặt sinh động và linh hoạt đến thế, và tôi vui sướng ngắm nhìn nó trực tiếp và tại chỗ.

"Cậu nói thật chứ?" cô hỏi.

Tôi gật đầu, vẫn đang nhai món rau trộn.

Cô đeo kính râm lên và nhìn tôi từ sau cặp kính đó.

"Cậu không nói dối đấy chứ?"

"Tôi vẫn thích nghĩ mình là một người trung thực," tôi nói.

"Quá đi rồi."

"Thế thì thử nói xem: tại sao cậu lại đeo kính râm đen thế?"

"Khi đột ngột cắt tóc ngắn đi, tôi thấy như mình không được che chắn gì cả. Như thể có ai đó vừa ném tôi trần truồng ra giữa đám đông."

"Có lí," tôi nói, ăn nốt miếng trứng cuối cùng. Cô ta quan sát tôi với một vẻ thích thú cực kì.

"Cậu không phải về chỗ với họ à?" tôi hỏi, ra hiệu về phía ba người đi cùng với cô.

"Không. Lúc nào họ dọn đồ ăn ra tôi sẽ về. Tôi có làm hỏng bữa ăn của cậu không thế?"

"Còn gì nữa đâu mà sợ hỏng," tôi nói, gọi cà-phê khi thấy cô có vẻ còn muốn ngồi nữa. Bà vợ chủ quán dọn đĩa đi và đem sữa với đường đến.

"Bây giờ cậu thử nói tôi nghe nhé," cô lên tiếng.

"Tại sao cậu không thưa lúc họ điểm danh sáng nay? Cậu là Watanabe mà, đúng không? Toru Watanabe, phải không nào?"

"Đúng tôi đây?"

"Vậy sao cậu không thưa là có mặt?"

"Chỉ vì hôm nay tôi không thích thế."

Cô bỏ kính râm ra, đặt nó lên bàn, rồi nhìn tôi như nhìn vào một cái chuồng nhốt mấy con vật lạ trong vườn bách thú. "Chỉ vì hôm nay tôi không thích thế". Cậu ăn nói như Humphrey Bogart vậy. Tỉnh bơ. Rắn mặt."

"Đừng ngốc thế. Tôi chỉ là một thằng bình thường như mọi người."

Bà chủ quán mang cà-phê đến cho tôi và đặt nó xuống bàn. Tôi nhấp một ngụm không đường sữa gì cả.

"Nhìn kìa. Cậu còn uống đen không đường nữa?"

"Chẳng liên quan gì đến Humphrey Bogart cả," tôi kiên nhẫn giải thích. "Chỉ tình cờ là răng tôi không chịu được đường. Cậu nghĩ về tôi sai bét rồi."

"Sao da cậu rám nắng thế?"

"Mấy tuần rồi tôi đi chơi bộ trên núi. Ba-lô. Túi ngủ."

"Cậu đi đâu?"

"Kanazawa. Bán đảo Noto. Lên tận Niigata."

"Một mình ư?"

"Một mình," tôi nói. "Gặp bạn đồng hành chỗ này chỗ kia."

"Vài bạn đồng hành lãng mạn chứ? Đàn bà lạ ở những nơi xa lạ."

"Lãng mạn ư? Bây giờ thì tôi biết đúng là cậu hiểu tôi sai bét thật. Một thằng lưng đeo túi ngủ và râu ria lởm chởm thì lấy đâu ra lãng với mạn!"

"Lúc nào cậu cũng đi một mình thế à?"

"Đại khái thế."

"Cậu thích cảnh cô liêu à?" cô hỏi, tựa má vào tay. "Du lịch một mình, ăn một mình, ngồi một mình trong lớp…"

"Chẳng ai thích một mình nhiều đến thế. Nhưng tôi không cố đánh bạn, vậy thôi. Làm thế chỉ tổ hay thất vọng."

Miệng ngậm đầu mẩu của một bộ hoa tai, kính râm tụt trễ xuống, cô ta lẩm bẩm, "Chẳng ai thích một mình nhiều đến thế. Tôi chỉ ghét bị thất vọng." Cậu có thể dùng câu này nếu có khi nào cậu viết hồi ký."

"Cám ơn," tôi nói.

"Cậu thích màu xanh lá cây không?"

"Sao cậu hỏi thế?"

"Cậu đang mặc sơ-mi polo xanh lá cây đấy". "Chẳng có gì đặc biệt. Tôi sẽ mặc bất cứ màu gì."

"Chẳng có gì đặc biệt. Tôi sẽ mặc bất cứ màu gì". Tôi thích lối nói chuyện của cậu quá. Giống như trát vữa, mịn mà hay. Đã có ai nói với cậu điều này chưa?

"Chưa," tôi nói.

"Tên tôi là Midori," cô nói. "Xanh lá cây" đấy". Nhưng tôi mặc xanh lá cây thì nhìn khủng khiếp lắm. Lạ đấy chứ, hả? Hình như tôi bị phép thuật nguyền rủa, cậu có thấy thế không? Tên chị tôi lại là Momoko: "Hồng đào."

"Chị ấy mặc màu hồng có đẹp không?"

"Tuyệt đẹp? Chị ấy sinh ra là để mặc đồ màu hồng. Thật hoàn toàn bất công."

Bàn chỗ Midori đã có đồ ăn, và một cậu mặc áo tây vải madras gọi với sang, "Ê, Midori, về ăn đi chứ?"

Cô vẫy tay về phía ấy như đang nói "Biết rồi."

"Này," cô nói, "Cậu có ghi chép ở lớp không đấy? Lớp sân khấu ấy!"

"Có"

"Thế này thật không phải, nhưng cậu cho tôi mượn vở ấy được không? Tôi đã lỡ mất hai buổi, mà chẳng quen ai ở lớp cả."

"Có vấn đề gì đâu," tôi nói, tay rút quyển vở trong túi sách ra. Sau khi đã xem kỹ và thấy không có bút tích riêng tư gì trong đó, tôi đưa nó cho Midori.

"Cám ơn," cô ta nói. "Ngày kia cậu có đến lớp không?"

"Có"

"Vậy gặp tôi ở đây vào buổi trưa nhé. Tôi sẽ trả lại vở cho cậu và đãi cậu bữa trưa. Nghĩa là… không ăn một mình thì cậu cũng sẽ không bị đau bụng hay gì chứ, phải không?"

"Không có đâu," tôi nói. "Nhưng cậu không cần phải đãi tôi bưa trưa chỉ vì tôi cho cậu mượn vở"

"Đừng lo chuyện đó," cô nói. "Tôi thích đãi người khác ăn trưa mà. Nhưng mà cậu cũng nên ghi lại ở đâu đó. Cậu sẽ không quên chứ."

"Tôi sẽ không quên. Ngày kia. Mười hai giờ. Midori. Xanh lá cây."

Ai đó từ bàn bên kia lại gọi với sang, "Nhanh lên chứ Midori, đồ ăn nguội hết rồi!"

Cô vẫn mặc kệ và lại hỏi tôi, "Lúc nào cậu cũng nói chuyện kiểu này à?"

"Chắc vậy," tôi nói. "Chưa từng để ý chuyện đó."

Quả thực chưa có ai từng nói cho tôi biết cách nói chuyện của tôi có gì khác thường hay không.

Cô ta có vẻ nghĩ ngợi điều gì đó vài giây, rồi đứng lên, mỉm cười, và đi về bàn mình. Cô vẫy tay lúc tôi đi qua bàn ấy, nhưng ba người kia chẳng ai ngó đến tôi.

Trở lại quán ăn vào trưa hôm thứ Tư, tôi chẳng thấy tăm hơi Midori đâu cả. Tôi định sẽ làm một cốc bia để chờ, nhưng khi bia vừa bưng ra thì quán bỗng bắt đầu đầy khách nên tôi bèn gọi món và ăn một mình. Tôi ăn xong lúc mười hai giờ ba mươi lăm, nhưng vẫn không thấy Midori đến. Tôi trả tiền, ra ngoài rồi sang đường đến một ngôi dền nhỏ và đứng ở chỗ thềm đá cho đầu óc sảng khoái để chờ Midori. Đến một giờ thì tôi bỏ cuộc và quay về thư viện đọc sách. Hai giờ thì đến lớp tiếng Đức.

Học xong, tôi đến văn phòng sự vụ sinh viên và tìm tên Midori trong danh sách lớp lịch sư sân khấu. Có mỗi một Midori trong lớp ấy, là Midori Kobayashi. Sau đó tôi lục phiếu hồ sơ sinh viên và tìm ra địa chỉ cùng số điện thoại của một Midori Kobayashi, vào học từ 1969. Cô ta sống ở một khu ngoại ô nhỏ phía tâybắc gọi là Thshima, cùng với gia đình. Tôi lẳng lặng vào một trạm điện thoại và quay đến số ấy.

Một người đàn ông trả lời: "Hiệu sách Kobayashi xin nghe."

Hiệu sách Kobayashi ư?

"Xin lỗi làm phiền ông," tôi nói, "Midori có nhà không ạ?"

"Không, nó không có nhà," ông ta nói.

"Thưa ông cô ấy có ở trường không ạ?"

"Hừmmm, không đâu, có lẽ nó ở bệnh viện. Xin hỏi ai đang gọi thế ạ?"

Đáng nhẽ phải trả lời thì tôi chỉ cám ơn ông ta rồi cúp máy. Bệnh viện ư? Cô ta ốm hoặc bị làm sao chăng?

Nhưng giọng người kia không thấy có tí lo âu cấp bách nào. "Có lẽ nó ở bệnh viện," ông ta đã nói thế, nghe dễ dàng như là "Nó đang ở tiệm bán cá." Tôi nghĩ đến một vài khả năng khác cho đến lúc chỉ nghĩ thế thôi cũng đã thành quá rắc rối, rồi tôi về phòng mình nằm dài trên giường đọc cuốn Đức ông Jim mượn của Nagasawa. Đọc xong, tôi đến phòng hắn để trả.

Nagasawa đang trên đường đến nhà ăn nên tôi đi luôn cùng với hắn để ăn bữa tối.
"Thi cử thế nào?" tôi hỏi. Vòng thứ hai của cuộc thi cao cấp vào Bộ Ngoại giao đã diễn ra hồi tháng Tám.

"Vẫn thế thôi," Nagasawa nói, như thể vòng thi ấy chẳng là cái gì hết. "Cậu thi, cậu đỗ, thảo luận nhóm, phỏng vấn… như đi dùi một con nhỏ vậy"

"Nghĩa là dễ chứ gì," tôi nói. "Bao giờ họ cho biết kết quả?"

"Tuần đầu tháng Mười. Nếu đỗ, tớ sẽ đãi cậu một bữa tối thịnh soạn."

"Này cậu nói xem, loại nào mới lọt được vào vòng hai? Toàn siêu sao như cậu chứ."

"Đừng có ngốc. Toàn một bọn ngu xuẩn hết. Ngu xuẩn hoặc cám hấp. Tớ xin tuyên bố là chín lăm phần trăm những thằng muốn thành quan chức đều chẳng đáng cứt gì hết. Tớ không đùa đâu. Thậm chí chúng chưa chắc đã đọc hết một cuốn sách bao giờ."

"Vậy sao cậu lại cố vào Bộ Ngoại giao?"

"Đủ các thứ lí do," Nagasawa nói. "Tớ thích làm việc ở hải ngoại, là một lí do. Nhưng chủ yếu tớ muốn thử các năng lực của mình. Mà nếu đã thử thách bản thân thì tớ muốn ra hẳn cái sân lớn nhất là quốc gia nhà nước. Tớ muốn xem mình leo cao được đến đâu, có quyền lực được đến đâu trong cái hệ thống quan liêu mất trí khổng lồ này. Hiểu tớ nói gì không?"

"Nghe như một cuộc chơi."

"Thì là cuộc chơi mà. Tớ chẳng quan tâm mẹ gì đến quyền lực hoặc tiền bạc, đó không phải là mục tiêu. Thực là như vậy. Có thể tớ là một thằng đểu ích kỉ, nhưng chuyện ấy thì tớ lại tuyệt đối dửng dưng. Tớ có thể làm một ông thánh Thiền. Nhưng có một thứ mà tớ có thật, ấy là tò mò. Tớ muốn thấy mình có thể làm được gì trong cái thế giới khổng lồ khắc nghiệt ở ngoài kia."

"Và cậu chẳng có tí nhu cầu "lí tưởng" nào, phải không?"

"Đúng vậy cuộc sống không cần đến lí tưởng. Nó chỉ cần nhưng tiêu chuẩn hành động."

"Nhưng còn có nhiều cách sống khác, đúng không?" tôi hỏi.

"Cậu có thích cách sống của tớ không?"

"Vấn đề không phải ở đó," tôi nói. "Tớ có thể không bao giờ vào được Đại học Tokyo; tớ không thể ngủ với bất kì cô gái nào tớ muốn vào đúng lúc tớ thích; tớ không có tài ăn nói; mọi người không vì nể gì tớ cả; tớ không có cả bồ gái; và cũng chẳng có tương lai xán lạn gì khi có được mảnh bằng cỡ nhân văn chương của một trường đại học tư loại hai. Vậy thì có thành vấn đề gì nếu tớ thích cách sống của cậu"

"Cậu đang nói rằng cậu ghen tị với cách sống của tớ chăng?"

"Không? Tớ không nói thế? tôi nói. "Tớ đã quá quen với việc chỉ là chính mình. Và tớ chẳng quan tâm mẹ gì đến Đại học Tokyo hoặc Bộ Ngoại giao. Nhưng có một thứ mà tớ phải ghen tị với cậu, ấy là có được một cô bồ tuyệt vời như Hatsumi."

Nagasawa câm mồm và cắm cúi ăn. Khi bữa tối đã xong, hắn nói, "Cậu biết không, Watanabe, tớ có một cảm giác thế này có thể mười hoặc hai mươi năm sau khi chúng ta ra khỏi nơi này, chúng ta sẽ gặp lại nhau ở một nơi nào đó. Và gì thì gì, tớ nghĩ chúng ta vẫn sẽ còn đồng cảm được với nhau."

"Nghe như Dickens," tôi mỉm cười nói.

"Tớ cũng đoán vậy," hắn nói, mỉm cười lại với tôi. "Nhưng linh tính tớ thường rất đúng."

Hai đứa chúng tôi rời nhà ăn và đến một quán bar. Chúng tôi uống rượu ở đó đến tận sau chín giờ.

"Nói xem, Nagasawa," tôi hỏi, "Cái tiêu chuẩn hành động trong cuộc đời của cậu là gì?

"Tớ mà nói ra thì cậu phì cười mất thôi," hắn bảo.

"Không, tớ không cười đâu."

"Thôi được," hắn nói. "Là một người quân tử."

Tôi không cười, nhưng suýt ngã lộn ra khỏi ghế.

"Là một người quân tử? Một người quân tử ư?"

"Cậu nghe rõ rồi đấy."

"Là một người quân tử có nghĩa là thế nào? Cậu định nghĩa quân tử ra sao?"

"Quân tử là người không làm những gì mình muốn mà chỉ làm những gì mình nên làm."

"Cậu là thằng dở hơi nhất mà tớ đã từng gặp," tôi nói.

"Cậu là thằng lạ lùng nhất mà tớ đã từng gặp" hắn nói. Và trả tiền cho cả hai thằng.

Tuần sau đó tôi vẫn đến lớp sân khấu, và vẫn không thấy tăm hơi gì của Midori Kobayashi. Sau khi nhìn quanh một lượt và đã chắc là không có cô ta ở lớp, tôi ngồi vào chỗ quen thuộc của mình ở hàng ghế đầu và viết thư cho Naoko trong khi ông giáo còn chưa đến. Tôi viết về những chuyến du lịch mùa hè - những con đường tôi đã đi bộ, những thị trấn tôi đã qua, những con người tôi đã gặp.

Và đêm nào mình cũng nghĩ đến cậu. Giờ đây khi không thể gặp cậu được nữa, mình mới biết rằng mình cần cậu biết dường nào. Trường lớp buồn tẻ vô cùng, nhưng để tự kỷ luật, mình vẫn dự lớp và làm bài đầy đủ. Từ khi cậu đi, tất cả đều như vô nghĩa. Mình thèm được nói chuyện thật dài và thật thoả với cậu. Nếu có thể được, mình muốn đến thăm cậu ở khu an dưỡng và ở với cậu nhiều giờ. Và nếu có thể được, mình muốn được đi bộ với cậu như kiểu chúng mình vẫn đi với nhau. Cậu hay cố gắng trả lời thư này của mình nhé - dù chỉ mấy chữ thôi cũng được. Mình sẽ không buồn đâu.

Tôi viết kín bốn tờ giấy, gập chúng lại, cho vào phong bì, và đề gởi cho Naoko, nhờ gia đình nàng chuyển hộ.

Lúc ấy ông giáo mới đến, vừa bước lên bục giảng vừa lau mồ hôi trán. Ông ta nhỏ người, vẻ mặt lúc nào cũng như đang khóc, chống gậy kim loại. Tuy không vui, nhưng các bài giảng của ông trong chương trình đều rất chu đáo và đáng nghe. Sau khi nhận xét rằng thời tiết đang nóng hơn bao giờ hết, ông bắt đầu nói về thủ pháp dùng một sự kiện hoặc nhân vật thần thánh để cởi nút vở kịch trong các tác phẩm của Euripides, và giảng giải những chỗ khác nhau trong khái niệm "thần thánh" giữa Euripides và Aeschylus hoặc Sophocles. Ông nói được khoảng mười lăm phút thì cửa giảng đường mở ra và Midori bước vào. Cô mặc sơ-mi thể thao xanh nước biển thẫm, quần vải bông màu kem và cặp kính râm thường lệ. Sau khi nở một nụ cười theo kiểu "Xin lỗi em đến muộn" về phía ông giáo, cô ngồi xuống cạnh tôi. Rồi cô lấy một cuốn vở - vở của tôi - từ túi đeo vai và đưa nó cho tôi. Trong vở có kẹp một mẩu giấy viết: Xin lỗi hôm thứ Tư nhé. Cậu có giận không đấy?

Được độ nửa bài giảng, ông giáo sư đang vẽ phác một cái sâu khấu Hy Lạp lên bảng đen thì cửa lại mở, và hai sinh viên đội mũ sắt bước vào. Trông họ giống như một cặp kép hài, một anh cao gày nhợt nhạt, anh kia lùn béo đen nhẻm với một bộ râu dễ dài không hợp với mình chút nào. Cao kều ôm theo một mớ truyền đơn trong tay. Lùn tè bước lên chỗ ông giáo sư và nói, giọng có phần lễ độ, rằng họ muốn dùng nửa thời gian còn lại của giờ giảng để thảo luận chính trị và hy vọng là ông sẽ hợp tác.

Rồi hắn nói thêm, "Thế giới đang đầy những vấn đề cấp bách và có ý nghĩa hơn bi kịch Hy Lạp." Nghe không ra một lời đề nghị nữa, mà là một tuyên cáo. Ông giáo sư đáp "Ta vẫn không muốn tin rằng thế giới đang có những vấn đề cấp bách và có ý nghĩa hơn bi kịch Hy Lạp, nhưng ta biết có nói gì thì các anh cũng chẳng nghe, nên thôi, các anh muốn làm gì thì làm." Vịn tay vào mép bàn, ông bước từ bục giảng xuống sàn, nhặt cái gậy chống rồi khập khiễng ra khỏi lớp.

Trong khi cao kều phát truyền đơn, lùn tè bước lên bục giảng và bắt đầu lên lớp. Truyền đơn đầy những câu hô khẩu hiệu đơn giản: "Đả đảo bầu cử gian lận chức chủ tịch đại học!", "Hãy tập hợp mọi lực lượng để bãi khoá toàn trường một lần nữa.", "Đả đảo tổ hợp công nghiệp-giáo dục-đế quốc!" Tôi không có vấn đề gì với những điều họ đang nói, nhưng cách viết của họ thì dở quá. Chẳng có gì gây được lòng tin hoặc kích động nhiệt huyết. Cả bài nói của anh lùn cũng chẳng hơn gì - vẫn một giọng điệu cũ rích với những từ ngữ khác mà thôi.

Kẻ thù thực sự của bọn này không phải là chính quyền mà là tình trạng Thiếu trí Tưởng tượng.

"Bọn mình chuồn đi," Midori nói.

Tôi gật đầu và đứng dậy và cả hai chúng tôi bước ra cửa. Lúc ấy anh lùn nói với theo tôi cái gì đó mà tôi không nghe ra. Midori vẫy hắn và nói, "Gặp lại sau nhé."

"Này cậu, bọn mình có phải phản cách mạng không thế?" Midori hỏi tôi khi hai đứa đã ra đến ngoài. "Nếu cách mạng thành công liệu họ có treo tụi mình lên cột điện thoại không?"

"Cũng chưa biết thế nào, hay cứ đi ăn trưa luôn cái đã"

"Phải đấy. Tớ muốn mời cậu đến một chỗ này. Hơi xa một tí. Cậu có thời gian không?"

"Có tớ rảnh, đến hai giờ mới có lớp."

Midori đưa tôi đi xe buýt đến Yotsuya, vào một hiệu chuyên phục vụ cơm phần rất đỏm đáng, nằm trong một chỗ có mái che ngay sau trạm đỗ xe. Vừa ngồi vào bàn họ đã mang ngay ra món súp và các thức ăn đặc biệt của ngày hôm đó, dọn trong hai cái hộp sơn mài vuông vức màu đỏ. Đúng là một nơi ăn trưa có phải đi xe buýt cũng bõ.

"Ngon quá," tôi nói.

"Và rẻ nữa. Tớ vẫn ăn ở đây từ hồi còn ở trung học. Trường cũ của tớ ở ngay dưới phố kia kìa. Họ nghiêm lắm, bọn tớ đều phải lẻn ra ăn ở đây. Bị bắt đi ăn ngoài là họ phạt nghỉ học liền."

Không đeo kính râm, mắt Midori có vẻ buồn ngủ hơn so với lần gặp trước. Khi không mải nghịch cái vòng bạc nho nhỏ đeo ở cổ tay trái, thế nào cô cũng đưa một đầu ngón tay út lên day day các khóe mắt.

"Mệt à?" tôi hỏi.

"Đại loại thế. Tớ thiếu ngủ. Nhưng không sao, đừng lo," cô nói. "Xin lỗi chuyện hôm nọ nhé. Tự nhiên có chuyện quan trọng và tớ không thể dứt ra được. Đùng một cái, ngay sáng ngày ra. Tớ đã nghĩ đến chuyện gọi cậu ở quán ăn, nhưng không thể nhớ ra cái tên quán, mà số ở nhà của cậu thì tớ không có. Cậu có đợi lâu không?"

"Không có gì đâu. Tớ có nhiều thời gian lắm."

"Nhiều lắm ư?"

"Nhiều quá mức cần thiết. Giá mà tớ có thể cho cậu một ít để cậu ngủ."

Midori dựa má vào bàn tay và mỉm cười với tôi.

"Cậu là một thằng tốt thật đấy."

"Không tốt đâu. Chỉ là vì tớ có thời gian để giết thôi," tôi nói. "Mà này, tớ có gọi đến nhà cậu hôm ấy và có ngưởi bảo tớ rằng cậu đang ở bệnh viện. Có chuyện gì thế?"

"Cậu gọi đến nhà tớ?" cô hỏi, hơi nhăn trán lại một tí ở giữa hai lông mày. "Làm sao mà cậu có số điện của tớ?"

"Tìm ở văn phòng sự vụ sinh viên. Ai chẳng làm được"

Cô gật gù mấy cái rồi lại bắt đầu nghịch cái vòng bạc.

"Thế mà tớ chưa hề nghĩ ra. Nhẽ ra tớ cũng có thể tìm được số của cậu. Mà thôi, về chuyện bệnh viện, lần sau tớ sẽ kể. Bây giờ thì tớ chưa thích. Xin lỗi nhé."

"Được thôi. Tớ không định tọc mạch đâu."

"Không, cậu không tọc mạch. Chỉ là vì tớ cứ mệt mệt thế nào ấy. Như khi gặp mưa."

"Có lẽ cậu nên về nhà ngủ một tí?"

"Chưa đâu. Mình chuồn khỏi đây đã."

Cô dẫn tôi đến ngôi trường trung học cũ, một quãng đi bộ ngắn từ Yotsuya.

Lúc đi ngang trạm xe, tôi nghĩ đến Naoko và nhưng cuộc đi bộ vô tận của chúng tôi. Tất cả đã bắt đầu từ đây.

Tôi nhận ra rằng nếu đã không tình cờ gặp Naoko trên chuyến tàu chủ nhật tháng Năm ấy, đời tôi chắc đã rất khác bây giờ. Nhưng rồi tôi lại nghĩ khác: Không, ngay cả nếu chúng tôi đã không gặp nhau ngày ấy, cuộc đời tôi chắc cũng chẳng có gì khác. Chúng tôi phải gặp nhau. Nếu không phải bấy giờ thì cũng sẽ vào một lúc nào đó. Tôi cũng chẳng có cơ sở gì để nghĩ thế. Chỉ là cảm giác thôi.

Midori Koyabashi và tôi ngồi với nhau trên ghế trong công viên, nhìn ngôi trường xưa của cô ta. Thường xuân bám chặt trên các bức tường, và lũ bồ câu lúi húi dưới hồi nhà, sã cánh nghỉ ngơi. Một toà nhà cổ, đẹp và có cá tính. Trong sân chơi có một cây sồi lớn, và một cột khói trắng bốc thẳng lên trời ngay cạnh đó. Trong nắng chiều hè đang phai dần, cột khói trông như một làn mây xốp nhẹ.

"Cậu có biết khói gì đấy không?" Midori đột ngột hỏi tôi.

"Chịu," tôi nói.

"Họ đốt băng vệ sinh đấy."

"Thật ư?" tôi không biết nói gì khác.

"Băng vệ sinh, tăm-pông, những thứ như thế," cô nói với một nụ cười. "Trường nữ sinh mà. Ông già chuyên dọn dẹp đi thu thập chúng ở tất cả những thùng đựng rồi đốt chúng trong lò. Khói đó đấy."
"Uao!"

"Ô, tớ cũng thường tự kêu lên như thế mỗi khi ngồi trong lớp nhìn ra và thấy cột khói ấy ngoài cửa sổ.

"Uao! Cứ nghĩ mà xem: trường có gần một nghìn đứa con gái. Vậy cứ giả dụ là chín trăm đứa vừa mới vào tuổi kinh nguyệt, và có thể một phần năm số đó lúc nào cũng đang hành kinh: một trăm tám mươi đứa. Vậy là ngày nào cũng phải đốt băng vệ sinh của một trăm tám mươi đứa ấy"

"Chắc cậu nói phải; mặc dù tớ không chắc cậu tính thế có đúng không."

"Gì thì gì cũng là rất nhiều. Một trăm tám mươi đứa con gái. Cậu nghĩ phải đi thu lượm và đốt ngần ấy mỗi ngày thì nó ra làm sao?"

"Chịu không tưởng tượng được," tôi nóì. Làm sao tôi có thể tưởng tượng ông già kia cảm thấy như thế nào?"

Midori và tôi vẫn tiếp tục nhìn cột khói.

"Tớ đã không muốn học ở trường này tí nào," Midori nói. Cô hơi lắc đầu. "Tớ muốn vào một trường công tuyệt đối bình thường, với những con người bình thường, để tớ có thể thoải mái và vui vẻ như một đứa trẻ bình thường. Nhưng bố mẹ tớ lại nghĩ vào được cái chỗ điệu đà kia thì trông tớ sẽ khá hơn. Họ là người đã cương quyết nhét tớ vào đó. Cậu biết không, cứ học giỏi ở tiểu học là thể nào cũng rơi vào cảnh ấy. Thầy cô giáo sẽ nói với bố mẹ "Với điểm số như thế thì cháu nhất định phải vào học ở đó!" Và thế là tớ bị rơi vào đó thật. Sáu năm trời tất cả, và tớ chưa bao giờ thích nó cả. Tớ chỉ tìm cách chuồn. Và cậu biết không, tớ còn được bằng khen vì chưa bao gỉờ muộn giờ hoặc vắng mặt ở trường. Tớ căm ghét chỗ ấy đến như vậy đấy. Cậu hiểu không?"

"Không, không hiểu."

"Vì tớ ghét cái trường này thậm tệ, nên tớ nhất định không chịu để nó hạ nhục mình. Chỉ để nó làm vậy một lần thôi là tớ đi tong. Tớ sợ mình sẽ bị tụt hậu. Tớ bò đến trường khi đang sốt hơn bốn mươi độ. Thầy hỏi tớ có ốm không, nhưng tớ bảo không. Khi ra trường họ cho tớ nhiều bằng khen về đi học đều và đúng giờ, với một cuốn tự điển tiếng Pháp. Vì thế mà bây giờ tớ đang học tiếng Đức. Tớ không muốn mắc nợ cái trường này bất kì thứ gì. Tớ không nói đùa đâu."

"Sao cậu lại ghét nó đến thế?"

"Thế cậu có thích trường cậu không đã nào?"

"Ừ, thì không, nhưng tớ cũng không đặc biệt ghét nó. Tớ học ở một trường công bình thường nhưng chẳng bao giờ nghĩ ngợi về nó thế này hay thế nọ."

"Nhưng mà, cái trường này," Midori nói, ngón tay út gãi gãi khóe mắt, "chỉ có rặt một bọn con gái thượng lưu gần một nghìn đứa, đứa nào cũng có lí lịch tốt, và điểm thi tốt. Lại giàu có nữa. Chúng phải giàu mới sống được Học phí cao, đóng góp liên miên, những chuyến tham quan đắt tiền. Ví dụ nếu chúng tớ đi Kyoto, họ sẽ đưa chúng tớ vào một nhà hàng hạng nhất và bưng ra những món ăn trà đạo bày trên bàn sơn mài, và năm nào họ cũng đưa chúng tớ vào khách sạn đắt tiền nhất ở Tokyo để học cũng cách ứng xử trong bữa ăn. Tớ muốn nói là cái trường này không bình thường tí nào. Trong số một trăm sáu mươi đứa con gái cùng năm, tớ là đứa duy nhất sống trong một khu trung lưu như Toshima. Đã có lần tớ lục danh sách học sinh ở trường để xem bọn nó sống ở đâu, hoá ra đứa nào cũng ở những khu giàu có cả. Gượm đã, cũng có một đứa ở mãi tận Chiba với nông dân, và tự nhiên tớ cũng có cảm tình thế nào đó với nó. Con bé cũng rất hay. Nó mời tớ về nhà, cứ xin lỗi vì tớ phải đi xa. Tớ đi và thật không thể tin được, cái khu đất ở khổng lồ ấy, phải đi mười lăm phút mới hết xung quanh. Lại còn một cái vườn tuyệt vời và hai con chó to như hai cái xe con mà họ vẫn nuôi bằng thịt bò bí-tết. Thế mà con bé ấy vẫn thấy ngượng là phải sống ở Chiba. Đó là một đứa mà hễ muộn giờ là nó đi Mercedes Benz đến trường? Có tài xế riêng lái. Giống hệt như ở phim Green Honet bước ra: nào mũ, nào găng trắng, đủ thứ. Mà nó vẫn cứ bị mặc cảm tự ti. Cậu có tin được không?"

Tôi lắc đầu.

"Tớ là đứa duy nhất trong trường sống ở một nơi như Kita-Otsuka Toshima. Và ở mục "nghề nghiệp cha mẹ" thì là "chủ hiệu sách". Ai ở trong lớp tớ cũng tưởng thế là oách lắm: "Ôi chao, may mắn thế, cậu có thể tha hồ đọc sách" và đại loại nhưng câu như thế. Tất nhiên chúng nó chỉ nghĩ đến những hiệu sách khổng lồ như Kinokuniya. Chúng không thể tưởng tượng ra một hiệu sách Kobayashi nghèo nàn bé nhỏ. Cửa mở thì cọt kẹt và chẳng thấy có gì ngoài tạp chí. Bán đều nhất là tạp chí đàn bà bóng bẩy có kẹp nhưng phụ trương rời minh hoạ nhưng kỹ thuật làm tình mới nhất. Các bà nội trợ ở quanh đấy mua về và ngồi đọc ở bàn làm bếp từ bìa trước đến bìa sau, và khi chồng về thì đem ra thực hành thử.

Mà cũng có những tư thế kì lạ không thể tin được! Có phải các bà nội trợ chỉ nghĩ đến những chuyện ấy suốt ngày không nhỉ? Bán chạy thứ hai là chuyện tranh: những tờ như Magazine, Sunday, Jump. Và tất nhiên là các loại báo tuần nữa. Nghĩa là hiệu sách hầu như toàn tạp chí. Nhưng mà cũng có một ít sách, loại tái bản rẻ tiền, truyện trinh thám giật gân và tiểu thuyết ái tình lãng mạn. Chỉ bán được những loại ấy. Và còn cả loại sách "Làm thế nào" nữa chứ: làm thế nào để được bạc, trồng bonsai ra làm sao, phát biểu ở đám cưới như thế nào, làm tình như thế nào, làm cách nào để cai thuốc lá, muốn loại gì có loại ấy. Nhà mình còn bán cả văn phòng phẩm - hàng bó bút bi bút chì và vở viết chất đống ở cạnh quầy thu tiền. Nhưng chỉ có thế. Không có Chiến tranh và hoà bình, không có Kenzaburo Oe, không có Bắt trẻ đồng xanh. Hiệu sách Kobayashi là như vậy đấy. Tớ may mắn như vậy đấy. Cậu có thấy tớ may mắn không?"

"Tớ chỉ mới thấy cái cửa hàng."

"Cậu biết tớ nói gì mà. Người nào trong khu phố cũng đến hàng nhà tớ, có những người liên tục hàng nhiều năm liền, và gia đình tớ đáp ứng được nhu cầu của họ. Làm ăn vậy là tốt, dư dật đối với một gia đình bốn người; không nợ nần, hai con gái học đại học, nhưng chỉ thế thôi. Không làm được gì thêm nữa. Nhẽ ra bố mẹ đừng bao giờ cho tớ vào một trường như thế. Nó chỉ là bài thuốc gây đau đầu. Tớ phải nghe họ lầu bầu mỗi lần nhà trường đòi một khoản đóng góp, và lúc nào cũng sợ gần chết mỗi khi đi chơi với bạn và chúng lại muốn ăn ở một chỗ đắt tiền. Sống như vậy thật đến khổ. Gia đình cậu có giàu không?"

"Gia đình tớ ư? Không, bố mẹ tớ chỉ là người lao động hoàn toàn bình thường, không giàu, cũng chẳng nghèo. Tớ biết vào học ở một đại học tư ở Tokyo như thế này cũng là khó khăn với họ, nhưng nhà chỉ có mình tớ, nên cũng không đến nỗi gay go quá. Họ không cho tớ nhiều tiền sinh hoạt, nên tớ đi làm thêm. Gia đình tớ sống trong một ngôi nhà phổ biến có một mảnh vườn nhỏ và đi xe Toyota Corolla."

"Việc làm thêm của cậu thế nào?"

"Tớ làm ở một tiệm nhỏ bán đĩa nhạc trong khu Shinjuku, ba đêm một tuần. Dễ ợt. Chỉ việc ngồi đó và để ý cửa hàng."

"Cậu không đùa đấy chứ?" Midori nói. "Tớ không biết thế nào, nhưng nhìn cậu thì tớ nghĩ là cậu chưa bao giờ phải vất vả cả."

"Đúng vậy. Tớ chưa bao giờ phải vất vả. Nhưng tớ cũng chẳng có nhiều tiền. Tớ cũng như hầu hết mọi người thôi."

"Vâng, nhưng hầu hết mọi người ở trường cậu đều giàu cả," Midori nói, úp tay trong lòng. "Đó mới là vấn đề"

"Vậy bây giờ cậu sẽ có nhiều cơ hội thấy một thế giới không vướng phải vấn đề đó. Có thể nhiều hơn cậu muốn nữa."

"Thôi nào, hay nói xem, giàu có thì cái gì là hay nhất?"

"Tớ không biết."

"Là có thể nói tớ chẳng có đồng nào. Đây nhé, nêu tớ rủ một đứa bạn ở trường làm cái gì đó, nó có thể nói "Tiếc quá, tớ chẳng có đồng nào". Đó là điều mà tớ không thể mở mồm nói nếu tớ ở vào hoàn cảnh của nó. Nếu tớ nói "tớ chẳng có đồng nào", đó sẽ là vì thực sự là tớ chẳng có đồng nào. Buồn thật. Nó giống thế này này: nếu một đứa con gái xinh đẹp nói "hôm nay trông tớ xinh quá, tớ chẳng muốn ra ngoài nữa" thì không sao, nhưng nếu một đứa xấu xí mà nói thế thì mọi người sẽ cười vào mũi nó. Với tớ, thế giới là như vậy đấy. Sáu năm liền như thế, cho tới tận năm ngoái."

"Rồi cậu sẽ quên thôi."

"Hy vọng thế. Vào đại học thật nhẹ hết cả người. Xung quanh đày nhưng người bình thường."

Cô mỉm cười mà chỉ hơi cong môi một tí và vuốt mái tóc ngắn bằng lòng bàn tay.

"Cậu có làm thêm không?"
"Có. Tớ viết chú giải bản đồ. Cậu biết loại sách quảng cáo nhỏ kèm bản đồ chứ? Có mô tả các khu vực khác nhau, số dân cư, và nhưng chỗ đáng tham quan ấy mà. Chỗ này chỗ nọ có đường để đi bộ hoặc một huyền thoại gì đó, hoặc một vài loài chim hoa cây cỏ đặc biệt nào đó. Tớ viết những cái đó. Rất dễ. Chẳng mất thì giờ chút nào. Một ngày ngồi trong thư viện là tớ có thể xong một cuốn sách nhỏ. Chỉ cần thành thạo mấy bí quyết thôi là làm không hết việc."

"Bí quyết gì thế?"

"Đại loại như thêm thắt những chi tiết chưa ai viết bao giờ và thế là những người ở công ty bản đồ sẽ tưởng mình là thiên tài văn chương và đưa thêm việc cho mình ngay. Chẳng cần chuyện gì to tát, chỉ vài chi tiết là đủ. Ví dụ như khi xây dựng con đập này ở cái thung lũng nọ, nước đã ngập hết ngôi làng ấy nhưng mỗi độ xuân sang những loài chim từ phương nam vẫn nhớ đường về và bạn có thể thấy chúng bay lượn trên mặt hồ. Cứ thêm một giai thoại nho nhỏ như thế và ai đọc cũng thấy thích, rất hình ảnh và tình cảm. Bọn làm thêm bình thường không nghĩ đến những cái như thế, nhưng tớ có thể viết và kiếm được khối tiền."

"Ờ, nhưng cũng phải tìm ra những giai thoại ấy chứ."

"Đúng thế," Midori nói, hơi nghiêng đầu. "Nhưng nếu đã tìm là thể nào cũng có. Còn nếu không thì mình bịa ra cái gì đó cũng có chết ai đâu?"

"Á, à…"

"Hoà bình mà!" Midori nói.

Cô nói muốn nghe chuyện khu học xá của tôi, và tôi kể những câu chuyện quen thuộc về lễ kéo cờ và về các bài thể dục theo đài của Quốc-xã. Cũng như mọi người khác, Midori phì cười vì anh chàng Quốc-xã này. Cô nói giá được vào thăm khu học xá chắc sẽ vui lắm.

"Làm gì có cái gì vui," tôi bảo, "Chỉ có mấy trăm thằng trong những căn phòng đày rác rưởi, uống rượu và thủ dâm."

"Kể cả cậu chứ."

"Thì thằng đàn ông nào trên thế giới này mà chẳng thế," tôi giải thích. "Con gái thì hành kinh mà con trai thì thủ dâm. Tất tật."

"Kể cả những đứa có bồ gái ư? Nghĩa là có bạn tình ấy"

"Chuyện ấy chẳng có liên quan gì. Thằng ở cạnh phòng tớ lại còn phải cho ra trước khi đi chơi với bồ. Nó bảo thế nó mới thấy thoải mái."

"Tớ không biết lắm những chuyện ấy. Tớ ở trường nữ sinh quá lâu."

"Tớ đoán những tạp chí đàn bà bóng bẩy kia không đề cập đến chuyện này."

"Đúng thế! Chẳng có tí nào!" cô nói, cười ầm lên.

"Mà này, Watanabe, Chủ nhật này cậu có thời gian không? Có rảnh không?"

"Chủ nhật nào tớ cũng rảnh. Ít nhất là đến sáu giờ. Lúc ấy tớ phải đi làm"

"Thế thì đến tớ chơi nhé! Đến hiệu sách Kobayashi. Hàng thì nghỉ, nhưng tớ phải loanh quanh ở đó cả ngày một mình. Có thể sẽ có một cú điện thoại quan trọng. Cậu đến ăn trưa nhé! Tớ sẽ nấu."

"Nghe được đấy," tôi nói.

Midori xé một trang vở rồi vẻ một bản đồ chi tiết chỉ đường đến chỗ cô. Cô lấy bút đỏ đánh một cái dấu X to tướng vào chỗ ngôi nhà.

"Thể nào cậu cũng thấy nó ngay, có cả biển đề "Hiệu sách Kobayashi". Đến buổi trưa nhé. Tớ sẽ soạn bữa chờ cậu."

Tôi cám ơn và bỏ cái bản đồ vào túi quần.

"Bây giờ tớ phải về trường," tôi nói. "Lớp tiếng Đức của tớ bắt đầu lúc hai giờ." Midori nói cô phải đi đâu đó, rồi lên tàu ở trạm Yotsuya.

Sáng Chủ nhật tôi dậy lúc chín giờ, cạo mặt, giặt quần áo và đem phơi trên nóc nhà. Hôm ấy đẹp trời. Trong không khí đã thấy những hương vị đầu mùa của tiết thu. Chuồn chuồn ngô bay đầy quanh sân, chạy trốn bọn trẻ con khu phố đang cầm vợt đuổi theo chúng. Không có gió, lá cờ Mặt trời mọc ủ rũ trên cột. Tôi mặc cái sơ-mi mới là rồi đi bộ ra trạm tàu điện. Cảnh tượng khu sinh viên sáng Chủ nhật: đường phố vắng về, gần như không có ai, hàng họ đóng cửa gần hết. Những âm thanh ít ỏi vọng lại với một âm sắc rõ ràng đặc biệt. Một cô gái đi guốc bước lóc cóc qua mặt đường nhựa, và cạnh trạm tàu điện có mái che là bốn năm đứa trẻ đang ném đá một dãy vỏ đồ hộp.

Có một tiệm bán hoa mở cửa, và tôi vào mua mấy bông thuỷ tiên. Mùa thu mà có thuỷ tiên! Thật lạ? Nhưng tôi vẫn thích thứ hoa này.

Chuyến tàu điện sáng Chủ nhật chỉ có ba bà già. Họ đều nhìn tôi và mấy bông hoa của tôi. Một bà còn mỉm cười với tôi. Tôi cười đáp lại. Tôi ngồi xuống hàng ghế cuối cùng và nhìn những ngôi nhà cổ trôi qua ngay sát cửa sổ. Tàu gần như sắp chạm cả vào những hồi nhà nhô ra. Sân phơi của một nhà có mười cái chậu trồng cà chua, cạnh đó là một con mèo đen to bự nằm sưởi nắng. Trong vườn một nhà khác có một đứa con gái bé tí đang thổi bong bóng xà-phòng. Tôi nghe thấy một bài hát của Ayumi Ishida văng văng từ đâu đó, và còn ngửi thấy cả mùi cà-ri đang nấu. Con tàu len lỏi qua cái thế giới sân sau riêng tư ấy. Dọc đường có thêm một vài khách lên tàu, nhưng ba bà già vẫn ngồi chụm sát lại và mải miết chuyện gì đó với nhau.
Chương 4 B

Tôi ra khỏi tàu ở trạm Otsuka rồi đi theo bản đồ của Midori xuống một phố rộng chẳng có gì mấy để xem. Không có cửa hàng nào trong phố ấy có vẻ phát đạt, toàn ở trong những toà nhà cũ có nội thất buồn thảm, nhiều biển hiệu đã phôi pha. Trông kiểu nhà thì có lẽ vùng này đã không bị ném bom hồi chiến tranh và cả dãy phố vẫn còn nguyên như cũ. Một vài chỗ đã được xây mới lại hoàn toàn, nhưng hầu hết đều được cơi nới thêm chỗ này cho kia, và chính những cơi nới ấy trông còn nhem nhếch hơn bản thân những toà nhà cũ. Toàn bộ không khí của chỗ ấy khiến ta nghĩ rằng hầu hết nhưng cư dân gốc gác ở đây đã chán ngấy cảnh xe cộ đông đúc, không khí bẩn thỉu, tiếng ồn và giá thuê nhà cao, và đã dọn hết về các vùng ngoại ô, để lại toàn những căn hộ rẻ tiền, những văn phòng cho thuê và các cửa tiệm rất khó bán, cùng với một số ít những người còn ngang bướng bám chặt lấy tài sản để lại của gia đình. Mọi thứ đều mờ mịt và u ám như bị bọc trong một làn khói thải phun ra từ ống xả xe hơi vậy.

Sau mười phút đi bộ đọc dường phố ấy, tôi đến một trạm xăng góc đường, rồi rẻ phải vào một đoạn phố toàn những cửa hàng nhỏ, ở giữa có một tám biển đề Hiệu sách Kobayashi.

Đúng là một cửa hàng nhỏ, nhưng cũng không đến nỗi nhỏ như mô tả của Midori. Nó điển hình là một hiệu sách khu phố, đúng như cửa hàng mà tôi vẫn chạy ù đến những hôm truyện tranh trẻ con vừa về số mới. Lòng tôi bỗng tràn ngập một nỗi nhớ tiếc khi đứng trước cửa hiệu sách.

Toàn bộ mặt tiền của cửa hiệu được đóng kín bằng một cửa sắt cuốn có sơn in một quảng cáo tạp chí: "Tuần báo Bunshun có bán tại đây vào thứ năm hàng tuần." Vẫn còn mười năm phút nữa mới đến giờ hẹn, nhưng tôi không muốn phải lang thang trong dãy phố đó với bó thuỷ tiên trong tay, nên cứ bấm chuông ở cạnh cửa rồi lùi lại vài bước đứng đợi. Mười lăm giây sau vẫn không thấy gì, và đang chưa biết có nên bấm chuông nữa hay không thì tôi nghe tiếng cửa sổ mở ra ở phía trên. Tôi ngẩng lên và thấy Midori đang nghiêng người ra vẫy:

"Vào đi!" cô nói to. "Cứ nhấc cái cửa lên."

"Ôkê chứ? Tớ đến hơi sớm!" tôi lớn tiếng đáp.

"Không sao. Lên gác nhé. Tớ đang bận trong bếp."

Cô đóng cửa sổ lại.

Cái cửa cuốn kêu xào xạo ầm khi tôi nhấc nó lên chừng một thước, chui qua, rồi lại hạ nó xuống. Bên trong cửa hàng tối om. Tôi lần mò tìm đường vào tới chân cầu thang ở phía sau, vấp phải nhưng bó tạp chí lăn lóc dưới đất. Tôi cởi giày rồi theo cầu thang lên phòng khách. Nội thất ngôi nhà tối và ảm đạm. Cầu thang dẫn vào một phòng khách giản dị có một cái ghế sô-pha và mấy cái ghế bành. Đó là một gian phòng nhỏ có ánh sáng lờ mờ lọt vào từ cửa sổ, giống như trong những phim Ba Lan ngày xưa. Bên trái có vẻ là một chỗ chứa đồ và cái gì đó như cửa vào nhà tắm. Đoạn thang lên tầng trên nữa rất dốc và tôi phải thận trọng từng bước, nhưng lên đến nơi thì khung cảnh sáng sủa hơn nhiều đến nỗi tôi thấy nhẹ cả người.

"Tớ ở đây," Midori gọi. Phía bên phải đầu cầu thang có vẻ là buồng ăn, ở sau đó là bếp. Ngôi nhà thì cũ, nhưng gian bếp có vẻ vừa mới được thay thế bộ tủ mới và bàn rửa vòi nước sáng choang. Midori đang nấu nướng. Một cái nồi đang sôi, và không khí sặc mùi cá nướng.

"Có bia trong tủ lạnh," cô nói và liếc sang phía tôi.

"Cậu ngồi đi để tớ làm nốt món này." Tôi lấy một hộp bia và ngồi cạnh bàn bếp. Bia lạnh toát như thể nó đã ở trong tủ lạnh cả năm trời. Trên bàn có một cái gạt tàn nhỏ màu trắng, một tờ báo, và một vịt xì-dầu. Có cả một tập giấy ghi chú và bút viết, thấy có ghi một số điện thoại và mấy con số có vẻ là tính toán chợ búa gì đấy.

"Chắc phải mười phút nữa mới xong," cô nói. "Cậu đợi được chứ."

"Tất nhiên rồi," tôi nói.

"Vậy thì cứ để cho thật đói đi. Tớ làm nhiều đồ ăn đấy" Tôi nhâm nhi bia và dồn mắt vào Midori trong khi cô nấu nướng, quay lưng về phía tôi. Cô làm việc với những động tác nhanh nhẹn khéo léo, đến bốn năm thứ việc một lúc ở trên bếp. Vừa mới bắt đầu luộc cá ở đây, một giây sau đã thấy thái tanh tách ngoài thớt, rồi lấy cái gì đó trong tủ lạnh ra chất đầy vào một cái bát, sau đó nhoáng một cái đã rửa xong cái nồi vừa mới dùng. Từ sau lưng trông cô như một nghệ sĩ Ấn Độ điều khiển bộ gõ - nào rung chuông, nào đánh mõ, nào gõ sửng trâu, động tác nào cũng chính xác và tiết kiệm trong một tổng thể hài hoà. Tôi nhìn mà phát khiếp.

"Nếu tớ giúp được gì thì cậu cứ bảo nhé," tôi nói, cũng là để khỏi ngượng là chính.

"Ôkê mà," Midori nói và mỉm cười về phía tôi. "Tớ vẫn quen làm mọi thứ một mình." Cô mặc quần bò chen màu nước biển và một chiếc áo phông xanh thuỷ quân. Hình lôgô của hãng đĩa hát Apple chiếm gần hết lưng áo. Cô có bộ hông cực kỳ hẹp, như thể đã bỏ qua tuổi phát dục và không chịu nảy nở, và điều đó làm cô trông lưỡng tính hơn các cô gái mặc quần bò chẽn bình thường khác.

Ánh sáng tràn vào từ cửa sổ bếp bao bọc lấy thân hình cô với một đường viền mờ ảo.

"Nhẽ ra cậu không cần phải bày vẽ đại tiệc thế," tôi nói.

"Tiệc tùng gì đâu," Midori đáp mà không quay lại. "Hôm qua tớ bận quá không đi chợ hẳn hoi được. Tớ chỉ nhặt nhạnh những thứ có sẵn trong tủ lạnh thôi. Thật đấy, cậu đừng có lo. Với lại họ Kobayashi nhà tớ có truyền thống đãi khách. Tớ cũng không biết tại sao, nhưng nhà tớ thích thù tiếp bạn bè lắm. Thâm căn cố đế thế rồi, như một chứng bệnh vậy. Cũng chẳng phải tại nhà tớ đặc biệt tử tế hoặc tại mọi ngườí quý mên gia đình tớ quá hay gì đó, nhưng cứ hễ có ai đến chơi là sẽ được hậu đãi, bất kì là thế nào. Cả nhà tớ đều có những khiếm khuyết tính cách giống nhau, tốt xấu gì cũng thế. Ví dụ như bố tớ. Ông ấy hầu như không uống rượu, nhưng trong nhà lúc nào cũng đầy rượu. Để làm gì ư? Để đãi khách! Cho nên đừng có nhịn, cậu cứ uống bia xả láng nhé."

"Cám ơn," tôi nói.

Tôi bỗng nhớ ra là đã để mấy bông thuỷ tiên ở dưới nhà. Tôi đã để chúng sang bên cạnh lúc cởi giày. Tôi lẳng lặng xuống thang và thấy mười bông hoa đang nở sáng rực trong bóng tối. Midori lấy một cái cốc thuỷ tinh cao trong chạn ra và cắm hoa vào đó.

"Tớ thích thuỷ tiên lắm," Midori nói. Đã có lân tớ hát bài "Bảy đoá thuỷ tiên" trong một cuộc thi tài ở trường. Cậu biết bài đó không?"

"Chúng tớ có một nhóm nhạc dân gian. Tớ chơi ghi-ta."

Cô vừa dọn đồ ăn ra đĩa vừa hát bài "Bảy đoá thuỷ tiên."

Midori nấu nướng giỏi hơn tôi tưởng rất nhiều: đủ các loại món rán, xào, luộc, nướng, muối rất ngon, chế biến từ trứng gà, cá thu, đậu quả tươi, cà tím, các loại nấm, củ cải đỏ, vừng, nấu theo phong cách Kyoto rất tinh tế.

"Ngon tuyệt," tôi nói, miệng vẫn đầy thức ăn.

"Ôkê, bây giờ cậu nói thật đi!" Midori nói. "Cậu tưởng tớ không thể nấu nướng ngon lành thế này đúng không - và cứ nhìn tớ thì ai cũng nghĩ vậy, đúng không?"

"Quả có thế," tôi thú thật.

"Cậu quê ở Kansai, nên thích ăn các món có hương vị tinh tế kiểu này, đúng không?"

"Chẳng nhẽ cậu đã chọn món và nấu nướng theo khẩu vị đặc biệt của tớ?"

"Đừng vớ vẩn? Tớ không chịu rắc rối thế đâu. Không đâu. Nhưng nhà tớ vẫn ăn uống kiểu này."

"Vậy. mẹ cậu hoặc bố cậu, cũng là người Kansai à?"

"Không. Bố tớ đẻ ở Tokyo và mẹ tớ là người Fukushima. Họ hàng nhà tớ không có ai là người Kansai. Tất cả đều là người Tokyo hoặc Kanto bắc."

"Tớ chịu đấy," tôi nói. "Làm sao cậu có thể nấu nướng theo lối Kansai một trăm phần trăm thế này được. Có ai dạy cậu à?"

"À, đó là cả một câu chuyện đấy," cô nói, miệng nhai một miếng trứng rán. "Mẹ tớ ghét đủ thứ việc nhà, và bà ấy hầu như không nấu nướng gì bao giờ. Và chúng tớ lúc nào cũng phải nghĩ, ví dụ như "Hôm nay bận quá, mình gọi đồ ăn về nhà đi", hoặc "Mình ra hàng thịt mua ít chả cá mà ăn cho rồi", đại loại thế. Ngay từ hồi bé tớ đã ghét thế rồi, kiểu cứ làm một nồi cà-ri to đùng và ăn ba ngày liền. Cho đến một hôm, đang năm thứ năm trung học, tớ quyết định sẽ phải ra tay nấu nướng cho cả nhà và phải nấu thật ngon. Tớ đến hiệu sách lớn Kinokuniya ở Shinjuku mua cuốn dạy nấu ăn to nhất và đẹp nhất, rồi tớ thông thạo sách ấy từ bìa trước đến bìa sau, từ chọn thớt mài dao cho đến cách lọc xương và đánh vẩy cá, đủ thứ. Tác giả cuốn sách ấy tình cờ lại là người Kansai, cho nên tất cả những món tớ biết nấu đều là theo lối Kansai."

"Nghĩa là cậu đã học nấu tất cả những thứ này từ một cuốn sách ư?"

"Tớ để dành tiền để đi ăn của thật. Có thế mới học được hương vị. Cảm tính của tớ tốt. Nhưng đầu óc logic thì tớ tuyệt vọng."

"Cậu tự học mà nấu giỏi thế này thì thực là kinh khủng!"

"Không dễ đâu," Midori thở dài nói, "Lớn lên trong một cái nhà mà mọi người đều chẳng thèm để ý gì đến đồ ăn thức uống. Tớ nói tớ muốn mua dao với nồi tử tế nhưng chẳng ai cho tiền. Họ bảo "Những cái mình đang dùng là tốt chán rồi". Nhưng tớ bảo họ điên à, dao dựa kiểu ấy có muốn lọc xương cá cũng không xong, thế là họ nói "Mày lọc xương cá làm cái quái gì cơ chứ?" Không thể nói phải quấy với họ được. Tớ bèn dành dụm tiên tiêu vặt và đi sắm dao nồi rổ rá chuyên nghiệp mang về dùng. Cậu có tin được không? Một con nhóc mười lăm tuổi tiết kiệm từng xu để mua rố rá đá mài và nồi chống dính trong khi lũ con gái khác ở trường đã nhiều tiền thì chớ lại tha hồ sắm quần áo giày dép để chưng diện. Cậu có thấy buồn cho tớ không hả?"

Tôi vừa gật đ

Re:Cùng nhau đọc truyện : Rừng Na-uy

Đã gửi: Ba T10 24, 2006 6:31 pm
Viết bởi Ansamurai
Rừng Na-Uy
Chương 5

Dịch giả: Trinh Lữ


Cám ơn cậu vì bức thư, Naoko viết. Gia đình nàng đã chuyển nó đến đây, nàng nói. Chẳng những nàng không phiền, mà trái lại bức thư đã làm nàng rất hạnh phúc, và quả thực lúc ấy nàng cũng đang định viết cho tôi.

Đọc đến đấy thôi, tôi ra mở cửa sổ, cởi áo ngoài và ngồi lên giường. Tôi có thể nghe thấy tiếng chim gù từ một chuồng câu gần đó. Gió nhẹ làm lay động màn cửa.

Cầm bảy trang giấy viết của Naoko, tôi thả mình vào một dòng cảm xúc vô tận. Dường như màu sắc của thế giới thực tại quanh tôi đã bắt đầu phải nhạt đi chỉ vì tôi đã đọc mấy dòng chữ ấy của nàng. Tôi nhắm mắt rất lâu, cố tập hợp lại những ý nghĩ của mình. Cuối cùng, sau một hơi thở thật sâu, tôi đọc tiếp.

Mình đến đây đã được bốn tháng rồi, nàng viết tiếp. Mình đã nghĩ rất nhiều về cậu trong thời gian ấy. Càng nghĩ càng thấy mình đã bất công với cậu. Nhẽ ra mình đã phải đối xử với cậu tốt hơn và công bằng hơn.

Nhưng nhìn nhận như thế cũng không phải bình thường nhất đâu. Bọn con gái bình thường trạc tuổi mình về cơ bản là không để ý gì xem chuyện mọi việc có "công bằng" hay không. Câu hỏi chính của chúng không phải là có công bằng không mà là có đẹp và làm chúng hạnh phúc hay không. "Công bằng" là từ ngữ của đàn ông, rốt cuộc là vậy, nhưng mình vẫn cứ cảm thấy nó đúng là cái từ mình phải dùng vào lúc này. Và bởi vì những câu hỏi về cái đẹp và hạnh phúc đang trở thành những vấn đề khó khăn và rắc rối quá với mình, có lẽ thế, nên mình thấy mình đang bám vào nhũng tiêu chuẩn khác vậy - như là có công bằng hay không, hoặc có trung thực và chân xác hay không.

Dù sao đi nữa, mình tin rằng mình đã bất công với cậu và thế nên chắc là mình đã bắt cậu phải loanh quanh lẩn quẩn và làm tổn thương cậu rất nhiều. Tuy nhiên, trong khi làm thế, mình cũng phải loanh quanh lẩn quẩn và tự làm tổn thương mình không kém. Mình nói điều này không phải đề chống chế hoặc tự bào chữa, mà vì đó là sự thật. Nếu mình đã để lại một vết thương trong ngưởi cậu, thì đó không phải chỉ là vết thương của cậu mà cũng là của mình luôn.

Vậy cậu hãy làm ơn cố gắng đừng ghét mình. Mình là một con người khiếm khuyết - khiếm khuyết hơn cậu biết rất nhiều. Đó cũng chính là lí do tại sao mình không muốn cậu ghét mình. Bởi vì nếu cậu làm thế, mình sẽ thực sự tan ra. Mình không thể làm được như cậu. Mình không thể lẻn vào trong vỏ bọc của chính mình và chờ cho mọi thứ qua đi. Mình không có bằng chứng thực tế nào là cậu như vậy, nhưng đôi khi cậu làm cho mình có ấn tượng ấy. Mình thường tị với cậu chuyện ấy, và có lẽ chính vì thế mà mình đã bắt cậu loanh quanh lẩn quẩn mãi.

Có thể cách nhìn nhận này hơi chi li tách bạch quá, cậu có thấy thế không? Cách điều trị của họ ở đây thì nhất định là không chi li tách bạch rồi, nhưng khi cậu phải điều trị nhiều tháng liền như mình ở đây, thì dù muốn dù không, cậu sẽ thành ra chi li tách bạch thôi. "Cái này là do cái kia gây ra, và cái kia có nghĩa là cái này và bởi vậy mà cái này với cái nọ." Kiểu như thế. Mình chịu không biết cách phân tích ấy sẽ đơn giản hoá hay phức tạp hoá mọi chuyện.

Dù sao, mình tự thấy đã sắp bình phục hơn trước đây rất nhiều, và ở đây ai cũng bảo mình là đúng như thế. Đây là lần đầu tiên trong một thời gian dài mình có thể ngồi và bình tĩnh viết một lá thư. Cái mình viết cho cậu hồi tháng Bảy là cái mình phải nặn mãi mới ra, mặc dù, nói thật nhé, mình không nhớ đã viết gì trong đó - có kinh khủng không? Nhưng lần này thì mình rất bình tĩnh, rất bình tĩnh. Không khí trong lành, một thế giới cách biệt với bên ngoài, một lịch sinh hoạt hàng ngày, những bài tập thường xuyên: đó là những cái mình cần, có vẻ thế. Được viết một bức thư cho ai đó như thế này thật tuyệt quá! Được cảm thấy cỏ thể truyền đạt những ý nghĩ của mình cho một người, ngồi vào bàn, cầm lấy bút, và viết những ý nghĩ ấy thành những con chữ như thế này, quả thực là kì diệu. Tất nhiên, một khi đã viết chúng ra, mình lại thấy mình chỉ diễn đạt được một phần nhỏ cái mình muốn nói, nhưng cũng không sao. Chỉ cần có thể cảm thấy muốn viết cho ai đó là mình đã hạnh phúc rồi.

Và mình đang viết cho cậu đây. Bây giờ là bay rưỡi tối, mình đã ăn cơm, và vừa mới tắm xong. Nơi đây yên tĩnh lắm, và trời bên ngoài tối như mực. Mình không thấy một ánh đèn nào ngoài cửa sổ. Thường mình vẫn thấy bầu trời sao rất rõ, nhưng hôm nay thì không, vì nhiều mây. Ở đây ai cũng biết rất nhiều về các ngôi sao, và mọi người thường bảo mình "Đó là sao Xử-nữ" hoặc "Đó là sao Nhân-mã". Có lẽ muốn hay không thì họ cũng học được những cái đó vì ở đây chẳng có việc gì để làm khi mặt trời đã lặn. Cũng vì thế mà họ cũng biết rất nhiều về chim hoa côn trùng. Nói chuyện với họ, mình thấy mình thật ngu xuẩn trong những chuyện ấy, cũng là cái hay.

Có khoảng bảy mươi người sống ở đây. Ngoài ra, số cán bộ, bác sĩ, hộ lý, văn phòng, vân vân… chỉ độ hơn hai mươi người. Địa điểm thì thật là rộng rãi, nên số người ấy chẳng lớn chút nào. Còn lâu mới vậy, mà đúng ra thì ở đây còn hơi vắng quá là đằng khác.

Thiên nhiên thật rộng rãi và ai cũng sống thật lặng lẽ lặng lẽ đến mức đôi khi ta cảm thấy đây là một thế giới bình thường trong thực tại, mà thực ra nó không phải vậy. Được như vậy là vì ở đây ai cũng sống với những điều kiện nhất định đã thoả thuận ban đầu.

Mình chơi bóng quần và bóng rổ. Các đội bóng rổ bao gồm cả cán hộ và (mình ghét từ này quá nhưng không tránh được nó) bệnh nhân. Khi đang mải mê trong trận đấu thì mình cũng chẳng còn biết ai là bệnh nhân ai là cán bộ. Chuyện ấy cũng hơi lạ. Mình biết điều này nghe sẽ lạ lắm, nhưng khi mình nhìn mọi người xung quanh mình trong một trận bóng, tất cả bọn họ đều có vẻ tàn tật méo mó như nhau.

Một hôm mình nói với ông bác sĩ phụ trách ca của mình điều đó và ông ta bảo rằng theo một nghĩa nào đó thì cảm giác ấy của mình là đúng, rằng bọn mình đến ở đây không phải để sửa chữa sự méo mó của mình mà là để làm quen với nó, rằng một trong nhưng vấn đề của bọn mình là khả năng biết được và chấp nhận nhũng méo mó của chính mình. Cũng như mỗi người đều có những đặc điểm riêng trong cách đi đứng, ai cũng có những cái riêng trong cách nghĩ, cách cảm và cách nhìn sự vật, và cho dù ta có muốn sửa chữa chúng, chuyện đó không thể nhanh được, và nếu ta cố ép buộc thì thế nào cũng có những cải lạ lùng khác xảy ra. Ông ta đã giải thích rất giản dị như vậy, tất nhiên rồi, và đó cũng chỉ một phần nhỏ các vấn đề của bọn mình, nhưng có lẽ mình hiểu ông ta muốn nói gì. Rất có thể là bọn mình không bao giờ có khả năng thích ứng hoàn toàn với những méo mó của chính mình. Không thể tự mình cất giấu nỗi đau đớn khổ sở do những méo mó này gây ra, bọn mình đến đây để trốn tránh chúng. Khi nào còn ở đây, bọn mình có thể tiếp tục sống mà không làm người khác tổn thương hoặc bị họ làm tổn thương bởi lẽ tất cả đều biết là mình méo mó như nhau cả.

Đó là cái phân biệt bọn mình với thế giới bên ngoài, nơi hầu hết mọi người sống mà không biết đến những méo mó của họ, còn ở cái thế giới nhỏ bé này của bọn mình thì bản thân những méo mó này lại là một điều kiện tiên quyết. Giống như người Indian cài lông chim lên đầu để mọi người biết họ thuộc bộ lạc nào, bọn mình công khai đeo những méo mó của chính mình ra bên ngoài. Và bọn mình sống lặng lẽ để không làm tổn thương nhau.

Ngoài việc chơi thể thao, tất cả đều tham gia trồng rau: cà chua, cà tím, dưa chuột, dưa hấu, dâu, hành lá, bắp cải, củ cải đỏ, và nhiều thứ khác nữa. Bọn mình trồng gần như đủ thứ. Có cả nhà kính nữa. Mọi người ở đây biết rất nhiều về việc trồng rau, và họ bỏ rất nhiều công sức vào việc này. Họ đọc sách, mời chuyên gia đến, và nói chuyện từ sáng đến đêm về việc sẽ dùng phân bón gì và tình trạng đất ra sao, những chuyện như vậy. Bây giờ thì mình cũng rất thích việc trồng rau rồi. Nhìn những cây rau quả khác nhau cứ lớn lên từng ngày thật là tuyệt. Cậu đã bao giờ trồng dưa hấu chưa? Chúng cứ lớn phổng lên, hệt như những con thú nhỏ vậy.

Chúng mình ăn rau quả tươi hái hàng ngày. Tất nhiên là họ có nấu các món thịt cá, nhưng khi đã sống ở đây thì cậu sẽ thấy không muốn ăn những cái đó nữa vì rau quả quá tươi ngon. Thỉnh thoảng bọn mình cũng ra ngoài hái nấm và cây dại. Bọn mình có những chuyen gia về việc này (thử nghĩ coi, nơi này đầy rây những chuyên gia) có thể hướng dẫn hái cây gì và đừng hái cây gì. Kết quả là mình đã lên đến hơn ba kilô kể từ ngày vào đây. Mình nặng thế là gần như hoàn hảo rồi, nhờ tập tành và ăn uống tốt đều đặn.

Khi không trồng trọt thì bọn mình đọc sách, nghe nhạc, hoặc đan lát. Không có TV và radio, nhưng bọn mình có một thư viện sách và đĩa nhạc rất tốt. Sưu tập đĩa có đủ thứ, từ những giao hưởng của Mahler cho đến nhạc Beatles, và mình luôn mượn đĩa về nghe ở phòng mình.

Vấn đề thực sự của chỗ này là một khi đã ở đây rồi thì ta không muốn rời nó nữa - hoặc là sợ phải rời khỏi nó. Còn ở đây ngày nào thì mình còn thấy bình tĩnh và an bình ngày đó. Những méo mó của bọn mình có vẻ thành tự nhiên. Bọn mình tưởng là đã bình phục. Nhưng không ai có thể chắc liệu thế giới bên ngoài có chấp nhận bọn mình như thế hay không.

Ông bác sĩ của mình nói đã đến lúc mình nên tiếp xúc với "người ngoài" - tức là những người bình thường ở thế giới bên ngoài. Khi ông ấy nói thế, mình chỉ nhìn thấy mỗi gương mặt của cậu. Nói thật, mình không muốn gặp bố mẹ. Họ quá lo lắng cho mình, và gặp họ là mình khó chịu. Hơn nữa, có nhiều chuyện mình phải giải thích cho cậu. Mình không chắc có thể giải thích chúng rõ ràng được hay không, nhưng chúng là những chuyện quan trọng mà mình không thể né tránh mãi được.

Cho dù vậy, thì cậu cũng không nên cảm thấy mình là gánh nặng của cậu nhé. Đó là điều mình không muốn nhất: là gánh nặng của ai đó. Mình cảm thấy được những tình cảm tốt của cậu dành cho mình.

Và chúng làm mình rất hạnh phúc. Tất cả những gì mình muốn làm trong lá thư này là truyền đạt niềm hạnh phúc ấy đến cậu. Những tình cảm tốt ấy của cậu có lẽ chính là cái mình cần trong thời điểm này của cuộc đời hay tha thứ cho mình nếu có điều gì mình viết ở đây làm cậu phật lòng. Như mình đã nói, mình là một con người khiếm khuyết hơn cậu biết rất nhiều.

Có đôi khi mình tự hỏi: NẾU cậu và mình đã gặp nhau trong những hoàn cảnh tuyệt đối bình thường, và NẾU chúng mình thích nhau, chuyện gì đã có thể xảy ra. Nếu mình là người bình thường và cậu cũng bình thường (mà tất nhiên là cậu như vậy rồi) và đã không có Kizuki, chuyện gì đã có thể xảy ra? Tất nhiên, chứ "NẾU" này quá lớn. Mình chỉ cố hết sức để ít ra cũng công bằng và thành thực. Lúc này mình chỉ có thể làm được vậy. Mình hy vọng truyền đạt được đến cậu vài phần nhỏ nhoi của tình cảm mình bằng cách này. Khác với bệnh viện thường, ở đây cho vào thăm tự do. Chỉ việc gọi trước một ngày, còn thì cậu có thể đến bất kì giờ nào. Cậu có thể ăn với mình, và có chỗ cho cậu ở lại. Khi nào tiện cậu hay đến thăm mình nhé.

Mình chờ đấy. Có cái bản đồ kèm theo đây. Xin lỗi đã viết dài thế này.

Tôi đọc một mạch hết lá thư của Naoko, rồi đọc lại nữa.

Sau đó tôi xuống nhà, mua một hộp côca ở máy tự động, và vừa uống vừa đọc lá thư một lần nữa. Tôi cho cả bảy tờ giấy viết vào lại phong bì và đặt nó lên bàn. Tên và địa chỉ của tôi viết trên chiếc phong bì màu hồng với những con chữ nhỏ và hoàn hảo, có vẻ quá chính xác từ tay một cô gái như vậy. Tôi ngồi bên bàn, nghiên cứu cái phong bì. Địa chỉ người gửi ở mặt sau đề là Nhà nghỉ Ami. Một cái tên kì quặc. Tôi nghĩ về nó mất mấy phút, rồi kết luận rằng "ami" chắc là từ "bạn" trong tiếng Pháp.

Sau khi cất bức thư vào ngăn kéo bàn, tôi thay quần áo và ra ngoài. Tôi sợ nếu cứ ở gần bức thư, tôi có thể sẽ đọc nó mười, hai mươi, hoặc bao nhiêu lần nữa ai mà biết được.

Tôi đi trên những con phố Tokyo ngày Chủ nhật mà không biết đi đâu, hệt như tôi vẫn đi với Naoko. Tôi lang thang từ phố này qua phố khác, nhớ lại bức thư của nàng từng dòng một và cố ngẫm nghĩ đến từng câu. Khi mặt trờỉ đã lặn, tôi trở về học xá và gọi đường dài đến Nhà nghỉ Ami. Một người đàn bà trực điện thoại nhấc máy và hỏi tôi có việc gì. Tôi hỏi liệu tôi có thể đến thăm Naoko vào chiều ngày hôm sau được không. Tôi xưng tên và bà dặn tôi hay gọi lại sau nửa giờ.

Cũng người đàn bà ấy trả lời khi tôi gọi lại sau bữa tối.

Tất nhiên là tôi có thể đến thăm Naoko, bà ta nói.

Tôi cám ơn, cúp máy, rồi cho mấy thứ áo quần thay đổi và vài đồ vệ sinh cá nhân vào balô. Rồi tôi nhặt cuốn Núi Thiêng lên, vừa đọc vừa nhấm nháp rượu mùi và chờ đến lúc buồn ngủ. Thế mà, mãi đến một giờ sáng tôi mới ngủ được.



Chương 6





Thức dậy lúc bảy giờ sáng thứ Hai, tôi lập tức rửa mặt, cạo râu, không ăn sáng mà đi thẳng đến văn phòng chủ nhiệm học xá và nói tôi sẽ đi chơi núi hai ngày. Ông ta đã quen với các chuyến đi ngắn như thế của tôi nên không ngạc nhiên gì cả. Tôi lên một chuyến tàu điện đông nghẹt đến ga Tokyo, mua vé tốc hành trên tàu siêu tốc đi Kyoto, và nhảy ngay lên chuyến đầu tiên trong ngày. Tôi chỉ điểm tâm bằng bánh kẹp với cà-phê, rồi ngủ thiếp đi khoảng một tiếng đồng hồ.

Tôi đến Kyoto vài phút trước mười một giờ. Theo chỉ dẫn của Naoko, tôi lấy xe buýt thành phố đến một trạm xe nhỏ phục vụ những khu ngoại ô phía bắc.

Chuyến xe buýt tiếp theo đến diểm đích của tôi mãi đến mười một giờ ba mươi lăm mới chạy, và đi đến đó sẽ mất khoảng một tiếng. Tôi mua vé và sang một hiệu sách bên kia đường mua một tấm bản đồ. Trở lại nơi đợi xe, tôi nghiên cứu bản đồ xem có thấy Nhà nghỉ Ami nằm chính xác chỗ nào không. Hoá ra nó ở sâu trong núi hơn tôi tưởng. Xe buýt sẽ phải chạy qua nhiều đồi núi về phía bắc, rồi khi hết đường sẽ vòng lại để trở về thành phố. Trạm xuống của tôi sẽ là trạm áp chót của tuyến này.

Theo lời Naoko, ở gần trạm ấy có một lối đi bộ, và nếu theo lối đó đi chừng hai mươi phút tôi sẽ đến Nhà nghỉ Ami. Sâu mãi trong núi như vậy nên chỗ ấy yên tĩnh đến thế là phải.

Chuyến xe khởi hành chỉ có chừng hai mươi khách, chạy men theo con sông Kamo qua mạn bắc Kyoto.

Những con phố đông đúc dần nhường chỗ cho cảnh nhà cửa thưa thớt hơn, rồi đến đồng ruộng và đất trống. Những mái nhà đá đen và sườn vách nilông của những nhà ươm cây lấp loá trong nắng đầu thu. Khi xe tiến vào khe núi, tài xế bắt đầu vặn lái bên này bên kia để bám theo những đoạn lượn và khúc quanh của con đường và tôi bắt đầu thấy chóng mặt, vị cà-phê từ sáng lại ứ lên tận cổ.

Đến khi đường đã đỡ quanh co và tôi bắt đầu thấy dễ chịu trở lại thì bất chợt chúng tôi lao vào một rừng tuyết tùng lạnh giá. Khu rừng chắc đã lâu đời lắm vì cây nào cũng cao vút rậm rạp, che hết cả nắng và bao phủ mọi vật trong những mảng bóng râm âm u. Gió lọt qua cửa sổ xe để mở lạnh toát và mang theo khí ẩm khiến da thịt nổi đanh đột ngột. Con đường núi bám theo bờ sông, hun hút mãi trong rừng và dài đến nỗi ta bắt đầu tưởng như cả thế giới này đã mãi mãi bị chôn vùi dưới tán tuyết tùng; nhưng đúng lúc ấy thì hết rừng, và chúng tôi chạy ra một lung sông rộng lớn có những ngọn núi bao quanh.

Nông trại xanh tươi rộng rãi trải ra khắp bốn phía, và con sông ven đường chói chang và trong trẻo. Một sợi khói trắng bốc lên từ đàng xa. Nhiều nhà phơi quần áo ngoài nắng, và tiếng chó tru tréo ầm ĩ. Nhà trại nào cũng có củi chất đống lên đến tận hồi nhà ở phía trước, và thường có một con mèo nằm cuộn tròn ở đâu đó trên đống củi. Hai bên đường toàn những nhà như thế một đoạn dài, nhưng tôi không nhìn thấy một người nào hết.

Cảnh vật cứ nhắc đi nhắc lại như thế. Vào rừng tùng, ra đến làng, rồi lại vào rừng. Xe dừng lại ở một vài làng cho người xuống, nhưng không có khách nào lên xe.

Bốn mươi phút sau khi rời thành phố thì đến một con đèo cao tầm nhìn rất rộng rãi. Tài xế dừng xe và tuyên bố chúng tôi sẽ phải đợi ở đó chừng năm sáu phút, mọi người có thể xuống xe nếu muốn. Chỉ còn có bốn khách trên xe, kể cả tôi. Tất cả đều xuống xe duỗi chân duỗi tay hoặc hút thuốc và ngắm nhìn toàn cảnh Kyoto ở mãi dưới xa. Bác tài lẩn sang một bên đi giải. Một ông rám nắng chừng non ngũ tuần mang theo một hộp bìa lớn buộc dây cẩn thận hỏi có phải tôi lên đây để đi bộ trên núi không. Tôi bảo phải, cho đỡ chuyện.

Cuối cùng thì một chiếc xe buýt khác từ bên kia đèo leo lên đến chỗ chúng tôi và đỗ lại bên cạnh. Ông tài nhảy ra khỏi xe, trao đổi ngắn gọn với bác tài của chúng tôi, rồi hai người ai về xe người nấy. Bốn chúng tôi về chỗ của mình, và hai chiếc xe ai đi đường nấy, ngược hướng nhau.

Tôi vẫn chưa hiểu tại sao xe chúng tôi phải đợi như vậy, nhưng chỉ đi một đoạn ngắn xuống bên này đèo thì con đường bỗng hẹp hẳn lại. Hai xe buýt lớn sẽ không thể tránh nhau trên đoạn đường ấy, và thực tế là ngay cả xe con thường đi ngược chiều cũng phải khéo lắm mới lọt được, thường là một xe phải lùi lại và nép hẳn vào một quãng trồi của một khúc quanh. Những ngôi làng ven đường lúc này nhỏ hơn nhiều, và những khoảnh đất bằng để canh tác còn hẹp hơn nữa. Núi dốc hơn, vách núi như ép gần vào cửa sổ xe hơn. Nhưng hình như người ta vẫn nuôi nhiều chó như những làng khác, và khi xe chạy qua làng, chúng tha hồ thi nhau tru tréo.

Nơi tôi xuống xe không có gì hết - không nhà, không ruộng, chỉ có một cái biển đánh dấu trạm đỗ xe - một con suối nhỏ, và bắt đầu của lối mòn. Tôi đeo ba lô lên vai và bắt đầu đi theo lối mòn ấy. Con suối chảy dọc theo mép trái của lối mòn, và một khu rừng trơ trụi chạy bên mép phải. Đi theo lối mòn thoai thoải dốc ấy được độ mười lăm phút thì tới một con đường rẽ vào rừng ở phía bên phải, chỉ đủ rộng cho một chiếc xe nhó. Bên đường có một tấm biển đề: NHÀ NGHỈ AMI. KHU VỰC RIÊNG. CẤM VI PHẠM

Vết bánh xe hằn sắc nét chạy trên mặt đường xuyên qua rừng. Thi thoảng lại có tiếng chim vỗ cánh âm vang trong vòm cây. Âm thanh rõ rệt lạ thường, như được khuyếch đại để át những giọng nói khác của rừng.

Một lần, từ rất xa, tôi nghe tiếng gì đó có vẻ là một phát súng, nhưng rất nhỏ và nghẹt, như thể lọt qua nhiều lần màng lọc.

Qua quãng rừng ấy tôi tới một bức tường đá. Nó không cao hơn tôi, trốc tường không có rào giậu gì, nếu muốn tôi có thể trèo qua dễ dàng. Cánh cửa sắt đen sì trông cũng chắc chắn, nhưng lại mở toang, và không có ai trong nhà thường trực. Một tấm biển nữa giống cái trước dựng ngay cạnh cổng: NHÀ NGHỈ AMI. KHU VỰC RIÊNG. CẤM VI PHẠM. Có thể thấy người gác cổng đã vừa mới đi đâu đó: một chiếc gạt tàn đựng ba đầu mẩu thuốc, một cốc trà mới uống phân nữa, một cái đài bán dẫn trên giá, và chiếc đồng hồ treo tường gõ nhịp thời gian với một âm thanh khô khốc. Tôi chờ một lát cho người đó quay lại, nhưng khi thấy có vẻ không được, tôi bấm mấy nhát vào một thứ trông giống cái nút chuông. Khu vực ngay sau cổng vào là sân đậu xe. Trong đó có một chiếc xe buýt nhỏ, một cái Land Cruiser hai cầu, và một chiếc Volvo xanh nước biển sẫm. Sân có thể đậu được đến ba mươi xe, nhưng lúc ấy chỉ thấy có ba chiếc đó.

Hai ba phút trôi qua, rồi một người gác cổng mặc đồng phục xanh thuỷ quân xuất hiện ở con đường rừng trên một chiếc xe đạp sơn màu vàng. Một người cao lớn trạc ngoại lục tuần có mái tóc chải hất ngược ra sau. Ông ta dựa chiếc xe đạp vàng vào tường trạm gác và nói, "Rất xin lỗi đã để anh phải chờ," mặc dù giọng ông chẳng như vậy chút nào. Trên vành chắn bùn của chiếc xe có sơn con số 32. Khi tôi xưng tên, ông ta nhấc điện thoại và nhắc lại tên tôi hai lần với ai đó ở đầu dây bên kia, nói "Vâng, dạ, tôi biết rồi ạ" với người đó, rồi gác máy.

"Anh làm ơn vào khu nhà chính và hỏi gặp Bác sĩ Ishida nhé," ông bảo tôi. "Cứ theo đường này qua đám cây kia đến chỗ bùng binh. Sau đó đến chỗ rẽ thứ hai thì rẽ trái. Chỗ rẽ thứ hai kể từ bùng binh, anh nhớ nhé. Anh sẽ thấy một ngôi nhà cổ. Rẽ phải ở đó và đi qua một rặng cây nữa thì đến một toà nhà bê-tông. Đó là khu nhà chính. Dễ đi lắm, anh cứ nhìn biển hướng dẫn là được."

Tôi rẽ trái ở chỗ rẽ thứ hai từ bùng binh như đã dặn, và khi con đường ấy kết thúc thì đến một toà nhà cổ rất thú vị, rõ ràng đã tửng là nhà vườn của ai đó ngày xưa. Nó có một khu vườn xén tỉa rất chu đáo với nhưng tảng đá hình thù đẹp đẽ và một cây đèn lồng cũng bằng đá. Chắc phải là một nhà địa chủ giầu có lắm ngày trước. Rẽ phải qua rặng cây, tôi thấy một toà nhà bê-tông ba tầng. Nó được dựng trên một khu đất khoét vào vách núi, nên ba tầng lầu chẳng có vẻ gì là cao to oai vệ cả. Đó là một kiến trúc giản dị và gây ấn tượng mạnh về sự sạch sẽ.

Lối vào ở trên tầng hai. Tôi lên cầu thang, vào qua một cửa kính lớn và thấy một người đàn bà còn trẻ mặc bộ áo váy đỏ ngồi ở bàn tiếp tân. Tôi xưng tên và nói tôi được hướng dẫn vào đây để gặp bác sĩ Ishida. Bà ta mỉm cười và chỉ cho tôi một chiếc ghế sô-pha màu nâu, miệng nói rất nhỏ nhẹ mời tôi ngồi đợi bác sĩ. Rồi bà quay điện thoại. Tôi bỏ ba-lô xuống, ngồi thụt vào tấm nệm rất dày của chiếc ghế, và quan sát xung quanh. Đó là một sảnh đợi dễ chịu và sạch sẽ, có nhưng chậu cây trang trí, những bức tranh trừu tượng có gu, và sàn nhà bóng loáng. Khi đợi, tôi cứ nhìn mãi bóng phản chiếu của chính đôi giày mình ở dưới sàn.

Một lúc sau, bà tiếp tân nói với tôi, "Bác sĩ sắp đến rồi đấy ạ". Tôi gật đầu. Yên tĩnh kinh khủng. Không có bất kì loại tiếng động nào. Như thể tất cả đều đang ngủ trưa. Người, súc vật, côn trùng, cây cỏ đều đang ngủ say, tôi nghĩ bụng, một buổi chiều yên tĩnh đến thế là cùng.

Nhưng một lúc sau, tôi nghe tiếng đế giày cao-su bước nhẹ nhàng, và một chị đã đứng tuổi có mái tóc lởm chởm như gai xuất hiện. Chị đi như lướt qua khu sảnh rộng, ngồi xuống cạnh tôi, bắt chéo chân và cầm lấy tay tôi Đáng nhẽ bắt tay thì chị lại lật đi lật lại xem xét bàn tay tôi.

Câu đầu tiên chị nói với tôi là: "Cậu chưa chơi một nhạc cụ nào ít nhất mấy năm nay rồi, đúng không nào?"

"Đúng vậy," tôi đáp, rất ngạc nhiên. "Chị nói đúng."

"Nhìn tay cậu thì biết," chị mỉm cười.

Có cái gì đó gần như bí hiểm về người đàn bà này. Mặt chị rất nhiều nếp nhăn. Đó là điều nổi bật đầu tiên, nhưng chúng lại không làm cho chị trông già đi tí nào. Không những thế, chúng lại còn làm nổi lên một vẻ trẻ trung ở chị mà tuổi tác không có tác dụng gì hết. Những nếp nhăn ấy ở rất đúng chỗ của chúng, như thể chúng đã có đó từ khi chị mới đẻ. Khi chị cười, chúng cũng cười theo; và khi chị nhăn nhó, chúng cũng nhăn nhó theo. Còn khi chịu không cười mà cũng chẳng nhăn thì chúng nằm rải rác khắp gương mặt chị với một vẻ ấm áp nghịch ngợm rất lạ lùng. Đây là một người đàn bà đã gần bốn mươi tuổi có cái vẻ không những là một người tốt mà cái tốt ấy của chị còn thu hút được cả tôi. Vừa gặp là tôi thích chị liền.

Cắt xén một cách hoang dại, tóc chị dựng đứng thành từng mảng và vành ngoài thì gẫy gập rủ xuống trán, nhưng kiểu tóc đó lại hoàn toàn hợp với chị. Chị mặc sơ-mi lao động xanh da trời bên ngoài áo phông trắng, quần vải bông màu kem, và giày tennis. Cao và mảnh khảnh, chị hầu như không có ngực. Cặp môi thường xuyên nhếch sang một bên như hơi cong lên giễu cợt, và những nếp nhăn ở khóe mắt động đậy như hơi rung rinh. Chị giống một nữ thợ mộc lành nghề, tốt bụng nhưng có vẻ hơi chán đời.

Rụt cằm lại và cong môi lên, chị để ra hẳn một lúc để ngó tôi từ đầu đến chân. Tôi tưởng như chị sắp rút thước dây ra và đo đắn tôi khắp nơi ngay bấy giờ.

"Cậu có chơi nhạc cụ nào không?" chị hỏi.

"Rất tiếc là không," tôi đáp.

"Chán nhỉ," chị nói. "Có thì vui quá."

"Chắc thế," tôi nói. Nhưng sao lại toàn chuyện đàn địch như vậy nhỉ?

Chị lấy một bao Seven Stars từ túi áo ngực ra, đặt một điếu lên miệng, châm bằng bật lửa, rồi bắt đầu rít với vẻ khoái trá rõ rệt.

"Tôi có nhớ là phải nói qua về chỗ này cho cậu… Watanabe, có phải không ạ? - trước khi cậu gặp Naoko. Cho nên tôi đã thu xếp để hai chúng ta chuyện trò với nhau một tí như thế này. Nhà nghỉ Ami cũng hơi bất thường một chút, và cậu có thể thấy lúng túng nếu không biết đôi chút về hoàn cảnh của nó. Tôi nói thế có phải không ạ? Có phải cậu chưa biết gì về cơ sở này, phải không ạ"

"Hầu như không biết gì."

"Vậy thì, đầu tiên là…" chị bắt đầu, nhưng rồi lại búng tay một cái. "Xem đã nào, cậu đã ăn trưa chưa nào? Chắc cậu đói bụng rồi."

"Quả có thế, chị nói đúng."

"Vậy hay đi với tôi. Ta có thể vừa ăn vừa nói chuyện trong nhà ăn. Giờ ăn qua rồi, nhưng nếu đi ngay may ra họ vẫn có thể làm cái gì đó cho mình."

Chị dẫn đường, rảo bước theo một hành lang và một đợt cầu thang xuống nhà ăn ở tầng một. Một gian phòng rộng, có lẽ đủ chỗ cho hai trăm người, nhưng chỉ có nửa phòng được sử dụng, nửa kia ngăn ra, như một khách sạn nghỉ mát chưa vào mùa. Thực đơn hôm đó có món khoai tây hầm với mì sợi, rau trộn, nước cam và bánh mì. Rau cỏ quả có tươi ngon như Naoko đã nói trong thư, và tôi chén sạch trơn đĩa của mình.

"Rõ là cậu ăn thật ngon miệng!" người bạn nữ của tôi nói.

"Ngon tuyệt," tôi nói. "Với lại, từ sáng đến giờ tôi hầu như chưa có gì vào bụng."

"Nếu vậy thì mời cậu ăn hộ phần tôi luôn đi. Tôi no rồi. Đây này, cậu ăn đi."

"Vâng, nếu chị thực sự không muốn ăn nữa."

"Bụng tôi bé. Chẳng chứa được là mấy. Tôi phải bù bằng thuốc lá." Chị đốt một điếu Seven Stars nữa. "À mà cậu có thể gọi tôi là Reiko. Ai cũng gọi tôi như vậy cả."

Reiko có vẻ rất khoái nhìn tôi ăn món khoai tây hầm mà chị hầu như chưa đụng tới, và nhồm nhoàm cả phần bánh mì của chị nữa.~

"Chị là bác sĩ của Naoko à?" tôi hỏi.

"Tôi á? Bác sĩ của Naoko ư? Chị nhăn hết cả mặt lại. "Sao cậu lại nghĩ tôi là bác sĩ?"

"Họ dặn tôi tìm gặp bác sĩ Ishida mà."

"À tôi hiểu rồi. Không phải đâu, tôi dạy nhạc ở đây. Cũng là một cách đìều trị đối với một số bệnh nhân, nên để đùa họ cứ gọi tôi là "Bác sĩ âm nhạc" và đôi khi là "Bác sĩ Ishida". Nhưng tôi chỉ là một bệnh nhân thôi. Tôi ở đây được bảy năm rồi. Tôi làm giáo viên dạy nhạc và giúp việc văn phòng, nên bây giờ cũng chẳng biết mình là bệnh nhân hay là cán bộ nữa. Naoko không kể gì về tôi cho cậu nghe à?"

Tôi lắc đầu.

"Lạ nhỉ," Reiko nói. "Tôi ở cùng phòng với Naoko. Tôi thích sống với cô ấy. Chúng tôi nói với nhau đủ chuyện. Kể cả về cậu."

"Về tôi thế nào ạ?"

"Thế nào ư? Nhưng trước hết tôi phải giới thiệu chỗ này với cậu đã," Reiko nói, tảng lờ câu hỏi của tôi. "Điều đầu tiên cậu cần biết là đây không phải là một bệnh viện thông thường. Nó chữa trị thì ít mà giúp hồi phục là chính. Chúng tôi cũng có mấy bác sĩ tất nhiên rồi, và họ có những giờ làm việc với bệnh nhân, nhưng chỉ là để kiểm tra tình trạng của bệnh nhân, đo nhiệt độ và những thứ đại loại thế, chứ không điều trị như trong một bệnh viện thông thường. Ở đây cửa sổ không có chấn song, và cửa luôn để ngỏ. Mọi người ra vào tự nguyện. Trước hết là cậu phải thích hợp với kiểu hồi phục ấy thì mới được nhận vào đây. Nếu có người cần phải được điều trị đặc biệt thì sẽ được gửi đến bệnh viện chuyên khoa về lĩnh vực ấy. Đến đây vẫn ôkê chứ."

"Tôi nghĩ vậy," tôi nói. "Nhưng "hồi phục" ở đây bao gồm những gì? Chị có thể ví dụ cụ thể được không?"

Reiko thở ra một đám khói rồi uống nốt chỗ nước cam còn lại của chị. "Cứ sống ở đây là hồi phục rồi," chị nói. "Một lịch sinh hoạt đều đặn, tập tành, cách biệt với thế giới bên ngoài, không khí trong lành, yên tĩnh. Nông trại của chúng tôi giúp chúng tôi gần như tự cũng tự cấp được; không có TV và radio. Chúng tôi giống như một trong những công xã mà chắc cậu đã nghe đến nhiều rồi. Tất nhiên, một cái khác với công xã là phải tốn một mớ tiền tướng mới vào được đây."

"Một mớ tướng ư?"

"Thật ra cũng không đắt đến mức vô lối, nhưng không rẻ chút nào. Cứ nhìn cơ sở thiết bị ở đây mà xem. Chúng tôi có rất nhiều đất, một số ít bệnh nhân, một đội ngũ cán bộ lớn, và như trường hợp của tôi thì tôi đã ở đây rất lâu rồi. Đúng là tôi có được nhiều ưu đãi vì bản thân cũng đã gần như là cán bộ, nhưng ngay cả thế thì cũng vẫn cứ là… Thôi nào, cậu làm một tách cà-phê chứ."

Tôi nói được thế thì tốt. Chị dụi thuốc rồi ra quầy rót hai cốc cà-phê từ một cái ấm và mang cả lại chỗ chúng tôi đang ngồi. Chị cho đường vào cốc của mình, khuấy lên, nhăn mặt, rồi nhấp một ngụm.

"Cậu biết không," chị nói, "viện điều dưỡng này không phải là cơ sở doanh nghiệp kiếm lãi, cho nên nó có thể tiếp tục tính tiền không đến nỗi đắt lắm so với thông thường. Đất là được hiến. Họ lập công ty vì mục đích ấy. Toàn bộ chỗ này là nhà nghỉ hè của ông chủ đất cũ hai mươi năm trước đây. Tôi chắc là cậu thấy ngôi nhà cổ rồi phải không?"

Tôi bảo đã.

"Trước đây chỉ có mỗi ngôi nhà ấy. Họ tổ chức điều trị nhóm ở đó. Mọi chuyện đã bắt đầu như vậy. Con trai ông chủ hiến đất có khuynh hướng tâm thần và một Chuyên gia đề nghị điều trị nhóm cho anh ta. Lý thuyết của vị bác sĩ ấy là nếu ta có thể đưa một nhóm bệnh nhân về sống ở đồng quê, giúp nhau lao động và có một bác sĩ để theo dõi và kiểm tra, ta có thể chữa được một số bệnh. Họ đã thử, và hoạt động ấy phát triển, được tổ chức thành doanh nghiệp, và họ mở rộng đất canh tác, và năm năm trước đây mới xây thêm khu nhà chính."

"Có nghĩa là cách điều trị ấy có kết quả tốt."
"Cũng không phải tốt cho tất cả mọi trường hợp. Nhiều người không đỡ được chút nào. Nhưng cũng có nhiều người không thể có kết quả ở các nơi khác lại hoàn toàn bình phục ở đây. Cái hay nhất ở đây là cách mọi người giúp đỡ lẫn nhau. Ai cũng biết mình có khiếm khuyết ở mặt nào đó, nên đều có ý thức giúp đỡ nhau. Những nơi khác không theo phương pháp này, thật đáng tiếc. Bác sĩ là bác sĩ và bệnh nhân là bệnh nhân: bệnh nhân tìm đến bác sĩ để được giúp đỡ và bác sĩ ban phát sự giúp đỡ ấy cho bệnh nhân. Nhưng ở đây, chúng tôi ai cũng giúp nhau hết. Người nào cũng là gương soi của người khác, và các bác sĩ là một phần của chúng tôi. Họ quan sát chúng tôi ở bên cạnh và lẳng lặng bước vào giúp chúng tôi nếu thấy chúng tôi cần cái gì đó, nhưng có nhiều khi chúng tôi lại là người giúp đỡ họ. Nhiều khi chúng tôi giỏi hơn họ cái gì đó. Ví dụ, tôi đang dạy một bác sĩ chơi đàn dương cầm, và một bệnh nhân khác đang dạy một hộ lý tiếng Pháp. Kiểu thế. Bệnh nhân như chúng tôi thường được trời phú cho những khả năng đặc biệt. Nên mọi người ở đây đều bình đẳng - bệnh nhân, cán bộ, và cậu nữa. Còn ở đây thì cậu còn là một thành viên như chúng tôi, nên tôi giúp cậu và cậu giúp tôi."

Reiko mỉm cười, nhẹ nhàng động đậy tất cả các nếp nhăn trên mặt.

"Cậu giúp Naoko và Naoko giúp cậu."

"Vậy tôi sẽ phải làm gì? Cho một ví dụ đi."

"Đầu tiên cậu phải quyết định là cậu muốn giúp, và cậu cần được người khác giúp. Sau đó cậu phải hoàn toàn chân thực. Cậu sẽ không nói dối, không lấp liếm, không che giấu bất kì điều gì có thể làm cậu lúng túng. Chỉ có vậy thôi"

"Tôi sẽ cố," tôi nói. "Nhưng cho tôi biét được không, Reiko, tại sao chị lại ở đây những bay năm trời? Nói chuyện với chị như thế này, tôi không thể tin là chị có trục trặc gì."

"Khi trời sáng thì không," chị nói với một vẻ mặt u ám. "Nhưng hễ đêm đến là tôi bắt đầu dãi rớt và lăn lộn dưới sàn nhà."

"Thật vậy ư?"

"Đừng có ngốc thế, tôi chỉ nói đùa thôi," chị nói, lắc đầu với một vẻ kinh tởm. "Tôi hoàn toàn lành mạnh ít nhất là hiện nay. Tôi ở lại đây vì tôi thích giúp người khác lành mạnh, dạy nhạc, trồng rau. Tôi thích chỗ này lắm. Tất cả đều là bạn bè không ít thì nhiều. So ra, thì tôi có gì ở thế giới bên ngoài nào? Tôi đã ba tám, sắp bốn mươi. Tôi không như Naoko. Chẳng có ai đợi tôi ra ở ngoài đó, chẳng có gia đình nào đón tôi trở lại. Tôi không có công trình gì để nói đến, và hầu như không có bạn. Đã sáu bảy năm, tôi không còn biết chuyện gì đang ở ngoài kia nữa. A, thi thoảng tôi cũng đọc một tờ báo trong thư viện, nhưng tôi chưa bao giờ đặt chân ra ngoài khu vực này trong suốt thời gian ấy. Tôi sẽ không biết mình sẽ làm gì nếu tôi đi khỏi đây."

"Nhưng có khi một thế giới mới sẽ lại mở ra với chị thì sao?" tôi nói. "Cũng đáng thử chứ, phải không ạ"

"Hừmm, cũng có thể cậu nói đúng," chị nói, không ngừng xoay cái bật lửa trong tay. "Nhưng tôi cũng có một loạt các vấn đề của riêng mình. Rồi sẽ có lúc tôi nói hết cho cậu nghe, nếu cậu thích."

Tôi gật đầu đáp lại. "Còn Naoko," tôi nói, "cô ấy có khá hơn chút nào không?"

"À chúng tôi nghĩ là có. Lúc đầu cô ấy có hơi hoang mang và đã có lúc chúng tôi thấy ngại, nhưng bây giờ thì cô ấy đã bình tĩnh hơn nhiều, đến độ đã có thể tự biểu cảm bằng lời nói. Chắc chắn là cô ấy đang đi đúng hướng. Nhưng nhẽ ra cô ấy phải được điều trị sớm hơn nhiều. Những triệu chứng của cô ấy đã rõ rệt ngay từ lúc bạn trai Kizuki của cô ấy tự vẫn. Nhẽ ra gia đình cô ấy phải thấy mới phải, và bản thân cô ấy nhẽ ra cũng phải thấy là có chuyện không ổn rồi. Tất nhiên, chuyện gia đình cô ấy cũng chẳng ổn, hoặc là…"

"Gia đình không ổn ư?" tôi vội hỏi.

"Cậu không biết à?" Reiko có vẻ còn ngạc nhiên hơn tôi.

Tôi lắc đầu.

"Tôi nên để Naoko tự kể cho cậu thì hơn. Cô ấy đã sẵn sàng cởi mở đôi điều với cậu đấy." Reiko khuấy cà-phê một lần nữa rồi lại nhấp một ngụm. "Có một cái nữa cậu cần biết," chị nói. "Theo nội quy ở đây, cậu và Naoko sẽ không được phép ở một mình với nhau. Khách đến thăm không được ở một mình với bệnh nhân. Lúc nào cũng phải có một quan sát viên, mà trong trường hợp của các cậu thì là tôi đấy. Xin lỗi nhé, nhưng cậu sẽ phải chịu đựng tôi thôi, ôkê?"

"Ôkê," tôi mỉm cười.

"Tuy nhiên," chị nói, "hai đứa các cậu có thể nói với nhau bất cứ chuyện gì. Cứ quên hẳn tôi đi. Mà tôi cũng đã biết hầu hết mọi chuyện về cậu và Naoko rồi."

"Hết mọi chuyện ư?"

"Gần như thế. Cậu biết là chúng tôi có những buổi điều trị nhóm mà. Nên chúng tôi biết rất nhiều về nhau. Thêm nữa là Naoko với tôi nói với nhau tất cả mọi chuyện. Chúng tôi không có nhiều bí mật ở đây đâu."

Tôi nhìn Reiko và uống cà-phê của mình.

"Nói thật với chị," tôi nói, "Tôi vẫn hoang mang lắm. Tôi vẫn không biết việc tôi làm với Naoko ở Tokyo là đúng hay là sai. Tôi vẫn suy nghĩ về nó suốt thời gian qua, nhưng vẫn không biết ra sao."

"Tôi cũng không biết," Reiko nói. "Và cả Naoko nữa. Đó là cái mà hai đứa các cậu phải tự quyết định. Cậu hiểu ý tôi nói không? Có chuyện gì đi nữa thì hai đứa các cậu cũng vẫn có thể quay nó về hướng đúng đắn - nếu các cậu có thể có được một thông cảm nào đó. Có lẽ, một khi các cậu đã giải quyết được chuyện đó, các cậu mới có thể quay lại và nghĩ xem chuyện xảy ra là đúng hay là sai. Cậu nghĩ sao?"

Tôi gật đầu.

"Tôi nghĩ ba đứa chúng ta có thể giúp nhau được - cậu và Naoko và tôi - nếu chúng ta thực tình muốn thế, và nếu chúng ta thực sự trung thực. Có ba người như thế có lẽ sẽ cực kỳ hiệu quả đấy. Cậu có thể ở lại đây bao lâu?"

"Tôi muốn trở lại Tokyo vào chiều tối ngày kia. Tôi phải đi làm, và phải dự kiểm tra tiếng Đức vào thứ Năm."

"Tốt," chị nói. "Vậy cậu có thể ở với chúng tôi.Như vậy cậu không phải trả tiền gì cả và có thể chuyện trò tha hồ không phải lo đến thời gian."

"Với chúng tôi?" tôi hỏi lại.

"Naoko với tôi, tất nhiên rồi," Reiko nói. "Chúng tôi có một phòng ngủ riêng, còn phòng khách thì có một cái sô pha kéo ra thành giường. Cậu sẽ ngủ ngon được. Đừng lo."

"Họ có cho phép thế không? tôi hỏi. "Khách đàn ông có được ngủ lại trong phòng phụ nữ không?"

"Tôi không nghĩ cậu sẽ vào hiếp chúng tôi lúc nữa đêm chứ."

"Chị đừng ngốc thế."

"Vậy là chẳng có vấn đề gì rồi. Ở với chúng tôi và chúng ta có thể chuyện trò thoả đáng. Đó là cái hay nhất. Rồi chúng ta mới có thể thực sự hiểu nhau. Còn tôi thì có thể chơi ghi-ta cho cậu nghe. Tôi chơi khá hay đấy cậu ạ, "Chị chắc là tôi sẽ không làm phiền gì chứ."

Reiko đặt điếu Seven Stars thứ ba lên môi và châm lửa sau khi đã nhếch mép mấy lần.

"Naoko với tôi đã bàn chuyện này rồi. Hai chúng tôi đều cùng nhau có lời mời cậu ở với chúng tôi. Chẳng nhẽ cậu không thể lịch sự chấp nhận hay sao?"

"Có chứ ạ, và rất hân hạnh."

Reiko nhăn sâu các nếp nhăn bên khóe mắt và nhìn tôi một lúc. "Cậu có lối nói chuyện kì nhỉ," chị nói. "Chẳng nhẽ cậu định bắt chước anh chàng trong Bọn trẻ đồng xanh?"

"Đâu có!" tôi mỉm cười nói.

Reiko cũng mỉm cười theo, miệng vẫn ngậm điếu thuốc.

"Nhưng cậu là một người tốt lành đấy. Nhìn cậu, tôi có thể nói vậy. Tôi có thể phân biệt những chuyện này sau bảy năm quan sát những người ra vào nơi đây: có những người có thể cởi mở cõi lòng mình và có những người không thể làm được việc đó. Cậu thuộc loại đầu. Hoặc nói cho chính xác thì cậu có thể làm vậy nếu cậu muốn.

"Chuyện gì sẽ xảy ra khi người ta cởi mở cõi lòng mình?"

Reiko khoá hai bàn tay và đặt chúng lên bàn, điếu thuốc trễ trên môi. Chị đang thích thú lắm thì phải.

"Người ta sẽ tốt lành hơn," chị nói. Tàn thuốc rơi xuống bàn, nhưng chị có vẻ không để ý.

Re:Cùng nhau đọc truyện : Rừng Na-uy

Đã gửi: Ba T10 24, 2006 6:33 pm
Viết bởi Ansamurai
Rừng Na-Uy
Chương 6

Dịch giả: Trinh Lữ

Reiko và tôi rời khu nhà chính, vượt qua một trái đồi, rồi đi qua một bể bơi, mấy sân bóng quần, và một sân bóng rổ. Hai người đàn ông - một người trung niên gày gò và một thanh niên béo phục phịch - đang chơi bóng quần. Cả hai đều sử dụng vợt thành thạo, nhưng tôi có cảm tưởng như họ đang chơi cái gì đó không phải bóng quần. Có vẻ như cả hai đều có chung một mối quan tâm đặc biệt đến cách nảy qua nảy lại của trái bóng và đang cùng nghiên cứu lĩnh vực đó. Họ đánh trái bóng qua lại với một thái độ tập trung rất lạ. Cả hai đều đẫm mồ hôi.

Anh thanh niên ở bên phía sân gần chúng tôi bỗng để ý thấy Reiko và chạy ra. Hai người trao đổi vài lời, miệng mỉm cười. Gần sân bóng, một người đàn ông có gương mặt không biểu lộ tí gì đang điều khiển một cái máy cắt cỏ lớn.

Đi tiếp chúng tôi đến một đám rừng trong đó có khoảng mười lăm hoặc hai mươi ngôi nhà nhỏ ngay ngắn đứng cách quang nhau khá xa. Ở trước cửa hầu hết các ngôi nhà ấy đều thấy có một chiếc xe đạp sơn vàng như của ông thường trực.

"Đây là khu nhà của gia đình cán bộ," Reiko nói. "Chúng tôi có đủ thứ, hầu như không phải vào thành phố," chị nói khi chúng tôi sánh bước. "Về thực phẩm thì như tôi đã nói, chúng tôi hầu như tự cấp được hết. Trứng thì chúng tôi nuôi gà đẻ. Chúng tôi có sách, đĩa hát, trang thiết bị thể dục, có cửa hàng bách hoá nhỏ riêng của chúng tôi, và tuần nào cũng có thợ cắt tóc và trang điểm đến phục vụ. Thậm chí cuối tuần nào cũng có chiếu phim. Cần thứ gì đặc biệt thì đề nghị cán bộ mua hộ trong thành phố. Quần áo thì đặt mua qua catalogue. Sống ở đây không có vấn đề gì hết."

"Nhưng không ai được phép vào thành phố phải không?"

"Đúng thế, cái đó thì chúng tôi không được phép. Tất nhiên nếu có chuyện gì đặc biệt, như phải đến nha sĩ chẳng hạn, thì lại là chuyện khác, nhưng quy định chung là chúng tôi không được vào phố. Ai cũng hoàn toàn được tự do ra khỏi nơi này, nhưng đã ra là không được trở lại nữa. Coi như cắt cầu. Không thể vào phố mấy ngày rồi lại mong quay lại đâu. Cũng là hợp lý thôi. Nếu cứ vậy. thì rồi ai cũng đi đi về về suốt."

Qua khỏi đám rừng chúng tôi đến một sườn đôi thoai thoải. Ở những quang cách không đều nhau dọc sườn đồi ấy là một dãy những ngôi nhà gỗ hai tầng có cái gì đó là lạ. Rất khó nói cái gì làm cho chúng có vẻ là lạ như thế, nhưng đó là cảm giác đầu tiên của tôi khi mới nhìn thấy chúng. Phản ứng ấy của tôi rất giống với cảm giác khi ta thấy cái gì đó không có thực mà lại được vẽ ra một cách rất thú vị. Tôi bỗng nghĩ ra rằng có thể đó là cái cảm giác khi ta thấy một bộ phim hoạt hoạ của Wall Disney vẽ dựa trên một bức tranh của Munch. Tất cả những ngôi nhà ấy đều có hình dáng và màu sắc hệt như nhau, gần như một khối vuông, trái phải hoàn toàn đối xứng nhau, với cửa ra vào lớn và rất nhiều cửa sổ. Con đường chạy vòng vèo qua khu nhà ấy như một lộ trình giả tạo để luyện tập trong một trường dạy lái xe. Trước cửa nhà nào cũng có một dãy bụi hoa xén tỉa cẩn thận.

Không đâu có bóng người, và các cửa sổ đều buông rèm kín mít.

"Đây gọi là Khu C. Phụ nữ sống ở đây. Chúng tôi đấy! có mười nhà, mỗi nhà có bốn đơn nguyên, mỗi đơn nguyên hai người. Vị chi là tám mươi người tất cả, nhưng hiện thời chúng tôi chỉ có ba mươi hai người."

"Yên tĩnh quá, phải không ạ"

"Ấy là vì lúc này không có ai ở nhà," Reiko nói. "Tôi thì được phép tự do đi lung tung thế này, nhưng mọi người khác đều đang bận làm các việc theo lịch riêng của họ. Có người lúc này đang tập thể dục, có người đang làm vườn, có người đang dự nhóm điều trị, có người đang đi hái thuốc. Mỗi người tự lên lịch cho chính mình. Đề xem bây giờ Naoko đang làm gì nào? Có lẽ cô ấy đang sơn hoặc lăn giấy dán tường ở đâu đó. Tôi không nhớ. Một số việc như vậy chỉ kết thúc vào lúc năm giờ."

Reiko vào ngôi nhà có đánh dấu "C-7", lên cầu thang ở cuối hành lang, rồi mở cánh cửa bên phải vẫn để không khoá. Chị dẫn tôi vào căn hộ đó, một đơn nguyên bốn phòng thú vị mặc dù hơi đơn điệu: phòng khách, phòng ngủ, bếp và nhà tắm. Không có đồ đạc gì thừa hoặc trang trí gì không cần thiết, mà vẫn không có vẻ khắc khổ. Chẳng có gì đặc biệt, nhưng ở trong căn hộ ấy cũng kiểu như ở bên cạnh Reiko: ta có thể thư giãn và để mọi căng thẳng rời bỏ thân xác mình. Phòng khách có một cái sô-pha, một cái bàn, và một cái ghế xích đu. Trong bếp có một cái bàn nữa. Bàn nào cũng có một cái gạt tàn to tướng. Phòng ngủ có hai giường, hai bàn viết và một khoang tủ quần áo. Giữa hai đầu giường là một cái bàn đêm có cây đèn và một cuốn sách bìa mềm đọc dở úp trên đó. Bếp có một cái nồi điện nhỏ cân xứng với một cái tủ lạnh nhỏ, và được bố trí thiết bị để có thể nấu nướng đơn giản.

"Không có bồn tắm, chỉ có hương sen, nhưng cũng được đấy chứ, cậu thấy thế nào? Tắm bồn và giặt giũ thì vào nhà tắm chung."

"Quá tốt rồi. Phòng học xá của tôi chỉ có một cái trần và một cửa sổ"

"A, nhưng cậu chưa thấy mùa đông ở đây," Reiko nói, chạm tay vào lưng tôi để hướng tôi vào cái sô-pha rồi ngồi xuống cạnh tôi. "Dài và khắc nghiệt. Chẳng có gì ngoài tuyết và tuyết và tuyết, nhìn đâu cũng chỉ có thế. Ẩm thấp và lạnh thấu xương. Suốt mùa đông chúng tôi chỉ xúc tuyết. Hầu hết là chỉ ở trong nhà cho ấm, nghe nhạc, tán chuyện hoặc đan lát. Nếu không rộng rãi thế này thì chết ngạt. Cậu sẽ hiểu nếu cậu đến đây vào mùa đông."

Reiko thở dài thườn thượt như đang mường tượng cảnh mùa đông, rồi úp cả hai bàn tay lên hai đầu gối.

"Đây sẽ là giường của cậu," chị nói, vô vỗ cái sô-pha. "Chúng tôi ngủ trong phòng kia, còn cậu sẽ ngủ ở đây Thế được chứ, cậu nghĩ sao?"

"Nhất định là được rồi."

"Vậy là xong nhé," Reiko nói. "Chúng tôi sẽ về khoảng năm giờ. Naoko và tôi đều có việc phải làm cho đến lúc đó. Cậu chịu khó ở đây một mình được không?"

"Được chứ ạ. Tôi sẽ làm bài tiếng Đức của mình."

Khi Reiko đã đi rồi, tôi nằm dài trên sô-pha và nhắm mắt lại. Tôi nằm đó, đắm mình vào cái im lặng, rồi bỗng nhớ lại thời Kizuki và tôi đi chơi bằng môtô với nhau. Thì ra đó cũng là vào mùa thu. Mùa thu, mấy năm rồi nhỉ. Phải rồi, bốn năm. Tôi nhớ lại mùi chiếc áo da của Kizuki và tiếng động cơ đinh tai của chiếc Yamaha 125 phân khối màu đỏ. Chúng tôi phóng đến một nơi mãi tít dưới bở biển rồi trở lại ngay tối hôm đó, mệt nhoài. Chẳng có gì đặc biệt trong chuyến đi ấy, nhưng tôi nhớ nó rất rõ. Gió thu quật rát hai bên tai, và vừa ngẩng nhìn trời vừa bám chặt lấy cái áo da của Kizuki, tôi ngớ như mình có thể bị gió thổi bay lên vũ trụ.

Tôi nằm đó rất lâu, mặc cho tâm trí lang thang từ kí ức này sang kí ức khác. Không hiểu sao, khi nằm trong gian phòng ấy tôi bỗng nhớ lại những kỉ niệm xa xôi mà trước đấy tôi rất ít khi hoặc chưa bao giờ nhớ đến. Nhiều kỉ niệm thật vui, nhưng nhiều cái buồn man mác.

Như thế này bao lâu rồi nhỉ? Tôi đắm đuối trong dòng thác hồi tưởng (quả thực là một dòng thác, như một ngọn suối vọt ra từ khe đá) đến nỗi không biết là Naoko đã lẳng lặng mở cửa và bước vào nhà. Tôi mở mắt, và nàng đã ở đó rồi. Tôi ngẩng đầu và nhìn vào đôi mắt nàng một lúc lâu. Nàng đang ngồi lên tay ghế sô-pha nhìn tôi. Lúc đầu tôi nghĩ nàng chỉ là một hình ảnh hiện ra từ những kí ức của tôi. Nhưng đó là Naoko bằng xương bằng thịt.

"Đang ngủ à?" nàng thì thầm.

"Không," tôi nói, "chỉ đang nghĩ". Tôi ngồi dậy và hỏi, "Cậu khoẻ không?"

"Mình khoẻ," nụ cười nho nhỏ của nàng giống như một cảnh trí nhợt nhạt xa vời. "Mình không có nhiều thời gian đâu. Đáng ra mình không được ở nhà bây giờ. Chỉ chạy đi được một phút thôi, mình phải trở lại ngay. Cậu có ghét tóc mình không?"

"Hoàn toàn không," tôi nói. "Xinh đấy chứ." Tóc nàng để giản dị như kiểu nữ sinh, một bên có dải buộc như nàng vẫn buộc ngày trước. Nó rất hợp với nàng, như thể lúc nào nàng cũng buộc tóc như thế. Nàng giống như một trong những bé gái xinh đẹp vẫn thường thấy trong các bức tranh khắc gỗ thời Trung cổ.

"Thật khổ vì đầu với tóc, mình nhờ Reiko cắt đấy. Cậu nghĩ thế này đẹp thật à?"

"Thật mà."

"Mẹ mình ghét lắm." Nàng cởi dải buộc, buông tóc xuống, vuốt thẳng, rồi buộc trở lại. Cái dải có hình giống một con bướm.

"Mình muốn gặp cậu một mình trước khi cả ba tụi mình ở với nhau. Không phải là mình có gì đặc biệt muốn nói. Mình chỉ muốn nhìn mặt cậu và quen với việc có cậu ở đây. Nếu không, mình sẽ khó lòng làm quen lại với cậu. Mình kém giao tiếp quá."

"Thật vậy sao? tôi hỏi. "Thế này đã được chưa?"

"Hơi hơi rồi," nàng nói, lại đưa tay lên dải buộc đầu. "Nhưng hết giờ rồi. Mình phải đi đã."

Tôi gật đầu.

"Toru này," nàng bắt đầu, "Mình thực lòng cảm ơn cậu đã đến thăm. Mình hạnh phúc lắm. Nhưng nếu ở đây mà cậu thấy nặng nề, cậu cứ việc bảo mình ngay nhé. Đây là một nơi đặc biệt, và nó có một chế độ đặc biệt, và có những người không thể hoà nhập được. Vậy nếu cậu thấy thế thì hãy làm ơn cho mình biết thực lòng nhé. Mình sẽ không sao đâu. Ở đây chúng mình chân thực với nhau. Chúng mình nói với nhau mọi thứ với tháị độ hoàn toàn chân thực."

"Mình sẽ cho cậu biết," tôi nói. "Mình sẽ chân thực."

Naoko ngồi xuống và dựa vào tôi trên sô-pha. Khi tôi quàng tay quanh người nàng, nàng dựa đầu lên vai tôi và dụi mặt vào cổ tôi. Nàng giữ tư thế ấy một lúc, như thể đang đo nhiệt độ cho tôi. Ôm nàng trong tay, tôi thấy ngực mình ấm áp. Một lúc sau, nàng lẳng lặng đứng dậy rồi đi ra cửa, cũng im lìm như lúc nàng vào nhà.

Naoko đi rồi, tôi ngủ thiếp đi trên sô-pha. Tôi không định thế, nhưng cứ thiếp đi vào một giấc ngủ sâu chưa từng có đã rất lâu rồi, và tràn đầy một cảm thửc về sự có mặt của Naoko. Trong bếp là những bát đĩa Naoko vẫn dùng, trong nhà tắm là chiếc bàn chải đánh răng Naoko vẫn dùng, và trong phòng ngủ là chiếc giường Naoko vẫn ngủ. Ngủ say trong căn hộ của nàng, tôi vắt kiệt cảm giác mệt nhọc ra khỏi từng tế bào của thân xác mình, từng giọt một. Tôi mơ thấy một con bướm đang bay lượn như múa trong ánh sáng mờ ảo.

Khi tỉnh lại, kim đồng hồ trên tay tôi chỉ bốn giờ ba mươì lăm phút. Ánh sáng đã khác, gió đã ngừng thổi, hình dạng nhưng đám mây cũng đã đổi khác. Tôi ra mồ hôi trong khi ngủ, nên lấy một chiếc khăn nhỏ trong ba-lô ra lau mặt và thay một chiếc áo chẽn mới. Vào trong bếp, tôi uống nước rồi đứng đó nhìn qua cửa sổ phía trên bồn rửa. Tôi đang nhìn thẳng sang một cửa sổ của toà nhà đối diện, bên trong thấy treo nhiều hình cắt giấy: một con chim, một đám mây, một con bò, một con mèo, tất cả được cắt rất khéo và được nối với nhau. Cũng như trước, không có bóng dáng một người nào ở quanh đó, và không có bất cứ một thứ tiếng động gì. Tôi cảm thấy như đang đứng một mình giữa một nơi hoang phế được chăm sóc rất cẩn thận.

Sau năm giờ thì mọi người bắt đầu lục tục quay về Khu C. Nhìn qua cửa sổ bếp, tôi thấy ba người đàn bà đi ngang qua ở bên dưới. Tất cả đều đội mũ nên tôi không thể đoán tuổi họ, nhưng nghe giọng nói thì họ có vẻ không còn trẻ nữa. Ngay sau khi họ khuất dạng sau góc nhà, lại thấy bốn người nữa xuất hiện ở cùng hướng đó và cũng biến mất sau góc nhà đó. Mọi vật đắm chìm trong một tâm trạng chiều tà. Qua cửa sổ phòng khách tôi có thể thấy rừng và một rặng đồi. Một dải nắng nhạt lửng lơ trên rặng đồi ấy. Naoko và Reiko về nhà cùng với nhau lúc năm rưỡi.

Naoko và tôi chào nhau đúng mực như thể mới gặp nhau lần đầu. Nàng có vẻ lúng túng thật sự. Reiko để ý thấy cuốn sách tôi đang đọc và hỏi đó là cuốn gì. Núi Thiêng của Thomas Mann, tôi bảo chị.

"Sao cậu có thể đem theo một cuốn sách như thế đến nơi này được nhỉ?" chị hỏi. Chị có lý, rõ quá rồi.

Sau đó Reiko làm cà-phê cho cả ba chúng tôi. Tôi kể cho Naoko về sự biến mất đột ngột của Quốc-xã và về lần cuối cùng chúng tôi còn thấy nhau, khi hắn cho tôi con đom đóm.

"Cậu ta biến mất như vậy thật đáng tiếc," nàng nói. "Mình vẫn muốn nghe thêm chuyện về cậu ta."

Reiko hỏi Quốc-xã là ai, tôi bèn kể cho chị nghe những câu chuyện đã thành cổ tích về hắn và chị được một mẻ cười vỡ bụng.

Thế giới thanh bình và tràn ngập tiếng cười mỗi khi được nghe chuyện về Quốc-xã.

Sáu giờ thì chúng tôi đến nhà ăn ở khu nhà chính ăn tối. Naoko với tôi ăn cá rán với rau trộn, rau luộc, cơm trắng và súp đậu tương. Reiko chỉ ăn rau trộn mì với cà-phê, rồi đến một điếu thuốc lá.

"Già rồi đâu có cần ăn nhiều," chị nói như để giải thích.

Khoảng hai mươi người khác đã đang ở trong nhà ăn. Trong khi chúng tôi ăn, có vài người nữa đến, và cũng vài người đi. Ngoài chuyện tuổi tác khác nhau của những người ở đây, quang canh nhà ăn cũng không khác là mấy so với ở khu học xá của tôi. Có cái khác là ở đây mọi người trò chuyện bằng một giọng đều đều. Không có hò hét mà cũng không có thì thầm, không ai cười, không ai khóc, không ai làm bộ tịch và kêu gào, chỉ có những đối thoại yên ắng, và tất cả đều bằng một giọng đều đều.

Người ta ăn thành từng mâm từ ba đến năm người, mỗi mâm có một diễn giả duy nhất mà cả mâm đều gật gù lắng nghe và tán thưởng, và khi người đó đã nói xong thì người khác lại bắt đầu lên tiếng. Tôi không thể biết mọi người đang nói những chuyện gì, nhưng cung cách của họ làm tôi nhớ đến trận bóng quần lạ lùng đã thấy hồi trưa. Tôi tự hỏi liệu Naoko có nói năng như thế không khi ăn cùng với họ, và lạ lùng thay, tôi bỗng thấy một thoáng cô đơn nhuốm màu ghen tị.

Ở bàn sau, một ông hói đầu mặc áo choàng trắng có điệu bộ oai vệ của một bác sĩ đang phải cầm cự với một thanh niên đeo kính trông rất lo lắng và một bà mặt chuột đứng tuổi về tác dụng của tình trạng mất trọng lượng đối vởi quá trình bài tiết các chất lỏng tiêu hoá. Hai người kia lắng nghe với những "Trời đất ơi" hoặc "Thật ư" chêm vào lúc này lúc khác, nhưng càng nghe ông hỏi nói năng tôi càng cảm thấy không biết ông ta có phải là bác sĩ thật không, mặc dù mặc áo choàng trắng.

Không ai trong nhà ăn để ý đặc biệt gì đến tôi. Không ai nhìn tôi, hoặc thậm chí có vẻ như biết có tôi ở đó. Sự có mặt của tôi chắc phải là một sự kiện hoàn toàn tự nhiên. Tuy vậy, có một lần, ông mặc áo trắng quay lại hỏi tôi "Anh sẽ ở lại đây bao lâu?"

"Hai đêm," tôi nói. "Thứ Tư thì tôi đi."

"Bây giờ thì ở đây đang đẹp, phải không nào? Nhưng anh phải trở lại vào mùa đông kia. Lúc ấy mởi thực là đẹp. Cái gì cũng rrắng muốt hết."

"Có thể lúc tuyết xuống thì Naoko cũng không ở đây nữa rồi," Reiko bảo ông ta.

"Đúng thế, nhưng mà, mùa đông mới thực là đẹp," ông ta nhắc lại với vẻ ảm đạm. Tôi lại càng không chắc ông có phải là bác sĩ hay không.

"Mọi người thường chuyện trò những gì vậy?" tôi hỏi Reiko. Chị có vẻ như chưa hiểu tôi hỏi gì.

"Bọn tôi nói chuyện gì với nhau ư? Thì những chuyện thường thường vậy thôi. Trong ngày có chuyện gì xảy ra, ai mới đọc được những sách gì, ngày mai thời tiết sẽ ra sao, cậu còn lạ gì. Chẳng nhẽ cậu tưởng sẽ có người nhảy lên và hò hét những chuyện như "Mai trời sẽ mưa nếu đêm nay gấu trắng ăn hết sao trên trời!" hay sao?"

"Không, không, tất nhiên là không rồi," tôi nói. "Tôi chỉ đang tự hỏi những đối thoại rì rầm kia là những chuyện gì mà thôi."

"Đây là một nơi yên ắng, nên mọi người nói năng yên ắng vậy thôi," Naoko nói. Nàng xếp xương cá thành một đống gọn ghẽ ở mép đĩa và chấm chấm miệng bằng một chiếc khăn tay. Ở đây không ai phải lên giọng làm gì Không cần phải thuyết phục ai về chuyện gì, cũng không cần phải làm cho ai phải chú ý."
"Có lẽ thế," tôi nói, nhưng khi đang ăn trong môi trường yên ắng ấy, tôi ngạc nhiên thấy mình nhớ tiếc âm thanh của một đám đông người. Tôi muốn nghe thấy tiếng cười và tiếng người hò hét vô cớ và nói những thứ linh tinh quá đáng. Đó cũng chính là thứ âm thanh đã làm tôi mệt mỏi trong nhiều tháng qua, nhưng ngồi ăn món cá trong gian phòng yên ắng bất thường ấy, tôi không thể nào thư giãn nổi. Cái nhà ăn ấy có không khí của một hội chợ máy công cụ chuyên dụng. Những người cùng quan tâm về một lĩnh vực chuyên biệt tụ họp với nhau ở một nơì và trao đổi thông tin mà chỉ có họ mới hiểu được.

Trở lại phòng sau bữa ăn, Naoko và Reiko tuyên bố họ sẽ đến nhà tắm chung của Khu C và nếu tôi không ngại phải tắm hương sen thì tôi có thể tắm ở buồng tắm trong nhà. Tôi bảo sẽ tắm ở nhà, và sau khi họ đã đi, tôi cởi quần áo, xối nước tắm và gội đầu. Tôi tìm thấy một đĩa nhạc Bill Evans trên giá sách và vừa nghe nó vừa lau đầu thì bỗng nhớ ra đó chính là cái đĩa tôi đã nghe ở phòng Naoko đêm hôm sinh nhật nàng, cái đêm mà nàng đã khóc và tôi đã ôm nàng vào lòng. Chuyện đó mới chỉ có sáu tháng trước đây, nhưng có vẻ như đã thành một quá khứ rất xa vời. Có lẽ vì tôi đã nghĩ đến nó quá nhiều, đến mức làm méo mó cả cám thức của mình về thời gian.

Trăng thật sáng. Tôi tắt hết đèn rồi nằm dài trên sô-pha nghe tiếng dương cầm của Bill Evans. Tràn vào qua cửa sổ, ánh trăng hắt nhiều bóng tối đổ dài và làm tường nhà loang lổ những mảng như mực tàu vẽ bút nhòe. Tôi lấy trong ba-lô ra bình rượu kim loại, để cho rượu chảy vào đầy miệng, thả cho cảm giác ấm áp chậm chạp lan từ cổ họng xuống bụng rồi từ đó toả đi khắp tứ chi. Sau ngụm cuối cùng, tôi đóng nắp bình và cất nó lại vào ba-lô Giờ thì ánh trăng có vẻ như đang nghiêng ngả cùng âm nhạc.

Hai mươi phút sau, Naoko và Reiko từ nhà tắm trở về.

"Ôi chao! Sao tối thế này, bọn tôi cứ tưởng cậu đã khăn gói về Tokyo mất rồi!" Reiko kêu lên.

"Sao lại thế được," tôi nói. "Bao nhiêu năm rồi tôi mới thấy trăng sáng như thế này. Tôi muốn nhìn trăng mà không có đèn đấy thôi."

"Thế này mới thích đấy," Naoko nói. "Chị Reiko, mình còn cây nến nào từ lần mất điện trước không nhỉ?"

"Có lẽ còn, trong ngăn kéo bàn bếp ấy."

Naoko mang ra một cây nến trắng lớn. Tôi thắp nến, nhỏ một ít sáp vào lòng một cái đĩa rồi dựng cây nến lên đó. Reiko dùng lửa nến châm thuốc. Khi ba chúng tôi ngồi đối diện cây nến giữa khung cảnh yên ắng ấy, có vẻ như chúng tôi bắt đầu cảm thấy như mình là những kẻ duy nhất còn lại của loài người ở một góc xa thẳm của thế giới. Bóng trăng im lìm gặp gỡ và trộn lẫn với bóng nến lung linh trên những mảng tường trắng của căn hộ.

Naoko với tôi ngồi cạnh nhau trên sô-pha, còn Reiko ngồi ghế xích đu đối diện chúng tôi.

"Mình uống tí vang chứ?" Reiko hỏi tôi.

"Mọi người được phép uống rượu à?" tôi hỏi, hơi ngạc nhiên.

"Thật ra thì không," Reiko nói, gãi gãi tai ra bộ lúng túng. "Nhưng họ cũng sẵn lòng bỏ quá cho chuyện ấy nếu chỉ là vang hoặc bia và đừng có quá chén. Có một bạn cán bộ thỉnh thoảng vẫn mua một ít cho tôi."

"Bọn mình vẫn uống với nhau," Naoko nói với một giọng láu lỉnh. "Chỉ hai bọn mình thôi."

"Thế mới hay," tôi nói.

Reiko lấy từ tủ lạnh ra một chai vang trắng, dùng cái mở nút chai khui nó ra, và đem ra ba cái cốc pha lê. Thứ vang ấy có một hương vị thơm ngon và thanh khiết như rượu nhà làm. Khi hết đĩa hát, Reiko lôi từ dưới gầm giường ra một cây ghi-ta, và sau khi lên dây đàn với vẻ âu yếm, chị bắt đầu chơi một bài phức điệu chậm của Bach.

Ngón đàn của chị thỉnh thoảng có trượt nốt này nốt kia, nhưng đó thực sự là nhạc Bach, với một tình cảm chân thực, ấm áp, thân mật, và tràn ngập niềm vui biểu diễn.

"Tôi bắt đầu chơi ghi-ta ở đây," Reiko nói. "Không phòng nào có dương cầm, tất nhiên rồi. Tôi tự học, và không có tay ghi-ta lắm nên chẳng bao giờ chơi thật hay được nhưng tôi thật sự yêu cây đàn này. Nó nhỏ, giản dị và dễ dàng, như một căn phòng nhỏ ấm áp vậy."

Chị chơi thêm một bản Bach ngắn nữa, có vẻ như trích từ một tổ khúc. Mắt nhìn lửa nến, miệng nhấp rượu vang, tai nghe nhạc Bach, tôi cảm thấy những căng thẳng của mình đang cạn dần, trôi đi nơi khác. Khi Reiko kết thúc bài Bach, Naoko đề nghị chị chơi một cả khúc Beatles.

"Đến giờ âm nhạc theo yêu cầu đây," Reiko nói, nháy mắt về phía tôi. "Ngày nào cô cũng bắt tôi chơi Beatles, như thể tôi là ca nô của cô ta vậy."

Nói thế, nhưng Reiko vẫn chơi bài "Michelle" thật tuyệt "Bài này hay thật," chị nói. "Tôi rất thích bài hát ấy" Chị nhấp một ngụm rượu và rít một hơi thuốc lá.

"Nó khiến tôi tưởng như mình đang ở trên một đồng cỏ lớn dưới làn mưa nhè nhẹ."

Rồi chị chơi bài "Người đàn ông vô định" và bài "Julia", Trong khi chơi, thỉnh thoảng chị nhắm mắt và lắc đầu bên này bên kia. Chơi xong chị lại uống và rít thuốc.

"Chơi bài Rừng Na-uy đi," Naoko nói.

Reiko đem từ trong bếp ra một con mèo bằng sứ có điệu bộ đang ngoắc tay ra hiệu. Đó là một cái bình đựng tiền đề dành, và Naoko lấy từ trong ví mình ra một đồng 100 Yen rồi thả vào đó.

"Chuyện gì vậy?" tôi hỏi.

"Luật đấy," Naoko nói. "Khi mình yêu cầu bài Rừng Na-uy, mình phải bỏ 100 Yên vào bình. Đó là bài mình thích nhất, nên mình phải trả tiền. Mình chỉ yêu cầu bài này khi thực sự muốn nghe nó."

"Còn tôi thì có tiền mua thuốc lá!" Reiko nói.

Reiko co duỗi các ngón tay một lúc rồi chơi bài Rừng Na-uy. Chị vẫn chơi với tình cảm rất thật, nhưng không bao giờ để bản nhạc thành bi luỵ. Tôi lấy trong túi quần ra một đồng 100 Yên và thả vào bình.

"Cám ơn," Reiko nói với một nụ cười ngọt lịm.

"Bài hát đó có thể làm cho mình thật buồn," Naoko nói. "Củng không biết nữa, nhưng có lẽ mình tưởng tượng như đang lang thang trong một khu rừng sâu.

Mình chỉ có một mình và trời thì lạnh và tối, và chẳng có ai đến cứu mình. Chính vì vậy mà Reiko chỉ chơi nó khi nào mình yêu cầu thôi."

"Nghe như Cazablanca (*) ấy nhỉ? Reiko cười.









(*)Tên một bộ phim nổi tiếng của Mỹ trong đó tình yêu của hai nhân vật chính cũng gắn liền với một bài hát mà sau này hễ nghe đến là họ thấy đau buồn.

Sau bài Rừng Na-uy, chị chơi tiếp vài điệu nhảy bossa novas trong khi tôi không rời mắt khỏi Naoko. Đúng như nàng đã viết trong thư, trông nàng khoẻ mạnh hơn trước, rám nắng, thân hình rắn rồi nhờ tập thể dục và lao động ngoài trời. Mắt nàng vẫn là hai vùng nước trong sâu thẳm, môi nàng vẫn e ấp run rẩy như xưa, nhưng nhìn chung vẻ đẹp của nàng đã bắt đầu chuyển biến sang cũng cách của một người đàn bà trưởng thành. Hầu như không còn thấy vẻ sắc lạnh - cái sắc lạnh của một lưỡi dao mỏng - vẫn lẩn quất bên dưới vẻ đẹp của nàng ngày trước, và thay vào đó giờ đây là một vẻ bình thản im ắng đặc biệt dịu dàng. Tôi cảm thấy xúc động bởi vẻ đẹp dịu dàng mới mẻ này của nàng, và kinh ngạc thấy rằng một người đàn bà có thể đổi thay nhiều đến thế chỉ trong vòng nửa năm trời. Tôi thấy mình bị nàng cuốn hút hơn bao giờ hết, có lẽ hơn cả trước đây, nhưng ý nghĩ về những gì nàng đã mất trong thời gian qua cũng khiến tôi hoài tiếc. Sẽ không bao giờ nàng có lại được vẻ đẹp vị kỉ thường chỉ biết nghe theo tiếng gọi độc lập của chính mình vốn chỉ thấy ở nhưng cô gái vị thành niên chứ không thể ở ai khác.

Naoko nói nàng muốn nghe chuyện tôi sống hàng ngày ra sao. Tôi kể cho nàng về vụ sinh viên bãi khoá và về Nagasawa. Đó là lần đầu tiên tôi kể cho nàng nghe về anh chàng đó. Tôi thấy như mình bị thách thức khi cố nói cho thật chính xác về nhân cách lạ lùng của con người ấy, thứ triết lý độc đáo của hắn, và hệ giá trị đạo đức không có trọng tâm của hắn; nhưng Naoko có vẻ cuối cùng cũng nắm được những cái tôi đang cố kể cho nàng. Tôi giấu chuyện đi săn gái với hắn, chỉ tiết lộ rằng người duy nhất trong học xá mà tôi thực sự thấy đáng chơi lại chính là anh chàng bất thường này. Trong khi đó, Reiko mải mê tập lại bài phức điệu của Bach mà chị đã chơi lúc trước, thỉnh thoảng lại nghỉ uống rượu và hút thuốc.

"Nghe như anh ta là một người kì lạ," Naoko nói.

"Hắn là người kì lạ," tôi nói.

"Nhưng cậu thích anh ta?"

"Mình cũng không biết nữa," tôi nói. "Có lẽ mình không thể nói là mình thích hắn. Nagasawa đã vượt quá ngưỡng của thích và không thích. Hắn không cố để được thích. Về mặt đó, hắn là một anh chàng rất chân thành, thậm chí khắc kỉ. Hắn không định lỡm ai bao giờ."

"Một tên khắc kỉ ngủ với tất cả lũ con gái kia ư? Đấy mới là chuyện lạ," Naoko cười. "Hắn đã ngủ với bao nhiêu cô rồi?"

"Có thể đến tám mươi rồi," tôi nói. "Nhưng trong trường hợp của hắn, con số ấy càng lớn thì những hành động đơn lẻ kia càng ít có ý nghĩa. Mà đấy có lẽ là cái mà hắn muốn đạt tới."

"Và cậu gọi đó là "khắc kỉ?"

"Với hắn thì là đúng như vậy."

Naoko nghĩ về những lời tôi nói trong một phút, rồi nói: "Mình nghĩ hắn bệnh trong đầu hơn mình nhiều."

"Mình cũng nghĩ thế," tôi nói. "Nhưng hắn có khả năng tập hợp tất cả nhưng phẩm chất bệnh hoạn của hắn thành một hệ thống có logic. Hắn xuất sắc lắm. Nếu ta đưa hắn đến đây, hắn sẽ được xuất viện sau hai ngày. "Ồ, nhất định rồi, tôi biết hết những cái đó rồi mà," hắn sẽ nói. "Tôi hiểu mọi thứ quí vị đang làm ở đây." Hắn là loại người như vậy đấy Loại được mọi người kính trọng."

"Có lẽ mình xuất sắc ngược lại," Naoko nói. "Mình chẳng hiểu tí gì những cái họ đang làm ở đây - chẳng hơn gì việc hiểu chính mình."

"Không phải chuyện cậu thiếu thông minh," tôi nói. "Cậu là bình thường. Bản thân mình cũng có hàng tấn việc về bản thân mà mình chẳng hiểu tí gì. Cả hai chúng mình đều bình thường, tầm tầm như nhau cả."

Naoko co chân lên sô-pha và tựa cằm vào đầu gối.

"Mình muốn biết thêm nữa về cậu," nàng nói.

"Mình chỉ là một thằng bình thường - gia đình bình thường, học hành bình thường, mặt mũi bình thường, kết quả thi bình thường, với những ý nghĩ bình thường trong đầu."

"Cậu là người rất mê Scott Fitzgerald… có phải ông ta là người đã nói chớ nên tin người nào tự gọi mình là một người bình thường không nhỉ? Chính cậu cho mình mượn cuốn sách đó mà!" Naoko nói với một nụ cười ranh mãnh.

"Đúng thế," tôi nói. "Nhưng đây không phải là làm bộ. Từ tận đáy lòng, mình thực sự tin rằng mình là một người bình thường. Cậu có thể tìm thấy cái gì ở mình mà lại không bình thường không nào?"

"Tất nhiên là có!" Naoko nói, hơi có vẻ sốt ruột. "Chẳng nhẽ cậu không biết? Cậu nghĩ mình ngủ với cậu là vì sao hả? Là vì mình đã say và sẽ ngủ với bất kì ai hay sao?"

"Không, tất nhiên mình không nghĩ thế," tôi nói.

Naoko im lặng một lúc lâu, mắt chăm chú nhìn xuống ngón chân. Không biết nói gì, tôi nhấp một ngụm vang nữa.

"Cậu đã ngủ với bao nhiêu cô rồi hả Toru? Naoko hỏi với một giọng khẽ khàng như thể ý nghĩ ấy vừa mới thoáng hiện lên trong tâm trí nàng.

"Tám hoặc chín," tôi thành thật đáp.

Reiko dựng cây ghi-ta lên lòng. "Cậu còn chưa đến hai mươi!" chị nói. "Cậu sống kiểu gì vậy hả."

Naoko giữ im lặng và nhìn tôi với đôi mắt trong veo của nàng. Tôi kể cho Reiko về cô gái đầu tiên đã ngủ với tôi và hai đứa đã chia tay ra sao. Tôi đã thấy không thể yêu được cô ấy tôi giải thích. Tôi kể tiếp cho chị về chuyện tôi ngủ với hết cô này đến cô khác dưới sự dạy dỗ của Nagasawa.

"Mình không định chống chế đâu, nhưng mình thấy đau khổ," tôi nói với Naoko. "Đấy, hầu như tuần nào mình cũng gặp cậu, chuyện trò với cậu, và biết rằng con người duy nhất trong trái tim cậu là Kizuki. Chuyện đó đau. Thực đau. Và có lẽ vì thế mà mình ngủ với nhưng cô gái không quen biết."

Naoko lắc đầu một vài lần, rồi nàng ngẩng lên về phía tôi. "Lần ấy cậu đã hỏi tại sao mình chưa bao giờ ngủ với Kizuki, đúng không? Cậu có còn muốn biết nữa không?"

"Có lẽ đó là điều mà mình bắt buộc phải biết," tôi nói.

"Mình cũng nghĩ vậy," Naoko nói. "Người chết sẽ luôn là người chết, còn chúng ta phải tiếp tục sống."

Tôi gật đầu. Reiko chơi đi chơi lại mãi một đoạn nhạc, cố cho thật đúng.

"Mình đã sẵn sàng để ngủ với cậu ấy," Naoko nói, tháo dải buộc đầu ra và buông tóc xuống. Nàng nghịch cái hình con bươm bướm trong tay. "Và lẽ tất nhiên là cậu ấy muốn ngủ với mình. Và bọn mình thử. Bọn mình thử nhiều lần lắm. Nhưng chẳng lần nào được cả. Hai đứa mình không thể làm được chuyện đó. Lúc ấy mình không hiểu tại sao, và bây giờ vẫn vậy. Mình yêu cậu ấy và cũng chẳng sợ mất trinh. Mình sẽ rất vui được làm bất kì những gì cậu ấy muốn. Nhưng chẳng bao giờ ra sao cả."

Naoko nhấc món tóc vừa buông lúc nãy lên và buộc lại.

"Mình không thể nào ướt được," nàng nói, chỉ hơi nghe thấy giọng. "Mình không bao giờ mở được mình cho cậu ấy. Nên lần nào cũng đau. Chỉ vì quá khô, nên rất đau đớn. Bọn mình thử đủ mọi thứ có thể nghĩ ra được các loại kem bôi trơn với đủ thứ khác - nhưng mình vẫn đau đớn. Nên mình đành dùng tay, hoặc môi. Mình phải làm thế cho cậu ấy. Cậu hiểu mình nói gì mà."

Tôi im lặng gật đầu.

Naoko ném cái nhìn trân trối của nàng lên vầng trăng ngoài cửa sổ đang mỗi lúc mỗi lớn lên và sáng hơn trước.

"Mình đã không bao giờ muốn nói đến chuyện này," nàng lên tiếng. "Mình muốn giữ kín chúng ở trong lòng. Mình vẫn mong làm được vậy. Nhưng mình vẫn phải nói ra. Mình vẫn chưa có câu trả lời. Nghĩa là, lần mình ngủ với cậu mình đã ra nước rất nhiều phải không nào?"

"Ờ" tôi đáp.

"Mình đã ướt ngay khi cậu bước vào căn hộ của mình đêm hôm sinh nhật ấy. Mình đã muốn cậu ôm mình. Mình đã muốn cậu cởi quần áo mình, sờ đến khắp chỗ trên người mình, và vào trong mình. Trước đó chưa bao giờ mình như vậy. Tại sao thế? Sao mọi việc lại xảy ra như thế? Mình đã thực sự yêu cậu ấy cơ mà?"

"Chứ không phải yêu mình," tôi nói. "Cậu muốn biết tại sao cậu lại cảm thấy như vậy đối với mình, mặc dù cậu không yêu mình, có đúng không?"

"Mình xin lỗi," Naoko nói. "Mình không định làm tổn thương cậu, nhưng ít nhất cậu phải hiểu là Kizuki với mình có một quan hệ thực sự đặc biệt. Hai đứa đã chơi với nhau từ thuở mới lên ba. Bọn mình đã lớn lên như thế đấy: luôn luôn bên nhau, lúc nào cũng chuyện trò, và hoàn toàn hiểu nhau. Lần đầu bọn mình hôn nhau - ấy là năm đầu tiên ở trung học - thì thật là tuyệt vời. Lần đầu thấy kinh, mình đã chạy ù đến cậu ấy và khóc như một đứa bé con. Bọn mình gần gụi nhau như thế đấy. Nên sau khi cậu ấy chết, mình không biết quan hệ với người khác như thế nào nữa. Mình không biết cả nghĩa lí của chuyện yêu một người khác nữa."

Nàng với lấy cốc rượu vang trên bàn, nhưng chỉ làm nó đổ lênh láng xuống thảm. Tôi cúi xuống lượm cái cốc, đặt nó lên bàn. Tôi hỏi nàng có muốn uống nữa không?

Naoko im lặng một lúc, rồi bỗng oà lên khóc, cả người run bần bật. Chúi về phía trước, nàng vùi mặt vào hai bàn tay và thổn thức cũng dữ dội đến nghẹt thở như đêm nào. Reiko bỏ cây ghi-ta xuống và ngồi cạnh Naoko, vuốt vẻ lưng nàng. Khi chị ôm lấy vai Naoko, nàng nép mặt vào ngực chị như một đứa bé.

"Này cậu," Reiko nói với tôi, "Có lẽ cậu nên ra ngoài đi dạo một lát. Chừng hai mươi phút gì đó. Xin lỗi nhé, nhưng tôi nghĩ như thế sẽ tốt hơn."

Tôi gật đầu và đứng dậy, mặc thêm cái áo len chui đầu.

"Cảm ơn chị đã can thiệp," tôi nói với Reiko.

"Không dám," chị đáp với một cái nháy mắt.

"Không phải lỗi của cậu. Đừng lo, lúc cậu trở lại cô ấy sẽ ổn thôi."

Tôi cứ thế theo chân mình xuống mặt đường đang sáng lên lạ lẫm như không có thật dưới ánh trăng, rồi đi vào rừng. Dưới vầng trăng ấy, mọi âm thanh đều có một hồi âm vang dội lạ thường. Tiếng chân tôi có vẻ như từ một hướng nào đó vang dội đến, như thể tôi đang nghe thấy ai đang đi dưới đáy biển. Sau lưng tôi thỉnh thoảng lại có tiếng cành cây gẫy hoặc lá cây sột soạt. Một cảm giác nặng nề bao trùm khu rừng, như thể tất cả các loài thú ăn đêm đều đang nín thở đợi cho tôi đi qua.

Ở nơi con đường bắt đầu leo lên dốc ngoài bìa rừng, tôi ngồi nhìn về phía toà nhà có căn hộ của Naoko. Có thể nhận ra phòng nàng dễ dàng. Chỉ việc tìm khuôn cửa sổ nào ở phía sau có ánh sáng nến khi tỏ khi mờ. Tôi nhìn mãi vào điểm sáng đó thật lâu. Nó khiến tôi nghĩ đến cái gì đó giống như những mạch đập le lói cuối cùng của một đạo linh hồn đang hấp hối. Tôi muốn chụm tay che chắn những gì còn lại của đạo linh hồn ấy và giữ cho nó sống.

Tôi nhìn nó khôn nguôi, cũng như tay Gatsby đã từng nhìn cái chấm sáng nhỏ xíu ở bờ nước bên kia hết đêm này qua đêm khác.

Nưa tiếng sau tôi về đến lối vào cửa trước toà nhà và nghe thấy tiếng Reiko tập ghi-ta. Tôi lên cầu thang và gõ cửa. Trong nhà không thấy có Naoko. Reiko ngồi một mình trên thảm chơi ghi-ta. Chị chỉ về phía cửa buồng ngủ cho tôi biết Naoko đang trong đó. Rồi chị đặt cây đàn xuống sàn, ngồi lên sô-pha, mời tôi ngồi cạnh, và chia đôi chỗ rượu vang còn lại vào hai cốc.

"Naoko không sao đâu," chị nói, tay chạm vào đầu gối tôi. "Đừng lo, cô ấy chỉ cần nghĩ một lúc. Sẽ bình tĩnh lại thôi. Hơi xúc động quá. Này, trong khi ấy mình đi dạo với nhau một chút được không?"

"Được," tôi nói.

Reiko và tôi lững thững đi xuống con đường có đèn. Khi tới khu vực cạnh sân bóng quần và bóng rổ, chúng tôi ngồi xuống một ghế băng. Chị nhặt một trái bóng rổ dưới gầm ghế lên và xoay nó trong tay. Rồi chị hỏi tôi có chơi bóng quần không. Tôi nói có biết chơi nhưng kém lắm.

"Bóng rổ thì sao?"

"Cũng không phải môn sở trường của tôi," tôi nói.

"Thế sở trường thể thao của cậu là gì?" Reiko hỏi, đuôi mắt nhăn nheo lại trong một nụ cười. "Ngoài chuyện ngủ với các cô gái?"

"Cả chuyện ấy tôi cũng chẳng giỏi nốt," tôi nói, chạm tự ái.

"Chỉ đùa thôi mà," chị bảo. "Đừng giận nhé. Nhưng hỏi thật đấy, cậu giỏi những gì nào?"

"Chẳng có gì đặc biệt. Tôi chỉ có những cái thích. Đi chơi bộ trên núi. Bơi. Đọc sách."

"Vậy là cậu thích làm mọi việc một mình, phải không?"

"Có lẽ thế. Tôi không bao giờ có thể thấy phấn khích về nhưng trò người khác đang chơi. Tôi không thể nhập cuộc được. Tôi mất hết hứng thú."

"Vậy thì cậu phải đến đây vào mùa đông. Chúng tôi có trượt tuyết đường dài. Tôi chắc cậu sẽ thích, ở ngoài tuyết suốt ngày, toát mồ hôi thì thôi."

Dưới ánh đèn đường, Reiko nhìn chăm chú bàn tay phải của mình như thể đang kiểm tra một nhạc cụ cổ xưa.

"Naoko có thường bị thế này không?" tôi hỏi.

"Cũng lúc này lúc khác đấy," Reiko nói và bắt đầu nhìn sang bàn tay trái. "Lâu lâu cô ấy lại xúc động và khóc như vậy. Nhưng không sao đâu. Cũng là cách cho cô ấy giải toả. Không thế được mới là đáng sợ. Khi cảm xúc chứa chất, xơ cứng và chết ở trong lòng, lúc ấy mới thật là rắc rối to."

"Tôi có nói cái gì không nên lúc ấy không?"

"Không có gì cả. Cậu đừng lo. Hay cứ nói ra ý nghĩ của mình cho chân thực. Tốt nhất là như vậy. Đôi khi điều đó làm ta đau đớn, và người khác có thể khó chịu như Naoko, nhưng lâu dài thì làm thế là tốt nhất. Đó là cái cậu nên làm nếu cậu thực sự muốn cho Naoko lành bệnh. Như tôi đã nói với cậu từ đầu, cậu không nên nghĩ nhiều quá đến việc giúp cô ấy theo lối một chiều, mà phải nghĩ cả đến việc làm cho chính mình được bình phục bằng cách giúp cô ấy bình phục. Đó là đường lối ở đây. Cho nên cậu phải chân thực và nói ra tất cả những gì có trong tâm trí mình, ít nhất thì cũng là trong thời gian cậu ở đây. Thế giới bên ngoài thì chẳng ai làm thế bao giờ, đúng không?"

"Có lẽ thế," tôi nói.

"Trong thời gian ở đây tôi đã thấy đủ loại người ra vào chốn này," chị nói, "có thể là quá nhiều. Vì thế thường chỉ cần nhìn một người là tôi có thể biết người ấy có thể khá hơn được hay không, gần như bản năng vậy. Nhưng trường hợp Naoko thì tôi lại không chắc. Tôi hoàn toàn không thể đoán chuyện gì sẽ có thể xảy ra với cô ấy Theo tôi, cô ấy có thể khỏi hoàn toàn ngay trong tháng sau, mà cũng có thể như thế này mãi nhiều năm trời. Nên thực sự là tôi không thể bảo cậu nên làm gì, ngoài một lời khuyên chung chung nhất là hãy chân thực và giúp đỡ lẫn nhau."

"Cái gì khiến Naoko thành một ca khó như thế đối với chị?"

"Cũng có thể là vì tôi rất thích cô ấy. Tôi nghĩ tôi bị tình cảm chi phối và không thể nhìn nhận cô ấy cho rõ ràng. Nghĩa là, tôi thực sự thích cô ấy. Nhưng ngoài chuyện đó ra, cô ấy có cả một mớ bòng bong những vấn đề khác nhau và rất khó tháo gỡ từng cái một. Có thể rất lâu mới có thể lần lượt gỡ hết được chúng, hoặc giả phải có một cái gì đó có thể khiến cho chúng tự bung hết ra cùng một lúc. Kiểu như vậy. Mà chính vì thế mà tôi không thể chắc được rồi cô ấy sẽ ra sao."

Chị lại nhặt trái bóng lên, xoay nó trong tay và đập nó nảy xuống đất.

"Quan trọng nhất là không được mất kiên nhẫn với cô ấy," Reiko nói. "Đó là một lời khuyên nữa của tôi cho cậu: đừng mất kiên nhẫn. Ngay cả khi mọi chuyện đã rối mù và không thể làm được gì nữa, cũng không được tuyệt vọng hoặc làm nổ cầu chì và cuống quýt kéo một đâu dây nào đó khi nó chưa sẵn sàng. Cậu phải biết rằng đây là một quá trình lâu dài và phải giải quyết mọi chuyện rất từ từ, từng cái một. Liệu cậu có làm vậy được không?"

"Tôi có thể thử," tôi nói.

"Có thể sẽ rất lâu dài đấy, cậu biết không, và cô ấy cũng chưa chắc sẽ bình phục hoàn toàn. Cậu đã nghĩ đến chuyện ấy chưa?"

Tôi gật đầu.

"Chờ đợi là khổ," chị nói, tay đập bóng. "Nhất là với người trạc tuổi cậu. Chỉ có thể ngồi và đợi xem cô ấy có khá lên hay không. Vô thời hạn. Không có đảm bảo gì. Liệu cậu có làm được không? Cậu có yêu Naoko đến thế không?"

"Tôi cũng không biết nữa," tôi thành thực nói.

"Cũng như Naoko, tôi không biết rõ ý nghĩa của việc đem lòng yêu một ai đó, tuy cô ấy hiểu việc này có hơi khác một chút. Nhưng tôi thực lòng muốn làm hết sức mình. Tôi phải cố yêu, vì nếu không cũng chẳng biết đi về đâu nữa. Như chị đã nói, Naoko và tôi phải cứu lẫn nhau. Đó là cách duy nhất để cả hai cùng được giải cứu."

"Và cậu vẫn sẽ tiếp tục ngủ với các cô gái tình cờ bắt gặp chứ?"

"Chuyện đó tôi cũng chưa biết phải làm sao đây?" tôi nói. "Chị nghĩ sao? Tôi chỉ nên chờ đợi và thủ dâm chăng? Mà tôi cũng không hoàn toàn chủ động được trong cả việc ấy nữa."

Reiko đặt trái bóng xuống đất rồi vỗ vỗ đầu gối tôi. "Này cậu," chị nói, "Tôi không bảo cậu phải thôi ngủ với các cô gái. Nếu cậu thấy chuyện đó là ôkê thì nó là ôkê. Dù sao thì đó cũng là chuyện cuộc đời của cậu, cậu phải tự quyết định thôi. Tôi chỉ muốn nói là cậu không nên đánh mất bản thân vào những chuyện trái tự nhiên. Cậu có hiểu ý tôi không? Như vậy phí lắm. Tuổi mười chín đôi mươi là giai đoạn trọng yếu của quá trình ổn định nhân cách, và nếu cậu để mình bị méo mó ở tuổi ấy thì sau này cậu sẽ rất đau khổ. Thật đấy. Nên cậu phải suy nghĩ cẩn thận. Nếu cậu muốn chăm sóc Naoko, hãy chăm sóc bản thân mình cái đã."

Tôi nói mình sẽ suy nghĩ về chuyện ấy.

"Tôi cũng đã từng hai mươi tuổi. Từ xửa từ xưa. Cậu có tin được không?"

"Tất nhiên rồi."

"Tận đáy lòng chứ."

"Tận đáy lòng," tôi mỉm cười.

"Da tôi cũng xinh xắn nữa. Không được như Naoko, nhưng cũng xinh ra phết. Da còn chưa có tất cả nhưng nếp nhăn này"

Tôi bảo tôi rất thích những nếp nhăn của chị. Chị cảm ơn tôi.

"Nhưng chớ bao giờ bảo một người đàn bà nào khác là cậu thấy nhưng nếp nhăn của họ là hấp dẫn nhé," Chị nói thêm. "Tôi thì thích nghe thế, nhưng tôi là trường hợp ngoại lệ."

"Tôi sẽ cẩn thận chuyện này," tôi đáp.

Chị lấy một cái ví trong túi quần ra và đưa cho tôi xem một bức ảnh rút từ ngăn để danh thiếp. Đó là một bức ảnh màu chụp một bé gái khoảng mười tuổi xinh xắn trong bộ đồ trượt tuyết màu sắc tươi sáng đang đứng trên tuyết và tươi cười trước ống kính.

"Có xinh không nào? Con gái tôi đấy," Reiko nói. "Nó gửi cho tôi hồi tháng Giêng. Nó bao nhiêu nhỉ? Lên chín rồi đây.

"Nó cười giống chị," tôi nói, trả lại bức ảnh. Reiko đút cái ví vào túi, hít mạnh một cái, đặt một điếu thuốc lên môi rồi châm lửa.

"Tôi muốn trở thành một nghệ sĩ biểu diễn dương cầm," chị nói. "Tôi có tài, mọi người đều nhận thấy điều đó và làm rùm beng lên về tôi khi tôi còn nhỏ. Tôi thắng nhiều cuộc thi và luôn đứng đầu nhạc viện, và họ đã thu xếp để tôi tốt nghiệp xong là sẽ sang Đức học tiếp. Chân trời không một gợn mây. Mọi việc đều hoàn hảo, và hễ có chuyện gì là thể nào cũng có ai đó ra tay giải quyết ngay. Nhưng rồi đến một ngày, tất cả bỗng tan thành mây khói. Tôi đang học năm cuối ở nhạc viện và sắp có một cuộc thi khá quan trọng. Tôi tập ngày tập đêm cho cuộc thi đó nhưng đột nhiên ngón út bên tay trái tôi bỗng không cử động được nữa. Không biết tại sao, nhưng nó cứ ì ra như vậy. Tôi thử xoa sát nó, ngâm nó vào nước nóng, nghỉ tập vài ngày chẳng ăn thua gì cả. Phát hoảng, tôi tìm đến bác sĩ. Họ xét nghiệm đủ thứ nhưng không đi đến đâu hết. Bản thân cái ngón út ấy chẳng có vấn đề gì, và các thứ dây thần kinh cũng vậy, họ nói thế, không có lí do gì để nó bất động như vậy. Chỉ có thể là vấn đề tâm lí. Thế là tôi đến một bác sĩ phân tâm, nhưng ông ta cũng chẳng hiểu chuyện gì đang diễn ra cả. Có thể là căng thẳng trước cuộc thi, ông ta nói, và khuyên tôi nên tránh xa cây dương cầm một thời gian."

Reiko rít một hơi thật sâu rồi nhả khói ra. Sau đó chị ngoẹo cổ sang một bên mấy lần.

"Thế là tôi về tĩnh dưỡng ở chỗ của bà tôi bên bờ biển Izu. Tôi tưởng mình sẽ quên cái cuộc thi đó, thư giãn độ vài tuần, không sờ đến đàn và muốn làm gì thì làm. Nhưng không thể được. Tôi chỉ có thể nghĩ đến cây dương cầm. Có thể cái ngón ấy sẽ không bao giờ cử động được nữa. Nếu quả như vậy thì tôi sẽ sống ra sao? Những ý nghĩ ấy cứ lẩn quẩn không ngừng trong đầu tôi. Mà cũng phải thôi: cây dương cầm đã là toàn bộ cuộc sống của tôi cho đến lúc ấy. Tôi đã bắt đầu chơi đàn từ lúc bốn tuổi, đã chỉ nghĩ đến nó chứ không đến cái gì khác. Tôi không bao giờ làm việc nhà để tránh làm tổn thương các ngón tay. Mọi người để ý đến tôi cũng chỉ vì một thứ thôi: tài chơi dương cầm của tôi. Tước cây dương cầm của một đứa con gái như vậy thì nó còn lại gì? Và thế là, phựt một cái, tâm trí tôi rơi vào một cõi hỗn mang hoàn toàn. Tối đen như mực."

Chị thả điếu thuốc xuống đất, đi xuống dưới chân, rồi lại ngoẹo cổ mấy lần.

"Đó là kết cục giấc mơ trở thành nghệ sĩ dương cầm của tôi. Tôi nằm bệnh viện hai tháng. Ngay sau khi nhập viện, ngón tay tôi đã cử động lại được, nghĩa là tôi vẫn có khả năng quay lại nhạc viện và tốt nghiệp, nhưng một cái gì đó bên trong tôi đã biến mất. Một nguồn năng lượng quý báu hoặc cái gì đó ở trong tôi đã biến mất, bốc hơi mất. Bác sĩ nói tôi không đủ sức mạnh tinh thần đề trở thành một nghệ sĩ chuyên nghiệp và khuyên tôi nên từ bỏ ý định ấy. Thế là sau khi tốt nghiệp tôi chỉ nhận dạy học trò ở nhà. Nhưng tôi cảm thấy đau đớn vô cùng tận. Như thể cuộc đời mình đã chấm dứt. Tôi mới qua tuổi hai mươi mà cái phần tốt đẹp nhất của cuộc đời đã chấm dứt rồi. Cậu có thấy điều đó khủng khiếp đến mức nào không? Tôi đã có biết bao nhiêu hứa hẹn, để rồi thức dậy một ngày và thấy tất cả đã mất hết rồi. Không còn những tràng vỗ tay, không còn ai bàn tán xôn xao về tôi, không còn ai ngỏ lời khâm phục tôi nữa. Ngày lại ngày tôi ở tịt trong nhà và dạy bọn trẻ hàng xóm những bài tập Beyer và các ban xô-nát nhỏ. Tôi thấy khổ sở vô chừng, và động một tí là khóc. Cứ thở nghĩ về những mất mát của tôi mà xem! Mỗi lần nghe tin nhưng người kém tài hơn tôi nhiều vừa được giải nhì một cuộc thi nào đó hoặc vừa biểu diễn ở phòng hoà nhạc nào đó là nước mắt tôi lại trào ra.

"Bố mẹ tôi rón rén quanh tôi, sợ làm tôi bị tổn thương. Nhưng tôi biết họ đang thất vọng về tôi biết chừng nào. Đùng một cái đứa con gái mà họ từng tự hào đến thế bỗng trở thành một bệnh nhân tâm thần vừa xuất viện. Thậm chí họ còn không thể cưới chồng cho tôi. Sống bên cạnh mọi người, ta sẽ cảm thấy tình cảm thật của họ, và tôi căm ghét chuyện đó. Tôi sợ phải ra ngoài, sợ hàng xóm bàn tán về mình. Và thế là, phựt một cái! Chuyện đó lại tái diễn - cõi hỗn mang, bóng tối bao trùm. Lúc ấy tôi hai bốn, và lần này tôi phải ở bảy tháng liền trong một trại điều dưỡng. Không phải như ở đây đâu, mà là một nhà thương điên bình thường có tường cao và cửa khoá kín. Một nơi bẩn thỉu không có đàn dương cầm. Tôi không biết phải làm gì nữa. Chỉ biết là tôi muốn thoát khỏi chỗ đó càng sớm càng tốt và tuyệt vọng gắng sức để hồi phục. Bảy tháng. Bảy tháng trời dằng dặc. Đó là lúc những nếp nhăn của tôi bắt đầu xuất hiện."

Reiko mỉm cười, nhệch mồm bên này bên kia.

"Ra viện chưa được bao lâu thì tôi gặp một người và cưới anh ta. Ít hơn tôi một tuổi, anh ta là kỹ sư làm việc ở một công ty chế tạo máy bay, và là một học sinh của tôi. Một người tốt. Anh ấy ít nói, nhưng tình cảm và chân thật. Anh ấy học tôi được sáu tháng thì tự nhiên hỏi tôi có lấy anh ấy không. Cứ thế thôi, hôm chúng tôi đang uống trà sau giờ học. Cậu có tin được không? Chúng tôi chưa hề đi chơi hoặc cầm tay nhau. Anh ấy khiến tôi hoàn toàn bất ngờ. Tôi bảo mình không thể lấy chồng. Tôi bảo tôi thích anh và biết anh là người tốt nhưng chính vì thế mà tôi không thể lấy anh ấy. Anh ấy muốn biết lí do, và tôi giải thích tất cả cho anh ấy, hoàn toàn thành thực - rằng tôi đã phải hai lần vào bệnh viện tâm thần. Tôi nói với anh ấy tất cả mọi chuyện - nguyên nhân, tình trạng, và khả năng tái diễn của tôi. Anh ấy nói cần thời gian suy nghĩ, và tôi khuyên anh ấy hay thật bình tĩnh và thư thả trong chuyện này. Nhưng ngay tuần lễ sau đó, khi đến học, anh ấy nói vẫn muốn lấy tôi. Tôi đề nghị anh chờ ba tháng. Tôi bảo chúng ta sẽ còn thấy nhau trong ba tháng nữa, và nếu sau đó anh vẫn còn muốn lấy tôi, chúng ta sẽ lại nói chuyện.

Trong ba tháng đó, mỗi tuần chúng tôi đi chơi với nhau một lần. Chúng tôi đi khắp nơi và nói đủ mọi chuyện, và tôi ngày càng thấy thích anh ấy. Khi ở bên anh, tôi cảm thấy như cuộc sống cuối cùng lại về với mình. Được một mình với anh ấy tôi có một cảm giác nhẹ nhõm kì diệu: tôi có thể quên hết nhưng chuyện khủng khiếp đã từng xảy ra. Không thành nghệ sĩ biểu diễn thì đã sao nào? Vào bệnh viện tâm thần thì đã sao nào? Đời tôi chưa chấm dứt. Cuộc sống vẫn còn đầy những điều kì diệu mà tôi chưa được nếm trải. Chỉ cần cảm thấy được như vậy là tôi đã thấy biết ơn anh ấy vô cùng. Sau ba tháng, anh ấy lại đề nghị cưới. Và tôi đã nói thế này: "Nếu anh muốn ngủ với em, em cũng chẳng ngại đâu. Em chưa ngủ với ai bao giờ, và em rất mến anh, nên nếu anh muốn làm tình với em, em hoàn toàn không ngại đâu. Nhưng cưới em lại là chuyện khác hẳn. Nếu anh lấy em, anh sẽ phải lấy toàn bộ những rắc rối của em, và chúng tệ hơn anh tưởng nhiều lắm đấy."

"Anh ấy bảo anh ấy không cần, rằng không phải anh ấy chỉ muốn ngủ với tôi, mà là muốn cưới tôi làm vợ và san sẻ mọi thứ của tôi với anh ấy. Mà anh ấy nói thật. Anh ấy là loại người chỉ nói đúng điều mình nghĩ, và đã nói là làm. Thế là tôi đồng ý cưới anh ấy. Tôi chỉ có thể làm thế. Chúng tôi cưới, để xem nào, hình như là bốn tháng sau đó thì phải. Anh ấy cãi nhau với bố mẹ về chuyện lấy tôi, và họ từ anh ấy. Gia đình anh ấy là một dòng họ lâu đời ở vùng nông thôn thuộc Shikoku. Họ cho điều tra về tôi và phát hiện tôi đã phải vào viện hai lần. Làm gì mà họ chẳng phản đối. Cuối cùng, chúng tôi không tổ chức lễ cưới, mà chỉ ra đăng kí kết hôn rồi cùng nhau đi Hakone hai ngày. Thế là nhiều rồi, chúng tôi thấy hạnh phúc lắm. Và cuối cùng thì tôi vẫn là gái tân cho đến tận ngày lấy chồng. Lúc ấy tôi hai lăm tuổi! Cậu có tin được không?"

Reiko thở dài và lại nhặt trái bóng lên.

"Tôi tưởng chừng nào còn ở bên cạnh anh ấy là tôi còn yên ổn," chị tiếp tục. "Còn ở với anh ấy thì tôi còn tránh được những rắc rối của mình. Đó là điều quan trọng nhất đối với một chứng bệnh như của chúng tôi ở đây: một cảm giác tin tưởng. Nếu tôi trao gửi mình vào tay người này, tôi sẽ ôkê. Nếu tình trạng tôi chậm tồi tệ dù chỉ là một chút xíu - nếu chỉ một cái ốc bị lỏng ra một tí anh ấy sẽ biết ngay và sẽ siết nó lại với lòng kiên nhẫn và âu yếm vô bờ, sẽ xếp tất cả nhưng sợi dây bị rối về lại chỗ của chúng. Nếu có được cảm giác tin tưởng ấy, chứng bệnh của chúng tôi sẽ không trở lại nữa. Không còn phựt một cái nữa! Tôi thật sự hạnh phúc! Cuộc đời thật đáng sống! Tôi thấy như có ai đó vừa vớt tôi từ dưới biển giông bão lạnh lẽo rồi quấn chăn cho tôi và đặt tôi vào một chiếc giường ấm áp. Hai năm sau khi cưới, tôi sinh cháu và bận luôn chân luôn tay, không còn nhớ gì đến bệnh não của mình nữa. Tôi dậy sớm, làm việc nhà, chăm con, và cơm nước cho chồng đi làm. Ngày nào cũng như ngày nào, nhưng tôi hạnh phúc lắm. Có lẽ đó là những ngày tháng hạnh phúc nhất trong đời tôi. Không biết nó kéo dài được bao nhiêu năm, ít nhất cũng được đến năm tôi ba mốt tuổi. Và rồi, đùng một cái, nó lại đứt phựt! Tôi lại vỡ vụn."

Reiko châm thuốc. Gió đã ngưng. Khói thuốc bay thẳng lên và biến mất vào bóng đêm. Lúc ấy tôi mới để ý thấy trời đầy sao.

"Có chuyện gì chăng?" tôi hỏi.

"Phải," chị nói, "một chuyện rất lạ lùng, như có ai đặt bẫy tôi vậy. Đến bây giờ tôi vẫn lạnh cả người mỗi khi nghĩ đến nó." Reiko xoa một bên thái dương bằng bàn tay không cầm thuốc. "Tôi xin lỗi đã bắt cậu phải nghe tất cả những chuyện này của tôi. Cậu đến đây thăm Naoko chứ không phải để nghe chuyện tôi mà."

"Nhưng tôi thực sự muốn nghe chuyện chị," tôi nói. "Nếu chị không phiền, tôi xin được nghe nốt."

"Thế là," Reiko bắt đầu, "Khi con gái vào mẫu giáo, tôi lại bắt đầu chơi đàn, dần dần, tí một. Không đánh cho ai nghe, mà chỉ cho mình thôi. Tôi bắt đầu với những bài ngăn ngắn của Bach, Mozart, Scarlatti. Tất nhiên, sau một thời gian dài như thế, nhạc cảm của tôi chưa thể hồi lại ngay được. Và ngón tay cũng chưa thể linh hoạt như ý muốn. Nhưng được quay lại với cây dương cầm như vậy khiến tôi phấn khích vô cùng. Đặt tay lên phím đàn, tôi nhận ra rằng tôi đã yêu âm nhạc biết bao nhiêu - và đã thèm khát nó biết bao nhiêu. Có khả năng chơi đàn cho chính mình thật cũng là một điều kì diệu."

"Như tôi đã nói, tôi bắt đầu chơi đàn từ hồi lên bốn, nhưng lúc ấy mới chợt nhận ra là chưa từng bao giờ chơi cho chính mình. Lúc nào tôi cũng chỉ cỏ thi cho đỗ hoặc chỉ để gây ấn tượng với người khác. Những cái đó cũng quan trọng, tất nhiên rồi, nếu ta muốn làm chủ một nhạc cụ. Nhưng đến một tuổi nào đó thì phải bắt đầu có ý thức biểu diễn cho chính mình. Cái đó mới là âm nhạc. Phải rời bỏ con đường thượng lưu âm nhạc và qua tuổi ba mốt tôi mới có khả năng nhận ra điều đó. Tôi nhanh nhanh chóng chóng cho con đến mẫu giáo và vội vã làm các việc trong nhà để có được một hai tiếng đồn

Re:Cùng nhau đọc truyện : Rừng Na-uy

Đã gửi: Ba T10 24, 2006 6:35 pm
Viết bởi Ansamurai
Rừng Na-Uy
Chương 7

Dịch giả: Trinh Lữ



Trong giờ thể dục sáng hôm sau, thứ Năm, tôi bơi qua lại nhiều lần chiều dài của cái bể năm mươi mét. Vận động mạnh như vậy làm đầu óc tôi tỉnh táo thêm chút nữa và ăn thấy ngon miệng. Sau khi chén một bữa trưa hậu hĩnh tại một tiệm ăn sinh viên nổi tiếng vì những phần cơm trưa hậu hĩnh ấy và đang trên đường đến thư viện khoa văn để tra cứu vài thứ thì tôi chạm trán Midori Kobayashi. Cô đang đi với một cô gái nhỏ nhắn đeo kính cận, nhưng khi thấy tôi cô chạy đến một mình.

"Cậu đi đâu thế?" cô hỏi.

"Thư viện văn," tôi đáp.

"Này, cậu quên việc ấy đi và hai đứa mình đi ăn trưa với nhau nhé"

"Tớ vừa ăn xong."

"Thì đã sao?" Lại ăn nữa chứ sợ gì."

Cuối cùng chúng tôi đến một quán cà-phê gần đấy.

Cô ăn một đĩa cà-ri còn tôi thì làm một cốc cà-phê. Cô mặc sơ-mi trắng dài tay bên trong một áo chẽn bằng len vàng có đan chìm hình một con cá, cổ đeo một vòng vàng mảnh, tay đeo đồng hồ Disney. Cô có vẻ thích món cà-ri và uống hết ba cốc nước cùng với nó.

"Vừa rồi cậu đi đâu thế?" Midori hỏi. "Tớ gọi không biết là bao nhiêu lần nữa."

"Cậu có chuyện gì muốn nói à?"

"Chẳng có gì đặc biệt. Tớ chỉ gọi thế thôi."

"Tớ thấy rồi."

"Cậu thấy gì?"

"Chẳng có gì. Tớ chỉ thấy thế thôi," tôi nói. "Vừa rồi có vụ hoả hoạn nào không?"

"Hôm ấy hay thật, hả? Chẳng thiệt hại gì mấy, nhưng khói khiếc lung tung trông đến khiếp. Hay thật."

Midori nốc hết một cốc nước nữa, hít một hơi dài, rồi chăm chú nhìn vào mặt tôi một lúc. "Này, cậu có chuyện gì thế?" cô hỏi. "Mặt cậu cứ thẫn thờ thế này này. Hai mắt cứ đờ ra."

"Tớ không sao," tôi nói. "Tớ mới đi xa về và người vẫn còn mệt."

"Trông cậu như người mới nhìn thấy ma."

"Tớ thấy rồi."

"Mà này, chiều nay cậu có phải đến lớp không?"

"Tiếng Đức và văn học Anh."

"Có bỏ được không?"

"Tiếng Đức thì không được. Hôm nay có kiểm tra."

"Lúc nào thì xong?"

"Hai giờ."

"Ôkê. Đi với tớ xuống phố uống rượu nhé!"

"Vào lúc hai giờ chiều ư?"

"Thì đã sao, cho nó khác đi chứ. Trông cậu đờ đẫn lắm. Nào, đi uống với tớ đi cho nó có sinh khí. Tớ cũng muốn vậy - uống rượu với cậu để lấy lại chút sinh khí cho tớ nữa. Được không nào?"

"Ôkê, đi thì đi," tôi nói và thở dài. "Tớ sẽ tìm cậu ở sân khoa văn lúc hai giờ."

Sau lớp tiếng Đức, chúng tôi lấy xe buyt đến Shinjuku và vào một quán bar ngầm dưới đất gọi là DUG ở sau hiệu sách Kinokuniya. Để bắt đầu, chúng tôi gọi hai cốc vodka pha tonic.

"Lâu lâu tớ lại đến chỗ này," Midori nói. "Họ không làm cho mình thấy lúng túng vì uống rượu ngay từ buổi chiều.

"Cậu có hay uống rượu chiều không?"

"Thỉnh thoảng thôi," cô nói, lắc lanh canh mấy cục nước đá trong cốc. "Thỉnh thoảng, khi đời khó sống quá, tớ lại đến đây làm một cốc vodka pha tonic."

"Đời khó sống quá rồi sao?"

"Thỉnh thoảng thôi," Midori nói. "Tớ có những trục trặc nho nhỏ đặc biệt của mình."

"Ví dụ như gì nào?"

"Như gia đình, như bọn bạn trai, những kì kinh nguyệt không đều. Đại khái thế."

"Vậy thì uống nữa đi."

"Tớ sẽ uống."

Tôi ra hiệu cho bồi bàn và gọi hai vodka pha tonic nữa.

"Cậu nhớ không, hôm Chủ nhật cậu đến chơi, rồi cậu hôn tớ ấy?" Midori hỏi. "Tớ vẫn nghĩ đến nó. Hay thật. Thật là hay."

"Đúng thế."

"Đúng thế," cô nhại lại. "Cậu nói chuyện kỳ thật!"

"Vậy ư?"

"Thôi được rồi, tớ đang nghĩ lúc ấy, tớ đang nghĩ giá đó là lần đầu tiên trong đời tớ được một cậu trai hôn như thế thì tuyệt vời biết bao. Nếu tớ có thể đảo lộn thứ tự cuộc đời mình, tớ sẽ dứt khoát, dứt khoát biến nó thành nụ hôn đầu đời của mình. Và rồi tớ sẽ sống để suốt đời chỉ nghĩ đến những chuyện đại loại như: Này, không biết cái thằng cu tên là Watanabe đã hôn mình lần đầu tiên trên sân phơi ấy bây giờ ra sao, mà nó cũng phải năm mươi tám rồi chứ còn gì nữa? Cậu bảo thế có sướng không?"

"Ờ có thế thực," tôi nói, mải bóp cho vỡ vỏ một hạt hồ trăn.

"Ê, cậu làm sao thế hử? Sao cậu đờ đẫn thế?" Cậu vẫn chưa trả lời tớ."

"Có lẽ tớ vẫn chưa hoàn toàn thích ứng được với cuộc đời" tôi nói sau khi đã nghĩ một lúc. "Tớ không biết, tớ cảm thấy đây không phải là cuộc đời thực. Mọi người, cảnh vật, chúng chăng có vẻ thực tí nào."

Midori tựa một khuỷu tay lên quầy bar và nhìn tôi.

"Có một câu nào giống như thế trong một bài hát của Jim Morrison, tớ nhớ như vậy."

"Người thành lạ khi ta là người lạ."

"Vì Hoà bình," Midori nói.

"Vì Hoà bình," tôi phụ hoạ.

"Chắc cậu phải đi Uruguay cùng với tớ," Midori nói, vẫn tựa trên quầy. "Bồ bịch, gia đình, đại học - vứt mẹ nó hết đi."

"Không phải là một ý kiến tồi đâu," tôi cười.

"Cậu không thấy là sẽ rất tuyệt nếu vứt bỏ hết mọi thứ và mọi người để đến một nơi mà mình không biết một ma nào cả ư? Nhiều lúc mình chỉ thích làm như thế. Thực sự là nhiều lúc mình đã muốn, rất muốn làm như thế. Đấy, giả dụ như tự nhiên cậu tốc tớ đến một nơi thật xa, thật xa, và tớ sẽ sản xuất cho cậu một lũ con khỏe như trâu, và từ ấy chúng mình sẽ mãi sống hạnh phúc, cứ việc lăn lộn dưới sàn nhà."

Tôi cười và uống cốc vodka pha tonic thứ ba của mình.

"Tớ đoán có lẽ cậu chưa thật sự thích có một lũ con khỏe như trâu," Midori nói.

"Tớ thấy tò mò rồi đây," tôi nói. "Tớ cũng thích xem mặt mũi chúng thế nào."

"Không sao, cậu không cần phải muốn chúng đâu,"

Midori nói, miệng nhằn một hạt hồ trăn. "Trông tớ đây này, đang uống rượu chiều, nghĩ sao nói vậy. Tớ muốn vứt mẹ nó mọi thứ đi và chuồn đi đâu đó." Đi Uruguay để làm cái quái gì cơ chứ? Ở đấy chỉ toàn cứt lừa thôi."

"Có thể cậu nói đúng."

"Chỗ nào cũng cứt lừa. Đây một bãi, kia một bãi, cả thế giới là cứt lừa. Ê, tớ không thể cắn được cái hạt này. Cậu lấy nó đi". Midori đưa hạt hồ trăn cho tôi. Tôi loay hoay với nó cho đến khi cắn vỡ được lần vỏ. "Nhưng ôi chao, hôm Chủ nhật trước mới thật nhẹ nhõm làm sao! Lên sân phơi với cậu, xem đám cháy, uống bia, hát nghêu ngao bài này bài khác. Tớ không biết là bao lâu nữa vì tớ hoàn toàn tràn ngập trong một cảm giác nhẹ nhõm. Mọi người lúc nào cũng chỉ có ép buộc tớ chuyện này chuyện kia. Vừa mới thấy tớ là họ bắt đầu sai phái. Ít nhất thì cậu đã không định ép tớ việc gì?"

"Tớ chưa biết cậu đến mức ép được cậu."

"Cậu muốn nói là, nếu cậu quen tớ rồi thì cậu sẽ ép tớ cũng như mọi người khác ấy ư?"

"Có thể lắm," tôi nói. "Người ta sống với nhau như vậy trong thực tế mà: ép buộc nhau chuyện này chuyện nọ."

"Cậu sẽ không thế. Tớ biết chứ. Tớ là chuyên gia trong chuyện ép buộc và bị ép buộc. Cậu không thuộc loại đó. Chính thế mà tớ thấy thoải mái khi ở bên cậu. Cậu có biết thế giới này có bao nhiêu người muốn ép buộc người khác và muốn được người khác ép buộc không? Hàng tấn! Mà sau đó họ lại còn làm rùm beng lên nữa chứ, kiểu như "Tôi đã ép buộc cô ấy, "Anh đã ép buộc tôi!" Họ là như vậy đấy. Nhưng tớ không thích thế. Tớ làm vì tớ phải làm vậy, thế thôi."

"Cậu ép buộc người khác hoặc bị người khác ép buộc cậu đại loại những chuyện gì?"

Midori bỏ một cục nước đá vào miệng và mút nó một lúc.

"Cậu có muốn biết thêm về tớ không?" cô hỏi.

"Ờ cũng đại loại thế."

"Ê, nghe này, tớ vừa mới hỏi "Cậu có muốn biết thêm về tớ không?" Cậu trả lời cái kiểu gì vậy?"

"Có, Midori, tớ muốn biết thêm về cậu," tôi nói.

"Thật chứ?"

"Thật. Đúng thế."

"Ngay cả nếu cậu sẽ không dám nhìn vào những gì cậu sẽ thấy chứ?"

"Cậu tệ đến mức ấy cơ à?"

"À, về một mặt nào đó thôi, Midori nhăn mặt. "Tớ muốn uống nữa."

Tôi gọi bồi và lấy thêm tuần rượu thứ tư. Trong lúc chờ đợi, Midori tựa cằm vào lòng bàn tay đang chống trên mặt quầy. Tôi im lặng nghe Thelonious Monk đang chơi bài "Honeysuckle Rose". Có năm sáu khách nữa đang ngồi trong quán, nhưng chỉ có chúng tôi uống rượu.

Mùi cà-phê thơm nức khiến cho nội thất tôi tối của quán có không khí rất ấm cúng.

"Chủ nhật này cậu rảnh không?" Midori hỏi.

"Hình như tớ đã bảo cậu rồi. Chủ nhật nào tớ cũng rảnh. Cho đến khi phải đi làm vào lúc sáu giờ chiều."

"Ôkê, vậy Chủ nhật này cậu đi chơi với tớ nhé?"

"Nhất định rồi," tôi nói.

"Tớ sẽ đến đón cậu ở khu học xá vào buổi sáng, nhưng tớ vẫn chưa biết chính xác giờ nào. Ôkê không?"

"Ôkê," tôi nói. "Không có vấn đề gì."

"Nào, bây giờ tớ hỏi cậu: cậu có biết tớ đang thích làm gì ngay bây giờ không?"

"Chịu chết."

"Thế này nhé, đầu tiên, tớ muốn nằm xuống một cái giường to, rộng, êm ái. Tớ muốn thật thoải mái và say lơ mơ và xung quanh không có tí cứt lừa nào, và tớ muốn có cậu nằm xuống cạnh tớ. Rồi thì từng tí một, cậu cởi quần áo tớ ra. Thật nhẹ nhàng. Như kiểu mẹ cởi quần áo cho một đứa con nhỏ vậy. Thật là nhẹ nhàng."

"Hừmmm…"

"Còn tớ thì chỉ việc mặc kệ và lơ mơ sung sướng như thế cho đến lúc bỗng nhận ra chuyện gì đang diễn ra và hét lên "Thôi đi, Watanabe!" Và rồi tớ nói "Tớ thực sự thích cậu, Watanabe à, nhưng tớ đang có người khác rồi. Tớ không thể làm chuyện này". Tớ rất nghiêm túc trong những việc như thế này, cậu có tin hay không thì tuỳ, nhưng hay làm ơn dừng lại đi." Nhưng cậu không chịu dừng."

"Đâu, tớ sẽ thôi ngay mà," tôi nói. "Không sao, chỉ là tưởng tượng mà. Rồi sau đó cậu làm ra mặt rất buồn thế này này, và tớ thấy thương cậu quá và cố an ủi cậu. Nào, nào, tội nghiệp chưa này."

"Đó là những cái cậu đang muốn làm ngay bây giờ đấy à?"

"Đúng thế!"

"Thôi chết tôi rồi!"

Chúng tôi rời quán bar sau năm tuần vodka pha tonic.

Lúc tôi định trả tiền, Midori vỗ mạnh tay tôi một cái rồi rút trong ví ra một tờ mười ngàn Yên mới toanh.

"Ôkê đi," cô nói. "Tớ mới lĩnh tiền, và tớ mời cậu kia mà. Tất nhiên, nếu cậu là một thằng phát xít nòi và nhất định không chịu để đàn bà trả tiền rượu cho cậu thì…"

"Không, không, tớ ôkê mà."

"Và tớ cũng có để cậu đút nó vào đâu."

"Vì nó to và cứng quá," tôi nói.

"Đúng rồi" Midori nói. "Vì nó to và cứng quá."

Hơi say, Midori bước hụt một bậc và chúng tôi suýt ngã lộn xuống cầu thang. Lớp mây khiến trời âm u nay đã tan. Nắng muộn buổi chiều nhẹ nhàng tràn ngập đường phố. Midori và tôi lang thang một lúc lâu. Cô nói muốn trèo cây, nhưng không may lại chẳng có cái cây nào trèo được ở Shinjuku, còn công viên Hoàng Gia Shinjuku thì đã đóng cửa.

"Chán thật," Midori nói. "Tớ rất thích trèo cây."

Chúng tôi tiếp tục đi bộ và ngó nghiêng các cửa hàng, và chẳng mấy chốc cảnh đường phố có vẻ đã thực hơn trước đối với tôi.

"Tớ mừng là đã chạm trán cậu," tôi nói. "Hình như tớ đã thích nghi hơn được một tí với thế giới này rồi."

Midori dừng ngay lại và nhìn tôi chăm chú. "Đúng thật," cô nói. "Mắt cậu bớt đờ đẫn hơn nhiều. Thấy chưa? Đi chơi với tớ là tốt cho cậu đấy."

"Chắc chắn rồi," tôi nói.

Đến năm rưỡi Midori nói cô phải về nhà nấu cơm. Tôi bảo sẽ lấy xe buýt về học xá, và tiễn cô ra tận ga tàu điện.

"Biết bây giờ tớ muốn gì không?" Midori hỏi lúc chia tay.

"Tớ tuyệt đối không thể biết cậu có thể đang nghĩ gì," tôi nói.

"Tớ muốn cậu với tớ bị bọn cướp biển bắt. Chúng sẽ lột trần truồng bọn mình, ép tụi mình úp mặt vào nhau rồi lấy dây cuốn chặt hai đứa lại."

"Sao chúng lại làm thế?"

"Bọn cướp bệnh hoạn mà," cô nói.

"Cậu bệnh hoạn thì có," tôi bảo.

"Sau đó chúng nhốt hai đứa mình vào hầm tàu và bảo, "Một tiếng nữa chúng tao sẽ ném bọn bay xuống biển, từ giờ đến đó hãy vui thú với nhau đi."

"Rồi sao nữa?"

"Thì chúng mình vui thú, lăn lộn khắp chỗ đó và giãy giụa với nhau."

"Và đó là cái cậu đang muốn làm ngay bây giờ ư?"

"Đúng thế."

"Chết tôi rồi!" Tôi nói và lắc đầu.

Midori đến gọi tôi lúc chín rưỡi sáng Chủ nhật. Tôi vừa mới thức giấc và còn chưa rửa mặt. Có đứa đập cửa tôi ầm ầm và gào lên "Ê, Watanabe, đàn bà đấy!" Tôi xuống sảnh dưới nhà và thấy Midori đang ngồi đó, bắt chân chữ ngũ và mặc một cái váy vải bò ngắn không thể tưởng tượng được, và đang ngáp. Sinh viên nào đi ăn sáng qua cũng phải chậm bước lại để dán mắt vào đôi chân dài thon thả của cô. Quả thực là cô có đôi chân thật đẹp.

"Tớ đến sớm quá phải không?" Cô hỏi. "Chắc cậu vừa mới dậy."

"Cậu đợi tớ mười lăm phút được không?" Cho tớ rửa mặt cạo râu một cái."

"Đợi thì không sao, nhưng bọn nó đứa nào cũng cứ dán mắt vào chân tớ."

"Thế cậu tưởng thế nào nữa, đến học xá nam mà mặc váy ngắn thế kia? Tất nhiên là chúng nó phải dán mắt rồi."

"Ôi dào, thế cũng chẳng sao. Hôm nay tớ còn mặc đồ lót oách nữa cơ - toàn màu hồng và có tua ten đủ cả."

"Thế lại càng tệ," tôi thở dài nói. Tôi trở về phòng rửa mặt cạo râu thật nhanh, mặc một cái sơ-mi xanh da trời cổ bẻ có khuy với một cái áo tây thể thao xám vải tuýt, rồi chạy xuống áp tải Midori ra cửa, toát mồ hôi lạnh.

"Nói tớ nghe, Watanabe," Midori nói, ngước nhìn các toà nhà trong khu học xá, "bọn con trai ở đây đứa nào cũng thủ dâm xoành xoạch thế à?"

"Có thể," tôi bảo.

"Thế các cậu có nghĩ đến gái lúc làm thế không?"

"Tớ nghĩ là có. Tớ nghĩ có lẽ không ai nghĩ đến thị trường chứng khoán hoặc cách chia động từ hoặc Kênh đào Suez trong lúc xoành xoạch thế đâu. Chắc chắn vậy. Tớ chắc có lẽ tất cả đều nghĩ đến các cô gái thôi."

"Kênh đào Suez ư?"

"Là ví dụ thế."

"Như vậy tớ có thể cho rằng họ nghĩ đến một cô gái cụ thể nào đó, đúng không?"

"Sao cậu không hỏi bồ của cậu chuyện này?" Tôi nói "Sao tớ lại phải giang giải những chuyện như thế này cho cậu vào một buổi sáng Chủ nhật"

"Thì tớ chỉ tò mò thế thôi," cô nói. "Với lại, hắn sẽ phát cáu nếu tớ hỏi hắn những chuyện như thế này. Hắn bảo con gái không được hỏi những chuyện ấy."

"Một quan điểm hoàn toàn bình thường, tớ xin nói như vậy."

"Nhưng mà tớ muốn biết. Đây hoàn toàn chỉ là tò mò thôi. Con trai các cậu có nghĩ đến một cô gái cụ thể nào trong lúc thủ dâm không?"

Tôi đành thua không né tránh được nữa. "Thế này nhé, ít nhất thì tớ là như vậy. Tớ không biết những người khác thế nào."

"Thế cậu đã bao giờ nghĩ đến tớ trong lúc làm thế chưa?" Nói thật xem nào. Tớ sẽ không giận đâu."

"Chưa. Tớ nói thật đấy," tôi thành thật đáp.

"Tại sao chưa?" Tớ không đủ hấp dẫn sao?"

"Ô cậu hấp dẫn quá đi chứ. Cậu xinh xắn, và những bộ cánh sexy rất hợp với cậu."

"Thế sao cậu lại không nghĩ đến tớ?"

"Thế này nhé, trước hết là tớ coi cậu là bạn, nên không muốn lôi kéo cậu vào những mộng tưởng tình dục của tớ, và thứ hai là…"

"Chắc hẳn cậu phải có một ai đó để nghĩ đến rồi."

"Cũng gần như vậy," tôi nói.

"Cậu xử sự rất đàng hoàng trong những chuyện như thế này," Midori nói. "Đó là cái tớ thích ở cậu. Nhưng dù sao, cậu có thể cho tớ xuất hiện chỉ một lần rất nhanh thôi được không?" Tớ muốn được có mặt trong những mộng tình hoặc mơ tưởng hoặc gì gì đó của cậu, muốn gọi là gì cũng được. Tớ đề nghị thế là vì chúng mình là bạn nhau. Tớ còn biết đề nghị ai khác được nữa? Tớ không thể bước đến bất kì ai và nói "Khi ông xoành xoạch đêm nay, xin ông hay nghĩ đến em một giây thôi ông nhé". Chính vì tớ coi cậu là bạn nên tớ mới đề nghị thế. Và tớ muốn cậu sẽ kể lại cho tớ biết nó ra làm sao. Cậu biết đấy, cậu đã làm những gì và đại loại thế."

Tôi thở dài.

"Nhưng cậu không thể cho nó vào được. Bởi vì mình chỉ là bạn. Đúng không? Chỉ cần cậu không cho nó vào thôi, còn thì cậu tha hồ muốn làm gì thì làm, muốn nghĩ gì thì nghĩ."

"Tớ không biết, tớ chưa bao giờ làm chuyện ấy với nhiều hạn chế đến thế," tôi nói.

"Thế cậu chỉ nghĩ đến tớ thôi vậy, được không?"

"Thôi được rồi, tớ sẽ nghĩ đến cậu."

"Cậu biết không, Watanabe, tớ không muốn cậu có ấn tượng sai, ví dụ như tớ là một con dâm nữ hoặc không thoả mãn hoặc trêu ngươi hay gì gì nữa tớ không biêt. Tớ chỉ thấy rất quan tâm đến chuyện ấy thôi. Tớ muốn biết. Tớ lớn lên xung quanh chỉ toàn con gái trong một trường nữ sinh, cậu biết rồi. Tớ muốn biết bọn con trai nghĩ gì và thân thể chúng ra sao. Mà không phải chỉ là những thứ như trong mấy tờ phụ trương của đám tạp chí phụ nữ kia đâu, mà phải thực sự là những nghiên cứu thực tế kia."

"Nghiên cứu thực tế ư?" tôi rên rỉ.

"Cậu chỉ phải làm một lần thôi. Hay nghĩ đến tớ nhé, ôkê"

"Ôkê, tớ sẽ thử xem, lần tới này tôi nói, và nghĩ đến một chiếc khăn tắm."

Chúng tôi lấy tàu điện đi Ochanomizu. Khi đổi tàu ở Shinjuku, tôi mua một cái bánh kẹp mỏng ở quầy nhà ga để ăn thay bữa sáng. Cà-phê bán kèm với cái bánh có mùi vị như mực in đun sôi. Sau sáng Chủ nhật đầy những cặp vợ chồng và gia đình con cái đi dã ngoại. Một bọn trẻ trai mặc đồng phục bóng chày chạy rầm rập trong toa. Nhiều cô gái trên tàu mặc váy ngắn, nhưng không có cái nào ngắn bằng cái của Midori. Thỉnh thoảng cô lại phải kéo nó xuống một tí. Một vài ông cứ dán mắt vào đùi cô khiến tôi thấy rất lúng túng, nhưng Midori có vẻ chẳng thèm để ý.

"Có biết tớ đang thích làm gì bây giờ không?" cô thầm thì khi chúng tôi đã đi được một lúc.

"Chịu chết," tôi nói. "Nhưng xin cậu đừng có nói chuyện ấy ở đây nhé. Người ta nghe thấy đấy."

"Chán thật. Chuyện này mới thật là hoang dại,"

Midori nói với một vẻ thất vọng rõ ràng.

"Thôi nào, tại sao mình đi Ochanimizu?"

"Cứ đi rồi cậu sẽ thấy."

Xung quanh ga Ochanomizu có rất nhiều trường học, và Chủ nhật thì khu vực này đông nghẹt trẻ em đi học luyện thi. Midori đi ào ào qua đám trẻ ấy, một tay túm chặt quai túi khoác, tay kia túm chặt tay tôi.

Rồi tự nhiên cô hỏi:

"Watanabe này, cậu có phân biệt được thể giả định hiện tại với giả định quá khứ của động từ tiếng Anh không?"

"Có lẽ được," tôi nói.

"Vậy tớ xin hỏi cậu, những cái như thế thì có ích quái gì trong cuộc sống hàng ngày"

"Chả có gì cả," tôi nói. "Nó chẳng phục vụ được một mục đích cụ thể nào, nhưng nó cũng cho cậu chút gì đó để giúp cậu nắm được mọi thứ nói chung một cách có hệ thống hơn."

Midori bỏ ra chừng một khoảnh khắc để suy nghĩ nghiêm túc về chuyện đó.

"Cậu tuyệt vời thật," cô nói.

"Tớ chưa bao giờ nghĩ được như thế. Tớ luôn cho những cái như gia định thức động từ hoặc toán vi phân tích phân hoặc các kí hiệu hoá học là toàn toàn vô bổ. Một thứ phiền toái khó chịu. Và bấy lâu nay tớ vẫn phớt lờ chúng. Bây giờ thì tớ không biết là đời mình đã là cả một sai lầm hay chưa đây."

"Cậu phớt lờ chúng?"

"Ờ, Kiểu là, với tớ, chúng hoàn toàn không tồn tại. Tớ không biết tí gì về "sin" hoặc "côsin" là ra làm sao nữa."

"Không thể tin được? Làm sao mà cậu đỗ được phổ thông? Làm sao cậu vào được đại học?"

"Đừng giả bộ ngốc thế," Midori nói. "Không biết hết mọi thứ thì cậu cũng vẫn thi đỗ được như thường! Cậu chỉ cần có một chút trực cảm - mà trực cảm của tớ thì khối. "Hãy chọn câu trả lời đúng trong ba câu dưới đây" Thế là lập tức tớ biết ngay câu nào là đúng."

"Trực cảm của tớ không tốt như của cậu, nên tớ phải có khả năng hệ thống hoá đến một mức nào đó. Giống như con sáo thu nhặt những mảnh thuỷ tinh vào một cái hốc cây vậy."

"Nó có tác dụng gì không?"

"Tớ cũng chưa biết. Có thể nó giúp mình làm một vài thứ gì đó dễ dàng hơn."

"Thứ gì?" Cho tớ một ví dụ xem nào?"

"Như tư duy siêu hình chẳng hạn. Hay học nhiều thứ ngôn ngữ một lúc."

"Thế thì có ích dụng gì?"

"Cũng còn tuỳ người. Nó có thể ích dụng với người này, nhưng lại không ích dụng với người khác. Nhưng chủ yếu nó là chuyện đào luyện. Còn ích dụng gì hay không lại là chuyện khác. Như tớ đã nói."

"Hừmmm," Midori có vẻ rất ấn tượng. Cô dắt tay tôi đi xuống đồi. "Cậu biết không, Watanabe, cậu rất giỏi giảng giải mọi chuyện cho người khác hiểu đấy."

"Tớ cũng không biết," tôi nói.

"Thực đấy. Tớ đã hỏi hàng trăm người về chuyện ích dụng của giả định thức trong tiếng Anh, nhưng không ai trả lời tớ rõ ràng và hay như cậu. Ngay cả mấy thầy dạy tiếng Anh cũng vậy thôi. Hoặc là họ lúng túng, nổi cáu, hoặc cười trừ. Chẳng ai trả lời tớ cho đàng hoàng cả. Giá có ai như cậu đã ở gần tớ lúc tớ có thắc mắc, và giảng giải cho tớ hẳn hoi, có lẽ tớ cũng đã có thể biết quan tâm đến cái giả định thức ấy rồi. Rõ khốn nạn!"

"Hừmmm," tôi nói.

"Cậu đã bao giờ đọc Tư bản luận chưa?"

"Rồi. Không đọc hết đâu, tất nhiên, mà chỉ từng phần thôi, như hầu hết mọi người."

"Cậu có hiểu không?"

"Tớ cũng hiểu được chỗ này chỗ kia, nhưng không hết. Cũng phải có đầu óc thế nào đó mới đọc được một cuốn như Tư bản luận. Nhưng tớ nghĩ tớ cũng hiểu được cái tư tưởng chung của chủ nghĩa Mác.

"Theo cậu, một sinh viên năm thứ nhất vốn ít đọc sách thì có hiểu được Tư bản luận không nếu chỉ đọc nó mà không có ai hướng dẫn?"

"Có lẽ khó tớ có thể nói vậy."

"Cậu biết không, lúc mới vào đại học tớ tham gia một câu lạc bộ nhạc dân gian. Tớ chỉ muốn hát. Nhưng tụi thành viên lại là một lũ bịp bợm. Chỉ nghĩ đến chúng nó là tớ đã nổi da gà. Điều đầu tiên chúng nói với cậu khi cậu gia nhập câu lạc bộ là cậu phải đọc Mác. "Nhớ đọc trang này với trang này cho lần họp mặt sau nhé". Có đứa lên lớp hẳn một bài về chuyện dân ca phải gắn liền với xã hội và phong trào cấp tiến như thế nào. Được rồi, tớ nghĩ bụng, đọc thì đọc sợ chó gì, và hăng hái về nhà làm liền, nhưng chẳng hiểu một tí gì cả. Còn tệ hơn cả giả định thức nữa. Được ba trang thì tớ đầu hàng. Như một hướng đạo sinh "thật thà", tớ đến cuộc họp tuần sau đó và nói tớ đã đọc nhưng không thể hiểu được. Từ đó trở đi chúng nó coi tớ như một con ngốc. Chúng bảo tớ không có ý thức phê phán về đấu tranh giai cấp, rằng tớ là một kẻ tàn tật về mặt xã hội. Nghĩa là nghiêm trọng thật chứ chẳng chơi. Mà tất cả chỉ vì tớ nói tớ không hiểu được một cuốn sách. Cậu thấy chúng có kinh khủng không?"

"Ờ," tôi nói.

"Và những cái gọi là thảo luận của chúng cũng kinh khủng luôn. Ai cũng đao to búa lớn và giả vờ như thông thạo tình hình lắm. Nhưng tớ thì hễ không hiểu cái gì là tớ hỏi luôn. "Tình trạng bóc lột đế quốc mà các cậu đang nói đến ấy là cái gì vậy" Nó có dính dáng gì đến Công ty Đông Ấn không?" "Có phải tiêu diệt tập đoàn công nghiệp-giáo dục có nghĩa là chúng ta sẽ không được làm việc cho một công ty sau khi tốt nghiệp không?" Đại loại những chuyện như thế. Nhưng không đứa nào muốn giai thích gì cho tớ cả. Tệ hơn nữa, chúng lại còn nổi giận nữa chứ. Cậu có tin được không?"

"Có tớ tin được," tôi nói.

"Một thằng quát vào mặt tớ, "Đồ chó cái ngu xuẩn, làm sao mày sống được với một bộ óc rỗng tuếch như thế?" Mẹ kiếp, thế là xong. Tớ không chịu nổi nữa. Ôkê, cứ cho là tớ không thông minh đi. Tớ thuộc giai cấp lao động. Nhưng chính giai cấp lao động làm cho thế giới này tiến lên, và chính giai cấp lao động là người bị bóc lột. Cách mạng kiểu gì mà chỉ biết đao to búa lớn những lời lẽ mà người lao động không thể hiểu được thế? Thứ cách mạng xã hội chó gì vậy? Nghĩa là, tớ cũng thích làm cho thế giới này tốt đẹp hơn chứ. Nếu có ai đó thực sự bị bóc lột, mình sẽ ra tay chấm dứt chuyện đó chứ. Tớ tin chuyện ấy, và vì thế mà tớ mới thắc mắc. Tớ đúng hay sai nào?"

"Cậu đúng."

"Chính thế mà tớ vỡ nhẽ ngay. Lũ khốn kia là rởm hết. Chúng chỉ nhăm nhăm phách lối với tụi con gái mới gặp bằng những từ hoa mỹ trong khi thò tay tốc váy bọn này mà thôi. Và khi tốt nghiệp, chúng sẽ cắt tóc ngắn và xếp hàng đi làm cho Mitsubishi hoặc IBM hoặc Ngân hàng Fuji. Chúng sẽ cưới những cô vợ xinh xắn không bao giờ đọc Mác và đẻ ra những đứa con với những cái tên hoa mỹ nghe phát lộn mửa. Tiêu diệt tập đoàn công nghiệp-giáo dục như vậy ư? Đừng có làm trò cười với tôi! Mà bọn thành viên mới cũng tệ chẳng kém. Chúng cũng chẳng hiểu cái mẹ gì, nhưng cứ giả vờ thế và cười vào mặt tớ. Sau buổi họp, chúng bảo "Đừng có ngốc thế! Cậu không hiểu thì đã làm sao?" Cứ việc đồng ý với mọi người là xong". Mà này, Watanabe, tớ còn có chuyện muốn phát điên hơn thế nữa. Muốn nghe không?"

"Có chứ, sao lại không."

"Ôkê, một lần chúng triệu tập một cuộc họp chính trị vào tối khuya, và bảo mỗi đứa con gái phải làm hai mươi cái bánh bột gạo để ăn đêm hôm đó. Mẹ kiếp, còn nói phân biệt nam nữ chó gì nữa? Nhưng tớ quyết định cứ im mồm một lần ấy xem sao, và đến họp như một con ngoan ngoãn với đủ hai mươi cái bánh, đầy đủ cả nhân trong lẫn ruốc ngoài. Và cậu biết tớ được gì không?" Sau đó chúng nó chê là nhân bánh của tớ không đủ vị, và tớ không mang thêm cái gì để ăn kèm với bánh cả! Bọn con gái khác thì nhồi vào bánh của chúng cả cá hồi với cá tuyết, và chúng đem theo cả những miếng trứng rán dày cộp. Tớ nổi giận đến mức không nói được! Bọn cách mạng cuồng này tưởng chúng là ai mà dám chê bai như vậy chứ? Nhẽ ra chúng phải biết ơn vì đã có bánh mà ăn. Cứ nghĩ đến bọn trẻ con đang chết đói ở Ấn Độ mà xem!"

Tôi phì cười. "Rồi cái câu lạc bộ ấy của cậu ra làm sao?"

"Tháng Sáu thì tớ bỏ, tớ tức quá," Midori nói. "Hầu hết những loại sinh viên ấy đều hoàn toàn rởm hết. Chúng sợ nhất là có ai phát hiện chúng chẳng biết cái mẹ gì cả. Tất cả bọn chúng đều chỉ đọc một loại sách và nỏ mồm một loại khẩu hiệu, và chúng thích nghe nhạc John Coltrane với xem phim Pasolini. Cậu gọi thế là "cách mạng" ư?"

"Ê đừng hỏi tớ, tớ chưa thấy một cuộc cách mạng nào bao giờ."

"Mẹ khỉ, nếu đó là cách mạng thì vứt mẹ nó đi. Chúng có thể sẽ bắn tớ vì đã làm nhân bánh không đủ vị. Chúng cũng có thể bắn cậu vì hiểu được giả định thức."

"Có thể lắm."

"Tin tớ đi, tớ biết tớ đang nói gì. Tớ là giai cấp lao động. Kiểu gì thì giai cấp lao động vẫn cứ sống cơ hàn trong những hố cứt cú mà thôi. Mà cách mạng là cái gì chứ? Chắc chắn là nó không phải chỉ thay cái tên của toà thị chính đâu. Nhưng bọn khốn kia không hiểu chuyện đó bọn khốn to mồm ấy! Nói tớ nghe, Watanabe, đã bao giờ cậu thấy một thằng phòng thuế chưa?"

"Chưa bao giờ."

"Còn tớ thì rồi. Biết bao nhiêu lần rồi. Chúng xông thẳng vào nhà và phách lối om sòm. "Cuốn sổ cái này là gì đây?" "Tôi muốn xem tất cả hoá đơn của ông ngay bây giờ". Trong khi đó thì gia đình tớ chúi ở một xó, và đến bữa tối thì phải đãi chúng sushi hảo hạng - mang đến tận nhà. Nhưng tớ cũng phải nói với cậu rằng bố tớ không bao giờ gian lận thuế. Ông ấy là vậy đấy, một người cổ lỗ ngay thẳng như một mũi tên. Nhưng đừng có hòng nói điều đó với bọn phòng thuế. Chúng chỉ có một việc là đào bới, đào bới, đào bới. "Thu nhập chỗ này hơi thấp đấy, có phải không?" Mẹ kiếp, không kiếm ra tiền thì thu nhập phải thấp thế chứ làm sao! Tớ những muốn gào lên: "Đi chỗ khác mà kiếm chác đi!" Cậu nghĩ nếu có cách mạng rồi thì thái độ bọn phòng thuế có khác đi không?"

"Tớ nghi lắm, rất nghi."

"Thế là xong. Tớ sẽ không tin bất kì một thứ cách mạng khốn kiếp nào nữa. Tớ sẽ chỉ tin tưởng vào tình yêu thôi."

"Hoà bình," tôi nói.

"Vì Hoà bình," Midori phụ hoạ.

"Mà này, chúng mình đang đi đâu vậy?" tôi hỏi.

"Đến bệnh viện," cô nói. "Bố tớ ở đó. Hôm nay là phiên tớ ở với ông ấy cả ngày."

"Bố cậu? Tớ tưởng ông ấy ở Uruguay?"

"Tớ nói phét đấy," Midori nói bằng một giọng tỉnh khô "Bố tớ suốt đời kêu gào đi Uruguay, nhưng chẳng bao giờ đi được. Đi khỏi Tokyo cũng còn khó với ông ấy nữa là."

"Tình hình ông ấy có tệ lắm không?" Tôi hỏi.

"Chỉ còn là vấn đề thời gian nữa thôi," Midori nói.

Chúng tôi im lặng bước.

"Tớ biết tớ đang nói gì. Mẹ tớ cũng bị như vậy. U não. Cậu có tin được không, mẹ tớ chết mới có hai năm, và bây giờ thì bố tớ cũng bị như vậy."

Hành lang Bệnh viện Đại học ầm ĩ và đầy những người vào thăm cuối tuần cùng những bệnh nhân nhẹ, và chỗ nào cũng thoang thoảng cái mùi đặc biệt của bệnh viện, một hỗn hợp của mùi thuốc khử trùng, mùi hoa của khách vào thăm, mùi nước tiểu và chăn nệm, trong lúc đám hộ lí chạy đi chạy lại với tiếng gót giày khua lóc cóc.

Bố Midori nằm gần phía cửa trong một phòng hai giường. Nằm dán trên giường, trông ông như một con vật nhỏ bé bị tử thương. Ông nằm nghiêng, đờ đẫn, cánh tay trái bỏ thõng bất động và có cắm kim truyền ven. Ông nhỏ và gày gò, và có về chỉ có thể teo tóp nữa mà thôi. Đầu ông cuốn băng trắng, và hai cánh tay nhợt nhạt lỗ chỗ những vết tiêm thuốc hoặc truyền ven. Đôi mắt hé mở của ông dán vào một điểm cố định trong không gian, hai con ngươi đầy những tia máu ấy dịch về phía chúng tôi khi hai đứa bước vào phòng. Chúng tập trung vào chúng tôi chừng mươi giây, rồi lại dịch về chỗ cũ.

Nhìn đôi mắt ấy ta có thể biết ông sắp chết. Da thịt ông không còn dấu hiệu gì của sự sống, chỉ vương lại chút dư âm của nó mà thôi. Thân thể ông như một ngôi nhà cũ ọp ẹp mà đồ đạc bên trong đã dọn hết đi rồi để chờ ngày bị dỡ bỏ hoàn toàn. Xung quanh cặp môi khô nẻ, những đám râu đâm lên tua tủa như cỏ dại. Vậy là, tôi thầm nghĩ, ngay cả sau khi ngần ấy sinh lực của một người đàn ông đã tiêu tan, râu người ấy vẫn cứ mọc.

Midori chào một ông béo nằm trên giường gần cửa sổ ông ta gật đầu và mỉm cười, có vẻ không nói được. Ông ta húng hắng ho, rồi sau khi nhấp mấy ngụm nước trong một cái cốc thuỷ tinh để cạnh gối, ông dịch người nằm nghiêng quay mặt ra cửa sổ. Bên ngoài chiếc cửa sổ ấy có thể nhìn thấy một cái cột điện với mấy đường dây mắc qua, không còn gì khác, ngay cả mây trên trời cũng không có.

"Bố ơi, bố thấy thế nào ạ?" Midori nói, ghé sát vào tai bố như đang thử micro. "Hôm nay bố thấy thế nào ạ?"

Ông bố máp máy môi. "Không tốt", ông nói, nhưng không phát âm thành chữ mà chỉ như ọ ẹ trong cổ họng.

"Đầu" ông nói.

"Bố đau đầu ạ?" Midori hỏi.

"Ờ" ông đáp, rõ ràng không thể phát âm quá hai chớ mỗi lần.

"Cũng phải thôi ạ," Midori nói, "Bố vừa mới mổ cả đầu ra mà. Tất nhiên là phải đau rồi. Khổ thật, nhưng phải ráng thôi bố ạ. Đây là bạn con, Watanabe."

"Cháu chào bác ạ," tôi nói. Bố Midori hé môi rồi lại ngậm miệng lại.

Midori chỉ về phía một cái ghế nhựa dưới chân giường và bảo tôi ngồi. Tôi làm theo. Midori cho bố uống nước rồi hỏi ông có muốn ăn một tí hoa quả hoặc mứt không. "Không" ông nói, và khi Midori nài ông phải ăn cái gì đó thì ông nói "ăn rồi."

Trên cái bàn đêm cạnh đầu giường có một cái chai, một cái cốc, một cái đĩa và một cái đồng hồ nhỏ. Midori lấy từ trong một túi giấy to dưới gầm bàn ra mấy bộ quần áo ngủ, đồ lót và vài thứ khác, vuốt phẳng chúng và cất vào cái tủ ở cạnh cửa. Dưới đáy túi là thức ăn cho bệnh nhân: hai quả bưởi, thạch hoa quả, và ba củ dưa chuột.

"Dưa chuột! Sao lại có dưa chuột ở đây nhỉ?" Midori hỏi. "Không biết chị tớ nghĩ gì nữa. Tớ đã dặn trên điện thoại là phải mua những gì, và chắc chắn tớ không nói đến dưa chuột! Đáng nhẽ chị ấy phải mua kiwi kia."

"Có thể chị cậu nghe nhầm," tôi nói.

"Ờ có thể, nhưng nếu bà ấy suy nghĩ một tí thì biết ngay là không nên mua dưa chuột. Bệnh nhân mà ngôi trên giường gặm dưa chuột sống ư?" Bố ơi, bố có ăn dưa chuột không?"

"Không," bố Midori nói.

Midori ngồi cạnh đầu giường kể cho bố nghe những mẩu tin tức ở nhà. Cái màn ảnh TV bị nhiễu và cô đã gọi thợ đến chữa; bà cô ở Takaido mấy hôm nữa sẽ đến thăm; ông nha sĩ Miyawaki bị ngã xe đạp; những chuyện như vậy ông bố ậm ừ nghe.

"Bố không muốn ăn gì thật à?"

"Không?", ông đáp.

"Thế cậu thì sao, Watanabe, ăn mấy múi bưởi nhé"

"Không?", tôi nói.

Mấy phút sau, Midori dẫn tôi ra phòng TV và ngồi trên sô-pha hút thuốc. Ba bệnh nhân mặc quần áo ngủ cũng đang hút thuốc ở đó và xem một chương trình đàm luận chính trị gì đó.

"Này," Midori thì thầm với một cái nháy mắt. "Lão già có cặp nạng kia đã nhìn chân tớ suốt từ lúc mình mới vào. Cái lão đeo kính mặc bộ đồ màu xanh nước biển ấy."

"Cậu mặc cái váy như thế thì còn mong gì nữa nào?"

"Nhưng mà thế mới thích. Tớ cuộc là bọn họ đều đang chán chường cả. Thế này có khi lại tốt cho họ. Biết đâu bị kích thích lại giúp họ nhanh khá hơn."

"Với điều kiện nó không có tác dụng ngược lại."

Midori dán mắt vào làn khói bốc lên từ điếu thuốc của mình.

"Cậu biết không," cô nói, "bố tớ không phải là người xấu như thế đâu. Nhiều khi tớ cáu với ông ấy vì ông ấy nói những điều thật kinh khủng, nhưng tận đáy lòng thì ông ấy rất trung thực và rất yêu mẹ tớ. Theo lối riêng của mình, ông ấy sống với tất cả nhiệt tình và sức lực của ông ấy. Có thể là ông ấy hơi yếu đuối, và không hề có tí đầu óc làm ăn nào, và mọi người cũng không ưa ông ấy lắm, nhưng ông ấy còn tốt bằng vạn những kẻ lừa đảo và dối trá chỉ biết đi quanh mơn trớn mọi thứ bởi vì chúng cứ trơn như lươn thế thôi. Cũng như ông ấy, tớ có tật đã nói cái gì thì không chịu nuốt lời, nên hai bố con cãi nhau nhiều lắm, nhưng quả thật ông ấy không phải là người xấu."

Midori cầm lấy tay tôi như nhặt cái gì đó ai đánh rơi ngoài phố và đặt nó vào lòng cô. Nửa bàn tay tôi nằm trên váy, nửa còn lại chạm lên đùi cô. Cô nhìn vào mắt tôi một lúc lâu.

"Xin lỗi đã đem cậu đến một chỗ như thế này," cô nói, "nhưng cậu có thể ở lại đây với tớ một lúc nữa không?"

"Tớ sẽ ở với cậu cả ngày nếu cậu muốn," tôi nói.

"Cho đến năm giờ. Tớ thích có cậu ở cạnh, va lại tớ cũng chẳng có việc gì khác."

"Chủ nhật cậu thường làm những gì?"

"Giặt giũ," tôi nói, "và là quần áo."

"Tớ chắc cậu không muốn kể cho tớ nhiều về cô ấy, bạn gái của cậu ấy."

"Ờ có lẽ vậy. Rắc rối lắm, với lại, có lẽ tớ cũng chẳng giải thích được đâu."

"Ôkê mà. Cậu không phải giải thích gì cả," Midori nói. "Nhưng cậu có cho phép tớ nói ra những điều tớ tưởng tượng về chuyện của cậu không?"

"Có sao đâu, cậu nói đi. Tớ nghĩ cậu tưởng tượng chuyện gì cũng hay cả."

"Tớ nghĩ đó là một bà đã có chồng."

"Thế à?"

"Ừ, bà ấy băm hai băm ba gì đó, giàu có, đẹp đẽ, mặc áo lông, đi giày hiệu Charles Jourdan, đồ lót lụa, thèm khát tình dục và thích làm đủ những trò lạ lẫm. Hai người các cậu gặp nhau các buổi chiều trong tuần và nuốt chửng thân xác nhau. Nhưng chồng bà ấy lại ở nhà Chủ nhật nên cậu không thể gặp được nàng. Có đúng không nào?"

"Hay! Rất thú vị đấy."

"Bà ấy bắt cậu phải trói và bịt mắt bà ấy lại rồi liếm hết từng xăng-ti-mét vuông trên thân thể bà ấy. Rồi bà ấy còn bảo cậu đút cả những thứ kì lạ vào bà ấy nữa và bà ấy làm đủ những tư thế kì dị không khác gì một diễn viên uốn dẻo rồi cậu thì chụp ảnh bà ấy bằng một cái máy Polaroid lấy ảnh ngay."

"Nghe vui nhỉ."

"Bà ấy thèm khát chuyện ấy suốt ngày đêm, và nghĩ ra trò gì là phải làm cho bằng được. Và ngày nào bà ấy cũng chỉ nghĩ có thế. Bà ấy rỗi việc, nên lúc nào cũng dự tính: Hừmm, lần sau Watanabe đến, mình sẽ làm thế này, làm thế nọ. Cậu lên giường và thế là bà ấy phát cuồng lên, thử đủ mọi tư thế và mỗi tư thế phải sướng đến ba lần. Và bà ấy nói với cậu, "Chẳng phải là tôi có một tấm thân tuyệt cú đó hay sao?" Cậu không thể thoả mãn với bọn gái trẻ được nữa đâu. Gái trẻ không làm thế này với cậu, đúng không?" Hoặc thế này nữa. Sướng chưa nào" Nhưng mà cậu vẫn chưa ra!"

Tôi phì cười: "Cậu xem phim con heo nhiều quá rồi!"

"Cậu biết tớ thích nhất cái gì khi xem phim con heo không?"

"Không dám đoán đâu."

"Mỗi lần bắt đầu một cảnh làm tình, cậu có thể nghe thấy tiếng "Uạp!" một cái khi tất cả mọi người trong rạp đều nhất loạt nuốt nước bọt," Midori nói. "Tớ yêu cái tiếng "Uạp!" ấy! Nghe nó thật ngọt ngào!"

Trở lại phòng bệnh, Midori lại tuôn ra một tràng với bố cô, và ông ta lại ậm ừ đáp hoặc nằm lặng thinh. Quãng mười một giờ, bà vợ ông béo đến thay quần áo cho ông ta, bóc quả cho ông ta ăn và những thứ linh tinh khác. Bà có bộ mặt tròn trịa trông có vẻ rát tốt bụng. Bà và Midori rì rầm to nhỏ với nhau đủ thứ chuyện. Một hộ lí đem một lọ truyền ven mới vào và trao đổi chút ít với Midori và bà vợ trước khi rời khỏi phòng. Tôi để mắt mình thơ thẩn nhìn quanh phòng rồi ra ngoài cửa sổ về phía cái cột điện. Thỉnh thoảng lại có chim sẻ bay đến đậu trên dây điện. Midori nói chuyện với bố, lau mồ hôi trán cho ông, giúp ông khạc đờm vào khăn giấy tán dóc với bà vợ ông bệnh nhân cùng phòng và chị hộ lí, thỉnh thoảng lại nói với tôi mấy câu, và để mắt đến cái van truyền ven.

Bác sĩ đến kiểm tra tình trạng bệnh nhân lúc mười một rưỡi. Tôi với Midori ra đợi ngoài hành lang. Khi ông bác sĩ ra khỏi phòng, Midori hỏi ông về tình trạng của bố.

"À, ông cụ vừa mổ xong, lại phải dùng thuốc giảm đau, nên phải nói thật là cụ hơi kiệt sức," ông bác sĩ nói. "Phải hai ba ngày nữa tôi mới đánh giá được kết quả của ca mổ này. Nếu tốt thì cụ sẽ ôkê, còn không thì lúc đó chúng tôi sẽ phải có quyết định khác."

"Bác sĩ sẽ không mổ đầu bố tôi ra nữa chứ ạ?"

"Bây giờ thì tôi chưa thể nói được," ông bác sĩ nói.

"Trời đất, cái váy cô đang mặc kia mới thật là váy!"

"Hay chứ, phải không ạ?"

"Thế trên cầu thang thì cô làm gì?" ông bác sĩ hỏi.

"Chẳng có gì đặc biệt. Cháu cứ phơi cả ra thế thôi,"

Midori nói. Chị hộ lí cười khẩy một tiếng sau lưng ông bác sĩ

"Lạ thật. Cô phải đến để chúng tôi mổ đầu cô ra xem đang có gì ở trong mới được. Hãy làm ơn giúp tôi một việc: cô hay dùng thang máy khi còn ở bệnh viện này. Tôi không thể có thêm bệnh nhân nữa được. Tôi đã bận lắm rồi."

Sau chuyến đi tua của bác sĩ một lúc thì đến giờ ăn trưa. Một hộ lí đi đến từng phòng, đẩy theo một chiếc xe xếp đầy các suất ăn. Bố Midori được một suất có cháo, hoa quả, cá luộc rút xương, và rau nghiền thành một món như tương thạch. Midori lật cho ông nằm ngửa ra rồi dựng ông lên bằng cách quay một cái tay quay ở phía chân giường. Cô cho ông ăn cháo bằng thìa. Được năm sáu thìa thì ông quay mặt đi và nói "thôi."

"Bố phải ăn ít nhất cho hết chỗ này," Midori nói.

"Để sau," ông bảo.

"Bố này! Nếu bố không ăn hẳn hoi thì làm sao lại sức được" cô nói. "Bố đã muốn đi đái chưa?"

"Chưa," ông nói.

"Ê Watanabe, mình xuống nhà ăn đi."

Tôi đồng ý, nhưng thực tình không thấy muốn ăn tí nào. Nhà ăn đông nghẹt những bác sĩ hộ lí và khách đến thăm. Những dãy bàn ghế kéo dài chật hết cả gian hầm ngầm khổng lồ không cửa sổ và tất cả những cái miệng kia đều như đang mải ăn mải nói, tất nhiên là toàn chuyện bệnh tật, giọng người vang vang như trong một con đường hầm. Thỉnh thoảng loa phóng thanh lại phá tan bầu không khí ấy bằng mấy lời gọi bác sĩ hoặc hộ lí đi có việc. Trong lúc tôi đi tìm và giữ chỗ ngồi, Midori đi mua hai suất ăn và đem tới trên một chiếc khay nhôm. Chả cá với nước xốt kem, rau trộn khoai tây, bắp cải thái chỉ, rau luộc, cơm trắng và súp đậu tương: những món này xếp trên khay trong những cái đĩa nhựa trắng hệt như suất cơm của bệnh nhân. Tôi ăn khoảng nữa suất thì bỏ. Midori có vẻ rất ngon miệng cho đến tận miếng cuối cùng.

"Không đói à?" Cô hỏi, miệng nhấp trà nóng.

"Không đói thật," tôi nói.

"Bệnh viện đấy mà," cô nói, mắt nhìn khắp xung quanh. "Ai chưa quen cũng đều thế cả. Mùi mẽ, âm thanh, không khí tù đọng, mặt mũi bệnh nhân, lo âu, cáu bẳn, thất vọng, đau đớn, mệt mỏi - đó là nguyên nhân. Chúng thắt lấy bụng và làm mất hết dịch vị. Nhưng khi đã quen thì không có vấn đề gì. Với lại, cậu không thể chăm người ốm nếu không ăn uống tử tế. Thật đấy! Tớ biết tớ đang nói gì vì tớ đã phải chăm ông tớ, bà tớ, mẹ tớ, và bây giờ là bố tớ. Không thể biết lúc nào mình sẽ không kịp ăn nữa, nên hễ ăn được là phải ăn cho hẳn hoi."

"Tớ hiểu điều cậu nói," tôi bảo.

"Họ hàng đến thăm và họ đều ăn với tớ ở đây, và họ luôn bỏ mứa đến nữa suất, hệt như cậu. Và họ luôn mồm bảo "Ôi chao, Midori, thật tuyệt là cháu ăn ngon miệng được thế. Bác buồn quá không thể ăn được". Nhưng đừng có vớ vẩn thế nghe chưa, tớ mới là người thực sự phải chăm sóc bệnh nhân! Họ chỉ ghé qua để bày tỏ chút cảm tình mà thôi. Tớ mới là đứa chùi đít, lấy đờm và lau trán. Nếu tình cảm có thể chùi đít được thì tớ còn tình cảm gấp năm mươi lần mấy người kia! Ấy thế mà khi họ thấy tớ ăn hết suất thì họ nhìn tớ bằng con mắt như thế và nói "Ôi chao, Midori, cháu ăn uống khỏe thật đấy!" Họ tưởng tớ là cái gì hả? Một con lừa kéo xe chăng? Họ đều đủ già để hiểu đời là thế nào, mà sao còn ngu đến thế? Đao to búa lớn thì dễ lắm, nhưng quan trọng là có dọn cứt được không kia. Tớ có thể bị tổn thương, cậu biết không? Tớ cũng kiệt sức như bất kì ai. Và tớ cũng buồn đến mức phát khóc nữa. Cậu hiểu không? Cậu hãy thử nhìn một lu bác sĩ xúm vào mổ đầu người ta ra khi chẳng còn hy vọng gì cứu được người ấy nữa, rồi chọc chọc ngoáy ngoáy ở trong đó, rồi làm đi làm lại, và lần nào cũng chỉ làm cho người ta tồi tệ hơn và điên rồ hơn, thì cậu mới hiểu tâm trạng của tớ! Và chưa hết, cậu còn phải thấy tiền dành dụm của cậu cứ hao đi tửng ngày. Tớ không biết mình có đủ sức học thêm ba năm rưỡi đại học nữa không đây còn chị tớ thì chắc chắn là không thể làm đám cưới trong cảnh này được nữa rồi."

"Mỗi tuần cậu đến đây mấy ngày?" tôi hỏi.

"Thường là bốn," Midori nói. "Chỗ này vẫn nói là họ có dịch vụ hộ lí toàn phần, và hộ lí của họ cũng tốt, nhưng họ có quá nhiều bệnh nhân. Gia đình phải có người vào lo những việc họ không làm xuể mới được. Chị tớ thì phải trông cửa hàng, tớ thì phải học. Thế mà chị ấy vẫn đến đây được ba ngày một tuần, còn tớ thì bốn. Rồi thì bọn tớ cũng tranh thủ vào thêm lúc này lúc khác nữa. Cứ tin tớ đi, lịch bọn tớ kín mít hết cả!"

"Cậu bận như thế mà sao vẫn đi chơi được với tớ?"

"Vì tớ thích đi chơi với cậu," Midori nói, tay nghịch cái cốc nhựa.

"Cậu ra ngoài đi dạo lấy một hai tiếng đi," tôi nói. "Tớ sẽ trông ông cụ cho cậu."

"Tại sao?"

"Cậu cần ra khỏi bệnh viện và thư giãn một mình – đừng nói gì với ai cả, để đầu óc sảng khoái ra thôi."

Midori nghĩ một lúc rồi gật đầu. "Hừmm, có lẽ cậu nói phải. Nhưng cậu có biết làm không? Chăm bố tớ ấy?"

"Tớ đã quan sát rồi. Tớ đã hiểu kha khá công việc ấy. Kiểm tra van truyền này, cho cụ uống nước này, lau mồ hôi này, và để cho cụ khạc đờm ra nữa. Cái bô thì ở dưới gầm giường, và nếu cụ đói thì tớ sẽ cho cụ ăn nốt suất cơm trưa. Còn có cái gì tớ không biết thì tớ sẽ hỏi hộ lí."

"Tớ nghĩ thế là được rồi," Midori nói với một nụ cười "Còn có một thứ nữa thôi. Ông cụ bắt đầu lẩn thẩn rồi, nên thỉnh thoảng sẽ nói linh tinh những thứ không ai hiểu được. Cậu đừng phiền nếu cụ làm vậy."

"Tớ không sao mà," tôi nói.

Trở lại phòng, Midori bảo bố rằng cô phải lo mấy việc và rằng tôi sẽ trông cụ trong lúc cô đi vắng. Ông cụ có vẻ chẳng có gì để nói về việc này. Cũng có thể nó chẳng có nghĩa gì với ông. Ông chỉ nằm ngửa ở đó, mắt dán lên trần nhà. Nếu thỉnh thoảng mắt ông không chớp thì người ta có thể nghĩ là ông đã chết. Mắt ông đỏ ngầu như thể vừa uống rượu say, và mỗi lần ông hít một hơi dài thì hai cánh mũi lại nở ra một chút. Ngoài ra thì ông không động cựa tí gì hết, và cũng chẳng cố sức đáp lại Midori lời nào. Tôi không thể đoán biết ông đang nghĩ gì hoặc cảm thấy gì trong những tầng sâu thẳm của cõi thức.

Sau khi Midori đã đi, tôi tưởng mình có thể thử chuyện trò với bố cô, nhưng tôi không biết nói gì và nói như thế nào, nên đành giữ im lặng. Chẳng mấy chốc, ông cụ nhắm mắt lại và ngủ thiếp đi. Tôi ngồi trên chiếc ghế đẩu cạnh đầu giường và theo dõi những động đậy thi thoảng cửa cánh mũi ông, hy vọng miên man rằng ông sẽ không chết lúc bấy giờ. Sẽ lạ lùng biết bao, tôi nghĩ bụng, nếu người đàn ông này thở hơi cuối cùng khi có tôi bên cạnh. Dù sao thì tôi cũng mới gặp ông lần đầu tiên trong đời và cái duy nhất đem chúng tôi lại với nhau là Midori, một cô gái tôi tình cờ gặp gỡ trong lớp Lịch sử sân khấu.

Nhưng ông cụ không chết, chỉ ngủ yên ở đó. Ghé sát tai vào mặt cụ, tôi có thể nghe tiếng thở yếu ớt của cụ.

Tôi không căng thẳng nữa và quay sang hỏi chuyện bà vợ ông giường bên cạnh. Bà ta chỉ nói về Midori, cho rằng tôi là bạn trai của cô.

"Cô ấy là một cô gái thực sự tuyệt vời," bà nói. "Cô ấy chăm sóc bố rất chu đáo; cô ấy tốt bụng, dịu dàng, nhạy cảm và chắc chắn, và cô ấy lại xinh đẹp nữa. Cậu hãy đối xử với cô ấy cho đúng đắn. Đừng bao giờ để mất cô ấy. Cậu không thể tìm thấy ai như cô ấy nữa đâu."

"Cháu sẽ đối xử tốt với cô ấy," tôi nói, không muốn đi sâu hơn.

"Tôi có một con trai và một con gái ở nhà. Thằng con trai mười bảy, con gái hai mốt, thế mà không đứa nào nghĩ đến chuyện đến bệnh viện thăm bố bao giờ. Hễ tan học là chúng nó tếch đi lướt ván hoặc bồ bịch hoặc gì gì đó ai biết được. Chán thế đấy. Chúng chỉ biết moi tiền mẹ rồi biến."

Một giờ rưỡi thì bà ta ra ngoài đi mua sắm vài thứ. Cả hai người đàn ông đều ngủ say. Nắng chiều dìu dịu tràn ngập gian phòng, và tôi cảm thấy như mình có thể bập bềnh trôi đi bất kì lúc nào khi ngồi vắt vẻo trên chiếc ghế đẩu ấy. Những bông cúc vàng và trắng trong chiếc bình trên bàn cạnh cửa sổ nhắc nhở rằng trời đã sang thu. Trong không khí có mùi thơm của món cá luộc còn lại từ bữa trưa. Đám hộ lí vẫn lóc cóc lên xuống ngoài hành lang, nói chuyện với nhau bằng những giọng khúc triết dễ nghe. Thỉnh thoảng họ lại ngó vào phòng rồi nở với tôi một nụ cười khi thấy cả hai bệnh nhân đều đang ngủ. Tôi ước có cái gì để đọc, nhưng trong phòng không có sách báo tạp chí gì, chỉ có mỗi một tờ lịch treo trên tường.

Tôi nghĩ đến Naoko. Tôi tưởng đến lúc nàng trần trụi, chỉ có dải buộc tóc trên đầu. Tôi nhớ đến đường cong chỗ thắt lưng nàng và bóng tối chỗ lông mu nàng. Tại sao nàng lại phô bày cho tôi xem như thế? Nàng mộng du chăng? Hay đó chỉ là ảo mộng của tôi? Thời gian cứ trôi đi và cái thế giới nhỏ bé ấy lại lùi xa dần ra, và tôi càng không chắc chuyện đêm ấy có thực diễn ra hay không. Nếu tôi tự nhủ nó là thực thì tôi tin là nó có thực. Nếu tôi tự nhủ đó chỉ ảo mộng, nó lại có vẻ là ảo mộng thật. Nó quá rõ và quá chi tiết để có thể ảo mộng, mà lại quá hoàn chỉnh và đẹp đẽ để có thể là thực: Tấm thân của Naoko và ánh trăng ấy.

Bố Midori bỗng nhiên thức dậy và bắt đầu ho, khiến giấc mộng ngày của tôi chấm dứt. Tôi giúp ông khạc đờm vào một miếng giấy lau mặt, và lấy khăn lau trán cho ông.

"Ông có muốn uống nước không ạ?" Tôi hỏi, và được đáp lại bằng một cái gật đầu chừng bốn mi-li-mét.

Tôi giữ cái chai nước thuỷ tinh nhỏ để ông có thể nhấp từng tí một, cặp môi khô run run, cổ họng lẩy bẩy. Ông uống hết sạch chỗ nước âm ấm trong chai.

"Ông uống thêm tí nữa không ạ?" Tôi hỏi. Ông có vẻ muốn nói, nên tôi ghé tai lại gần hơn.

"Đủ rồi," giọng ông nhỏ và khô, còn nhỏ và khô hơn trước."

"Ông ăn chút gì nhé? Chắc ông đói rồi." Ông đáp bằng một thoáng gật đầu. Như Midori đã làm, tôi xoay cái cần dựng đầu giường lên rồi bón cho ông từng thìa rau nghiền và cá luộc thay đổi nhau. Rất lâu mới cho ông ăn hết được độ nửa phần thức ăn, và đến đó thì ông hơi lắc đầu ra hiệu thôi không ăn nữa. Động tác của ông gần như không nhìn thấy được, rõ ràng cử động mạnh vẫn còn làm ông đau.

"Còn hoa quả thì sao ạ?" Tôi hỏi ông.

"Thôi", ông nói. Tôi lau hai bên mép cho ông bằng khăn và hạ đầu giường xuống như cũ rồi dọn chỗ bát đĩa ra ngoài hành lang.

"Có ngon không ông?" tôi hỏi.

"Kinh lắm", ông đáp.

"Vâng," tôi mỉm cười với ông. "Trông cũng chán thật." Bố Midori có vẻ không biết nên mở mắt ra thêm hay nhắm lại khi ông nằm đó và nhìn tôi chằm chằm. Không biết ông có biết tôi là ai không. Ông có vẻ thoải mái với tôi một mình thế này hơn lúc có Midori. Có thể ông tưởng tôi là ai đó. Hoặc giả đấy là tôi thích nghĩ vậy.



"Ngoài kia trời đẹp lắm ạ," tôi nói, ngồi bắt chéo chân trên chiếc ghế đẩu. "Mùa thu rồi, Chủ nhật, thời tiết tuyệt vời, đi đâu cũng thấy đông người ông ạ. Những hôm như hôm nay thì cứ nghỉ ngơi ở trong nhà thế này là tốt nhất. Ra đám đông mệt người lắm. Mà không khí cũng không tốt. Chủ nhật cháu chủ yếu chỉ giặt giũ thôi sáng thì đi giặt, mang lên nóc nhà học xá phơi, chiều thì lại cất hết xuống trước khi trời tối, rồi là chúng thật kĩ. Cháu chẳng ngại là quần áo tí nào. Là cho mọi thứ nhàu nhĩ phẳng ra cho ta một cảm giác thoả mãn đặc biệt. Và cháu làm việc đó khá giỏi. Tất nhiên lúc đầu thì lung tung lắm. Cháu còn làm quần áo bị nhầu thêm nữa. Nhưng sau một tháng thì cháu biết phải làm gì. Cho nên Chủ nhật là ngày cháu giặt giũ và là quần áo. Hôm nay thì cháu không làm được, tất nhiên rồi. Chán thật: mất một ngày giặt là lí tưởng. "Nhưng không sao ông ạ. Mai cháu sẽ dậy sớm và làm bù những việc ấy. Ông đừng lo. Cháu cũng chẳng có việc gì khác vào Chủ nhật.

"Sáng mai, sau khi đã giặt và phơi quần áo, cháu sẽ đến lớp lúc mười giờ. Đấy là lớp cháu cùng học với Midori: Lịch sử sân khấu. Cháu đang học về Euripides. Ông có biết Euripides không ạ? Đó là một người Hy Lạp cổ đại, một trong "Tam Hùng" của bi kịch Hy Lạp, cùng với Aeschylus và Sophocles. Hình như ông ta chết vì bị một con chó cắn ở Macedonia, nhưng không phải ai cũng tin chuyện đó. Đại khái đó là Euripides. Cháu thích Sophoaes hơn, nhưng chắc đó chỉ là vấn đề thị hiếu thôi. Thực sự là cháu không biết ông nào hay hơn ông nào.

"Điều làm cho kịch của ông ta được mọi người chú ý là cái cách ông ấy làm rối tinh sự việc lên và khiến cho các nhân vật bị mắc kẹt trong hoàn canh. Ông có nghe thủng không ạ?" Rất nhiều nhân vật khác nhau xuất hiện, và tất cả đều có hoàn cảnh riêng, lí do riêng và lí lẽ riêng, và người nào cũng đang theo đuổi lí tưởng công bằng hoặc hạnh phúc của mình. Kết quả là chẳng ai làm được gì hết. Rõ ràng rồi. Cháu muốn nói là về cơ bản thì không thể nào có chuyện công lí của ai cũng thắng thế hoặc hạnh phúc của ai cũng thắng thế, và thế là xảy ra hỗn loạn. Rồi thì ông có biết chuyện gì xảy ra sau đó không?" Rất đơn giản - một vị thần xuất hiện vào cuối vở kịch và bắt đầu điều khiển xe cộ trên đường. "Anh này đi ra kia, còn chị này đi ra đây, và cậu thì về với cô ấy,

Re:Cùng nhau đọc truyện : Rừng Na-uy

Đã gửi: Ba T10 24, 2006 6:36 pm
Viết bởi Ansamurai
Rừng Na-Uy
Chương 8

Dịch giả: Trinh Lữ
Giữa tuần lễ ấy thì tôi tự làm mình bị cứa đứt giữa lòng bàn tay vì một miếng kính vỡ. Tôi đã không để ý có một tấm kính vỡ trên giá đĩa hát. Tôi không thể tin sao mình lại có thể chảy nhiều máu đến thế, đỏ ối cả sàn nhà dưới chân. Ông chủ tiệm lấy mấy cái khăn bông buộc chặt quanh vết thương. Rồi ông gọi điện đến dịch vụ cứu thương. Bình thường thì ông ta là một gã vô tích sự, thế mà lúc ấy ông ta hành động rất hiệu quả. Cũng may là bệnh viện ở gần đó, nhưng khi tôi đến được nơi thì khăn buộc đã sũng hết cả và máu cứ thế rỏ cả xuống lối đi. Mọi người dạt ra nhường đường cho tôi. Có vẻ họ tưởng tôi bị thương vì đánh nhau. Tôi không thấy gì gọi là đau, nhưng máu thì không cầm lại được.

Ông bác sĩ vẫn tỉnh bơ khi tháo khăn buộc sũng máu ra, dùng garô thắt chặt cố tay tôi để cầm máu, khử trùng vết thương rồi khâu lại, và dặn tôi hôm sau lại đến.

Về đến tiệm thì ông chủ bảo tôi về nhà nghỉ, ông ấy sẽ vẫn chấm đủ ngày công. Tôi lấy xe buýt về học xá và đến thẳng phòng của Nagasawa. Vẫn còn căng thẳng vì vết thương, tôi rất muốn có ai để nói chuyện, và cũng lâu rồi tôi chưa gặp Nagasawa.

Tôi thấy hắn trong phòng, đang uống một hộp bia và xem chương trình dạy tiếng Tây Ban Nha trên TV.

"Chuyện quái gì xảy ra với cậu thế?" Hắn hỏi khi thấy chỗ băng bó của tôi. Tôi bảo bị đứt tay nhưng không có gì nghiêm trọng cả. Hắn mời tôi bia nhưng tôi bảo thôi cảm ơn.

"Đợi tớ tí! Một phút nữa là xong thôi," Nagasawa nói, và tiếp tục tập phát âm tiếng Tây Ban Nha. Tôi đun ít nước và pha cho mình một cốc trà gói. Một bà Tây Ban Nha đang đọc to những câu mẫu: "Tôi chưa bao giờ thấy mưa khung khiếp thế?" "Nhiều cây cầu đã bị cuốn trôi ở Barcelona." Nagasawa đọc to theo. "Câu với chả cú!" Hắn nói. "Họ chỉ biết nhồi cho mình những đồ cứt này."

Khi chương trình đã hết, hắn tắt TV và lấy một hộp bia nữa ở trong cái tủ lạnh nhỏ của hắn.

"Thật là tớ không làm phiền cậu chứ?" Tôi hỏi.

"Làm gì có chuyện ấy. Tớ đang buồn đến phát điên. Cậu nhất định không uống bia à?"

"Ừ, tớ không uống đâu," tôi nói.

"À này, hôm trước họ đã niêm yết kết quả thi rồi đấy. Tớ đỗ rồi!"

"Cuộc thi vào Bộ Ngoại giao ấy à?"

"Đúng thế. Chính thức nó gọi là "Thi tuyển Cán bộ Công vụ Hạng Nhất ngành Ngoại Giao". Thật nực cười!"

"Xin chúc mừng?" Tôi nói và đưa bàn tay trái ra bắt tay hắn.

"Cám ơn!"

"Tất nhiên tớ chẳng ngạc nhiên khi thấy cậu đỗ đâu"

"Ô tớ cũng vậy," Nagasawa cười. "Nhưng chính thức rồi vẫn thấy khoái."

"Cậu sẽ ra hải ngoại ngay khi vào chương trình chứ?"

"Chưa đâu, trước hết họ bắt qua một năm huấn luyện đã. Rồi mới cử ra nước ngoài một thời gian."

Tôi nhấp nháp nước trà, trong khi hắn uống bia với vẻ thoả mãn ra mặt.

"Tớ sẽ cho cậu cái tủ lạnh này nếu cậu thích lúc tớ đi khỏi đây," Nagasawa nói. "Cậu thích nó chứ, phải không nào" Để bia thì tuyệt vời đấy."

"Ờ, tớ thích đấy, nhưng cậu không cần đến nó à? Cậu cũng phải sống trong một căn hộ hay gì chứ?"

"Đừng có ngốc thế! Khi thoát khỏi nơi này, tớ sẽ mua cho mình một cái tủ lạnh bự. Tớ sẽ sống đời sang trọng đấy! Bốn năm ở cái chuồng chồ này là quá đủ rồi. Tớ sẽ không còn muốn nhìn thấy bất kì thứ gì tớ đã dùng ở đây nữa. Cậu thích gì tớ cũng cho cậu tất - TV, phích, đài…"

"Tớ sẽ lấy tất những gì cậu cho tớ," tôi nói. Tôi nhặt cuốn giáo khoa tiếng Tây Ban Nha trên bàn lên và nhìn nó chằm chằm. "Cậu bắt đầu học tiếng Tây Ban Nha à?"

"Ờ. Biết càng nhiều ngoại ngữ càng tốt. Mà tớ có khiếu học tiếng lắm. Tớ tự học tiếng Phảp mà có thể nói là hoàn hảo ra phết. Ngôn ngữ cũng như trò chơi. Học được quy luật của một trò là biết chơi các trò khác ngay. Cũng như đàn bà."

"Á a…, biết suy tư đấy!" Tôi nói, hơi có giọng giễu nhại.

"Mà này, mình sẽ sớm đi ăn với nhau nhé."

"Cậu muốn nói là đi mò gái hả?"

"Không, đi ăn tối hẳn hoi. Cậu, tớ, và Hatsumi, ở một tiệm ăn hảo hạng. Để mừng nghề mới của tớ. Ông già tớ sẽ trả tiền, nên mình sẽ đến một chỗ nào đó thật đắt"

"Có lẽ chỉ nên có cậu với Hatsumi thôi."

"Không. Cả cậu nữa thì hay hơn. Tớ sẽ thấy thoải mái hơn, và cả Hatsumi cũng vậy."

Trời đất, lại như Kizuki, Naoko với tôi nữa đây!

"Sau đó tớ sẽ qua đêm ở chỗ Hatsumi, nên cậu chuẩn bị chỉ ăn tối với bọn tớ thôi nhá."

"Ôkê, nếu cả hai các cậu đều muốn thế," tôi nói.

"Nhưng này, cậu sẽ dự định thế nào về Hatsumi? Cậu sẽ được thuyên chuyển ra hai ngoại sau khi kết thúc huấn luyện, và có thể sẽ đi vắng hàng nhiều năm liền. Cô ấy sẽ ra sao?"

"Đấy là vấn đề của cô ấy."

"Tớ không hiểu," tôi nói.

Chân gác lên bàn, Nagasawa nốc một ngụm bia rồi ngáp dài.

"Nghe này, tớ không có dự định lấy vợ. Tớ đã nói rất rõ chuyện này với Hatsumi. Nếu cô ấy muốn lấy ai đó thì cứ việc. Tớ sẽ không can. Nếu cô ấy muốn đợi tớ, thì cứ để cô ấy đợi. Tớ muốn nói vậy đấy."

"Tớ phải tra thì cậu mới nói đấy chứ," tôi bảo.

"Cậu nghĩ tớ là đồ cứt, phải không?"

"Phải."

"Nghe đây, thế giới là một chốn bất công cố hữu. Tớ không bày ra luật lệ. Nó vẫn như thế từ lâu rồi. Tớ chưa hề lừa dối Hatsumi một lần nào. Cô ấy biết tớ là đồ cứt và biết cô ấy có thể bỏ tớ bất cứ lúc nào cô ấy thấy không thể chịu nổi nữa. Ngay từ đầu tớ đã nói thẳng với cô ấy như thế."

Nagasawa uống nốt chổ bia rồi châm một điếu thuốc lá.

"Trên đời này không có gì làm cậu sợ ư?" tôi hỏi.

"Ê, tớ không phải là một thằng hoàn toàn ngu ngốc," Nagasawa nói. "Tất nhiên là cuộc đời đôi khi có làm tớ sợ hãi. Nhưng tớ không tự nhiên coi sợ hãi là tiền đề của mọi chuyện. Tớ sẽ sống hết mình một trăm phần trăm và hết sức đi thật xa. Tớ sẽ lấy cái tớ muốn và bỏ cái tớ không muốn. Tớ định sống như vậy đấy, còn nếu mọi chuyện chẳng ra sao thì tớ sẽ dừng lại và xem xét sau. Nếu nghĩ cho kĩ, ta sẽ thấy là xã hội bất công là một xã hội có thể tạo điều kiện cho ta khai thác hết những năng lực của mình."

"Nghe có vẻ là một cách sống hơi vị kỉ," tôi nói.

"Có lẽ thế, nhưng tớ không muốn chỉ nhìn trời và đợi quả rụng. Bằng cách riêng của mình, tớ đang làm việc cật lực. Tớ làm việc còn gấp mười lần cậu."

"Cái đó có vẻ đúng thật," tôi nói.

"Đôi khi tớ nhìn quanh và thấy phát buồn nôn. Vì lí do quái gì mà lũ mất dạy này không chịu làm một việc gì đó đi nhỉ? Tớ tự hỏi thế. Chúng không làm một việc mẹ gì hết, và rồi chúng lại rên rỉ vì chuyện ấy."

Rất ngạc nhiên vì giọng điệu gay gắt của Nagasawa, tôi nhìn hắn và nói: "Theo cách nhìn của tớ thì mọi người đều làm việc cật lực cả đấy chứ. Họ làm đến nát xương lòi da còn gì. Hay là tớ nhìn nhầm?"

"Đấy không phải là làm việc cật lực. Đấy chỉ là lao lực chân tay," Nagasawa nói bằng một giọng khẳng định không thể tranh cãi được. "Cái làm việc cật lực mà tớ nói đến nó chủ động và có tính mục đích mạnh mẽ hơn."

"Cậu muốn nói là, như việc học tiếng Tây Ban Nha trong lúc mọi người khác đều tà tà ư?"

"Đúng thế? Tớ sẽ thành thạo tiếng Tây Ban Nha vào mùa xuân sang năm. Tớ đã học xong tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Đức, và sắp xong tiếng Ý. Cậu cho rằng những cái như thế có được mà không phải làm việc cật lực ư?"

Nagasawa rít thuốc lá trong lúc tôi nghĩ đến bố Midori. Có một người có lẽ đã chưa từng bao giờ nghĩ đến chuyện học tiếng Tây Ban Nha trên TV. Và có lẽ ông cũng chưa từng bao giờ nghĩ đến cái khác nhau giữa làm việc cật lực và lao lực chân tay. Có lẽ ông đã quá bận rộn không thể nghĩ đến những chuyện như thế - bận công việc, và bận đi tìm đứa con gái đã bỏ nhà chạy đến tận Fukushima.

"Này, về bữa ăn tối của chúng mình ấy mà," Nagasawa nói. "Liệu thứ Bảy này có ôkê với cậu không?"

"Ôkê," tôi nói.

Nagasawa chọn một tiệm ăn Pháp sang trọng trong một phố nhỏ yên tĩnh trong khu Azabu. Hắn xưng tên ở cửa và hai chúng tôi được dẫn vào một phòng riêng kín đáo.

Có mười lăm bức tranh in treo trên tường trong gian phòng nhỏ ấy. Trong lúc đợi Hatsumi, Nagasawa với tôi nhấp nháp rượu vang hảo hạng và tán dóc về những tiểu thuyết của Joseph Conrad. Hắn vận một bộ com-lê xám trông rất đắt tiền. Tôi vẫn mặc cái áo tây bình thường màu xanh nước biển.

Mười lăm phút sau thì Hatsumi đến. Cô trang điểm cẩn thận và đeo hoa tai vàng, mặc một bộ váy áo xanh nước biển xẫm rất đẹp, với một đôi giày đỏ rất có duyên.

Khi tôi khen bộ đồ của cô, Hatsumi bảo tôi đó là màu xanh nửa đêm.

"Nhà hàng này lịch sự quá?" Cô nói.

"Mỗi khi về Tokyo ông già tớ đều đến ăn ở đây," Nagasawa nói. "Tớ đã đến đây với ông ấy một lần. Tớ cũng chẳng mấy say mê những chỗ điệu đà thế này đâu."

"Lâu lâu được ăn ở một chỗ như thế này cũng chẳng sao," Hatsumi nói. Quay sang tôi, cô hỏi, "Cậu có đồng ý không?"

"Chắc là có. Nếu tớ không phải trả tiền."

"Ông già tớ thường mang bà nhân tình của ông ấy đến đây," Nagasawa nói. "Ông ấy có một bà ở Tokyo, các cậu biết không."

"Thật à?" Hatsumi hỏi.

Tôi nhấp một ngụm vang và làm như không nghe thấy gì.

Cuối cùng một người hầu bàn đến để chúng tôi gọi món. Sau khi chọn món khai vị và súp, Nagasawa kêu món vịt còn Hatsumi và tôi gọi cá vược biển. Các món được dọn ra rất đủng đỉnh để chúng tôi còn có thì giờ thưởng thức rượu vang và chuyện trò. Nagasawa nói trước hết về cuộc thi tuyển của Bộ Ngoại giao. Hắn nói hầu hết thí sinh đều là hạng cạn bã đáng ném xuống vực thẳm cả, mặc dù cũng có thể có vài đứa đàng hoàng trong số đó. Tôi hỏi hắn tỉ lệ xấu tốt trong đám đó so với ngoài xa hội thì thế nào.

"Cũng rứa cả thôi," hắn đáp. "Tất nhiên rồi". Chỗ nào và ở đâu cũng vậy hết, hắn nói thêm: đó là một qui luật không thay đổi được.

Nagasawa gọi thêm một chai vang nữa với một suất đúp whisky cho riêng hắn.

Sau đó Hatsumi bắt đầu nói đến một cô gái mà cô muốn gán ghép cho tôi. Đây là chủ đề muôn thuở mỗi khi ba chúng tôi gặp nhau. Lần nào cô cũng nói với tôi về một "cô gái xinh lắm ở cùng câu lạc bộ với tớ", và lần nào tôi cũng chạy mất dép.

"Nhưng cô này thì hay thật cơ, và cũng xinh thật là xinh. Lần sau tớ sẽ đem cô ta đi cùng. Tớ chắc thể nào cậu cũng phải thích cô ấy."

"Chỉ phí thời gian thôi, Hatsumi à," tôi bảo. "Tớ quá nghèo không thể đánh đu được với những cô ở trường đại học của cậu đâu. Tớ không thể chuyện trò gì được với họ."

"Đừng có ngốc thế," cô nói. "Cô này giản dị và tự nhiên lắm, chẳng điệu bộ tí nào."

"Thôi nào, Watanabe," Nagasawa nói. "Thì cứ gặp nó cái đã. Cậu có phải dùi nó ngay đâu mà lo."

"Này này, tớ nghĩ chuyện ấy thì không nên đâu nhé," Hatsumi nói, "Con bé vẫn đồng trinh mà."

"Cũng như em ngày xưa," Nagasawa nói.

"Chính xác," Hatsumi nói với một nụ cười rạng rỡ. "Như tớ ngày xưa vậy. Nhưng thật đấy" cô nói với tôi, "đừng có nói với tớ cái giọng "quá nghèo" nữa đi. Chuyện ấy chẳng có liên quan gì ở đây cả. Đúng là năm học nào cũng có một ít bọn siêu-kênh-kiệu, nhưng ngoài ra thì bọn tớ đều bình thường cả thôi. Tất cả chúng tớ đều ăn ở nhà ăn tập thể môi suất có hai trăm rưỡi Yên…"

"Gượm đã Hatsumi," tôi nói, cắt ngang lời cô. "Ở trường tớ nhà ăn có ba loại suất ăn trưa: A, B, và C. Suất A là một trăm hai mươi Yên, suất B một trăm Yên, và suất C có tám mươi Yên thôi. Mọi người đều hằn học nhìn tớ mỗi khi tớ ăn suất A, còn ai không đủ tiền ăn suất C thì chén mì ăn liền sáu mươi Yên một bát. Tớ học ở một nơi như vậy đấy. Cậu còn nghĩ tớ có thể nói chuyện với đám con gái ở trường cậu nữa hay thôi?"

Hatsumi cười phá ra và mãi mới nín lại được. "Rẻ đến thế cơ à!" Cô nói. "Có khi tớ phải đến đó ăn trưa mất thôi! Nhưng nói thật đấy, Toru à, cậu là một anh chàng hay thế nên tớ tin cậu sẽ hợp với cô này. Có thể cô ta còn thích bữa trưa một trăm hai mươi Yên nữa cũng nên."

"Không có chuyện đó đâu," tôi cười. "Không ai ăn cái của ấy vì thích cả; họ ăn nó vì không có khả năng ăn cái gì khác."

"Nhưng thôi," Hatsumi nói, "đừng nhìn bìa mà đánh giá sách. Đúng là chúng tớ học ở cái trường kênh kiệu điệu đà ấy, nhưng rất nhiều người chúng tớ vẫn là những người nghiêm chỉnh biết suy nghĩ nghiêm chỉnh về cuộc đời Không phải ai cũng tìm bồ trai có xe ôtô thể thao đâu."

"Hẵng cứ biết thế," tôi nói.

"Watanabe có một cô rồi. Hắn đang yêu," Nagasawa nói. "Nhưng hắn không nói một lời nào về cô ấy cả. Hắn im như thóc. Một câu đố gói trong bí hiểm."

"Thật thế ư?" Hatsumi hỏi tôi.

"Thật," tôi nói. "Nhưng chẳng liên quan đến câu đố nào cả. Chỉ vì nó rắc rối, và cũng khó nói, vậy thôi."

"Một mối tình vụng trộm à? Ối giời ơi? Cậu có thể kể với tớ!"

Tôi nhấp một ngụm rượu vang để khỏi phải trả lời.

"Thấy chưa?" Nagasawa nói, đang uống cốc whisky thứ ba của hắn. "Im như thóc. Khi thằng cha này đã định không nói gì thì không ai có thể cậy răng hắn."

"Xấu hổ chưa," Hatsumi nói trong khi cắt một miếng patê mỏng đưa lên miệng. "Giá cậu công khai được với cô ấy có phải là chúng mình đi chơi tay bốn được không."

"Ờ, và chúng mình sẽ uống say rồi đổi bồ với nhau một tí," Nagasawa nói.

"Thôi đừng nói kiểu ấy nữa đi," Hatsumi nói.

"Thế nào là "nói kiểu ấy"? Watanabe chẳng để mắt đến cô là gì?" Nagasawa nói.

"Chuyện ấy chẳng liên quan gì đến điều em đang nói," Hatsumi lí nhí. "Cậu ấy không phải loại người như thế. Cậu ấy trung thực và chân tình. Em biết chứ. Nên em mới cố tìm bạn cho cậu ấy."

"Vâng, cậu chàng trung thực. Như cái lần tụi mình đổi gái với nhau ngày trước ấy phải không Watanabe?"

Nagasawa nói với một vẻ mặt chán chường, rồi nốc cạn chỗ whisky còn lại và gọi một cốc khác.

Hatsumi đặt dao dĩa xuống và dùng khăn ăn chấm chấm lên miệng. Sau đó, cô vừa nhìn tôi vừa hỏi "Toru, cậu có làm thế thật à?"

Tôi không biết trả lời cô thế nào, đành không nói gì.

"Nói cho cô ấy biết đi," Nagasawa nói. "Có cái quái gì đâu."

Không khí trở nên khó chịu. Nagasawa có thể rất xấu tính lúc say rượu, nhưng đêm nay thì hắn đang chĩa tính xấu ấy vào Hatsumi chứ không phải vào tôi. Biết thế rồi, tôi thấy mình rất khó ngồi mãi ở đó.

"Tớ muốn nghe chuyện ấy," Hatsumi nói. "Có vẻ rất thú vị đây."

"Bọn tớ đều say cả," tôi nói.

"Không sao, Toru. Tớ không trách móc gì cậu đâu. Tớ chỉ muốn cậu kể cho tớ biết chuyện gì đã xảy ra."

"Hai đứa tớ đang uống rượu trong một quán bar ở Shinjuku, và bọn tớ làm quen với một cặp gái ở đó. Chúng cũng là sinh viên đại học, và cũng đang hứng tình như chúng tớ. Thế rồi thì là, chúng tớ, cả bọn rủ nhau đến một khách sạn và ngủ với nhau. Hai phòng liền vách. Đến nửa đêm thì Nagasawa gõ cửa phòng tớ và bảo hai thằng nên đổi gái cho nhau, thế là tớ sang phòng hắn và hắn sang phòng tớ."

"Mấy cô gái có phản đối không?"

"Không, họ cũng say cả."

"Nhưng mà tớ có lí do chính đáng để làm thế," Nagasawa nói.

"Lí do chính đáng ư?"

"Thế này nhé, hai đứa con gái ấy rất khác nhau. Một đứa thì thật đẹp, còn đứa kia thì xấu như ma lem. Tớ thấy thế không công bằng. Tớ đã cặp luôn với đứa đẹp còn Watanabe thì chết kẹt với đứa kia. Đấy là lí do tại sao hai thằng phải đổi lại cho nhau. Đúng chưa hả, Watanabe?"

"Ờ, chắc là thế," tôi nói. "Nhưng thực tế là tôi lại thích cái cô xấu xí hơn. Cô ta nói chuyện có duyên và là một người tốt. Sau khi làm tình, chúng tôi đang thích thú nằm nói chuyện trên giường thì Nagasawa xuất hiện và đề nghị đổi bạn tình. Tôi hỏi cô gái có chịu không, và cô ta nói nếu chúng tôi muốn thế thì cô ấy cũng ôkê. Có thể cô ấy đã tưởng tôi muốn làm một chầu với cô đẹp gái kia.

"Cậu có vui không?" Hatsumi hỏi tôi.

"Cậu hỏi chuyện đổi chác ấy à?"

"Tất cả."

"Cũng chẳng có gì vui lắm. Chỉ là cái gì đó mình phải làm vậy thôi. Ngủ nghê kiểu ấy thì cũng chẳng vui thú gì nhiều."

"Thế sao cậu vẫn làm thế?"

"Là vì anh đây," Nagasawa nói.

"Em đang nói chuyện với Toru," Hatsumi vặc lại Nagasawa. "Tại sao cậu lại làm một việc như thế?"

"Vì đôi khi tớ thèm được ngủ với một cô gái khủng khiếp"

"Nếu cậu đang yêu ai đó, chẳng nhẽ cậu không thể đến với cô ấy cách này hay cách khác ư?"

"Nó phức tạp lắm."

Hatsumi thở dài.

Đúng lúc đó cửa phòng mở ra và người ta đem thức ăn vào. Nagasawa có cả một con vịt quay, còn Hatsumi và tôi có món cá vược biển. Mấy người hầu bàn xếp rau vừa luộc chín tới lên đĩa chúng tôi, rưới nước xốt lên chúng rồi rút lui ra khỏi phòng. Nagasawa cắt một lát thịt vịt và ăn ngấu nghiến, rồi lại uống whisky. Tôi cho lên miệng cả một gắp đầy rau spinach. Hatsumi không động đến đồ ăn của cô.

"Cậu biết không, Toru," cô nói, "tớ không biết cái gì khiến cho chuyện của cậu lại rắc rối đến vậy, nhưng tớ vẫn nghĩ loại chuyện như cậu vừa kể là không đúng vởi cậu. Cậu không phải là loại người như thế. Cậu nghĩ sao?" Cô đặt cả hai tay lên bàn và nhìn vào mắt tôi.

"Nói thật," tôi nói, "Đôi khi tớ cũng tự cảm thấy như vậy."

"Thế tại sao cậu không dừng lại được?"

"Bởi vì nhiều lúc tớ rất thèm mùi người ấm áp," tôi chân thành đáp. "Có những lúc, nếu tớ không có được cái ấm áp như của da thịt đàn bà, tớ thấy cô đơn đến mức không thể chịu nổi."

"Đây này, để anh tóm tắt tất cả những chuyện ấy theo cách hiểu của anh nhé," Nagasawa chen vào.

"Watanabe hắn có cô gái mà hắn thích, nhưng vì một số lí do rắc rối nào đó, hai đứa không thể làm chuyện ấy được. Thế là hắn tự nhủ "Tình dục là tình dục", và liền thoả mãn nhu cầu của mình với người khác. Thế thì có gì sai nào? Hoàn toàn hợp lí là đằng khác. Hắn không thể chỉ ở trong phòng và thủ dâm suốt ngày được, phải không nào?"

"Nhưng nếu cậu thực sự yêu cô ấy, Toru, liệu cậu có thể tự kiềm chế được không?"

"Cũng có thể," tôi nói, đưa một miếng cá vược có xốt kem lên miệng.

"Cô chẳng hiểu gì về nhu cầu tình dục của đàn ông," Nagasawa nói với Hatsumi. "Cứ xem tôi đây này. Tôi đã cặp với cô ba năm nay rồi, và trong thời gian đó tôi cũng ngủ với khối đàn bà. Nhưng tôi chẳng nhớ mẹ gì về họ hết. Tôi không biết tên họ, tôi không nhớ mặt mũi họ ra sao. Tôi chỉ ngủ với mỗi người đúng một lần thôi. Gặp, rồi làm chuyện đó, rồi vĩnh biệt. Có thế thôi. Thế thì có gì là sai nào?"

"Cái mà tôi không thể chịu được là thái độ ngạo mạn của anh," Hatsumi nói bằng giọng nhẹ nhàng. "Anh có ngủ với đàn bà khác hay không chẳng có liên quan gì trong chuyện này. Tôi cũng chưa bao giờ thật sự giận anh vì chuyện anh ngủ lang như thế, phải không nào?"

"Cô không thể gọi việc tôi làm là ngủ lang được. Đó chỉ là một trò chơi. Chẳng ai bị tổn thương cả?" Nagasawa nói.

"Tôi bị tổn thương chứ," Hatsumi nói. "Tôi không đủ với anh sao?"

Nagasawa giữ im lặng một lúc và lắc tròn cốc whisky trong tay.

"Không phải chuyện cô không đủ với tôi. Đó là một giai đoạn khác, một vấn dề khác. Mà là cái thèm khát trong con người của tôi kia. Nếu tôi đã làm cô tổn thương thì tôi xin lỗi. Nhưng nó không phải chuyện cô có đủ cho tôi hay không. Tôi không thể sống với nỗi thèm khát ấy. Con người tôi nó vậy. Đó là cái làm cho tôi chính là tôi. Tôi không thể làm gì được, cô có thấy không?"

Cuối cùng Hatsumi cầm dao dĩa lên và bắt đầu ăn món cá vược của mình. "Ít ra thì anh cũng không nên lôi kéo Toru vào những trò chơi ấy của anh."

"Nhưng chúng tôi có nhiều cái giống nhau, Watanabe và tôi," Nagasawa nói. "Cả hai chúng tôi đều không quan tâm đến bất kì chuyện gì khác ngoài bản thân mình, nói tóm lại là vậy. Ôkê, thì tôi ngạo mạn còn hắn thì không, nhưng cả hai chúng tôi đều chỉ có khả năng cảm thấy thú vị về những cái mà chính mình suy nghĩ, cảm xúc và tạo tác. Chính vì thế mà chúng tôi có thể suy nghĩ về mọi chuyện một cách hoàn toàn khác biệt với mọi người. Đó là cái tôi thích ở hắn. Chỉ có một cái khác nhau là hắn còn chưa nhận thức được chính mình, và do vậy mà hắn còn lưỡng lự và vẫn còn bị tổn thương."

"Có con người nào mà không lưỡng lự và không bị tổn thương" Hatsumi chất vấn. "Có phải anh đang nói rằng bản thân anh chưa bao giờ cảm thấy những cái đó?"

"Tất nhiên là có, nhưng tôi đã rèn luyện mình đến mức có thể hạn chế chúng đến tối đa. Ngay cả chuột cũng sẽ chọn con đường ít đau đớn nhất nếu ta làm nó choáng váng đủ độ."

"Nhưng chuột không biết yêu?"

"Chuột không biết yêu," Nagasawa nhìn sang tôi. "Hay tuyệt! Chúng ta nên có nhạc nền cho câu nói này - một dàn nhạc đầy đủ với hai cây thụ cầm và…"

"Đừng có chế giễu tôi. Tôi nói nghiêm chỉnh đấy."

"Chúng ta đang ăn mà, Nagasawa nói. "Và Watanabe đang ở đây. Có lẽ sẽ lịch sự hơn nếu hai ta để dành câu chuyện nghiêm chỉnh ấy cho một dịp khác.

"Tớ có thể về," tôi bảo.

"Không được," Hatsumi nói. "Xin cậu hãy ở lại. Có cậu ở đây thì tốt hơn."

"Ít nhất cũng ăn tráng miệng đã," Nagasawa nói.

"Tớ thế nào cũng được mà, thật đấy."

Ba chúng tôi im lặng ăn một lúc lâu. Tôi ăn hết món cá của mình. Hatsumi bỏ mứa một nửa. Nagasawa dã chén sạch món vịt của hắn từ lâu và đang tập trung vào whisky.

"Món cá vược tuyệt lắm," tôi lên tiếng, nhưng không ai buồn tiếp lời. Giống như tôi vừa ném một viên sỏi xuống giếng sâu vậy.

Mấy người hầu bàn dọn đĩa đi và mang vào nước chanh ép ướp lạnh và cà-phê vào. Nagasawa hầu như không động đến món tráng miệng với cà-phê, mà lấy luôn thuốc lá ra hút. Hatsumi phớt lờ món nước chanh.

"Thế là chết rồi," tôi nghĩ thầm trong lúc uống hết phần nước chanh và cà-phê của mình. Hatsumi dán mắt vào hai bàn tay cô đặt trên bàn. Cũng như mọi thứ trên người cô, hai bàn tay ấy trông sành điệu, thanh lịch và đắt tiền. Tôi nghĩ đến Naoko và Reiko. Bây giờ họ đang làm gì? tôi tự hỏi. Naoko có lẽ đang nằm trên sô-pha đọc sách, còn Reiko có lẽ đang chơi bài "Rừng Na-uy" bằng ghi-ta. Tôi cảm thấy một thèm khát mãnh liệt được trở lại gian phòng nhỏ ấy của họ. Tôi đang làm cái quái gì ở đây thế này?

"Cái giống nhau giữa Watanabe và tôi là ở chỗ chúng tôi chẳng thèm bận tâm cái cứt gì nếu không có ai hiểu mình," Nagasawa nói. "Đó là cái khiến chúng tôi khác với mọi người. Tất cả bọn họ đều lo không biết mọi người xung quanh có hiểu họ hay không. Tôi thì không thế, và Watanabe cũng vậy. Chúng tôi coi chuyện đó như cứt. Bản ngã và tha nhân là cách biệt."

"Có thật thế không?" Hatsumi hỏi tôi.

"Không," tôi nói. "Tớ không mạnh mẽ thế đâu. Tớ không thấy ôkê nếu chẳng có ai hiểu mình. Tớ có những người mà tớ muốn hiểu và được họ hiểu mình. Nhưng ngoài vài người ấy ra, thì nói thật, tớ cảm thấy như tuyệt vọng hoàn toàn. Tớ không đồng ý với Nagasawa. Tớ có quan tâm đến việc được người khác hiểu mình."

"Điều đó thực ra cũng chính là điều tôi vừa nói," Nagasawa nói, tay nhặt cái thìa khuấy cà-phê lên. "Hệt như nhau! Chỉ là sự khác nhau giữa một bữa điểm tâm muộn và một bữa trưa sớm. Thời gian như nhau, thức ăn giống nhau, chỉ khác có cái tên."

Bây giờ thì Hatsumi nói với Nagasawa. "Anh có quan tâm đến việc tôi có hiểu anh hay là không?"

"Cô vẫn chưa hiểu, phải không nào?" Người A hiểu người B bởi vì đã đến đúng thời điểm để chuyện đó diễn ra, chử không phải vì người B muốn được người A hiểu mình."

"Như vậy là tôi sai lầm khi cảm thấy tôi muốn ai đó hiểu mình - ví dụ là anh chẳng hạn"

"Không, đó không phải là sai lầm," Nagasawa đáp. "Hầu hết mọi người sẽ gọi đó là tình yêu, nếu cô nghĩ cô muốn hiểu tôi. Hệ thống sống của tôi khác hẳn với những hệ thống sống của mọi người."

"Như vậy điều anh đang nói có nghĩa là anh không yêu tôi, có phải thế không?"

"Thế này nhé, hệ thống của tôi và hệ thống của cô…"

"Vứt mẹ cái hệ thống mắc dịch của anh đi!"

Hatsumi quát lớn. Đó là lần đầu và cũng là lần cuối cùng tôi nghe cô quát lớn như vậy.

Nagasawa bấm nút chuông cạnh bàn, và người hầu bàn trở lại với giấy tính tiền. Nagasawa đưa cho ông ta cái thẻ tín dụng.

"Xin lỗi vì chuyện này, Watanabe," Nagasawa nói.

"Tớ sẽ đưa Hatsumi về nhà. Cậu đi một mình về khu học xá nhé, được không?"

"Cậu không phải xin lỗi tớ làm gì. Bữa ăn ngon tuyệt," tôi nói, nhưng chẳng ai đáp lại câu nào.

Người hầu bàn đem cái thẻ tín dụng và hoá đơn tới, và Nagasawa dùng bút bi kí vào đó sau khi đã kiểm tra số tiền. Sau đó ba chúng tôi đứng dậy và ra khỏi quán.

Nagasawa định bước xuống phố vẫy taxi nhưng Hatsumi ngăn anh ta lại.

"Cám ơn, nhưng hôm nay tôi không muốn ở cạnh anh thêm một tí nào nữa. Anh không phải đưa tôi về nhà đâu. Cám ơn về bữa tối."

"Thế nào cũng xong," Nagasawa nói.

"Tôi muốn Toru đưa tôi về nhà."

"Thế nào cũng xong," Nagasawa nói. "Nhưng Watanabe thực tế chẳng khác gì tôi. Hắn có thể là một anh chàng hay đấy, nhưng tận đáy lòng hắn cũng không thể yêu ai được đâu. Lúc nào hắn cũng có một phần ở đâu đó rất tỉnh táo và hoàn hoàn xa lánh. Và hắn cũng bị cái thèm khát kia giày vò khôn nguôi. Cứ tin tôi đi, tôi biết mình đang nói gì mà."

Tôi vẫy một cái taxi và để Hatsumi lên xe trước.

"Thôi được rồi," tôi nói với Nagasawa, "Tớ cam đoan sẽ đưa cô ấy về tận nhà."

"Xin lỗi đã đưa cậu vào chuyện này," Nagasawa nói, nhưng tôi có thể thấy là hắn đã đang nghĩ sang chuyện khác rồi.

Khi đã ngồi trong xe, tôi hỏi Hatsumi, "Cậu muốn đi đâu? Về Ebisu nhé". Căn hộ của cô ở Ebisu.

Cô lắc đầu.

"Ôkê. Thế đi uống ở đâu đã nhé!"

"Ờ" cô gật đầu.

"Đến Shibuya," tôi bảo lái xe.

Khoanh tay và nhắm mắt, Hatsumi ngồi lọt thỏm vào góc ghế. Bộ hoa tai vàng của cô phản chiếu ánh đèn và lấp lánh khi chiếc xe lượn qua lượn lại. Bộ đồ màu xanh nửa đêm của cô có vẻ như đã được thửa riêng để hoà hợp với bóng tối ở trong xe. Thỉnh thoảng, cặp môi tuyệt đẹp được trang điểm nhẹ nhàng của cô lại hơi rung rung như thể cô sắp sửa nói điều gì đó với chính mình.

Ngắm nhìn cô, tôi có thể thấy tại sao Nagasawa đã chọn cô làm bạn đồng hành đặc biệt. Không thiếu những người đàn bà còn đẹp hơn Hatsumi, và Nagasawa có thể cặp với bất kì ai mà hắn muốn. Nhưng Hatsumi có một phẩm chất gì đó có thể làm rung động đến tận đáy lòng ta. Nó không khiên cưỡng tí nào. Cái sức mạnh của cô là một thứ tinh tế, nhưng nó gây nên những cộng hưởng sâu thẳm. Tôi ngắm nhìn cô suốt quãng đường đến Shibuya và tự hỏi mà vẫn không tìm được câu trả lời, rằng cái rung động tình cảm mà tôi đang trải nghiệm ấy có thể là cái gì?

Hàng chục năm sau tôi mới tìm thấy câu trả lời ấy. Lúc ấy tôi đến Santa Fe phỏng vấn một hoạ sĩ và đang ngồi trong một tiệm pizza địa phương, uống bia, ăn pizza và ngắm vẻ đẹp thần tiên của cảnh chiều tà ở đó. Mọi vật thấm đậm một màu đỏ rực - bàn tay tôi, cái đĩa, cái bàn, toàn thế giới như thể một thứ nước quả gì đặc biệt đã trút đầy xuống tất cả mọi thứ. Giữa cảnh hoàng hôn choáng ngợp ấy, hình ảnh Hatsumi bỗng loé lên trong tâm trí tôi, và ngay lúc ấy tôi chợt hiểu ra cơn rung động tận đáy lòng ấy là gì. Nó là một thứ khao khát ấu thơ chưa bao giờ và sẽ không bao giờ thực hiện được. Trước đó tôi quên mất sự tồn tại của nỗi khát khao ngây thơ và gần như ghi xương khắc cốt ấy, đã quên mất trong bao nhiêu năm rằng mình đã từng có những tình cầm như thế. Cái mà Hatsumi đã khuấy động lên trong tôi là một phần của chính bản ngã tôi đã thiếp ngủ bấy lâu. Và khi niềm phát ngộ ấy ập đến, nó đánh thức một nỗi buồn đau đớn đến mức tôi suýt khóc oà lên ngay lúc ấy. Cô đã là một người đàn bà đặc biệt như vậy đấy. Nhẽ ra đã phải có ai làm cái gì đó - bất kì cái gì - để cứu cô ấy.

Nhưng cả Nagasawa lẫn tôi đều không thể làm được điều đó. Giống như bao nhiêu người khác mà tôi đã biết, Hatsumi đã đạt đến một giai đoạn nào đó của cuộc sống và đã quyết định - hầu như hoàn toàn bất ngờ kết thúc nó. Hai năm sau khi Nagasawa đi sang Đức, cô lấy chồng, và hai năm sau đó cô đã dùng dao cạo cứa đứt cổ tay mình.

Chính Nagasawa, tất nhiên rồi, là người báo tin cho tôi biết. Bức thư của hắn gửi từ Bonn viết như sau: "Cái chết của Hatsumi đã làm tiêu tan một cái gì đó. Chuyện này thật đau buồn không thể chịu nổi, ngay cả đối với tớ". Tôi đã xé nát bức thư ấy và ném nó đi. Từ đó tôi không bao giờ thư từ với hắn nữa.

Hatsumi và tôi đến một quán bar nhỏ và nốc cạn nhiều tuần rượu. Cả hai chúng tôi chẳng nói gì nhiều. Như một cặp vợ chồng già buồn chán, chúng tôi ngồi đối diện nhau, im lặng uống và nhai lạc. Khi chỗ đó đã đông nghẹt, chúng tôi bỏ ra ngoài đi dạo phố. Hatsumi nói cô sẽ trả tiền, nhưng tôi cương quyết không cho vì chính tôi nghĩ ra chuyện đi uống rượu.

Không khí ban đêm giá buốt căm căm. Hatsumi khép chặt chiếc áo len mặc ngoài và im lặng bước bên tôi. Tôi không biết đi đâu khi chúng tôi lang thang qua các con phố trong đêm, hai tay tôi thọc sâu vào túi quần.

Rất giống những lần tôi đi bộ với Naoko, tôi chợt nhận ra thế.

"Cậu có biết chỗ nào mình có thể chơi bi-a gần đây không?" Hatsumi đột ngột hỏi.

"Bi-a ư?" Cậu biết chơi à?"

"Ô, khá là đằng khác. Cậu thì sao?"

"Tớ chơi được chút chút. Không giỏi."

"Ôkê, mình đi chơi nào."

Chúng tôi tìm ra được một phòng chơi bi-a gần đó.

Một quán nhỏ ở mãi cuối ngõ. Hai chúng tôi - Hatsumi trong bộ đồ sành điệu và tôi với cái áo tây xanh và cà-vạt cà tẩm - trông chẳng ăn nhập gì với quán bi-a nhộn nhạo ấy, nhưng có vẻ như Hatsumi chẳng hề bận tâm đến chuyện ấy khi cô chọn và thoa sáp vào mũi gậy. Cô rút một cái dải buộc đầu trong túi ra và buộc túm một bên tóc lên để khỏi vướng lúc chơi. chúng tôi chơi hai ván. Hatsumi chơi khá như lời cô nói, còn tôi thì lúng ta lúng túng vì một bàn tay còn băng bó dày cộp. Cô hạ tôi thảm hại.

"Cậu giỏi thật," tôi khâm phục nói.

"Cậu muốn nói nhìn bề ngoài không thể biết được người, đúng không?" Cô hỏi khi vừa ngắm một cú thọc vừa mỉm cười.

"Cậu học chơi như vậy ở đâu thế?"

"Ông tớ - bố của bố tớ - là một tay chơi già đời. Cụ có bàn bi-a ở nhà. Tớ thường chơi với anh tớ cho vui thôi, nhưng khi lớn hơn một tí thì ông tớ dạy tớ chơi với những nước đi có bài bản hẳn hoi. Ông cụ là một gã tuyệt vời rất đúng mốt, và đẹp trai. Nhưng cụ mất rồi. Cụ vẫn thưởng khoe đã từng gặp Deanna Durbin ở New York."

Cô đi trúng ba nước liền, rồi trượt nước thứ tư. Tôi loay hoay mãi mới ăn được một điểm, rồi lại hỏng mất một nước rất ngon.

"Tại cái băng tay đấy," Hatsumi nói để an ủi tôi.

"Không, tại tớ đã lâu rồi không chơi," tôi nói, "hai năm và năm tháng rồi."

"Sao cậu nhớ rõ thế?"

"Bạn tớ chết đúng cái đêm chúng tớ chơi ván cuối cùng với nhau," tôi nói.

"Thế là cậu không chơi nữa à?"

"Không, cũng không hẳn thế," tôi nói sau khi đã nghỉ một tí. "Chỉ là vì sau đó tớ chẳng có cơ hội nào để chơi nữa. Vậy thôi."

"Bạn cậu chết như thế nào?"

"Tai nạn xe cộ."

Cô đi nhiều nước nữa, ngắm rất nghiêm túc và điều chỉnh lực của từng nước rất chính xác. Ngắm nhìn cô chơi - mái tóc chải cẩn thận buộc lên để khỏi vướng mắt, bộ hoa tai vàng óng ánh, đôi giày đỏ vững vàng trên sàn nhà, những ngón tay mảnh dẻ đáng yêu ép chặt lên mặt nỉ xanh nâu khi cô động thủ nước đi - tôi có cảm giác như phần quán bi-a có cô đứng chơi đã biến thành một sự kiện xã hội tao nhã nào đó. Trước đó tôi chưa bao giờ được một mình với cô, và đó là một trải nghiệm tuyệt vời đối với tôi như thể tôi đã được kéo lên một tầng cao hơn của cuộc đời. Đến cuối ván thứ ba - mà tất nhiên là cô lại hạ tôi - thì vết thương của tôi bắt đầu đau phập phồng, và chúng tôi dừng chơi.

"Tớ xin lỗi," cô nói với vẻ quan tâm rất thực lòng, "nhẽ ra tớ không nên gợi ý chuyện này."

"Không sao mà," tôi nói. "Tớ đứt tay thường thôi mà, và tớ thích chơi. Thật đấy."

Khi chúng tôi rời quán bi-a, bà chủ gày gò nói với Hatsumi, "Cô có con mắt tinh đời đấy, em gái ạ."

Hatsumi nở một nụ cười ngọt ngào với bà ta và cám ơn bà khi trả tiền.

"Có đau không?" Cô hỏi khi chúng tôi đã ra bên ngoài.

"Không đau lắm," tôi nói.

"Cậu nghĩ nó có bị toác lại không?"

"Không, chắc không sao đâu."

"Tớ biết rồi? Cậu nên đến chỗ tớ. Tớ sẽ thay băng cho cậu. Tớ có thuốc sát trùng và đủ mọi thứ. Nào, tớ ở ngay đằng kia kìa."

Tôi nói không có gì đáng lo và rằng tôi không sao, nhưng cô khăng khăng phải kiểm tra xem vết cắt có bị toác lại hay không.

"Hay là cậu không muốn ở bên cạnh tớ nữa" Cậu muốn về phòng cậu càng sớm càng tốt phải không nào?" cô nói với một nụ cười ranh mãnh.

"Không có chuyện đó đâu," tôi nói.

"Được rồi, vậy thì đừng đứng nghiêm ra như vậy nữa. Đi mấy bước nữa thôi mà."
Chỗ Hatsumi ở cách khu Shibuya chừng mười lăm phút đi bộ về phía Ebisu. Không phải là một cao ốc sang trọng hào nhoáng, nhưng vẫn hơn mức đàng hoàng, với một sảnh chờ nho nhỏ rất hay và một cầu thang máy.

Hatsumi bảo tôi ngồi bên cái bàn trong bếp rồi vào phòng ngủ thay đồ. Cô trở lại với một cái áo chui đầu Princeton có mũ chùm, quần vải bông, và không đeo hoa tai nữa. Đặt một bộ đồ cấp cứu xuống bàn, cô tháo băng, kiểm tra xem vết cắt đã liền da chưa, bôi một ít thuốc sát trùng vào quanh đó và quấn một cái băng mớí lên vết thương. Cô làm mọi thứ như một chuyên gia vậy.

"Sao cậu giỏi nhiều thứ thế?" Tôi hỏi.

"Tớ thường làm tình nguyện ở một bệnh viện. Kiểu như chơi trò hộ lí. Vì thế tớ học được những việc này."

Khi đã xong việc băng bó, Hatsumi đi kiếm hai hộp bia trong tủ lạnh. Cô uống nửa hộp, còn tôi uống hết hộp của mình và cả chỗ còn lại của cô. Sau đó cô cho tôi xem ảnh các cô gái trong câu lạc bộ của mình. Cô nói đúng: một vài cô trong bọn thật xinh.

"Bất kì lúc nào cậu quyết định có một cô bạn gái, hãy đến tớ," cô nói. "Tớ sẽ giải quyết ngay cho cậu."

"Vâng, thưa quí cô."

"Thôi được rồi, Toru, nóí thật đi, cậu cho tớ là một mụ mối già phải không?"

"Ở một mức độ nào đó thôi," tôi nói thật, nhưng với một nụ cười. Hatsumi cười theo. Cô cười trông rất hay.

"Nói tớ nghe nữa nhé, Toru," cô nói. "Cậu nghĩ thế nào về tớ với Nagasawa"

"Tớ nghĩ thế nào nghĩa là sao?" Về cái gì?"

"Về chuyện tớ phải làm gì. Từ nay trở đi."

"Tớ có nghĩ gì thì cũng vậy thôi," tôi nói, tợp một ngụm bia lạnh.

"Thì có sao đâu. Cứ nói đúng ý nghĩ của cậu xem nào?"

"Thế này nhé, nếu tớ là cậu, tớ sẽ bỏ hắn. Tớ sẽ tìm một ai đó có cách nhìn sự vật bình thường hơn và sống với vui vẻ đến trọn đời. Có xuống đến địa ngục cậu cũng không thể hạnh phúc với hắn được đâu. Cái lối hắn sống, hắn không bao giờ nghĩ đến chuyện làm cho chính hắn hoặc người khác được hạnh phúc. Ở với hắn chỉ tổ làm thần kinh cậu phát loạn lên thôi. Tớ thấy cậu chơi với hắn được ba năm vừa rồi thì cũng thật là kì lạ. Tất nhiên, tớ rất mến hắn theo cách riêng của tớ. Hắn rất quấy, rất nhiều phẩm chất. Hắn có những sức mạnh và năng lực mà tớ không thể hy vọng có được. Nhưng cuối cùng thì quan niệm của hắn về mọi chuyện cũng như cách hắn sống là không bình thường. Đôi khi nói chuyện với hắn tớ cảm thấy như mình đang chạy vòng vo mãi xung quanh. Hắn leo lên cao cũng theo một quá trình vòng vo như thế. Tớ thấy rất trống rỗng! Phải nói là hệ thống của hai đứa hoàn toàn khác nhau. Cậu hiểu tớ nói gì không?"

"Có," Hatsumi nói khi lấy trong tủ lạnh ra cho tôi một hộp bia nữa.

"Hơn nữa, sau khi hắn vào Bộ Ngoại giao và xong một năm huấn luyện, hắn sẽ ra nước ngoài. Cậu sẽ làm gì lúc đó? Đợi hắn ư? Hắn không có ý định lấy ai cả."

"Tớ cũng biết điều đó."

"Vậy thì tớ chẳng có gì phải nói nữa."

"Tớ thấy rồi," Hatsumi nói.

Tôi rừ từ rót bia ra cốc.

"Cậu biết không, khi bọn mình chơi bi-a lúc nẫy, tớ bỗng nhận ra một điều," tôi nói. "Tớ là con một, nhưng tớ lớn lên mà không bao giờ thấy thiếu thốn hoặc ước ao được có anh có chị. Tớ sung sướng được một mình. Nhưng đột nhiên, khi chơi bi-a với cậu, tớ có cảm giác mình ước ao có một người chị gái giống như cậu - thật sành điệu và choáng ngợp trong một bộ đồ màu xanh nữa đêm với hoa tai vàng với cây gậy bi-a điệu nghệ"

Hatsumi tặng tôi một nụ cười rạng rỡ. "Đấy đúng là một điều tốt đẹp nhất tớ được nghe về mình trong suốt cả năm qua," cô nói. "Thật đấy."

"Tất cả những gì tớ mong muốn cho cậu," tôi đỏ bừng mặt, "là mong cậu được hạnh phúc. Nghe có vẻ điên. Vì hình như cậu là người có thể hạnh phúc với bất kì ai, mà tại sao cuối cùng lại vướng vào Nagasawa"

"Những chuyện như vậy vẫn xảy ra mà. Và có lẽ mình chẳng làm gì được. Trường hợp của tớ là thế đấy. Tất nhiên, Nagasawa sẽ bảo đó là trách nhiệm của tớ chứ không phải của anh ta."

"Tớ cũng nghĩ thế."

"Nhưng dù sao thì tớ cũng chẳng phải là đứa con gái thông minh nhất thế giới, Toru à. Mà thực ra, tớ còn thuộc loại ngu đần và cổ lỗ nữa. Tớ không thể để ý đến những trò "hệ thống" hay "trách nhiệm" này nọ. Tớ chỉ muốn lấy chồng và được người tớ yêu ôm ấp mỗi đêm và sinh con đẻ cái mà thôi. Với tớ thế là nhiều lắm rồi. Trên đời này tớ chỉ muốn có vậy."

"Còn cái mà Nagasawa muốn ở đời này lại chẳng liên quan gì đến chuyện ấy."

"Nhưng người ta còn thay đổi, phải không hả cậu?" Hatsumi hỏi.

"Cậu muốn nói là họ sẽ ra đời rồi ăn đòn và lớn lên hay sao?"

"Ơ, và nếu anh ấy xa tớ một thời gian, tình cảm của anh ấy với tớ có thể sẽ khác, có phải không?"

"Cũng có thể, nếu hắn là một anh chàng bình thường," tôi nói. "Nhưng hắn khác. Hắn cực kì sắt đá - hơn cậu với tớ tưởng nhiều. Và hắn sẽ chỉ sắt đá hơn theo thời gian mà thôi. Nếu có chuyện gì khiến hắn phải ăn đòn, hắn sẽ dùng ngay chuyện đó để rèn cho mình sắt đá hơn. Hắn đã nuốt cả ốc sên trước khi nhượng bộ. Cậu có thể mong đợi gì ở một con người như thế?"

"Nhưng tớ không thể làm được gì trừ việc chờ đợi anh ấy," Hatsumi nói, tay chống cằm.

"Cậu yêu hắn đến thế ư?"

"Đúng vậy," cô nói, không hề lưỡng lự chút nào.

"Chao ôi," tôi thở dài nói, rồi uống nốt chỗ bia của mình. "Tin chắc là mình yêu ai đến thế hẳn phải là một cảm giác tuyệt vời lắm."

"Tớ là một con bé ngu xuẩn và cổ lỗ," cô nói. "Uống thêm bia nữa nhé"

"Thôi, cám ơn, tớ phải đi thôi. Cám ơn cậu đã thay băng và cho tớ uống bia."
Trong lúc tôi đứng chỗ cửa vào để đi giày thì có tiếng điện thoại reo. Hatsumi nhìn tôi, rồi nhìn cái phôn, rồi lại nhìn tôi.

"Ngủ ngon nhé," tôi chào rồi bước ra ngoài. Lúc đóng cửa, tôi còn thoáng thấy Hatsumi nhấc điện thoại.

Đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy cô. Về đến khu học xá thì đã là mười một rưỡi, tôi đi thẳng đến phòng Nagasawa và gõ cửa. Gõ đến lần thứ mười tôi mới nhớ ra bấy giờ đang là đêm thứ Bảy. Nagasawa bao giờ cũng lấy giấy phép qua đêm vào thứ Bảy với lí do về ở nhà họ hàng.

Tôi về phòng mình, tháo cà-vạt, treo áo tây và quần lên mắc, thay đồ mặc nhà, rồi đánh răng. Ôi chao, tôi nghĩ bụng, mai đã lại là Chủ nhật rồi! Hình như cứ bốn ngày đã lại đến Chủ nhật. Hai Chủ nhật nữa thôi là tôi sẽ tròn hai mươi tuổi. Tôi nằm dài trên giường và dán mắt vào tờ lịch trong lúc những cảm giác âm u cứ thế tràn tới như những đợt sóng.

Tôi ngồi bên bàn học để viết bức thư Chủ nhật cho Naoko, uống cà-phê bằng một cái cốc to và nghe nhạc Miles Davis. Trời đang mưa nhẹ ở bên ngoài, còn trong phòng thì lạnh cóng như một cái bể cá. Mùi băng phiến thoang thoảng ở chiếc áo len dày tôi vừa lấy từ trong một hộp chứa đồ ra. Tít trên cao tấm kính cửa sổ có một con nhặng to đùng đang bám chặt không động đậy. Không có gió, lá cờ Mặt Trời Mọc ủ rũ trên cột như dải áo của một nghị viên La Ma. Một con chó nâu gày nhom nhút nhát không biết từ đâu lạc vào sân học xá đang hít hít ngửi ngửi từng bông hoa một trong luống. Tôi không thể tưởng tượng tại sao lại có con chó đi loanh quanh ngửi hoa như thế dưới trời mưa.

Bức thư của tôi dài. Mỗi khi bàn tay phải bị cứa của tôi bắt đầu thấy đau vì cầm bút, tôi lại ngồi nhìn ra cửa sổ và đưa mắt xuống sân nhà ướt dưới mưa.

Mở đầu thư, tôi kể cho Naoko chuyện bị đứt tay ở tiệm đĩa hát, rồi đến chuyện Nagasawa, Hatsumi và tôi đã có một bữa ăn mừng đêm hôm nọ vì Nagasawa đã đỗ kì thi tuyển vào Bộ Ngoại giao. Tôi mô tả tiệm ăn và món ăn. Thức ăn thì tuyệt, tôi viết, nhưng nửa chừng bữa ăn thì không khí bắt đầu khó chịu.

Tôi tự hỏi không biết có nên nhắc đến Kizuki khi viết về lúc chơi bi-a với Hatsumi hay không, rồi quyết định cứ làm vậy. Tôi cảm thấy mình phải viết chuyện đó.

Mình vẫn nhớ nước đi cuối cùng của Kizuki ngày hôm ấy - ngày mà cậu ấy chết. Đó là một nước bật tường rất khó mà mình không nghĩ là cậu ấy có thể thực hiện được. Nhưng hình như vận may đang đến với cậu ấy: nước đi ấy thật hoàn hảo, và hai trái bóng trắng và đỏ hầu như không gây nên tiếng động nào khi chúng chỉ khẽ chạm vào nhau trên nền nỉ xanh nâu và ghi điểm cho tỉ số cuối cùng của ván ấy. Đó quả là một nước đi tuyệt đẹp, mình vẫn còn nhớ nó như in cho đến tận hôm nay. Trong suốt hai năm rưỡi sau đó, mình không sờ đến cây gậy bi-a một lần nào.

Đêm mình chơi bi-a với Hatsumi, mãi đến cuối ván thứ nhất mình mới nhớ đến Kizuki, và hoàn toàn bị choáng. Mình vẫn đinh ninh là hễ đã chơi bi-a là mình sẽ nhớ đến Kizuki. Thế mà mai đến hết ván thứ nhất rồi mình đã mua một hộp Pepsi ở máy tự động và bắt đầu uống thì mình mới chợt nhớ đến cậu ấy.

Chắc là nhờ có cái máy tự động ấy. Ở chỗ mình với Kizuki chơi với nhau cũng có một cái máy như thế, và chúng mình thường cuộc thắng thua bằng đồ uống mua ở đó.

Mình cảm thấy có lỗi đã không nhớ ngay đến Kizuki, như thể mình đã bỏ rơi cậu ấy. Nhưng khi về đến nhà rồi thì mình lại nghĩ thế này: chuyện xảy ra đã được hai năm rưỡi rồi, và Kizuki thì vẫn mười bảy tuổi. Không phải điều đó có nghĩa là kí ức về cậu ấy của mình đã phai mờ. Những thứ mà cái chết của cậu ấy đã gợi lên vẫn còn đó, sáng sủa rõ ràng, ngay bên trong mình, và một số còn rõ ràng hơn cả lúc đầu.

Điều mình muốn nói ở đây là: mình sắp tròn hai mươi tuổi. Một phần những gì Kizuki và mình đã chia sẻ với nhau lúc hai đứa còn mười sáu, mười bay tuổi đã biến mất rồi, và không thể cứ khóc lóc mai mà lấy lại được chúng. Mình không thể giải thích rõ hơn được nữa, nhưng mình nghĩ có thể cậu sẽ hiểu cảm giác của mình và điều mình đang nói đây. Và có lẽ cậu là người duy nhất trên đời có thể hiểu được những chuyện này.

Mình đang nghĩ đến cậu nhiều hơn bao giờ hết. Hôm nay mưa. Chủ nhật mưa là rất khổ cho mình. Khi trời mưa, mình không thể giặt giũ, tức là cũng không thể là quần là áo được. Mình không thể di dạo, mà cũng chẳng lên nằm trên mái nhà được. Mình chỉ có thể để máy quay đã ở chế độ tự động và nghe đi nghe lại chương trình Kind of Blue trong khi nhìn mưa rơi dưới sân ngoài kia. Như mình đã viết cho cậu trước đây, mình không lên dây cót cho bản thân vào Chủ nhật. Chính vì vậy mà thư này mới dài dòng như thế. Mình dừng bút đây. Mình đi ăn trưa dưới nhà ăn.

Tạm biệt.

Re:Cùng nhau đọc truyện : Rừng Na-uy

Đã gửi: Ba T10 24, 2006 6:38 pm
Viết bởi Ansamurai
Rừng Na-Uy
Chương 9

Dịch giả: Trinh Lữ



Giờ học ngày hôm sau tôi vẫn không thấy bóng dáng Midori đâu. Cô có chuyện gì vậy? Mười ngày đã trôi qua kể từ lần chúng tôi nói chuyện với nhau trên điện thoại. Tôi đã định gọi cô, nhưng lại thôi. Cô đã nói rằng cô sẽ gọi cho tôi.

Thứ Năm tuần ấy tôi gặp Nagasawa trong nhà ăn. Hắn ngồi xuống cạnh tôi với một khay đầy ụ thức ăn và xin lỗi đã làm cho buổi "liên hoan" hôm trước thành ra không vui như vậy.

"Không sao," tôi nói. "Tớ mới phải cám ơn cậu vì bữa ăn thịnh soạn đến thế. Nhưng cũng phải công nhận là kiểu ăn mừng nghề nghiệp mới của cậu như thế thật buồn cười."

"Cậu có thể nói lại câu ấy."

Vài phút trôi qua và chúng tôi vẫn lăng lặng ăn.

"Tớ làm lành với Hatsumi rồi," hắn nói.

"Tớ không ngạc nhiên đâu."

"Tớ cũng đã căng thẳng cả với cậu nữa, nếu tớ nhớ không nhầm."

"Xin lỗi xin lủng thế này là thế nào?" tôi hỏi. "Cậu ốm à?"

"Có lẽ," hắn nói, gật gật đầu máy cái nhè nhẹ.

"Hatsumi bảo tớ cậu khuyên cô ấy bỏ tớ."

"Có lí cả thôi," tôi nói.

"Ừ, tớ cũng nghĩ thế," Nagasawa nói.

"Cô ấy tuyệt như vậy," tôi nói, húp súp xoàn xoạt.

"Tớ biết," hắn nói và thở dài. "Hơi tuyệt quá đối với tớ"

***

Đang ngủ như chết thì có tiếng chuông báo tôi có điện thoại dưới nhà. Nó đem tôi từ cái lõi tận cùng của giấc ngủ ra và ném tôi vào tâm trạng ngơ ngác hoàn toàn. Tôi cảm thấy như mình đã ngủ cắm đầu xuống nước cho đến lúc cả bộ óc sưng vù lên. Đồng hồ chỉ sáu giờ mười lăm nhưng tôi không biết là đang sáng hay chiều, và cũng không biết hôm nay là thứ mấy nữa. Tôi nhìn ra cửa sổ và không thấy có cờ treo trên cột. Chắc là chiều rồi. Vậy là cuối cùng thì cái lê kéo cờ kia cũng có tác dụng của nó.

"Ê, Watanabe, cậu có rỗi bây giờ không?" Midori hỏi.

"Tớ không biết, hôm nay là thứ mấy?"

"Thứ Sáu."

"Đang là sáng hay chiều?"

"Chiều chứ còn gì nữa! Cậu lạ thế! Xem nào, bây giờ… là sáu giờ mười tám phút chiều."

Vậy là chiều rồi! Đúng thế, tôi đã nằm trên giường đọc sách rồi ngủ thiếp đi. Thứ Sáu. Đầu óc tôi bắt đầu làm việc. Tôi không phải đi làm ở tiệm đã hát vào các thứ Sáu.

"Ờ, tớ rỗi. Cậu đang ở đâu?"

"Ga Ueno. Cậu gặp tớ ở Shinjuku có được không?"

"Tớ đi luôn bây giờ đây."

Chúng tôi hẹn giờ và nơi gặp nhau, rồi gác máy.

Khi tôi đến quán DUG, Midori đang ngồi ở cuối quầy bar với một cốc rượu. Cô mặc một áo khoác ngoài đàn ông màu trắng nhàu nhĩ một áo len vàng, quần bò xanh, và một cổ tay có đeo hai cái vòng.

"Cậu đang uống gì thế?" tôi hỏi.

"Tom Collins."

Tôi gọi whisky pha soda, rồi mới nhìn thấy một chiếc vali to nằm dưới chân Midori.

"Tớ đi xa," cô nói. "Vừa về đến đây."

"Cậu đi đâu?" "Xuống phía nam đến Nara và lên phía bắc đến Aomori."

"Một mạch ư?"

"Ngốc ạ. Tớ có thể lạ, nhưng không thể lên bắc xuống nam cùng một lúc. Tớ xuống Nara với bồ, rồi bỏ lên Aomori một mình."

Tôi nhấm nháp whisky với soda, rồi đánh diêm châm điếu Marlboro Midori đang ngậm trên miệng.

"Thời gian qua chắc kinh khủng với cậu lắm, còn ma chay với đủ thứ khác nữa."

"Không đâu, đám ma thì dễ ợt. Bọn tớ làm nhiều quá rồi. Cứ việc khoác bộ kimono đen rồi ngồi đó như một phu nhân và mọi người sẽ lo tất mọi chuyện - một ông bác, một ông hàng xóm, kiểu thế. Họ đem rượu sakê đến, đặt làm sushi, nói những lời an ủi, khóc lóc, rồi lại tiếp tục công việc, chia nhau thứ này thứ nọ. Nhẹ nhàng ấy mà. Như đi pích-níc thôi. So với việc chăm sóc một người ngày này qua ngày khác thì đó đúng là một cuộc pích-níc. Bọn tớ thì mệt, tớ với chị tớ. Bọn tớ còn không khóc nổi. Chẳng còn nước mắt nữa. Thật đấy. Chỉ mỗi tội đã thế mọi người còn xầm xì rằng "Mấy cô này thật ghẻ lạnh như băng". Nhưng chúng tớ vẫn cứ không khóc, chúng tớ là vậy đấy. Tớ biết chúng tớ có thể vờ khóc, nhưng không đời nào chúng tớ làm như vậy. Bọn mất dạy. Chúng càng muốn chúng tớ khóc thì chúng tớ lại càng không khóc. Hai chị em tớ rất khác nhau, nhưng đến những chuyện như thế này thì chúng tớ lại tuyệt đối đồng điệu."
Hai cái vòng tay của Midori kêu lanh canh khi cô vẫy người phục vụ gọi một cốc Tom Collins nữa với một bát hạt hồ trăn.

"Thế rồi thì là, sau khi đám tang đã xong và mọi người đã về cả rồi, hai chị em tớ uống sakê cho đến tận tối. Nhẵn một chai hai lít tướng, rồi nửa chai nữa, và suốt thời gian ấy bọn tớ mạt sát mọi người - này là đồ ngu, nọ là đồ mít đặc, thằng này giống một con chó ghẻ, con mẹ kia thì như lợn sề, lão nọ là đồ đạo đức giả, ngữ ấy thì đúng là đồ gian lận. Cậu không thể biết nó sướng thế nào đâu!"

"Tớ có thể tưởng tượng được."

"Rồi chúng tớ chán và đi ngủ - cả hai đều lạnh cóng. Chúng tớ cứ ngủ suốt, điện thoại kêu hay gì gì nữa chúng tớ cũng mặc kệ. Coi như chết rồi. Cuối cùng, lúc thức dậy, chúng tớ liền gọi sushi về ăn và nói chuyện phải làm gì đây Hai chị em quyết định sẽ đóng cửa hiệu sách một thời gian để nghỉ ngơi. Bọn tớ đã phải hành hạ mình hàng bao nhiêu tháng liền rồi và xứng đáng được giải lao. Chị tớ chỉ muốn quanh quẩn với bạn trai một thời gian, còn tớ thì quyết định phải đi đâu đó vài ngày để làm tình như điên thì mới hả." Midori ngậm chặt miệng và đưa tay lên xoa tai. "Thôi chết, xin lỗi nhé."

"Ôkê mà," tôi nói. "Thế là cậu đi Nara."

"Ờ, tớ vẫn thích chỗ ấy. Những đền thờ và khu vườn nuôi hươu ở đó."

"Và cậu làm tình như điên chứ?"

"Không, không hề, một phát cũng không nữa," cô nói và thở dài. "Vừa đặt chân vào đến phòng khách sạn và đặt túi xuống là tớ bắt đầu thấy kinh, ào ào như thác đổ."

Tôi không thể nhịn được cười.

"Ê, có gì đâu mà cười. Tớ bị sớm mất một tuần! Tớ khóc không nín lại được. Có lẽ lúc ấy bao nhiêu dồn nén mới bùng cả ra. Bồ tớ nó lại còn tức nữa chứ! Nó như vậy đấy: phát cáu ngay lập tức. Mà có phải lỗi tại tớ đâu. Có phải là tớ thích thấy kinh lúc ấy đâu. Rồi thì tạng kinh nguyệt của tớ nó lại còn nặng nề nữa chứ. Một hai ngày đầu, tớ không muốn làm bất kì cái gì cả. Cậu cẩn thận đừng có gặp tớ những ngày như thế?"

"Cũng muốn thế lắm, nhưng làm sao tớ biết được?" tôi hỏi.

"Ôkê, tớ sẽ đội mũ một hai ngày sau khi bắt đầu thấy kinh. Một cái mũ đỏ. Thế được đấy," cô nói và cười phá lên. "Nếu cậu thấy tớ ngoài phố và tớ đang đội một cái mũ đỏ thì chớ có nói gì với tớ, cứ việc biến đi thôi."

"Tuyệt. Tớ ước gì con gái ai cũng làm thế cả," tôi nói. "Thế rồi cậu làm những gì ở Nara?"

"Còn làm quái gì được nữa" Bọn tớ cho hươu ăn và đi khắp nơi ở đó. Chán không thể chịu được! Hai đứa cãi nhau to và chưa đứa nào nhìn mặt nhau từ lúc về đến giờ. Tớ quanh quẩn vài ngày rồi quyết định sẽ đi đâu đó một mình. Thế là tớ đi Aomori. Tớ ở với một người bạn ở Hirosaki hai đêm đầu, rồi bắt đầu đi quanh đó -Shimokita, Tappi, những chỗ như thế. Chỗ nào cũng hay cả. Đã có lần tớ viết một cuốn giới thiệu nhỏ về khu vực ấy. Cậu đã đến đấy bao giờ chưa?"

"Chưa?"

"Được rồi, không sao," Midori nói, nhấp một ngụm Tom Collins, rồi cậy vỏ một hạt hồ trăn, "suốt thời gian đi chơi một mình như thế, tớ toàn nghĩ đến cậu. Tớ nghĩ giá có cậu đi cùng thì hay biết mấy?"

"Sao lại thế?"

"Sao lại thế!" Midori nhìn tôi với đôi mắt chăm chú vào một nơi vô định. "Sao lại thế nghĩa là thế nào?"

"Thì là thế chứ sao nữa! Sao cậu lại nghĩ đến tớ?"

"Có thể vì tớ thích cậu, chứ còn làm sao nữa! Còn lí do gì nữa nào? Có ai mong người nào mà mình không thích đâu cơ chứ?"

"Nhưng cậu có bạn trai rồi mà," tôi nói. "Cậu không phải nghĩ đến tớ làm gì". Tôi chậm rãi nhấp một ngụm whisky pha soda.

"Nghĩa là tớ không được phép nghĩ đến cậu nếu tớ đã có bồ?"

"Không, không phải thế, tớ chỉ…"

"Này Watanabe, hãy nghe cho thủng đây," Midori nói, chỉ tay vào mặt tôi. "Tớ cảnh cáo cậu đây này, tớ đã bị đủ thứ khổ sở dồn nén cả tháng qua rồi và sẵn sàng tá hoả tam tinh đây. Cho nên cậu hay cẩn thận lời nói nghe không. Còn thêm một tí gì nữa nhưng lời kiểu ấy là tớ sẽ khóc lụt hết chỗ này cho mà xem. Cậu sẵn sàng chuyện ấy chưa? Hễ đã khóc là tớ thành con vật chính cống đấy, bất kể là tớ đang ở đâu! Tớ không đùa đâu."

Tôi gật đầu và im thin thít. Tôi gọi cốc whisky soda thứ hai và ăn mấy hạt hồ trăn. Đâu đó đằng sau âm thanh của một cái bình lắc rượu và tiếng li cốc lanh canh xen với tiếng lạo xạo của máy làm nước đá, Sarah Vaughan đang hát một ban tình cả theo kiểu ngày xưa.

"Mọi chuyện vẫn lung tung cả giữa tớ với bồ tớ kề từ sau sự kiện tăm-pông."

"Sự kiện tăm-pông"

"Ờ một tháng trước đây tớ đi uống rượu với hắn và mấy thằng bạn của hắn. Đang uống thì tớ kể chuyện một bà hàng xóm khi hắt xì đã làm bắn cả cái tăm-pông của mụ ra ngoài. Buồn cười chứ, phải không?"

"Quấy thật," tôi phì cười.

"Đấy, và tất cả lũ bạn ấy của hắn cũng nghĩ thế. Nhưng hắn phát điên và nói rằng tớ không được nói những chuyện nhơ bẩn như thế. Rõ dơ dáy quá!"

"Uao!"

"Hắn là một thằng cha rất hay, nhưng có thể rất hẹp hòi trong những chuyện như vậy," Midori nói. "Ví dụ như, hắn phát khùng ngay nếu tớ không mặc đồ lót màu trắng. Cậu có nghĩ thế là hẹp hòi không?"

"Có thể," tôi nói, "nhưng đó chỉ là vấn đề thị hiểu thôi." Tôi không thể tin một thằng cha như thế lại có thể thích một bạn gái như Midori, nhưng không dám nói ra.

"Rồi, còn cậu, vừa rồi cậu làm những gì?" cô hỏi.

"Chẳng có gì. Vẫn vậy thôi," tôi nói, nhưng rồi chợt nhớ lần tôi định thủ dâm với ý nghĩ về Midori như đã hứa. Tôi hết sức thấp giọng kể chuyện ấy với cô để mọi người xung quanh không thể nghe được.

Mắt Midori sáng lên và cô búng ngón tay đến tách một cái. "Thế nào? Tốt đẹp không?"

"Không, được nửa chừng thì tớ lúng túng quá nên đành phải thôi."

"Cậu muốn nói là cậu bị xỉu đi à?"

"Gần như thế?"

"Mẹ kiếp," cô nói, ném cho tôi một cái nhìn khó chịu. "Cậu không thể để mình lúng túng như thế được. Nghĩ đến cái gì đó thật sexy vào. Không sao đâu, tớ cho phép cậu mà. Ê, tớ biết rồi? Lần sau tớ sẽ ở trên phôn với cậu: "Ô, ô, sướng quá… ô, đấy, đấy… Thôi nào, tớ sắp ra… ô, đừng làm thế!" Tớ sẽ nói với cậu những thứ như thế trong lúc cậu loay hoay với nó."

"Điện thoại khu học xá ở dưới sanh chờ ngoài cửa, lúc nào cũng có người qua lại," tôi giải thích. "Lão trưởng khu sẽ vặn cổ tớ nếu thấy tớ loay hoay ở một nơi như thế?"

"Ồ, chán nhỉ."

"Không sao đâu," tôi nói. "Tớ sẽ thử lại một mình một ngày gần đây."

"Cố hết sức nhé," Midori nói.

"Tớ sẽ cố," tôi bảo.

"Tớ đang nghĩ không biết có phải tại tớ không," cô nói. "Có thể tớ không sexy từ trong bản chất."

"Không phải đâu," tôi khẳng định. "Có lẽ chỉ là vấn đề thái độ."

"Cậu biết không," cô nói, "tớ có cái lưng cực kì nhạy cảm này. Chỉ cần mơn man ngón tay lên nó là… mmmmm.

"Tớ sẽ ghi nhớ điều này."

"Ê, sao mình lại không đi xem một bộ phim nhơ nhớp bây giờ nhỉ? Midori nói. "Một thứ bạo tình thực bẩn thỉu vào."
Chúng tôi rời quán bar đến một hàng bán lươn, rồi từ đó đến một trong những rạp xinê con heo điếu tàn nhất khu Shinjuku để xem một chương trình ba phim liền. Đó là rạp duy nhất thấy có quảng cáo chiếu loại phim bạo tình. Vào bên trong, phòng chiếu có một thứ mùi gì không thể tả được. Chúng tôi đến đúng lúc. Vừa vào chỗ là bộ phim bạo tình bắt đầu luôn. Đó là chuyện một cô thư kí với đứa em gái còn đi học bị một bọn đàn ông bắt cóc và tra tấn bạo tình đủ kiểu. Bọn đàn ông bắt chị đàn bà lớn tuổi hơn phải làm đủ trò kinh tởm, nếu không chúng sẽ hiếp cô em gái. Nhưng chẳng mấy chốc bà chị này đã biến thành một mẹ bạo tình cuồng nọ, còn cô em thì xem bà chị với đủ kiểu vặn vẹo như thế cũng đã nứng tình lên ngùn ngụt. Một bộ phim u ám và lặp đi lặp lại, tôi chỉ xem được một lúc là chán.

"Nếu tớ là cô em kia, tớ sẽ không dễ bị kích động đến thế," Midori nói. "Tớ sẽ còn xem nữa đã."

"Tớ cũng nghĩ thế," tôi nói.

"Với lại, cậu có thấy đầu vú cô ta quá đen so với một nữ sinh không - một trinh nữ mà thế ư?"

"Đúng thế?"

Midori dán mắt lên màn ảnh. Tôi rất ấn tượng: người xem phim mà chăm chú căng thẳng thế kia thì chắc chắn là đáng đồng tiền bỏ ra rồi. Cô vẫn tiếp tục báo cáo với tôi những suy nghĩ của cô: "Ôi trời đất ơi, cậu thấy chưa!" hoặc "Ba thằng một lúc! Bọn nó xé nát con bé ra mất!" hoặc "Tớ muốn thử kiểu này với ai đó, Watanabe ơi!" Tôi thích xem Midori hơn bộ phim kia nhiều.

Khi đèn bật sáng giờ giải lao, tôi thấy không có ai là đàn bà ở trong rạp. Một thanh niên ngồỉ gần chúng tôi -có vẻ là sinh viên - nhìn Midori một cái rồi đi ra chỗ khác ở mãi cuối hàng ghế.

"Nói tớ nghe, Watanabe, cậu có cứng lên khi xem những cảnh ấy không?"

"À, có, cũng đôi lúc," tôi nói. "Có thế họ mới làm nhưng phim này chứ?"

"Vậy cậu đang nói là mỗi khi những cảnh ấy bắt đầu, ông đàn ông nào trong rạp cũng dựng cả lên như chào cờ hay sao? Ba hoặc bốn chục ông đều ngỏng hết lên cùng một lúc. Cứ nghĩ thế thì lại thấy rất lạ, có phải không?"

"Ừ cậu nói thế nên tớ mới thấy lạ."

Phim thứ hai cũng chỉ là một chuyện kích dục bình thường, có nghĩa là còn chán hơn cả phim đầu. Anh đàn ông thì chìm ngập suốt trong những tiếng thở dốc, còn chị đàn bà thì phát ra những kiều diễn đạt thông thường như "Đấy!" hoặc "Nữa!" trong lúc oằn oại ở bên dưới anh kia. Còn nghe thấy cả tiếng giường cọt kẹt. Những cảnh ấy cứ diễn đi diễn lại mãi. Lúc đầu Midori còn có vẻ thích thú vô cùng, nhưng rồi đến lúc cô cũng phải thấy chán và có ý muốn ra về. Chúng tôi ra khỏi rạp và hít mấy hơi thật dài. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi thấy không khí ở Shinjuku có vẻ trong lành đến thế.

"Vui nhỉ," Midori nói. "Bao giờ mình lại đi xem nữa nhé."

"Họ chỉ làm mãi những trò như thế," tôi nói.

"Thì họ còn biết làm gì khác nữa" Chúng ta ai chẳng cứ làm mải những việc như nhau đấy thôi."

Cô ta nói cũng có lí thật.

Chúng tôi tìm một quán bar khác và gọi rượu uống.

Tôi lấy whiskv, còn Midori uống ba bốn cái cốc-tay không biết pha phách những gì trong đó. Ra lại bên ngoài, Midori nói cô muốn trèo cây.

"Quanh đây chẳng có cái cây nào," tôi nói. "Mà nếu có thì cậu cũng choáng váng rồi không trèo leo gì được đâu!"

"Cậu lúc nào cũng tỉnh táo như quỉ, cậu làm hỏng mẹ nó mọi việc. Tớ say là vì tớ thích say. Có gì sai nào? Và ngay cả khi say tớ cũng vẫn có thể trèo cây được như thường. Cứt thật, tớ sẽ trèo mãi lên tít tận ngọn một cái cây cổ thụ rõ cao và tớ sẽ tè xuống dầu tất cả mọi người cho mà xem!"

"Này, cậu có cần đi toa-lét không thế?"

Tôi đưa Midori đến một nhà vệ sinh trả tiền ở Ga Shinjuku, nhét một đồng kẽm vào khe thu ngân và ấn cô vào trong đó, rồi mua một số buổi tối ở quầy báo bên cạnh và đọc nó trong khi chờ cô ra. Nhưng cô không ra.

Mười lăm phút sau thì tôi bắt đầu lo và sắp sửa vào xem ra sao thì thấy cô ló ra, mặt mũi tái mét.

"Xin lỗi," cô nói, "tớ ngủ thiếp đi mất."

"Cậu có sao không?" tôi hỏi, khoác cái áo ngoài của tôi lên vai cô.

"Không sao mà," cô nói.

"Để tớ đưa cậu về. Cậu phải về nhà, tắm một cái thật lâu, thật thích, rồi đi ngủ. Cậu kiệt sức rồi."

"Tớ không về nhà đâu. Đề làm cái gì chứ? Chẳng có ma nào cả. Tớ không muốn ngủ một mình ở một nơi như thế?"

"Tuyệt lắm," tôi nói. "Vậy cậu tính sẽ làm gì đây?"

"Đến một nhà nghỉ tình yêu ở đâu đây và ngủ trong vòng tay cậu cả đêm nay. Như một súc gỗ. Sáng mai mình sẽ cùng ăn sáng ở dâu đó rồi cùng đến lớp với nhau."

"Cậu đã dự định chuyện này ngay từ đầu rồi phải không? Thế mà cậu mới gọi tớ."

"Tất nhiên rồi."

"Nhẽ ra cậu phải gọi bồ cậu chứ không phải tớ. Như thế mới hợp lí. Bồ trai chỉ để làm những việc như vậy thôi mà."

"Nhưng tớ muốn ở với cậu."

"Cậu không thể ở với tớ," tôi nói. "Trước hết là tớ phải về học xá trước nửa đêm. Nếu không sẽ vi phạm lệnh giới nghiêm. Bị thế một lần thôi là tha hồ mà trả giá địa ngục. Thứ hai là nếu tớ lên giường với một cô gái, tớ sẽ phải làm chuyện ấy, tớ ghét nhất phải nằm đó mà cố nhịn. Tớ không đùa đâu, tớ có thể cùng đường phải ép uổng cậu đấy."

"Nghĩa là cậu sẽ đánh tớ và trói tớ và hiếp tớ từ đằng sau á?"

"Ê nghe đây, tớ nói nghiêm chỉnh đấy."

"Nhưng tớ cô đơn quá! Tớ muốn được ở với ai đó! Tớ biết mình đang làm những trò khủng khiếp với cậu, toàn những đòi hỏi mà chẳng đáp lại được gì, rồi nghĩ bậy nghĩ bạ gì cũng nói ra tuốt tuột, kéo cậu ra khỏi nhà rồi bắt cậu đưa đi khắp chốn cùng nơi, nhưng cậu là người duy nhất mà tớ có thể cùng làm những chuyện ấy! Tớ chưa bao giờ được làm theo ý mình với bất kì ai, chưa một lần nào trong suốt hai mươi năm mà tớ đã sống qua. Bố tớ, mẹ tớ, họ không bao giờ để ý một tí gì đến tớ, còn bạn trai của tớ ư, mẹ kiếp, hắn không phải loại trai tráng như vậy. Hắn nổi cáu nếu tớ định làm theo ý riêng của tớ. Nên chúng tớ mới cãi nhau. Cậu là người duy nhất tớ có thể nói những điều như thế này. Còn bây giờ thì tớ mệt, mệt, mệt mỏi lắm rồi và tớ chỉ muốn lên giường đi ngủ và nghe ai đó nói với tớ rằng họ thích tớ biết chừng nào và tớ xinh đẹp biết nhường nào và đại loại thế. Tớ chỉ thèm có vậy thôi. Và khi thức dậy, tớ sẽ lại tràn đầy sinh lực và sẽ không bao giờ dám vòi vĩnh ích kỉ thế này nữa. Tớ xin thể. Tớ sẽ là một bé gái ngoan mà."

"Tớ nghe cậu rồi, tin tớ đi, nhưng tớ không thể làm gì được."

"Ôi tớ xin cậu đấy! Nếu không, tớ sẽ ngồi xuống ngay dưới đất đây và khóc cả đêm cho đến lúc vỡ đầu vỡ mặt thì thôi. Và tớ sẽ ngủ với thằng cha đầu tiên nào nói gì đó với tớ."
Thế là xong. Tôi gọi điện về học xá và xin gặp Nagasawa. Khi hắn nhấc máy tôi bảo hắn hãy làm ra bộ như tôi đã về phòng rồi. Tớ đang ở với một cô, tôi giải thích thế.

"Được thôi," hắn nói. "Sự nghiệp ấy là đáng rồi, tớ rất vui được giúp cậu. Tớ vừa mới quay cái thẻ tên cậu sang phía "ở nhà" rồi. Đừng lo. Cứ thoải mái đi. Sáng mai cậu có thể vào qua lối cửa sổ phòng tớ."

"Cám ơn. Tớ nợ cậu chuyện này," tôi nói rồi gác máy.

"Ổn cả chứ?" Midori hỏi.

"Cũng tàm tạm," tôi nói và thở dài.

"Vĩ đại rồi, mình đến một sàn disco nào đi, còn sớm lắm mà."

"Gượm đã nào, tớ tưởng cậu mệt lắm rồi!"

"Trong những chuyện như thế này thì tớ không sao!"

"Thế thì chết rồi."

Và đúng thế thật. Chúng tôi đến một sàn disco, và sức lực cô phục hồi dần trong khi hai đứa nhún nhảy ở đó. Cô uống hai cốc whisky pha coke, và nhảy liên tục cho đến lúc trán đẫm mồ hôi.

"Vui thật là vui!" Cô kêu lên khi chúng tôi ngồi nghỉ ở một bàn. "Tớ không nhảy thế này hàng thế kỷ nay rồi. Không biết nữa, nhưng khi thân thể chuyển động thế này, hình như tinh thần mình được giải phóng vậy."

"Tớ xin nói rằng tinh thần cậu lúc nào mà chẳng được giải phóng."

"Không có đâu!" Cô nói, lắc đầu và mỉm cười. "Nhưng này, bây giờ thấy vui và khỏe rồi thì tớ lại đói cồn lên đây! Mình đi ăn pizza đi."

Tôi đưa cô đến một quán pizza quen biết và gọi bia hơi với một cái pizza cá trích. Tôi không đói lắm và chỉ ăn được bốn trong số mười hai lát pizza. Midori ăn hết chỗ còn lại.

"Cậu bình phục nhanh thật đấy," tôi nói. "Vừa lúc trước cậu còn tái mét và loạng choạng đi không nổi."

"Ấy là vì những vòi vĩnh của tớ đã có người chiều rồi," cô đáp. "Nó làm tan hết sương mù trong người tớ. Uao! Pizza ở đây ngon thật!"

"Này, nói tớ nghe, ở nhà cậu bây giờ không có ai thật à?"

"Thật. Chị tớ ở chỗ ông bồ. Dạo này chị ấy thành ra lẩm cẩm rồi. Hễ tớ không ở nhà là chị ấy không thể ngủ được một mình."

"Vậy mình quên cái trò nhà nghỉ tình yêu đi. Đến những chỗ ấy chỉ tổ thấy mình rẻ rúng lắm. Chúng mình về nhà cậu đi. Cậu có đủ chăn nệm cho tớ ngủ chứ?"

Midori nghĩ một lúc rồi gật đầu. "Ôkê, mình sẽ qua đêm ở nhà tớ."

Chúng tôi lấy tàu hoả, đi tuyến Yamanote đến Otsuka, và chẳng mấy chốc hai đứa đã đang kéo cái cửa cuốn bịt hết mặt tiền của hiệu sách Kobayashi lên. Một thông báo bằng giấy dán trên cửa đề mấy chứ TẠM THỜI ĐÓNG CỬA. Mùi giấy cũ tràn ngập cửa hàng tối om, như thể cái cửa cuốn ấy đã không mở rất lâu rồi. Một nửa số giá sách trống không, và phần lớn các tạp chí bị buộc lại thành bó để trả lại. Cảm giác lạnh lẽo trống rỗng khi lần đầu tôi đến đây nay lại càng thêm sâu sắc. Nơi này giống một cái vỏ tàu hoang phế ngoài bãi biển.

"Cậu không định mở lại cửa hàng à?" Tôi hỏi.

"Không, bọn tớ sẽ bán nó," Midori nói. "Chúng tớ sẽ chia tiền và sống tự lập một thời gian không cần ai phải "bảo trợ" cả. Chị tớ sang năm sẽ cưới, còn tớ phải qua ba năm đại học nữa đã. Ít nhất cũng phải đủ tiền để hai chị em làm được những việc ấy. Tớ cũng sẽ tiếp tục làm thêm. Khi đã bán chỗ này rồi, hai chị em sẽ sống với nhau ở một căn hộ nào đó một thời gian."

"Cậu nghĩ sẽ có người mua chứ?"

"Có thể. Tớ biết có người muốn mở một cửa hàng len ở đây. Vừa rồi bà ấy có hỏi tớ có muốn bán không. Khổ thân bố. Bố vất vả lắm mới gây dựng được chỗ này, mà phải trả nợ dần từng tí một, xong rồi thì hầu như chẳng còn gì. Tất cả tan đi hết, như bọt nước trên sông vậy."

"Nhưng ông ấy đã có cậu," tôi nói.

"Tớ ư?" Midori cười. Cô hít vào một hơi thật dài rồi lại thở ra hết. "Mình lên nhà đi. Dưới này lạnh quá."

Lên gác rồi, Midori để tôi ngồi ở bàn trong bếp rồi đi đun nước tắm. Trong khi cô bận việc đó, tôi đặt ấm đun nước pha trà. Đợi thùng nước tắm nóng lên, chúng tôi ngồi đối diện nhau qua chiếc bàn và uống trà. Tay chống cằm, cô nhìn tôi chăm chú một lúc rất lâu. Chẳng có tiếng động gì ngoài tiếng đồng hồ tích tắc và tiếng động cơ tủ lạnh rì rầm lúc chạy không theo với nhịp rơ-le đóng mở. Đồng hồ chỉ sắp nửa đêm.

"Cậu biết không, Watanabe, nhìn thật kĩ thì cậu có một cái mặt thú vị ra phết."

"Cậu nghĩ thế à?" tôi hỏi, hơi chạm tự ái.

"Tớ vẫn hay để ý và nhớ những gương mặt hay hay," cô nói. "Nhưng cậu thì… nói thật nhé, càng nhìn cậu tớ càng nghĩ rằng "hắn sẽ làm cho mà xem."

"Tớ cũng vậy," tôi nói. "Lâu lâu tớ lại ngẫm nghĩ về mình một lần, và tớ lại tự nhủ "Phải rồi, mình sợ đếch gì cơ chứ?"

"Ê, tớ không muốn nói theo ý xấu đâu. Tớ không giỏi diễn đạt những cảm xúc của mình ra bằng lời. Chính thế mà mọi người hiểu lầm tớ. Tớ chỉ muốn nói là tớ thích cậu. Tớ bao cậu thế rồi, đúng không?"

"Rồi," tôi nói.

"Tớ định nói là, không phải chỉ có tớ mới là người gặp khó khăn khi muốn tìm hiểu xem đàn ông thực chất là thế nào. Nhưng tớ đã và sẽ làm được việc đó, dần dần từng tí một."

Midori mang ra một bao Marlboro và châm một điếu "Bắt đầu từ số không thì cứ tha hồ mà học."

"Cũng phải thôi."

"Ô tí nữa thì quên! Cậu có muốn thắp cho bố tớ một nén nhang không?"

Tôi theo Midori vào căn phòng có bàn thờ Phật, thắp một nén nhang trước bức ảnh chụp ông bố, và chắp tay.

"Biết hôm trước tớ đã làm gì không?" Midori hỏi. "Tớ cởi trần truồng hết trước bức ảnh bố tớ. Cởi đến mảnh vải cuối cùng và để ông ấy nhìn thật lâu, thật kĩ. Kiểu như một tư thế Yoga. Giống như bảo "Bố ơi, này là đứa con gái mà bố đã làm ra."

"Lí do quái quỉ gì mà cậu lại làm thế?" tôi hỏi.

"Tớ không biết, tớ chỉ muốn cho ông ấy xem. Nghĩ coi một nửa tớ là tinh khí của ông ấy, đúng không? Sao lại không cho ông ấy xem? Lúc ấy tớ cũng hơi say. Có lẽ cũng vì thế nữa."

"Tớ cũng nghĩ vậy."

"Chị tớ bước vào và tí nữa thì ngã bổ chửng. Tớ đang ở đó, trước bức ảnh thờ bố, trần như nhộng. Tớ đoán chắc cậu cũng phải ngạc nhiên."

"Tớ cũng nghĩ thế?"

"Tớ giải thích tại sao mình đang làm vậy và bảo, "Nào, Momo (tên chị ấy là Momo) chị cũng cởi quần áo ra đi, rồi ngồi cạnh em đây cho bố xem, nhưng chị ấy không dám. Chị ấy choáng váng bỏ đi. Rõ thật là bảo thủ."

"Nói cách khác thì nghĩa là chị ấy tương đối bình thường, phải không?"

"Nói tớ nghe, Watanabe, cậu nghĩ gì về bố tớ?"

"Tớ không thoải mái lắm với những ai mới gặp, nhưng không thấy khó chịu gì lúc có một mình với ông cụ. Tớ thấy khá thoải mái. Và nói với cụ đủ thứ chuyện."

"Những chuyện gì vậy?

"Euripides," tôi đáp.

Midori cười ầm lên. "Cậu thật lạ! Không ai nói chuyện Euripides với một người hấp hối vừa mới gặp cả!"

"Nào, cũng không có cô gái nào lại ngồi tênh hênh trước ảnh thờ của bố mình cả!"
Midori chặc lưỡi và rung rung cái chuông trên bàn thờ. "Ngủ ngon nhé, bố ơi. Bọn con sắp vui thú với nhau một tí đây, bố đừng lo và cố ngủ một tí đi nhé. Bố không đau đớn phải không ạ? Bố chết rồi mà, bố có nhớ không? Con chắc là bố hết đau đớn rồi. Còn nếu không thì bố phải kêu với thánh thần thôi bố ơi. Bảo họ như thế là ác quá đấy! Con mong bố gặp mẹ và hai người làm chuyện ấy với nhau thật tình vào nhé. Con đã thấy con cò của bố lúc cho bố đi tè. Ấn tượng ra phết? Nên bố phải tận dụng nó cho đã bố nhé. Chúc bố ngủ ngon."

Chúng tôi lần lượt vào thùng tắm rồi thay đồ mặc đi ngủ.

Tôi mượn một bộ gần như mới của bố Midori. Hơi chật nhưng có còn hơn không. Midori trải nệm cho tôi trên sàn phòng thờ.

"Cậu không sợ phải ngủ trước ban thờ chứ? Cô hỏi.

"Chẳng sợ tí nào. Tớ chưa làm chuyện gì xấu cả," tôi mỉm cười nói.

"Nhưng cậu sẽ nằm cạnh và ôm tớ cho đến lúc tớ ngủ đã chứ, đúng không?"

"Đúng rồi," tôi nói.

Chỉ chực ngã lăn khỏi mép cái giường hẹp của Midori, tôi ôm cô trong lòng. Mũi chúi vào ngực tôi, cô đặt cả hai tay lên hai bên hông tôi. Cánh tay phải tôi vòng qua lưng cô trong khi bàn tay trái tôi cứ phải bám chặt lên khung đầu giường để cho mình khỏi ngã.

Không phải là một tư thế có thể dẫn đến hứng khởi tình dục Mũi tôi sát ngay trên đầu cô và mái tóc ngắn của cô cứ cù vào nó suốt.

"Nào, nói gì với tớ đi chứ," Midori nói, vùi mặt vào ngực tôi.

"Cậu muốn tớ nói gì đây?"

"Gì cũng được. Cái gì làm tớ thích ấy?"

"Cậu thật xinh," tôi nói.

"Midori," cô nói. "Nói tên tớ ấy."

"Cậu thật xinh, Midori à," tôi chỉnh lại.

"Thật xinh nghĩa là sao?"

"Xinh đến nỗi núi non mềm sụm xuống và đại dương khô hết đi."

Midori ngẩng lên nhìn tôi. "Cậu thật đặc biệt với ngôn từ."

"Tớ có thể cảm thấy lòng mình dịu đi khi cậu nói thế," tôi nói và mỉm cười.

"Nói cái gì hay hơn nữa đi."

"Tớ thực sự thích cậu, Midori à. Thích lắm."

"Lắm là bao nhiêu"

"Là như một chú gấu mùa xuân," tôi nói.

"Một chú gấu mùa xuân ư?" Midori lại ngẩng lên.

"Thế nghĩa là sao? Một chú gấu mùa xuân."

"Cậu đang bước đi trên một cánh đồng, chỉ có một mình, vào một ngày xuân, và chú gấu con bé nhỏ đáng yêu ấy với bộ lông mượt như nhung và cặp mắt nhỏ sáng ngời chạy tới đi cùng với cậu. Và nó nói "Xin chào tiểu thư. Có muốn lộn nhào với tôi không?" Thế là cậu với chú gấu chơi với nhau cả ngày hôm đó, quấn quít trong tay nhau, lăn mình xuống triền đồi phủ đầy hoa cỏ ở đó. Hay chưa nào?"

"Ờ. Thật là hay."

"Tớ thích cậu đến như vậy đấy."

"Đó là điều tốt đẹp nhất mà tớ từng được nghe,"

Midori nói, nép mãi vào ngực tôi. "Nếu cậu thích tớ đến thế, cậu sẽ làm mọi thứ tớ bảo cậu chứ? Cậu sẽ không nổi cáu chứ?"

"Không đâu, tất nhiên là không rồi."

"Và cậu sẽ luôn luôn chăm sóc tớ chứ, luôn luôn chứ?"

"Ừ, tất nhiên rồi," tôi nói, vuốt ve mái tóc mềm mà ngắn như tóc con trai của cô. "Đừng lo, mọi chuyện rồi sẽ ổn cả mà."

"Nhưng mà tớ sợ," cô nói.

Tôi nhẹ nhàng ôm cô, và chẳng mấy chốc đôi vai cô đã nhô lên hạ xuống đều đặn theo nhịp thở có thể nghe thấy được của giấc ngủ. Tôi tuồn ra khỏi giường và vào bếp lấy một hộp bia. Tôi chẳng buồn ngủ chút nào, nên nghĩ đến chuyện đọc sách, nhưng chẳng tìm được cuốn nào đáng đọc ở quanh đổ. Tôi đã định vào phòng Midori để tìm, nhưng lại không muốn lục lọi nhớ làm cô thức giấc.

Tôi ngồi đó nhìn vào không trung một lúc lâu, nhấp nháp bia, rồi chợt nhớ là mình đang ở trong một hiệu sách. Tôi xuống nhà, bạt đèn và bắt đầu nhìn lướt các giá để sách bìa mềm. Chẳng có gì hấp dân, và nếu có thì phần lớn là tôi đã đọc cả rồi, nhưng thể nào tôi cũng phải tìm ra cái gì đó để đọc. Tôi nhặt được một cuốn Dưới Bánh xe của Hermann Hesse đã bạc màu, chắc đã không bán được từ lâu lắm rồi, và để tiền trả vào chỗ quầy thu ngân. Đó là đóng góp nhó nhoi của tôi để giảm nhẹ nợ nần của nhà sách Kobayashi.

Tôi ngồi chỗ cái bàn trong bếp, vừa uống bia vừa đọc Dưới Bánh xe. Tôi đã đọc cuốn này lần đầu lúc mới vào trung học. Và bây giờ, tám năm sau, tôi lại ngồi đây, đọc lại nó trong bếp ở nhà một cô gái, mặc bộ đồ ngủ chật ních của ông bố mới chết của cô ta. Lạ lùng thật.

Nếu không có những hoàn cảnh kì lạ thế này, có lẽ tôi chẳng bao giờ đọc lại Dưới Bánh xe.

Cuốn sách quả là có những đoạn đã lỗi thời, nhưng là tiểu thuyết thì nó cũng không tồi. Tôi đọc chầm chậm, thưởng thức từng dòng một, trong một hiệu sách im lìm giữa đêm khuya. Một chai rượu mùi bụi bặm đứng trên một cái giá trong bếp. Tôi rót một ít vào một cái cốc dùng để uống cà-phê rồi nhấm nháp tí một. Nó làm tôi ấm người nhưng chẳng giúp tôi buồn ngủ được tí nào.

Tôi vào xem Midori ra sao trước lúc ba giờ một tí, nhưng cô vẫn đang ngủ say. Chắc hẳn cô phải mệt mỏi lắm. Đèn từ dãy phố đầy những cửa hàng dưới cửa sổ hắt vào một thứ ánh sáng trắng nhè nhẹ, giống như ánh trăng, tràn ngập gian phòng. Midori ngủ quay lưng ra phía có ánh đèn. Cô nằm thật im, gần như đã đóng băng.

Cúi xuống gần, tôi nghe được tiếng thở của cô. Cô ngủ giống hệt như ông bố.
Chiếc vali vừa đi cùng với cô nay để cạnh giường. Chiếc áo choàng trắng vắt trên lưng một cái ghế. Mặt bàn học của cô gọn gàng ngăn nắp, và trên tường có treo một cuốn lịch có hình chú chó Snoopy trong phim hoạt hoạ.

Tôi hé rèm nhìn xuống dãy cửa hàng vắng ngắt. Hàng nào cũng đóng, hạ kín những tấm cửa cuốn mặt tiền. Chỉ có những cái máy bán hàng tự động là hình như đang phủ phục chờ một ngày mới nữa. Thỉnh thoảng không khí lại rung lên khi sóng âm thanh của những chiếc xe tải hạng nặng nghiến lốp xe xuống mặt đường từ rất xa ào đến. Tôi trở lại bếp, rót thêm rượu mùi và tiếp tục đọc Dưới Bánh xe.

Khi tôi đọc hết cuốn sách thì trời đã rạng sáng. Tôi pha một ít cà-phê tan rồi lấy giấy với bút bi tìm thấy trên bàn viết cho Midori mấy chữ: Tớ uống một ít rượu mùi của cậu. Tớ mua một cuốn Dưới Bánh xe. Ngoài trời sáng rồi, nên tớ phải về. Tạm biệt. Sau một chút lưỡng lự, tôi viết thêm: Trông cậu lúc ngủ thực xinh. Tôi rửa cốc cà-phê, tắt đèn bếp, xuống nhà, khe khẽ nhấc cái cửa cuốn rồi bước ra phố. Tôi đã lo hàng xóm có thể thấy tôi đáng ngờ, nhưng ngoài đường chưa có ai lúc mới năm giờ năm mươi gì đó vào buổi sáng. Chỉ có lũ quạ vẫn đậu ở chỗ quen thuộc của chúng trên mái nhà và nhìn chằm chằm xuống phố. Tôi liếc nhìn lên tấm màn cửa màu hồng nhạt ở phòng Midori rồi đi ra trạm tàu điện, lên tàu ngồi cho đến cuối đường, rồi đi bộ về học xá. Trên đường tôi thấy một tiệm cà-phê đã mở cửa liền ăn một bữa điểm tâm có cơm với súp đậu tương, rau muối và trứng rán. Đi vòng ra sau khu học xá, tôi gõ gõ vào cửa sổ tầng trệt của phòng Nagasawa. Hắn mở cho tôi trèo vào ngay lập tức.

"Cà phê không?" hắn hỏi.

Tôi cám ơn hắn, lên phòng mình, đánh răng, cởi quần dài, chui vào chăn và nhắm chặt mắt lại. Cuối cùng, một giấc ngủ không mộng mị gì khép lại trên tôi như một cánh cửa bằng chì nặng trịch.

Tuần nào tôi cũng viết thư cho Naoko, và nàng thường viết trả lời. Những bức thư của nàng không bao giờ quá dài. Chẳng mấy chốc đã thấy có những đoạn viết về những buổi sáng và buổi tối lạnh lẽo tháng Mười một.

Cậu về Tokyo đúng vào lúc mùa thu bắt đầu tàn, nên nhiều lúc mình không biết cái hố đang mở ra trong lòng mình là do nhớ cậu hay là vì chuyển mùa. Reiko và mình nói đến cậu suốt. Chị ấy nhắc không được quên bảo là chị ấy có lời hỏi thăm cậu. Chị ấy vẫn tốt với mình như thế. Mình nghĩ nếu không có chị ấy chắc mình không thể chịu được nơi này. Khi thấy cô đơn mình vẫn khóc. Reiko bảo mình khóc thế là tốt.

Nhưng cô đơn quả thật là một cảm giác đau đớn. Khi cô đơn trong đêm, mình thấy có người nói với mình từ trong bóng tối. Họ nói với mình như kiểu cây cối vẫn rền rĩ trong gió lúc ban đêm vậy. Kizuki; chị mình: họ vẫn nói chuyện như thế với mình suốt. Họ cũng cô đơn, và muốn tìm người trò chuyện.

Mình thường đọc lại những lá thư của cậu trong đêm khi thấy cô đơn và đau đớn. Mình thấy hoang mang về rất nhiều chuyện nghe được từ bên ngoài, nhưng những đoạn cậu mô tả mọi thứ xung quanh cậu giúp mình thấy nhẹ nhõm tuyệt vời. Lạ thế đấy!

Mình không hiểu tại sao lại thế. Thế là mình cứ phải đọc đi đọc lại chúng, và Reiko cũng thế. Rồi chúng mình nói chuyện về những điều cậu đã kể cho mình trong thư. Mình rất thích đoạn về ông bố của cô gái Midori ấy. Chúng mình mong thư cậu hàng tuần như một trong những niềm vui giải trí vậy - đúng thế, ở một nơi như thế này, thư từ là nguồn giải trí của chúng mình.

Mình cố hết sức dành thời gian mỗi tuần để viết cho cậu, nhưng khi đã ngồi trước trang giấy trắng thì mình lại bắt đầu thấy lo lắng buồn rầu. Cả thư này nữa mình cũng phải cố lắm mới viết được. Reiko đã hò hét nhắc mình phải trả lời cậu. Dù sao thì cũng đừng hiểu lầm mình. Mình có hàng tấn chuyện muốn nói với cậu, muốn kể cho cậu nghe. Chỉ tội mình thấy rất khó diễn đạt chúng ra bằng lời. Chính thế mà viết thư là một việc rất khó nhọc đối với mình.

Nói đến Midori, cô ấy có vẻ là một người thú vị. Đọc thư cậu, mình có cảm giác là có thể cô ấy đã phải lòng cậu rồi. Lúc mình nói điều đó với Reiko, chị ấy bảo "Tất nhiên là thế rồi? Đến tôi cũng còn phải lòng Watanabe nữa là!" Dạo này chúng mình đi hái nấm, nhặt hạt dẻ, và ăn chúng hàng ngày. Mà mình nói hàng ngày tức là hàng ngày thật ấy: cơm với hạt dẻ, cơm với nấm matsutake, nhưng ăn rất ngon, và không thấy chán tí nào. Nhưng Reiko không ăn nhiều thế đâu. Chị ấy thì vẫn cứ hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác. Bầy chim với lũ thỏ đều ổn cả.

Tạm biệt.

Ba ngày sau sinh nhật thứ hai mươi, tôi nhận được một bưu phẩm của Naoko. Mở ra, tôi thấy một cái áo len cổ lọ màu rượu vang và một lá thư.

Chúc mừng sinh nhật! Mình hy vọng cậu sẽ có một năm hạnh phúc của tuổi hai mươi. Năm hai mươi tuổi của mình có vẻ sẽ kết thúc với mình vẫn khổ sở như từ xưa đến nay, nhưng mình sẽ rất thích nếu cậu có thể gộp phần hạnh phúc của cậu vào với phần hạnh phúc của mình. Thật đấy. Reiko và mình mỗi người đan một nửa cái áo cho cậu đấy. Nếu đan một mình, có lẽ phải đến Valentine sang năm mình mới xong được. Nửa đẹp là của Reiko, nửa xấu là của mình. Reiko làm cái gì cũng giỏi, thỉnh thoảng nhìn chị ấy mà mình thấy chán mình quá. Mình muốn nói là mình chẳng làm được việc gì cho ra hồn cả!

Tạm biệt.

Khoẻ nhé.

Trong gói có cả một mẩu giấy của Reiko:

Cậu thế nào? Với cậu, Naoko có thể là đỉnh cao hạnh phúc, nhưng với tôi cô ấy chỉ là cô gái vụng về. Dù sao, chúng tôi cũng đã loay hoay đan xong được cái áo len này kịp sinh nhật cậu. Đẹp đấy chứ, phải không nào? Chúng tôi tự chọn màu và kiểu đấy.


Chương 10

Khi nghĩ lại năm 1969 tâm trí tôi chỉ thấy một vùng đầm lầy - một vùng bùn sâu dẻo quánh có vẻ muốn mút chặt và kéo tuột giày tôi ra mỗi lần tôi cất bước. Tôi đi trong vùng bùn ấy, sức lực kiệt dần. Đằng trước, đằng sau, tôi không nhìn thấy gì khác ngoài bóng tối vô tận của đầm lầy.

Ngay đến thời gian cũng gập ghềnh trôi theo những bước đi loạng choạng của tôi. Mọi người xung quanh đã đi trước tôi từ lâu rồi, chỉ có thời gian của tôi và tôi rớt lại sau và đang phải vật lộn với bùn lầy. Thế giới xung quanh tôi đang mấp mé những cuộc đổi thay vĩ đại. Cái chết đã lấy sinh mạng của John Coltrane và biết bao nhiêu người khác nữa. Người ta hò hét rằng những biến cải cách mạng lúc nào cũng có vẻ như sắp diễn ra đến nơi, đã ở ngay khúc đường quanh trước mặt. Nhưng những "biến cải" diễn ra được thì chỉ như trò thay đổi phông màn sân khấu, mà chỉ là những cái phông bẹt gí chẳng có thực chất và ý nghĩa gì. Ngày lại ngày, tôi bì bõm bước tới, chẳng mấy khi ngẩng mặt lên, mắt dính chặt xuống mặt đầm lầy trải dài vô tận, đặt chân phải xuống, nhấc chân trái lên, đặt chân trái xuống, nhấc chân phải lên, không bao giờ biết chắc mình đang ở đâu, không bao giờ chắc mình có đi đúng hướng không, chỉ biết mỗi một điều là mình cứ phải đi tiếp, từng bước, từng bước một.

Tôi đã hai mươi tuổi, thu tàn thì đông tới, nhưng chẳng có thay đổi nào có ý nghĩa trong cuộc sống của tôi. Không có chút hào hứng nào, nhưng tôi vẫn đến lớp nghe giảng, đi làm mỗi tuần ba tối ở tiệm đĩa hát, thỉnh thoảng đọc lại Gatsby vĩ đại, và đến Chủ nhật thì giặt giũ và viết một thư dài cho Naoko. Đôi khi tôi đi ra ngoài chơi với Midori, ăn với nhau một bữa, đến vườn bách thú, hoặc đi xem phim. Việc bán hiệu sách Kobayashi diễn ra như dự kiến. Chị em Midori dọn đến một căn hộ hai phòng ngủ gần Myogadani, một khu phố cao cấp hơn một tí. Midori nói khi nào người chị lấy chồng thì cô sẽ tìm thuê một căn hộ khác cho riêng mình. Cô đã mời tôi đến ăn trưa ở căn hộ mới của hai chị em một lần. Một căn hộ đẹp sáng sủa. Midori có vẻ thích chỗ đó hơn hẳn tầng gác cũ của cô ở hiệu sách Kobaybashi ngày trước.

Lâu lâu một lần, Nagasawa lại rủ tôi đi chinh chiến một chầu như ngày xưa chúng tôi vẫn làm, nhưng lần nào tôi cũng tìm ra lí do để từ chối. Tôi thấy ngại quá rồi. Không phải là ngại ngủ với gái, mà là chỉ nghĩ đến đường trường phải xuống phố uống rượu, rồi tìm cho đúng đối tượng gái, tán chuyện với họ, rồi đưa họ đến khách sạn, là tôi đã thấy mệt hết cả người. Tôi lại càng khâm phục Nagasawa hơn khi thấy hắn vẫn có thể tiếp tục những nghi thức ấy mà không thấy kinh tởm hoặc mệt mỏi. Có lẽ những điều Hatsumi từng khuyên tôi nay đã có tác dụng: tôi có thể làm cho mình thấy hạnh phúc hơn nhiều chỉ bằng cách nghĩ đến Naoko chứ không phải đi ngủ với mấy cô gái vô danh ngu xuẩn nào đó. Cảm xúc trên da thịt khi tôi nghĩ đến những ngón tay của Naoko có thể đem tôi lên cực lạc với hình ảnh cánh đồng cỏ vẫn sinh động mồn một ở trong tôi.

Đầu tháng Mười hai, tôi viết cho nàng để hỏi xem tôi đến thăm vào dịp nghĩ đông ấy có tiện cho nàng không. Tôi nhận được thư trả lời của Reiko nói họ sẽ rất mong được đón tôi. Chị giải thích rằng Naoko đang không thể viết thư được và rằng chị viết trả lời thế này là thay mặt cho cả nàng. Tôi không muốn hiểu theo hướng Naoko có thể đang trong tình trạng trầm trọng. Không cần phải lo lắng như thế. Nàng vẫn thường lúc này lúc kia, như từng đợt sóng một.

Đến kì nghỉ đông, tôi nhét mọi thứ vào ba-lô, vận ủng đi tuyết, và lên đường đi Kyoto. Ông bác sĩ già đã nói đúng: núi non mùa đông phủ đầy tuyết trắng đẹp không thể tưởng tượng được. Cũng như lần trước, tôi ngủ hai đêm trong cùng căn hộ của Naoko và Reiko, và có ba ngày cùng với họ làm những việc hệt như thế. Khi mặt trời đã lặn, Reiko lại chơi ghi-ta và cả ba chúng tôi quây quần ngồi nói chuyện. Đáng nhẽ đi pích-níc thì chúng tôi đi trượt tuyết đường dài với nhau. Một tiếng liền trượt tuyết xuyên rừng cũng đủ cho chúng tôi hết hơi và đẫm mồ hôi. Có lúc chúng tôi cũng tham gia xúc tuyết với bệnh nhân và cán bộ trong khu điều dưỡng. Bác sĩ Miyata chạy sang bàn chúng tôi trong bữa tối để giải thích tại sao ngón tay giữa của người ta dài hơn ngón trỏ trong khi tình hình lại trái ngược ở các ngón chân. Ông thường trực Omura lại nói với tôi về món thịt lợn ở Tokyo. Reiko rất thích những đĩa hát làm quà mà tôi mang theo từ thành phố. Chị ghi nốt nhạc của mấy giai điệu ưa thích và chuyển thể chúng cho đàn ghi-ta.

Naoko ít nói hơn hẳn so với dạo mùa thu. Khi ba chúng tôi quây quần, nàng thường ngồi trên sô-pha, miệng mỉm cười, và hầu như không nói câu nào. Reiko có vẻ cố tình liến láu chuyện trò để bù vào khoảng trống của nàng. "Nhưng cậu đừng lo," Naoko bảo tôi. "Đây chỉ là một đợt thế thôi. Mà mình thấy nghe hai người nói chuyện thế là vui lắm rồi, mình nói làm gì nữa."

Reiko viện cớ việc này việc nọ để ra khỏi nhà, cốt cho Naoko và tôi có thể lên giường với nhau. Tôi hôn cổ, hôn vai và hôn lên đôi vú nàng, và nàng dùng tay cho tôi đạt tới cực cảm như lần trước. Sau đó, khi ôm chặt nàng trong tay, tôi kể cho nàng nghe những động chạm của nàng đã sống trên da thịt tôi ra sao trong suốt hai tháng qua, và tôi đã nghĩ đến nàng khi thủ dâm như thế nào.

"Cậu chưa ngủ với ai khác ư?" Naoko hỏi.

"Chưa hề," tôi nói.

"Được rồi, vậy thì thêm cho cậu để nhớ nữa này."

Nàng trườn xuống và hôn tôi ở đó, rồi ôm ấp hết nó trong vòm miệng ấm nóng của nàng, vuốt ve nó bằng lưới đến khắp chốn, mái tóc dài và thẳng của nàng đung đưa lên xuống trên bụng dưới tôi theo với từng chuyển động của môi nàng cho đến lúc tôi bùng nổ lần thứ hai.

"Cậu có nhớ được không nào? Nàng hỏi.

"Có chứ," tôi hổn hển. "Nhớ suốt mất thôi."

Tôi ôm ghì nàng trong lòng và luồn tay vào trong quần lót của nàng, chạm đến cửa mình vẫn còn khô của nàng. Naoko lắc đầu và kéo tay tôi ra. Chúng tôi ôm nhau một lúc lâu, không ai nói gì.

"Mình đang tính ra khỏi khu học xá cuối học kì này và tìm một căn hộ để ở," tôi nói. "Đời học xá thế là đủ rồi. Nếu cứ đi làm thêm, mình có thể sống khá đầy đủ. Cậu về Tokyo sống với mình đi, như mình vẫn nói ấy."

"Ôi, cám ơn Toru. Mình thật hạnh phúc được cậu đề nghị một chuyện như vậy!"

"Không phải mình nghĩ là ở đây có vấn đề gì đâu," tôi nói. "Chỗ này thật yên tĩnh, cảnh vật xung quanh thật hoàn hảo, và Reiko là một người tuyệt vời. Nhưng đây không phải là chỗ có thể ở lâu dài. Nó quá chuyên biệt. Càng ở đây lâu, tớ chắc thế, sẽ càng khó lòng mà đi đâu được nữa."

Đáng nhẽ trả lời thì Naoko lại quay mặt nhìn ra cửa sổ. Bên ngoài chẳng thấy có gì ngoài tuyết trắng. Những đám mây tuyết nặng nề chìm xuống thấp và chen vai thích cánh nhau là là trên mặt đất tuyết phủ đầy.

"Cậu đừng phải vội, cứ nghĩ kĩ đi," tôi nói. "Có chuyện gì đi nữa thì mình cũng vẫn sẽ dọn nhà vào cuối tháng Ba. Cậu đến với mình bất kì lúc nào cũng được."

Naoko gật đầu. Tôi quàng tay ôm nàng cẩn thận như đang ôm một tác phẩm nghệ thuật rất tinh tế bằng thuỷ tinh. Nàng quàng hai tay lên cổ tôi. Tôi trần trụi, còn nàng chỉ mặc chiếc quần lót trắng bé tí tẹo. Tấm thân nàng thật đẹp. Tôi có thể ngắm nhìn nàng suốt ngày không chán.

"Sao mình không ướt thế nhỉ?" Naoko thì thầm. "Cái lần ấy là lần duy nhất từ xưa tới giờ. Hôm sinh nhật mình hai mươi tuổi ấy, trong tháng Tư ấy. Cái đêm mà cậu ôm mình trong lòng ấy. Mình có chuyện gì vậy?"

"Hoàn toàn là tâm lí thôi, mình chắc vậy," tôi nói. "Cứ từ từ! Đừng nóng vội."

"Tất cả những trục trặc của mình chỉ là tâm lí đơn thuần," Naoko nói. "Nhỡ mình không bao giờ khỏi thì sao? Nhỡ mình không bao giờ có thể làm tình nữa thì sao? Cậu có yêu mình như thế này mãi được không? Liệu tay với môi có đủ cho cậu mãi được không? Hay cậu sẽ phải giải quyết dục tình bằng cách ngủ với các cô gái khác?"

"Mình là một người lạc quan cố hữu," tôi nói.

Naoko ngồi dậy trên giường và mặc một cái áo phông lên người. Nàng khoác thêm một cái sơ-mi, rồi xỏ chân vào quần bò. Tôi cũng mặc lại quần áo.

"Để mình suy nghĩ nhé," Naoko nói. "Và cậu cũng suy nghĩ nữa đấy."

Nàng hơi đỏ mặt và mỉm cười bẽn lẽn. "Kizuki cũng chường hay nói thế?"

"Cậu ấy với mình có khá nhiều thị hiểu và ý kiến giống nhau," tôi mỉm cười.

Chúng tôi ngồi đối diện nhau qua chiếc bàn trong bếp, vừa uống cà-phê vừa nói chuyện ngày xưa. Nàng đang bắt đầu nói nhiều hơn về Kizuki, nhưng vẫn hay lưỡng lự, và lựa lời cẩn thận. Cứ lâu lâu tuyết lại xuống một trận rồi ngừng. Trong suốt ba ngày tôi ở đó, trời không quang quẻ ra được tí nào. "Có lẽ tớ có thể trở lại vào tháng Ba," tôi nói lúc chia tay. Tôi ôm lấy nàng một lần cuối, cách ngỡ dày cộp với chiếc áo khoác mùa đông mặc trên người, và hôn lên miệng nàng.

"Tạm biệt," nàng nói.

***

Rồi sang năm 1970 - một năm có âm thanh mới mẻ hẳn khi ta nói to nó lên - chấm dứt quãng đầu xanh niên thiếu của tôi. Bây giờ thì tôi có thể bước sang một đầm lầy hoàn toàn mới. Rồi đến những kì thi, và tôi đều qua được khá dễ dàng. Nếu ta chẳng có gì khác để làm và chỉ biết đến lớp đều đặn thì chẳng cần phải có kĩ năng gì đặc biệt cũng có thế qua được những bài thi cuối năm ấy.

Nhưng trong khu học xá thì nảy sinh một số vấn đề. Một vài gã vẫn hoạt động trong một phe phái chính trị đã giấu mũ sắt và ống nước trong phòng ở của chúng. Chúng đã xô xát với bọn cầu thủ bóng chày con cưng của ông trưởng khu học xá, và kết quả là có hai đứa bị thương và sáu đứa bị đuổi. Dư chấn của sự kiện này kéo dài rất lâu, gây nên những trận ẩu đã nho nhỏ xảy ra hầu như hàng ngày. Một bầu không khí nặng nề bao trùm khắp khu học xá, và ai cũng bồn chồn căng thẳng. Chính tôi cũng suýt nữa bị một gã phe bóng chày đánh nhừ tử nếu không có Nagasawa can thiệp kịp thời và thu xếp ổn thoả sau đó. Gì thì gì, đã đến lúc tôi phải chuồn khỏi nơi này.

Khi đã xong gần hết các môn thi, tôi bắt đầu tích cực tìm kiếm một căn hộ. Sau một tuần mò mẫm, tôi tìm được một chỗ vừa ý ở mãi khu ngoại ô Kichijoji. Địa điểm thì không được tiện lợi lắm, nhưng đó là một cái nhà: một ngôi nhà độc lập hẳn hoi - một phát hiện đáng giá. Vốn là một chái nhà của người làm vườn hoặc một kiểu nhà gỗ gì đó dùng để nghỉ ngơi ngoài vườn, nó đứng một mình trong góc một khu đất rộng rãi, cách khu nhà chính cả một dãy vườn bỏ hoang. Chủ nhà sẽ ra vào bằng cổng trước, còn tôi dùng cổng sau, vậy là tôi được hoàn toàn riêng biệt. Nó có một phòng rộng, một gian bếp nhỏ và nhà tắm, với một khoảng chứa đồ rộng không thể tưởng tượng được. Thậm chí còn có cả một hàng hiên quay ra phía vườn. Chủ nhà là một cặp vợ chồng rất tốt, cho thuê cái nhà với giá thấp hơn giá thị trường rất nhiều, nhưng với một điều kiện là người thuê phải sẵn sàng dọn đi nếu người cháu trai của họ quyết định lên ở Tokyo trong năm tới. Họ cam đoan sẽ không có đòi hỏi gì và tôi có thể sống theo ý mình ở ngôi nhà đó.

Nagasawa giúp tôi dọn nhà. Hắn mượn được cả một cái xe thùng để chở đồ cho tôi, và như đã hứa, hắn cho tôi cái tủ lạnh, chiếc TV, và cái phích ngoại khổ. Hắn có thể chẳng cần đến những thứ đó nữa, nhưng chúng lại rất ích dụng cho tôi. Bản thân hắn cũng đã có kế hoạch dọn đi hai ngày sau đó, đến một căn hộ ở khu Mita.

"Có thể rất lâu nữa chúng ta mới gặp lại nhau," hắn nói lúc chia tay, "hãy bảo trọng. Tớ vẫn tin hai thằng mình sẽ còn đụng nhau ở một nơi xa lạ nào đó nhiều năm sau này."

"Tớ đã mong đến ngày đó đây," tôi nói.

"Còn cái lần bọn mình đổi gái ấy, hoá ra cái cô trông buồn cười kia lại hay hơn nhiều."

"Đúng như thế," tôi cười. "Nhưng mà, Nagasawa này, cậu hãy chăm sóc Hatsumi nhé. Người tốt như thế không dễ gì tìm được đâu. Mà trông thế thôi chứ cô ấy yếu đuối hơn nhiều."

"Ờ, tớ biết," hắn gật đầu. "Chính thế nên tớ mới hy vọng là cậu sẽ hứng cô ấy khi tớ đã xong chuyện. Hai đứa các cậu sẽ là một cặp lí tưởng đấy."

"Nghiêm chỉnh đi nào?" Tôi nói.

"Tớ chỉ đùa thôi mà," Nagasawa nói. "Thôi nào, hãy hạnh phúc nhé. Tớ có cảm giác cậu sẽ gặp khối chuyện cứt đái ở đời, nhưng cậu là một thằng đểu cứng đầu, tớ tin chắc cậu sẽ xử lí được hết. Có cho phép tớ khuyên cậu một điều không?"

"Nói đi."

"Đừng tự trách móc mình," hắn nói. "Chỉ những thằng vứt đi mới làm thế!"

"Tớ sẽ nhớ," tôi nói. Chúng tôi bắt tay nhau và đi mỗi người một ngả, hắn đến cái thế giới mới của hắn, tôi về vùng đầm lầy của mình.

***

Ba ngày sau khi dọn nhà, tôi viết cho Naoko. Tôi mô tả ngôi nhà mới và nói tôi thấy nhẹ nhõm biết bao khi thoát khỏi được bọn ngốc trong khu học xá với tất cả những trận nhồi sọ của chúng. Giờ đây tôi có thể bắt đầu cuộc sống mới của mình với một tâm trạng mới.

Cửa sổ của mình nhìn ra một khu vườn rộng vẫn là nơi gặp mặt của tất cả lũ mèo quanh khu phố này. Mình thích nằm dài ngoài hiên và ngắm nhìn chúng. Mình không biết chúng có bao nhiêu con ở đó, nhưng là một lũ đông lắm. Chúng sưởi nắng thành từng nhóm. Có lẽ chúng chẳng hài lòng gì khi thấy mình ở đây, nhưng một lần khi mình để ra đó một miếng pho-mát cũ thì đã có mấy con bò đến nhấm nháp nó. Chẳng chóng thì chầy rồi chúng cũng thành bạn với mình thôi. Trong bọn có một con mèo đực lông vằn tai rách đến một nửa. Thật kì lạ vì trông nó rất giống lão trưởng khu học xá của mình ngày trước. Mình cứ nghĩ thể nào cũng có hôm con mèo này bắt đầu làm lễ kéo cờ cho mà xem.

Mình ở đây có hơi xa trường một chút, nhưng vào năm thứ ba thì sẽ không có nhiều giờ học buổi sáng nên cũng không đến nỗi tệ lắm. Có khi còn hay hơn vì mình sẽ có nhiều thì giờ đọc sách trên tàu điện hơn.

Bây giờ chỉ còn phải tìm xem có việc gì dễ dễ ở quanh đây để mình có thể làm ba hoặc bốn ngày một tuần. sau đó là mình có thể trở lại với cuộc sống lên dây cót của mình.

Mình không muốn vội, nhưng tháng Tư là thời điểm tốt trong năm để bắt đầu những việc mới mẻ, và mình không thể không cảm thấy rằng tốt nhất là bọn mình nên bắt đầu chung sống với nhau vào lúc đó.

Cậu cũng có thể trở lại đại học, nếu mọi việc suôn sẻ. Nếu thực tế sống chung của bọn mình có vấn đề gì, mình có thể tìm cho cậu một căn hộ ở gần đây. Quan trọng nhất là chúng mình phải luôn ở gần nhau. Cũng không nhất thiết phải bắt đầu vào mùa xuân, tất nhiên rồi. Nếu cậu nghĩ mùa hè tốt hơn thì mình cũng sẽ thấy thế. Chỉ cần cậu cho mình biết cậu nghĩ thế nào được không?

Mình đang định sẽ đi làm thêm nhiều hơn trong một thời gian. Để trang trải các chi phí cho việc chuyển chỗ ở này. Mình sẽ cần tiền sắm sửa cái này cái nọ khi sống một mình - nồi niêu xoong chảo bát đĩa và những cái linh tinh khác. Nhưng đến tháng Ba là mình sẽ rỗi, và nhất định sẽ đến thăm cậu. Cứ ngày nào tốt nhất với cậu là mình sẽ đi Kyoto ngày ấy.

Mong gặp cậu và mong cậu trả lời mìn

Re:Cùng nhau đọc truyện : Rừng Na-uy

Đã gửi: Tư T10 25, 2006 2:40 am
Viết bởi vietnamese
Mình đã được nghe nói nhiều về truyện này, xung quanh nội dung truyện. Nhưng mình thì thấy nội dung rất hay .[tongue][tongue][tongue]