Ở một khía cạnh nào đó có thể nói thật đáng thương cho con người. Vì bao nhiêu cố gắng của họ trong giây lát có thể tan biến. Các trận bão khủng khiếp,các trận động đất hung hãn có thể huỷ diệt cả một vùng rộng lớn trong nháy mắt.
Hầu hết trong số nhân loại ít quan tâm và hiểu biết về tự nhiên.Hầu như chỉ biết tranh nhau từng lợi ích vật chất hoặc là ngồi than thân trách phận,rồi cầu nguyện.Quanh quẩn như một con thú,lúc thì lo sợ,lúc thì lồng lộn để bảo vệ cái tôi của mình.Nhưng vượt lên trong số đó vẫn có những người chân thành,yêu và muốn khám phá thế giới tự nhiên vô tận.Có thể họ sẽ không bao giờ tìm ra chân lý,nhưng họ là những người dấn thân và luôn muốn thoát khỏi tính thú hoang dại của con người,để tìm ra tình yêu đích thực.Đó là những nhà khoa học chân chính.
Xin giới thiệu với các bạn mục `Sức mạnh của tự nhiên` để hy vọng mỗi người chúng ta đều có cái nhìn rộng lớn. Đúng vậy,phải nhìn và quan sát trước đã,rồi mới hành động. Tôi không hy vọng tất cả các bạn sẽ trở thành thánh nhân,nhưng hy vọng các bạn sẽ hiểu được họ nghĩ những gì.
Nghe qua thì quả là ý tưởng kỳ diệu: Chỉ việc thổi tung các cơn bão nhiệt đới như Rita và Katrina ra khỏi bầu trời trước khi chúng đặt chân lên mặt đất. Song các nhà khí tượng học cho hay đó chỉ là ước mơ hoang đường, và họ đã từ bỏ tham vọng đó nhiều năm trước đây sau hơn 2 thập kỷ nghiên cứu.
Tiếp đó, các công ty tư nhân cũng thực hiện nhiều thử nghiệm trên bình diện hạn chế hơn, nhưng vẫn không tiến bộ gì, mặc dù lúc đầu nhiều người tin rằng có thể xoá được những đám mây đen ngay từ khi chúng mới thai nghén trong bầu khí quyển.
"Điều đó không khác gì với việc cố di chuyển một chiếc xe hơi bằng ống thổi. Năng lượng tiềm ẩn trong một cơn bão biển mạnh hơn nhiều so với những gì chúng ta có thể tích luỹ được", Matthew Kelsch thuộc Trung tâm quốc gia nghiên cứu khí quyển tại Boulder (Mỹ) nhận định.
Chương trình nghiên cứu đánh lệch hướng bão đã được đề ra ngay từ thời Tổng thống Eisenhower, có tên Dự án Stormfury, sau khi một số cơn bão lớn đánh vào duyên hải miền đông nước Mỹ giữa thập kỷ 1950, giết chết 749 người và làm thiệt hại nhiều tỷ đôla.
Nhưng phải tới năm 1961, các cuộc thử nghiệm đầu tiên mới được xúc tiến với bão Esther. Các nhà khoa học đã dùng một máy bay hải quân rải các tinh thể iod bạc. Một số báo cáo sau đó cho biết sức gió đã suy giảm từ 10% đến 30%.
Trong dự án Stormfury, các nhà khoa học cũng rải tinh thể iod bạc lên các cơn bão năm 1963, 1969 và 1971 trên vùng biển Đại Tây Dương, cách xa đất liền. Iod bạc - hoá chất đóng vai trò là nhân băng - được rắc lên các đám mây ngay bên ngoài mắt bão. Ý tưởng của họ là một vành mây mới sẽ được hình thành xung quanh nhân của các hạt băng nhân tạo. Vành mây này sẽ làm thay đổi kiểu hình mưa, hình thành nên một mắt bão mới và phá huỷ mắt bão cũ. Cơn bão được điều chỉnh sẽ quay chậm hơn và do đó ít nguy hiểm hơn.
Đôi khi, các thí nghiệm đã tỏ ra hiệu quả. Cơn bão Debbie năm 1969 được rắc tinh thể 2 lần trong vòng 4 ngày nhờ một vài chiếc máy bay. Các nhà nghiên cứu ghi nhận cường độ của nó đã giảm tới 30%.
Để việc rắc iot bạc lên mây thành công, các đám mây buộc phải có một lượng đáng kể những hạt nước cực lạnh song vẫn ở trạng thái lỏng ngay ở nhiệt độ dưới 0 độ C. Giọt nước mưa sẽ hình thành khi các nhân băng nhân tạo và hạt nước cực lạnh kết hợp với nhau.
Song các nhà khoa học nhận thấy những cơn bão nhiệt đới (hurricane) chứa ít giọt nước cực lạnh hơn các đám mây bão thông thường, vì thế việc rắc tinh thể là không đáng tin cậy. Điều này khiến cho người ta không thể xác định được cơn bão giảm cấp là do tự thân nó hay là kết quả can thiệp của con người. Chính vì thế, Dự án Stormfury đã bị ngừng lại vào thập kỷ 1980 sau khi tiêu tốn hàng triệu đôla.
Những giải pháp khác nhằm điều chỉnh bão cũng đã được tính đến, như làm lạnh vùng biển nhiệt đới bằng các khối băng, và rắc các hạt hoặc màng phim trên mặt biển để kiềm chế bão hình thành từ nước nóng bốc hơi trên biển. Đôi khi, một số người còn đề nghị cho nổ một quả bom hạt nhân để xé tan cơn bão.
Song, các nhà nghiên cứu cho biết bão nhiệt đới biến tất cả những giải pháp trên thành "chú lùn". Chẳng hạn, với đường kính lên 600 kilomét, cần bao nhiêu băng đá mới hoá giải được cơn bão Rita! Hoặc trái bom nào vô hiệu hoá được năng lượng tương đương 50-200 nghìn tỷ watt? Nếu cần dùng đến bom nguyên tử để lấn át, thì con người phải cho nổ một trái bom hạt nhân 10 megaton cứ mỗi 20 phút.
Trận động đất ở Islamabad hôm 8/10 với cường độ 7,6 độ richter đã huỷ hoại cả một vùng rộng lớn trên lãnh thổ Pakistan, Afghanistan và Ấn Độ. Tại sao châu Á thường xuyên hứng chịu những tai ương khủng khiếp như vậy? Đó là do vị trí đặc biệt của nó.
Trước trận động đất hôm 8/10, các nước khác trong khu vực châu Á cũng từng chịu các trận động đất huỷ diệt như ở Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Indonesia... PGS Phan Văn Quýnh, khoa Địa chất, Đại học Khoa học tự nhiên, cho biết nguyên nhân của loại động đất này là do quá trình xô húc giữa các mảng thạch quyển. Một mảng chúc xuống và húc vào mảng khác. Tại mảng bị húc, xảy ra quá trình hình thành các dãy núi, ở đây là các dãy Hindu Kusk, Karakoram và Himalaya.
Theo chiều sâu (từ mặt đất vào tâm), trái đất bị phân chia thành nhiều lớp, trên cùng là vỏ trái đất với bề dày trung bình 40 km, kế đến là lớp manti trên phát triển ở độ sâu trung bình 40-900 km. Trong lớp manti này lại phân làm hai phần, lớp trên cứng và lớp dưới mềm (quyển mềm). Vỏ trái đất và phần manti cứng ở trên hợp thành lớp giữa thạch quyển. Các bộ phận của thạch quyển chuyển động theo các hướng khác nhau và bị phân cắt thành các yếu tố riêng biệt mà người ta gọi là mảng kiến tạo. Các mảng kiến tạo này chuyển động (trôi) trên quyển mềm.
Ở Nam Á và Đông Nam Á phát triển ranh giới tiếp xúc của 3 mảng: Mảng Âu - Á, mảng Ấn - Australia và mảng Thái Bình Dương, với hai kiểu là đới hút chìm và đới đụng độ. Ở ranh giới tiếp xúc này xảy ra quá trình một bộ phận của mảng này chúc chìm xuống dưới mảng kia, gây ra một quá trình nén ép cực mạnh, khi đạt đến ngưỡng tới hạn sẽ gây ra các hiện tượng động đất, núi lửa, sóng thần... Độ sâu của tâm động đất có thể từ 60-70 km đến 100-120 km. Động đất ở Nam Á và Đông Nam Á bị chi phối bởi quá trình đụng độ và hút chìm này. Động đất mạnh ở Nam Á đã xảy ra và sẽ còn xảy ra.
Số liệu đo vận tốc va chạm của các mảng cho thấy khả năng xảy ra ngày một mạnh lên, chưa có biểu hiện gì của sự ngừng nghỉ. Cường độ động đất trong các thập kỷ vừa qua dường như chỉ ra rằng, đới động đất ở Tây Nam Á (khu vực Hindu Kush) mạnh hơn đới phía Đông (khu vực Himalaya).
Cũng theo PGS Quýnh, trên hình vẽ, có thể thấy Việt Nam may mắn có một khoảng cách "an toàn" so với các đới cấu trúc có thể tạo ra các cơn địa chấn mạnh nói trên. Nhưng như vậy không có nghĩa là lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam không có động đất. Thực tế đã ghi nhận một chuỗi dài các tai biến loại này xảy ra. Tuy nhiên, chúng xảy ra theo một cơ chế khác và mức độ hạn chế hơn nhiều, với tâm thường ở vào khoảng độ sâu 18-30 km.
Cho đến nay, các số liệu khoa học cho thấy không có cơ sở nào để nói ở Việt Nam cũng sẽ có các trận động đất, sóng thần mạnh như đã xảy ra và sẽ còn xảy ra ở đới đụng độ và đới hút chìm như đã nêu ở trên.
Hà Văn Thùy Từ Óc Eo nhìn về đồng bằng sông Cửu Long
Bước sang thế kỷ XXI, loài người đối mặt với nhiều hiểm họa sinh thái, trong đó đáng lo ngại nhất là sự nóng lên của trái đất sẽ gây ra nạn đại hồng thuỷ nhấn chìm nhiều khu vực trên hành tinh. Theo dự báo ít bi quan nhất vào năm 1990 của Uỷ ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) thì đến năm 2100, ít nhất mực nước biển tăng 15 cm, trung bình lớn hơn 50 cm và cao nhất là 95 cm. Tuy nhiên, con số đưa ra của Viện Hàn lâm Quốc gia Hoa Kỳ (NAS) và Cục Bảo vệ Môi trường Mỹ (EPA) thì đến cuối thế kỷ này, mực nước biển tăng thấp nhất là 56 cm và cao nhất sẽ là 245 cm. Nếu chỉ căn cứ vào dự báo có phần lạc quan của IPCC, đến cuối thế kỷ sẽ có từ 2 đến 2,5 triệu hecta đất của đồng bằng sông Cửu Long và từ 1 đến 1,5 triệu hecta đất của đồng bằng sông Hồng ngập chìm trong nước biển!
Nỗi lo này có cơ sơ nếu ta nhìn lại những trận hồng thuỷ đã diễn ra trong quá khứ.
Nhà địa chất học người Pháp H. Fontaine cho thấy bức tranh khái quát của việc biến đổi mực nước biển như sau:
Cuối Đại Trung sinh (Pleixtoxen) đầu Đại Tân sinh (Holoxen) có một đợt hải thoái, mực nước biển hạ thấp khoảng 100 – 120 m so với ngày nay, khiến cho Biển Đông chỉ còn là một vũng nhỏ. Tiếp đó là thời kỳ băng hà Wun cách nay 60.000 đến 11.000 năm. Sau giai đoạn chuyển tiếp kéo dài 750 năm (từ 11.000 đến 10.250 năm trước) là thời kỳ băng tan và nước biển bắt đầu dâng. Sau đó vào năm 4850 trước Công nguyên, nước biển dâng lên bằng mực nước ngày nay. Sau thời kỳ này là 4 đợt hải xâm và 3 đợt hải thoái xen kẽ nhau:
* Hải xâm Holoxen I từ năm 4850 đến năm 1650 trước Công nguyên, kéo dài 3.200 năm với 3 giai đoạn đỉnh cao: 4 m (năm 3900), 3 m (năm 2950 ), và 2 m (năm 2350 ).
* Hải thoái Holoxen 1 từ năm 1650 đến năm 1.150 trước Công nguyên, thời gian 500 năm với mức hạ thấp nhất -0,8 m xảy ra vào năm 1400 trước Công nguyên.
* Hải xâm Holoxen II từ năm 1150 đến năm 850 trước Công nguyên, thời gian 300 năm, đỉnh cao nhất xảy ra vào năm 950 trước Công nguyên.
* Hải thoái Holoxen 2 từ năm 850 đến năm 200 trước Công nguyên, thời gian 650 năm, với cực tiểu 1 m xảy ra vào năm 550.
* Hải xâm Holoxen III từ năm 200 đến năm 50 trước Công nguyên, kéo dài 150 năm, mức cao nhất khoảng 0,4 m vào năm 50.
* Hải thoái Holoxen 3 từ năm 50 trước Công nguyên đến năm 550 sau Công nguyên, kéo dài 500 năm với mực nước thấp nhất -0,5 m vào năm 200.
* Hải xâm Holoxen IV từ năm 350 đến năm 1150, kéo dài 800 năm với mức cao trung bình 0,8 m vào năm 650.
* Từ năm 1150 đến 1950 nước biển dao động 1 m, xem như ổn định hơn các thời kỳ trước.
Điều đáng chú ý là khi so sánh những vết tích hải xâm, hải thoái ở Việt Nam, các nhà khoa học đã tìm thấy sự tương đồng với những dấu tích hải xâm hải thoái ở bờ bên kia của Thái Bình Dương, trên đất Mỹ: Hải thoái Óc Eo cách nay 1750 năm tương đương Hải thoái Florida -3 m cách nay 2000 năm; Hải thoái Rạch Giá cách nay 3350 năm tương đương Hải thoái Crane Key -2 m cách nay 3300 năm.
Trong những đợt hải xâm, hải thoái trên, đáng chú ý là Hải xâm Holoxen IV. Sau khi hiệu chỉnh niên hạn theo phương pháp C14, các đặc tính của lần hải xâm này như sau:
* Thời hạn 800 năm, từ năm 350 đến năm 1.150, đỉnh cao vào năm 650.
* Mực nước cao nhất từ 0,5 đến 1 m trong 30 năm, từ năm 635 đến năm 665.
Giai đoạn lên từ năm 350 đến 650. Giai đoạn xuống từ năm 650 đến năm 1150.
Ngoài việc chứng minh hải thoái giữa Đại Trung sinh và Tân sinh, biển Đông khô cạn tạo điều kiện cho động vật từ châu Á tràn sang châu Đại Dương khiến cho hệ động vật gần nhau giữa hai châu lục, chúng ta chưa biết nhiều về ảnh hưởng của các đợt hải xâm hải thoái trong lịch sử. Tuy vậy, ở nước ta có một vùng đất chịu tác động trực tiếp của Hải xâm Holoxen IV, đó là đồng bằng sông Cửu Long.
Hải xâm Holoxen III diễn ra từ năm 200 đến năm 50 trước Công nguyên với mức nước 0,4 m đã ngăn chặn sự lan tỏa của văn hóa sông Đồng Nai ra đồng bằng nên phần lớn miền Tây Nam bộ không có người sinh sống. Chỉ đến đầu Công nguyên, khi nước rút xuống thì những người Malayopolynesia mới từ các đảo ngoài biển tràn vào, tạo dựng văn minh Óc Eo. Nhưng từ năm 350 nước bắt đầu dâng lên từ từ. Thời gian đó, người Óc Eo sống chung với lũ bằng cách dựng nhà sàn và phát triển giao thông đường thủy. Nhưng đến năm 650, nước lũ lên quá cao, đến 1 m, khiến người Óc Eo không thể bám trụ lại được nữa, một phần lên thuyền dông ra biển trở lại những hòn đảo tổ tiên họ đã ra đi, một bộ phận tiếp giáp Đông Nam Bộ thì lên vùng đất cao, thành một số tộc người Nam Trường Sơn hiện nay. Người Óc Eo không phải người bản địa mà là người di tản từ nơi khác đến, mang theo nền văn minh vốn có của họ. Chỉ trong vòng 600 năm tồn tại, người Óc Eo đã kiến tạo đồng bằng sông Cửu Long thành một địa bàn văn hóa phát triển rực rỡ. Nhưng sau đó một cách đột ngột, nền văn hoá này bị tiêu diệt.
Có nhiều cách giải thích sự biến mất của cư dân Óc Eo vào thế kỷ VI. Một cách lý giải được nhiều học giả trước đây thừa nhận: đó là một cuộc chiến của người Chân Lạp từ phía tây tràn xuống cướp bóc và tiêu diệt cư dân Óc Eo. Nhưng cách lý giải này chưa đủ thuyết phục bởi lẽ những bằng chứng khảo cổ cho thấy không có vết tích của những đổ vỡ do cướp phá, tại thủ phủ Óc Eo những vật quý hầu như còn nguyên vẹn cho đến khi L. Malerete phát hiện. Một cuộc xâm lăng trên quy mô lớn nếu không chiếm đất cướp của thì với mục đích gì? Nhưng có lẽ lý do quan trọng nhất cho thấy cuộc xâm lăng chưa từng xảy ra là: vào thời điểm giữa thế kỷ VII, nước biển đã dâng cao trên phần lớn đồng bằng thời gian dài 30 năm khiến không ai sống nổi.
Sau năm 665 nước biển bắt đầu rút. Nhưng phải 500 năm sau, cho đến năm 1150 nước biển mới trở lại ổn định ở mức bình thường. Như vậy có thể suy ra: cho tới giữa thế kỷ XII, đồng bằng Nam bộ chưa có người sinh sống. Điều này phù hợp với thư tịch cổ. Trong Chân Lạp phong thổ ký, ông Châu Đạt Quan, sứ thần nhà Nguyên đến Chân Lạp qua đường sông Tiền năm 1296, mô tả: “Hầu hết cả vùng đều là rừng sác rậm rạp, những vàm rộng của con sông lớn chạy dài hàng trăm lý, bóng mát um tùm của những gốc cổ thụ và cây mây dài tạo thành nhiều chỗ trú ẩn sum suê. Tiếng chim hót và thú vật kêu vang dội khắp nơi... Xa hơn tầm mắt chỉ toàn là cỏ kê đầy rẫy. Hàng trăm hàng ngàn trâu rừng họp từng bầy trong vùng này. Tiếp đó, nhiều con đường dốc đầy tre gai chạy dài hàng trăm lý...”. Như vậy, nhìn vào lịch sử, đồng bằng sông Cửu Long do đất mới bồi và thấp đã bị nạn hồng thủy xóa đi sự sống của con người trong vòng sáu, bảy trăm năm. Từ năm 1150 nước rút trở lại mức độ bình thường cho đến năm 1950. Nhưng từ 1950 hình như đã bắt đầu một chu trình hải xâm mới! Mực nước đo được ở Hòn Dáu Hải Phòng trong 30 năm qua đã tăng lên hơn 30 cm.
Cả bằng chứng lịch sử cả bằng chứng địa chất cho thấy hải xâm Hôlôxen IV đã dìm đồng bằng sông Cửu Long hàng trăm năm trong nước biển và xoá đi nền văn minh Óc Eo.
Một câu hỏi tất yếu phải được đặt ra: điều gì đang chờ đồng bằng sông Cửu Long trong thế kỷ này? Hay nói cách khác, người đồng bằng sông Cửu Long học được gì từ sự huỷ diệt của người Óc Eo ?
Từ kinh nghiệm lịch sử và từ những công trình nghiên cứu khoa học, chúng ta khẳng định một điều là: trận hồng thủy mới đang tới gần. Trong khoảng 50 đến 100 năm nữa, phần lớn đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng bị nước nhấn chìm. Điều gì sẽ xảy ra lúc đó? Phải nói rằng chưa ai trong chúng ta hình dung ra một kịch bản như vậy và trong chúng ta cũng không mấy ai nghĩ đến một điều khủng khiếp như thế sẽ xảy ra! Không phải do gà gáy mà trời sáng. Dù chúng ta có nhắm mắt lại thì thảm họa sinh thái đó vẫn đến. Dù vô tình dù chẳng vô tình, thiên nhiên vẫn vận hành theo quy luật của nó!
Có một điều mà chúng ta, Homo sapiens – loài người thông minh – phải nghĩ sao và hành động sao trước tai hoạ này?
Có một điều không khỏi bức xúc là dù hơn chục năm trước, các nhà khoa học thế giới cảnh báo nguy cơ này và trong thời gian đó, nhiều nhà khoa học trong nước cũng gióng chuông báo động nhưng đáng ngạc nhiên là trên phương diện quản lý vĩ mô, chưa hề thấy Nhà nước phản ứng gì trước những tiếng chuông báo động đó!
Có thể nói rằng những việc chúng ta đang làm cho đồng bằng sông Cửu Long như kênh tưới kênh tiêu, xây dựng những điểm dân cư thoát lũ... chỉ là những giải pháp tình thế mà chưa căn cơ, chưa mang tính chiến lược lâu dài. Chương trình ngọt hoá bán đảo Cà Mau được triển khai rầm rộ nhưng không hiệu quả, 1500 tỷ đồng hoá thành nước trôi ra biển! Chương trình ngăn mặn cửa sông Ba Lai bộc lộ những mặt tiêu cực: thông nước cho nơi này nhưng lại gây ngập úng tù đọng ở nơi khác và môi sinh của vùng nước lợ bị hủy hoại gây hậu quả không lường! Mặc dù tốn rất nhiều tiền bạc và công sức nhưng chúng ta chưa nghĩ tới một điều là: tất cả những công trình đó sẽ vô nghĩa một khi nước biển dâng lên, chỉ cần 50 cm!
Một nghìn năm trăm năm trước, đối mặt với đại hồng thuỷ, khoảng một triệu người Óc Eo làm một cuộc di tản lớn ra các đảo ngoài khơi! Điều này buộc ta phải nghĩ: tới giữa thế kỷ này, khoảng 10 triệu dân đồng bằng sông Cửu Long sẽ đi đâu để tránh nước dâng? Một câu hỏi không dễ trả lời nhưng cũng không thể không trả lời. Càng không thể nói quên đi!
Thiết tưởng đã đến lúc chúng ta nghiêm túc ngồi lại bàn chuyện này như một chương trình cấp quốc gia. Tương lai học là môn học cực khó nhưng những bài học từ nó giúp chúng ta ít ra là một cái hướng để đi tới. Cái định hướng ấy trước hết khẳng định một điều đau đớn là: một bộ phận đồng bằng sẽ bị chìm trong nước. Nhưng không chỉ thế mà phải chỉ ra trên một bản đồ dự báo: vùng nào ngập trước vùng nào ngập sau, diện tích bao nhiêu, số dân bao nhiêu?… Một khi biết những vùng nào chẳng bao lâu sẽ trả về cho nước, chúng ta sẽ biết cách đầu tư sao cho hiệu quả, tránh xây dựng những công trình kiên cố vững bền quá mức cần thiết và cũng lo cả phương án chủ động di tản hàng triệu người.
Mối lo khác: khi 4 triệu hecta đất nông nghiệp ở hai vùng châu thổ mất đi, có nghĩa là hai bồ lúa hai đầu đòn gánh xẹp đi, lấy gì để nuôi hơn một trăm triệu người lúc đó? Những câu hỏi như vậy quả không dễ trả lời. Nhưng nó cho ta gợi ý. Tôi nhìn về cứu cánh là miền Đông Nam bộ và Tây Nguyên. Người Óc Eo ra biển nhưng người của đồng bằng sông Cửu Long sẽ lên miền Đông, lên Tây Nguyên. Nơi đấy trong tương lai không chỉ là chốn dung thân của hàng triệu người mà còn là nơi làm ra lương thực nuôi sống phần lớn dân cư. Từ cách nhìn đó, ta càng thấy vai trò vô cùng to lớn của miền Đông và Tây Nguyên trong tương lai. Và để tạo chỗ dung thân của hàng triệu người Nam bộ, chúng ta phải có phương cách đối xử trân trọng, thông minh với Tây Nguyên mà công việc thiết yếu đầu tiên là phải trồng lại rừng đảm bảo độ phì nhiêu của đất, nguồn nước cho sinh hoạt cùng kinh tế. Khi phần lớn đất làm lúa nước không còn, những giống cây chịu hạn sẽ là nguồn cung cấp lương thực quan trọng. Lúc đó giống cây trồng rồi tập quán canh tác cũng khác. Khoa học nông nghiệp sẽ đáp ứng thế nào cho một tương lai như vậy?
Nói những điều trên vào lúc này không khỏi có người cho là lo bò trắng răng. Nhưng nhân vô viễn lự họa đáo cận thân! Họa sẽ đến gần nếu không biết lo xa.
Cảm ơn bạn navq. Mình cũng có nghe nói đến nền văn hoá Óc eo Sa Huỳnh.Miền Bắc ảnh hưởng văn minh Trung Hoa.Miền Nam ảnh hưởng văn minh Ấn Độ.
Mấy số liệu này rất bổ ích,nhưng có độ tin tưởng bao nhiêu % nhỉ??? Đúng là nếu biết được,tiên đoán định liệu được trước thì mới có giải phát thích hợp được. Giả sử như có chuyện nước sẽ làm ngập đồng bằng Sông Cửu Long đi nữa thì cũng không thể là chuyện một sớm một chiều.Biết đâu có thể xây hàng trăm km đê bêtông để giữ đất. Như Hà Lan chẳng hạn,đất nước nằm thấp hơn mực nước biển. [wink][wink]
* Hải xâm Holoxen I từ năm 4850 đến năm 1650 trước Công nguyên, kéo dài 3.200 năm với 3 giai đoạn đỉnh cao: 4 m (năm 3900), 3 m (năm 2950 ), và 2 m (năm 2350 ).
* Hải thoái Holoxen 1 từ năm 1650 đến năm 1.150 trước Công nguyên, thời gian 500 năm với mức hạ thấp nhất -0,8 m xảy ra vào năm 1400 trước Công nguyên.
* Hải xâm Holoxen II từ năm 1150 đến năm 850 trước Công nguyên, thời gian 300 năm, đỉnh cao nhất xảy ra vào năm 950 trước Công nguyên.
* Hải thoái Holoxen 2 từ năm 850 đến năm 200 trước Công nguyên, thời gian 650 năm, với cực tiểu 1 m xảy ra vào năm 550.
* Hải xâm Holoxen III từ năm 200 đến năm 50 trước Công nguyên, kéo dài 150 năm, mức cao nhất khoảng 0,4 m vào năm 50.
* Hải thoái Holoxen 3 từ năm 50 trước Công nguyên đến năm 550 sau Công nguyên, kéo dài 500 năm với mực nước thấp nhất -0,5 m vào năm 200.
* Hải xâm Holoxen IV từ năm 350 đến năm 1150, kéo dài 800 năm với mức cao trung bình 0,8 m vào năm 650.
* Từ năm 1150 đến 1950 nước biển dao động 1 m, xem như ổn định hơn các thời kỳ trước.
Rất cảm ơn nếu bạn có thể giới thiệu về văn hoá Óc Eo,cho mọi người được mở rộng tầm hiểu biết
"Từ kinh nghiệm lịch sử và từ những công trình nghiên cứu khoa học, chúng ta khẳng định một điều là: trận hồng thủy mới đang tới gần.Trong khoảng 50 đến 100 năm nữa, phần lớn đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng bị nước nhấn chìm"
Đọc bài viết này thấy 怪しい quá.Nếu sự thật như vậy chẳng lẽ các nhà khoa học hàng đầu trên thế giới về địa lý lại không cảnh báo cho chúng ta à ? Mĩ dại gì đầu tư vào VN làm gì cho mệt ?(bởi thời gian diễn ra nếu có rất ngắn,50-100 năm). Bài viết thể hiện người viết rất quan tâm đến nước nhà,nhưng chỉ dựa vào sự tương đồng giữa 2 thời kì khác xa nhau về khí hậu,địa hình đã vội kết luận thì thật là tắc trách.
Bài viết đúng bao nhiêu phần chắc chỉ các chuyên gia mới nói được ,tuy vậy đây cũng là một bài viết thú vị . Về văn hoá Sa Huỳnh và Óc Eo ,Trước em cũng chỉ nghe qua ,tài liệu cũng hơi it mà phân tán nên chỉ xin tóm lại vài ý chính . Văn hoá Sa Huỳnh ơ miền trung môt trong những văn hoá cổ xưa nhất Đông Nam Á ,tồn tại cùng thời với văn hoá Đông Sơn ở miền bắc khoảng 1000 năm Tcn tới 100 năm Scn (về niên đại còn có nhiều giả thuyết )trải dài từ Quảng Nam tới Đồng Nai .Cư dân Sa Huỳnh không phải là dân bản xứ mà la di dân từ các đảo phía nam (Nam Đảo tức quần đảo Indonêxia) tới , hay giống người Mã Lai bây giờ . Nhiều giả thuyết cho rằng cư dân Sa Huỳnh chính là tổ tiên của cư dân Lâm Ấp (hay Chiêm Thành Champa sau này ) quốc gia chịu ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ ( tín ngưỡng ,cách tổ chức xã hội ,chữ Phạn )Dân Sa Huỳnh sống chủ yếu bằng nghề đánh cá và thương mại biển ,(chắc ở miền trung ít đất nông nghiệp) có thể đã từng có một hải cảng sầm uất ở chính Hội An bây giờ .Ngoài ra mĩ thuât ,đồ gốm Sa Huỳnh ,đồ sắt ,thuỷ tinh được nói là đặc sắc ,tinh xảo . Óc Eo được người Pháp khai quật từ nhưng năm 40 nhưng do chiến tranh liên miên mà ngày nay công cuộc khai quật và nghiên cứu mới tiếp diễn để lộ ra một nền văn minh từng là bậc nhất Đông Nam á tại chính Nam Bộ Việt Nam .Óc Eo từng là thủ đô của vương quốc Phù Nam (theo tên gọi cổ của người Trung Hoa )tồn tại từ thế kỉ 1 đến 7 Scn , nằm ở khu vực tỉnh An Giang và Hậu Giang bây giờ .Cư dân Phù Nam cũng là di dân từ phía Nam ,sống bằng nghề đánh cá và thương mại ,giỏi thuỷ lợi,cũng chịu ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ ,trước theo đạo hindu sau chuyển sang đạo Phật .Các nhà khảo cổ cho rằng ở đây dã từng là một thành phố cảng ,một chạm trung chuyển hàng từ tây sang đông ,từ La mã ,Ấn Độ tới Trung Hoa (có tìm thấy tiền La Mã và gốm TRung Hoa tai đây ).Tầm ảnh hưởng của Phù Nam trải dài phía tây tới tận Miến Điện phía nam tới tận Malayxia.Vì sao nền văn minh bị biến mất hiện có nhiều giả thuyết .Có y kiến cho rằng vào thế kỷ 7 cùng với sự phát triển của ngành hàng hải vị trí trung chuyển của Óc Eo bị thế bởi các hải cảng ơ phía nam bán đảo Malayxia nên bị suy thoái dần,hoăc bị các sắc dân phía tây hay người Cham pa tiêu diêt , hoặc đồng bằng sông Cửu Long bi hồng thuỷ (như bài viết trên ),có khi là cả ba.