[Thảo luận]]Giáo dục Việt Nam học gì từ Nhật Bản?
Đã gửi: Ba T6 26, 2012 10:30 am
Thấy bài này hay và có nhiều ý kiên có thể thảo luận nên post vào đây trao đổi với anh em
------------------------
Trong cuộc CCGD toàn diện và rộng lớn ấy, những người giáo viên trực tiếp giảng dạy ở trường phổ thông đóng một vai trò vô cùng to lớn. Họ không đơn thuần chỉ là người thực hiện những chỉ dẫn cải cách mang tính hành chính từ bộ GD mà họ còn đóng vai trò phản biện chính sách góp phần đảm bảo cho cuộc CCGD diễn ra đúng hướng.
Ở nước ta lâu nay khi bàn về cải cách giáo dục người ta thường bàn nhiều về sách giáo khoa. Đã có rất nhiều ý kiến nêu lên sự "quá tải", nặng nề của SGK cùng những sai sót của nó. Nhiều giáo viên trực tiếp giảng dạy ở trường phổ thông bày tỏ nỗi niềm bức xúc khi bị "kẹt" giữa một bên là lượng kiến thức khổng lồ trong SGK và lượng thời gian hạn hẹp trên lớp. Mâu thuẫn ấy khiến cho họ luôn ở trong tâm lí lo sợ bị "cháy" giáo án, sợ bị kỉ luật vì không theo kịp chương trình.
Sách giáo khoa- không phải duy nhất và tuyệt đối
Tôi không có ý phản đối chuyện phản biện SGK, trái lại công việc này cần được tiến hành dân chủ, rộng rãi với sự tham gia của các nhà GD, đặc biệt các thầy, cô giáo trực tiếp giảng dạy ở các trường phổ thông, các học sinh. Nhưng ở đây, vấn đề đặt ra và cần phải được làm rõ trong quá trình tiến hành cải cách GD là mối quan hệ giữa chương trình-SGK và thực tiễn GD của giáo viên.
Mối quan hệ này trên phương diện lí luận, pháp lí được xác lập ra sao và trên thực tế nó tồn tại như thế nào? Mối quan hệ ấy hiện nay đang suôn sẻ hay đang gặp khó khăn, và để giải quyết những khó khăn đó cần đến giải pháp gì?
Thực tiễn GD không phải đơn thuần chỉ là giáo án hay nội dung bài giảng của giáo viên mà còn là toàn bộ những hoạt động dạy-học diễn ra trên lớp, những tài liệu, dụng cụ họ sử dụng trong giờ học, những lời phát biểu, các câu hỏi đưa ra và phản hồi của học sinh trong và sau bài giảng.
Để tham khảo, người viết bài này xin được dẫn ra một vài thông tin về mối quan hệ nói trên ở GD tiểu học Nhật Bản.
Ở Nhật từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhà nước thực hiện chế độ kiểm định SGK thay cho chế độ quốc định(1) đã trở nên lỗi thời. Hiện tại có 6 nhà xuất bản tư nhân cùng cạnh tranh trong việc biên soạn và xuất bản SGK phục vụ học sinh tiểu học(2).
Các nhà xuất bản này giữ quyền chủ động trong việc tổ chức biên soạn và xuất bản, Bộ GD Nhật Bản chỉ nắm khâu thẩm định cuối cùng thông qua phán quyết của hội đồng chuyên môn để quyết định xem cuốn sách nào đủ tiêu chuẩn trở thành SGK. Việc lựa chọn bộ SGK nào là do ủy ban GD địa phương hoặc hiệu trưởng các trường quyết định.
SGK chỉ là tài liệu chủ yếu phục vụ giảng dạy, học tập chứ không phải là duy nhất và tuyệt đối. Minh họa: Gettyimages
Vì vậy trên thực tế ở Nhật có nhiều bộ SGK cho các trường lựa chọn và quan trọng hơn SGK chỉ là tài liệu chủ yếu phục vụ giảng dạy, học tập chứ không phải là duy nhất và tuyệt đối. Giáo viên có thể dạy bám sát nội dung SGK hoặc cấu trúc lại, tự mình thiết kế nên một nội dung riêng phù hợp với mục tiêu, nội dung cơ bản đề ra trong chương trình khung được ghi rõ trong "Bản hướng dẫn giảng dạy"(3). Đây gọi là quyền tự do thực tiễn GD.
Quyền này được đảm bảo bằng hiến pháp (ban hành năm 1947) và các bộ luật GD như luật GD cơ bản, luật GD trường học, luật GD nghĩa vụ...
Ở Nhật bậc tiểu học kéo dài 6 năm. Ở cấp học này học sinh học nhiều môn như: Toán, Quốc ngữ, Thủ công, Thể dục, Âm nhạc, Xã hội, Khoa học ...Liên quan đến các môn xã hội, ở lớp 1,2 học sinh sẽ học môn Đời sống, lên lớp 3, 4 sẽ học môn Xã hội với nội dung chính là tìm hiểu toàn diện về khu vực mà mình đang học tập, sinh sống. Học sinh lớp 5 sẽ học về lãnh thổ và kinh tế nước Nhật, học sinh lớp 6 sẽ học Quốc sử( lịch sử Nhật Bản) cùng với các nội dung chính trị-xã hội khác.
Ông Fujita, ông Naito và câu chuyện trò tự tìm ra chân lý
Để minh họa cho mối quan hệ chương trình- SGK và thực tiễn GD của giáo viên, tôi xin được dẫn ra một ví dụ cụ thể về thực tiễn GD mà tôi có tham gia chứng kiến ở một vài công đoạn, do cô Kawasaki tiến hành ở Trường tiểu học Hiyoshidai, t/p Takatsuki, phủ Osaka. Thực tiễn GD này được cô Kawasaki đặt tên là "Hai nông gia chuyên nghiệp: ông Fujita và ông Naito"
Để thực hiện loạt giờ học về nông nghiệp với tên gọi nói trên, cô Kawasaki đã đi điều tra thực tế, thu thập thông tin và phỏng vấn một nông gia nổi tiếng trong vùng là ông Naito. Cô phát hiện ra điểm mấu chốt là 10 năm trước, ông là nông gia dùng nông dược nhưng rồi sau vụ ngộ độc thuốc trừ sâu, ông suy nghĩ và đi đến quyết định không sử dụng nông dược trong quá trình sản xuất nữa.
Cô Kawasaki đã sử dụng bước ngoặt này như một điểm nhấn quan trọng trong nội dung GD mà cô thiết kế.
Phần nội dung GD hoàn toàn do cô chủ động xây dựng này thay cho nội dung về phần sản xuất nông nghiệp với những thông tin mang tính tổng quát trong SGK. Trong thực tiễn GD của cô, SGK trở thành tài liệu tham khảo đọc trước ở nhà và cả ở trên lớp để phục vụ tranh luận. Nói một cách khác cô đã thiết kế và thực hiện một nội dung GD cụ thể căn cứ trên mục tiêu, nội dung chương trình khung được đề ra trước đó, lấy cái cụ thể để làm rõ cái khái quát, bao trùm.
Toàn bộ thực tiễn GD này gồm hai phần chính:
Phần 1: Thực phẩm và nông dược
(Trước đó, cô Kawasaki đã hướng dẫn học sinh tiến hành hoạt động ngoại khóa: Điều tra thu thập thông tin mua bán thực phẩm, sản xuất nông nghiệp, sử dụng nông dược ở xung quanh nơi các em sinh sống). Phần này gồm 4 tiết học, mỗi tiết kéo dài 45 phút với các nội dung cụ thể như sau:
Tiết 1: Bắp cải đẹp và bắp cải bị sâu cắn: Nếu là người mua em sẽ chọn cái nào? Tiết 2: Chúng ta thường mua thực phẩm ở đâu? Tiết 3: Chúng ta cần chú ý điều gì đối với thực phẩm? Tiết 4: Nông dược là gì?
Phần 2 Nông gia vùng Tainaka: ông Naito và ông Fujita.
Phần này được tiến hành qua 7 tiết học với nội dung cụ thể như sau: Tiết 1: Tainaka là vùng thế nào? Tiết 2-3-4: Ông Fujita và ông Naito 1: Nếu là người sản xuất em chọn ông nào? Tiết 5-6: Nghe ông Naito kể chuyện. Tiết 7: Suy nghĩ của các em sau câu chuyện kể (cho học sinh viết tiểu luận).
Những thông tin giáo viên thu thập được như: Tình hình sản xuất, khó khăn, niềm hạnh phúc, thu nhập bình quân hàng năm của nông gia... được giáo viên chỉnh lí cho dễ hiểu và in dưới dạng tài liệu phân phát cho học sinh. Hai nhân vật Naito (không dùng nông dược) và Fujita (dùng nông dược) là sáng tạo của giáo viên.
Ông Fujita là hình ảnh 10 năm về trước của ông Naito. Giáo viên dùng hai hình ảnh đối lập này để tiến hành giờ học dưới hình thức trao đổi ý kiến và tranh luận. Trung tâm của bài học là vấn đề "Nếu là người sản xuất em sẽ lựa chọn ông Naito hay ông Fujita?". Học sinh căn cứ vào những luận điểm như: Thu nhập, khó khăn, thuận lợi... của hai người mà tranh luận, bác bỏ ý kiến đối lập và bảo vệ sự lựa chọn của mình.
Phân tích hồ sơ giờ học(4) cho thấy học sinh đã tranh luận sôi nổi và đưa ra nhiều ý kiến thú vị. Kết cục có ba xu hướng:
Xu hướng thứ nhất: chọn ông Naito
Học sinh A(5): Tớ chọn ông Naito vì nếu tớ là nông gia tớ muốn mọi người được ăn thực phẩm tươi tự nhiên, ít có nông dược. Mặc dù thu nhập của ông Fujita cao hơn nhưng nếu xét về tính tự nhiên thì ông Naito vẫn tốt hơn. Cho dù có bị sâu chén đi nữa thì cũng không phải là điều dở. Mà có khi thứ bị sâu chén lại là đồ ngon.
Học sinh B: Tớ chọn ông Naito vì nông dược có ảnh hưởng đến tính mạng người khác. Nếu như lỡ ăn phải sản phẩm của ông Fujita mà lại quên rửa thì chỉ có đường chết! Tớ cũng nghĩ như cậu A, mạng sống không bao giờ trở lại. Cho dù ai cũng thích tiền nhưng dẫu có tiền cũng không mua được sinh mạng nên tớ chọn ông Naito.
Xu hướng thứ hai: chọn ông Fuji ta
Học sinh C: Chắc chắn là tớ chọn ông Fujita . Cho dù nói là nông dược nguy hiểm đến thế nào đi chăng nữa thì cho đến giờ ông Fujita cũng chưa một lần bị nhiễm độc. Ông Naito cho dù không dùng nông dược nhưng vẫn có nhược điểm. Thứ nhất là thu nhập thấp, thứ hai là cũng có lần không bán được, thứ ba là bị sâu ăn. Trái lại ông Fujita thì một là thu nhập cao, thứ hai ít khi không bán được, thứ ba là trở thành người trồng rau nổi tiếng. Và như thế đương nhiên ông Fujita tốt hơn.
Học sinh D: Tớ nghĩ làm ông Fujita tốt hơn. Cho dù có dùng nông dược đi nữa thì vẫn tốt hơn là bị sâu ăn. Ví dụ như khi trồng bắp cải mà không dùng nông dược thì những chỗ có thể ăn được sẽ bị sâu ăn mất. Cho dù có dùng nông dược đi nữa thì chỉ cần rửa kĩ là không sao. Thế cho nên chắc chắn tớ chọn ông Fujita. Bác Fujita ơi hãy cố gắng nhé!
Xu hướng thứ ba: Phân vân
Học sinh E: Tớ ngày hôm qua chọn ông Fujita, nhưng hôm nay đổi sang chọn ông Naito. Khi nghe ý kiến mọi người, tớ lại phân vân không biết chọn ai. Nhưng ông Fujita cho dù có dùng nông dược đi nữa thì vẫn có thu nhập cao. Ông Naito tuy không dùng nông dược nhưng lại có thu nhập thấp. Tớ muốn mọi người ăn thứ không có nông dược nhưng nếu thu nhập thấp thì biết làm sao đây? Nhưng việc ông Naito phải dùng máy cày dẫm nát bắp cải thật đáng thương!
Học sinh F: Cho đến ngày hôm qua, tớ chọn ông Fujita nhưng hôm nay học thêm lần nữa tớ lại cảm thấy phân vân. Ông Fujita thì có thu nhập cao nhưng lại sử dụng nông dược, nhìn vào tài liệu thấy có viết chuyện ngộ độc thật là đáng sợ. Ông Naito có thu nhập thấp vì thế cuộc sống khó khăn. Nhưng ông Naito đã bỏ cách dùng nông dược sang không dùng nông dược nên tớ nghĩ ông Naito là OK. Thế nên lúc này tớ chẳng biết nói thế nào cả.
Giờ học kết thúc mà không có kết luận cuối cùng. Từ các lớp bậc trên của tiểu học (lớp 4 trở đi) trong những giờ học sử dụng phương pháp thảo luận, tranh luận, giáo viên thường không đưa ra kết luận cuối cùng hay phê phán ý kiến khác biệt, thiểu số của học sinh.
Dạy cho học sinh nên tư duy độc lập và dám phản biện. Minh họa: Gettyimages
Bởi vì mục tiêu mà các giáo viên Nhật hướng tới là GD nên những học sinh có tri thức, tư duy độc lập, năng lực phê phán và trách nhiệm cá nhân. GD nên những con người biết tự mình suy nghĩ, tự mình nhận định đúng sai, tự mình tìm lấy chân lí và bảo vệ chân lí là một bộ phận quan trọng nằm trong triết lí GD Nhật Bản từ sau chiến tranh thế giới thứ hai.
Không phải chỉ có giờ học về nông nghiệp mà các giờ học Địa lí, Lịch sử cũng vậy. Tôi đã quan sát không ít các giờ học Lịch sử, ở đó học sinh Nhật sôi nổi tranh luận những vấn đề mà nhiều người lớn cũng sẽ lúng túng khi phải đưa ra ý kiến như: "Tán thành hay phản đối cuộc chiến tranh với nước Nga?"(6) "Trách nhiệm chiến tranh thuộc về người dân Nhật hay thuộc về Thiên hoàng?"...
Vai trò giáo viên: Dạy trò độc lập tư duy và dám phản biện
Từ thực tiễn giờ học trên có thể rút ra điều gì?
Nó đã thể hiện rất rõ vai trò của giáo viên trong việc xử lí mối quan hệ giữa GD và thực tiễn, giữa SGK-nội dung chương trình và thực tiễn dạy học của giáo viên.
Những vấn đề liên quan đến các mối quan hệ này đã được các nhà nghiên cứu, các nhà GD Nhật tranh luận sôi nổi suốt từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay. Việc làm rõ những vấn đề này có ảnh hưởng vô cùng quan trọng đến những vấn đề cơ bản mà GD, nơi tạo ra những người làm chủ, nơi quyết định sự hưng vong của cả một quốc gia dân tộc.
Kết cục bi thảm của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai cùng với sự phản tỉnh sâu sắc về một nền GD sai lầm trong quá khứ đã giúp cho người giáo viên Nhật nhận thức rõ về quyền, nghĩa vụ và sứ mệnh của mình.
Nước Nhật từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đã giải bài toán GD tương đối thành công bằng cuộc CCGD triệt để, toàn diện có triết lí và lộ trình rõ ràng. Cuộc CCGD ấy vẫn diễn tiến đến tận ngày nay cho dù triết lí GD về cơ bản là không thay đổi. Trong cuộc CCGD toàn diện và rộng lớn ấy, những người giáo viên trực tiếp giảng dạy ở trường phổ thông đóng một vai trò vô cùng to lớn.
Họ không đơn thuần là người thực hiện những chỉ dẫn cải cách mang tính hành chính từ bộ GD mà họ còn đóng vai trò phản biện chính sách góp phần đảm bảo cho cuộc CCGD diễn ra đúng hướng.
Quan trọng hơn, những người giáo viên bằng thực tiễn GD phong phú, sáng tạo tương ứng với điều kiện cụ thể của từng trường học, lớp học, học sinh đã tạo ra cuộc CCGD từ dưới lên bằng muôn nghìn dòng chảy. Cuộc CCGD ấy đã có những tác động lớn và tích cực tới dòng chảy CCGD từ trên xuống do bộ GD chủ trì.
Việt Nam hiện tại cũng đang đứng trước bài toán GD. Bài toán vừa mang tính kinh điển vừa mang tính thời đại. Muốn giải trọn vẹn bài toán này rất có thể phải giải thêm và cùng lúc một hai bài toán chính và hàng chục bài toán phụ.
Bài toán này tuy khó nhưng thực ra đã nhìn thấy đáp số vì trên thực tế nhiều nước tiên tiến như Nhật đã giải rồi. Vấn đề là ở Việt Nam chúng ta nên giải nó như thế nào? Khó không có nghĩa là không làm hay "há miệng chờ sung" bởi nếu không giải được bài toán đó, chúng ta sẽ mãi là những kẻ bộ hành quờ quạng trong đường hầm không tìm thấy lối ra.
(1) Cả nước sử dụng một bộ sách giáo khoa duy nhất do bộ giáo dục biên soạn và xuất bản.
(2) Ở Nhật pháp luật quy định giáo dục nghĩa vụ là 9 năm cho nên nhà nước mua sách giáo khoa và cấp phát miễn phí cho học sinh từ lớp 1 đến lớp 9.
(3) Do bộ giáo dục Nhật biên soạn và ban hành trong đó tóm lược về mục tiêu, nội dung, phương pháp giảng dạy trong các trường phổ thông. Khoảng 10 năm bộ giáo dục Nhật lại tiến hành sửa đổi bản hướng dẫn giảng dạy một lần. Mỗi lần sửa đổi có thể coi là một cuộc cải cách giáo dục. Bản Hướng dẫn giảng dạy đầu tiên ban hành năm 1947 và bản hướng dẫn giảng dạy mới nhất ban hành tháng 3 năm 2008.
(4) Hồ sơ giờ học là những ghi chép toàn diện về giờ học của giáo viên phục vụ cho công tác nghiên cứu. Trong hồ sơ giờ học có ghi đầy đủ và khách quan về giáo án, tài liệu, dụng cụ giảng dạy đã sử dụng, diễn biến giờ học, hoạt động của thầy-trò, ý kiến của học sinh đặc biệt là cảm tưởng, các ý kiến tranh luận của học sinh( những ý kiến này tuy được giáo viên chép lại hoặc thu thập từ các tờ giấy theo mẫu mà giáo viên đã phát cho học sinh nhưng được giữ nguyên cả văn phong, các lỗi sai về từ vựng, ngữ pháp để đảm bảo tính khách quan ở mức cao nhất có thể). Hiện nay giáo viên ở Nhật có sử dụng các phương tiện kĩ thuật hiện đại như máy quay phim kĩ thuật số, máy ghi âm nên việc lập hồ sơ giờ học trở nên dễ dàng hơn.
(5) Để đảm bảo quyền riêng tư, trong hồ sơ giờ học tên học sinh thường được kí hiệu là A, B, C hoặc dùng tên giả. Chỉ có giáo viên đã tiến hành giờ học đó mới biết chính xác học sinh đó là ai.
(6) Chiến tranh Nga-Nhật( 1904-1905)
Nguyễn Quốc Vương(JP)
Nguồn
------------------------
Giáo dục Việt Nam học gì từ Nhật Bản?
Trong cuộc CCGD toàn diện và rộng lớn ấy, những người giáo viên trực tiếp giảng dạy ở trường phổ thông đóng một vai trò vô cùng to lớn. Họ không đơn thuần chỉ là người thực hiện những chỉ dẫn cải cách mang tính hành chính từ bộ GD mà họ còn đóng vai trò phản biện chính sách góp phần đảm bảo cho cuộc CCGD diễn ra đúng hướng.
Ở nước ta lâu nay khi bàn về cải cách giáo dục người ta thường bàn nhiều về sách giáo khoa. Đã có rất nhiều ý kiến nêu lên sự "quá tải", nặng nề của SGK cùng những sai sót của nó. Nhiều giáo viên trực tiếp giảng dạy ở trường phổ thông bày tỏ nỗi niềm bức xúc khi bị "kẹt" giữa một bên là lượng kiến thức khổng lồ trong SGK và lượng thời gian hạn hẹp trên lớp. Mâu thuẫn ấy khiến cho họ luôn ở trong tâm lí lo sợ bị "cháy" giáo án, sợ bị kỉ luật vì không theo kịp chương trình.
Sách giáo khoa- không phải duy nhất và tuyệt đối
Tôi không có ý phản đối chuyện phản biện SGK, trái lại công việc này cần được tiến hành dân chủ, rộng rãi với sự tham gia của các nhà GD, đặc biệt các thầy, cô giáo trực tiếp giảng dạy ở các trường phổ thông, các học sinh. Nhưng ở đây, vấn đề đặt ra và cần phải được làm rõ trong quá trình tiến hành cải cách GD là mối quan hệ giữa chương trình-SGK và thực tiễn GD của giáo viên.
Mối quan hệ này trên phương diện lí luận, pháp lí được xác lập ra sao và trên thực tế nó tồn tại như thế nào? Mối quan hệ ấy hiện nay đang suôn sẻ hay đang gặp khó khăn, và để giải quyết những khó khăn đó cần đến giải pháp gì?
Thực tiễn GD không phải đơn thuần chỉ là giáo án hay nội dung bài giảng của giáo viên mà còn là toàn bộ những hoạt động dạy-học diễn ra trên lớp, những tài liệu, dụng cụ họ sử dụng trong giờ học, những lời phát biểu, các câu hỏi đưa ra và phản hồi của học sinh trong và sau bài giảng.
Để tham khảo, người viết bài này xin được dẫn ra một vài thông tin về mối quan hệ nói trên ở GD tiểu học Nhật Bản.
Ở Nhật từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhà nước thực hiện chế độ kiểm định SGK thay cho chế độ quốc định(1) đã trở nên lỗi thời. Hiện tại có 6 nhà xuất bản tư nhân cùng cạnh tranh trong việc biên soạn và xuất bản SGK phục vụ học sinh tiểu học(2).
Các nhà xuất bản này giữ quyền chủ động trong việc tổ chức biên soạn và xuất bản, Bộ GD Nhật Bản chỉ nắm khâu thẩm định cuối cùng thông qua phán quyết của hội đồng chuyên môn để quyết định xem cuốn sách nào đủ tiêu chuẩn trở thành SGK. Việc lựa chọn bộ SGK nào là do ủy ban GD địa phương hoặc hiệu trưởng các trường quyết định.
SGK chỉ là tài liệu chủ yếu phục vụ giảng dạy, học tập chứ không phải là duy nhất và tuyệt đối. Minh họa: Gettyimages
Vì vậy trên thực tế ở Nhật có nhiều bộ SGK cho các trường lựa chọn và quan trọng hơn SGK chỉ là tài liệu chủ yếu phục vụ giảng dạy, học tập chứ không phải là duy nhất và tuyệt đối. Giáo viên có thể dạy bám sát nội dung SGK hoặc cấu trúc lại, tự mình thiết kế nên một nội dung riêng phù hợp với mục tiêu, nội dung cơ bản đề ra trong chương trình khung được ghi rõ trong "Bản hướng dẫn giảng dạy"(3). Đây gọi là quyền tự do thực tiễn GD.
Quyền này được đảm bảo bằng hiến pháp (ban hành năm 1947) và các bộ luật GD như luật GD cơ bản, luật GD trường học, luật GD nghĩa vụ...
Ở Nhật bậc tiểu học kéo dài 6 năm. Ở cấp học này học sinh học nhiều môn như: Toán, Quốc ngữ, Thủ công, Thể dục, Âm nhạc, Xã hội, Khoa học ...Liên quan đến các môn xã hội, ở lớp 1,2 học sinh sẽ học môn Đời sống, lên lớp 3, 4 sẽ học môn Xã hội với nội dung chính là tìm hiểu toàn diện về khu vực mà mình đang học tập, sinh sống. Học sinh lớp 5 sẽ học về lãnh thổ và kinh tế nước Nhật, học sinh lớp 6 sẽ học Quốc sử( lịch sử Nhật Bản) cùng với các nội dung chính trị-xã hội khác.
Ông Fujita, ông Naito và câu chuyện trò tự tìm ra chân lý
Để minh họa cho mối quan hệ chương trình- SGK và thực tiễn GD của giáo viên, tôi xin được dẫn ra một ví dụ cụ thể về thực tiễn GD mà tôi có tham gia chứng kiến ở một vài công đoạn, do cô Kawasaki tiến hành ở Trường tiểu học Hiyoshidai, t/p Takatsuki, phủ Osaka. Thực tiễn GD này được cô Kawasaki đặt tên là "Hai nông gia chuyên nghiệp: ông Fujita và ông Naito"
Để thực hiện loạt giờ học về nông nghiệp với tên gọi nói trên, cô Kawasaki đã đi điều tra thực tế, thu thập thông tin và phỏng vấn một nông gia nổi tiếng trong vùng là ông Naito. Cô phát hiện ra điểm mấu chốt là 10 năm trước, ông là nông gia dùng nông dược nhưng rồi sau vụ ngộ độc thuốc trừ sâu, ông suy nghĩ và đi đến quyết định không sử dụng nông dược trong quá trình sản xuất nữa.
Cô Kawasaki đã sử dụng bước ngoặt này như một điểm nhấn quan trọng trong nội dung GD mà cô thiết kế.
Phần nội dung GD hoàn toàn do cô chủ động xây dựng này thay cho nội dung về phần sản xuất nông nghiệp với những thông tin mang tính tổng quát trong SGK. Trong thực tiễn GD của cô, SGK trở thành tài liệu tham khảo đọc trước ở nhà và cả ở trên lớp để phục vụ tranh luận. Nói một cách khác cô đã thiết kế và thực hiện một nội dung GD cụ thể căn cứ trên mục tiêu, nội dung chương trình khung được đề ra trước đó, lấy cái cụ thể để làm rõ cái khái quát, bao trùm.
Toàn bộ thực tiễn GD này gồm hai phần chính:
Phần 1: Thực phẩm và nông dược
(Trước đó, cô Kawasaki đã hướng dẫn học sinh tiến hành hoạt động ngoại khóa: Điều tra thu thập thông tin mua bán thực phẩm, sản xuất nông nghiệp, sử dụng nông dược ở xung quanh nơi các em sinh sống). Phần này gồm 4 tiết học, mỗi tiết kéo dài 45 phút với các nội dung cụ thể như sau:
Tiết 1: Bắp cải đẹp và bắp cải bị sâu cắn: Nếu là người mua em sẽ chọn cái nào? Tiết 2: Chúng ta thường mua thực phẩm ở đâu? Tiết 3: Chúng ta cần chú ý điều gì đối với thực phẩm? Tiết 4: Nông dược là gì?
Phần 2 Nông gia vùng Tainaka: ông Naito và ông Fujita.
Phần này được tiến hành qua 7 tiết học với nội dung cụ thể như sau: Tiết 1: Tainaka là vùng thế nào? Tiết 2-3-4: Ông Fujita và ông Naito 1: Nếu là người sản xuất em chọn ông nào? Tiết 5-6: Nghe ông Naito kể chuyện. Tiết 7: Suy nghĩ của các em sau câu chuyện kể (cho học sinh viết tiểu luận).
Những thông tin giáo viên thu thập được như: Tình hình sản xuất, khó khăn, niềm hạnh phúc, thu nhập bình quân hàng năm của nông gia... được giáo viên chỉnh lí cho dễ hiểu và in dưới dạng tài liệu phân phát cho học sinh. Hai nhân vật Naito (không dùng nông dược) và Fujita (dùng nông dược) là sáng tạo của giáo viên.
Ông Fujita là hình ảnh 10 năm về trước của ông Naito. Giáo viên dùng hai hình ảnh đối lập này để tiến hành giờ học dưới hình thức trao đổi ý kiến và tranh luận. Trung tâm của bài học là vấn đề "Nếu là người sản xuất em sẽ lựa chọn ông Naito hay ông Fujita?". Học sinh căn cứ vào những luận điểm như: Thu nhập, khó khăn, thuận lợi... của hai người mà tranh luận, bác bỏ ý kiến đối lập và bảo vệ sự lựa chọn của mình.
Phân tích hồ sơ giờ học(4) cho thấy học sinh đã tranh luận sôi nổi và đưa ra nhiều ý kiến thú vị. Kết cục có ba xu hướng:
Xu hướng thứ nhất: chọn ông Naito
Học sinh A(5): Tớ chọn ông Naito vì nếu tớ là nông gia tớ muốn mọi người được ăn thực phẩm tươi tự nhiên, ít có nông dược. Mặc dù thu nhập của ông Fujita cao hơn nhưng nếu xét về tính tự nhiên thì ông Naito vẫn tốt hơn. Cho dù có bị sâu chén đi nữa thì cũng không phải là điều dở. Mà có khi thứ bị sâu chén lại là đồ ngon.
Học sinh B: Tớ chọn ông Naito vì nông dược có ảnh hưởng đến tính mạng người khác. Nếu như lỡ ăn phải sản phẩm của ông Fujita mà lại quên rửa thì chỉ có đường chết! Tớ cũng nghĩ như cậu A, mạng sống không bao giờ trở lại. Cho dù ai cũng thích tiền nhưng dẫu có tiền cũng không mua được sinh mạng nên tớ chọn ông Naito.
Xu hướng thứ hai: chọn ông Fuji ta
Học sinh C: Chắc chắn là tớ chọn ông Fujita . Cho dù nói là nông dược nguy hiểm đến thế nào đi chăng nữa thì cho đến giờ ông Fujita cũng chưa một lần bị nhiễm độc. Ông Naito cho dù không dùng nông dược nhưng vẫn có nhược điểm. Thứ nhất là thu nhập thấp, thứ hai là cũng có lần không bán được, thứ ba là bị sâu ăn. Trái lại ông Fujita thì một là thu nhập cao, thứ hai ít khi không bán được, thứ ba là trở thành người trồng rau nổi tiếng. Và như thế đương nhiên ông Fujita tốt hơn.
Học sinh D: Tớ nghĩ làm ông Fujita tốt hơn. Cho dù có dùng nông dược đi nữa thì vẫn tốt hơn là bị sâu ăn. Ví dụ như khi trồng bắp cải mà không dùng nông dược thì những chỗ có thể ăn được sẽ bị sâu ăn mất. Cho dù có dùng nông dược đi nữa thì chỉ cần rửa kĩ là không sao. Thế cho nên chắc chắn tớ chọn ông Fujita. Bác Fujita ơi hãy cố gắng nhé!
Xu hướng thứ ba: Phân vân
Học sinh E: Tớ ngày hôm qua chọn ông Fujita, nhưng hôm nay đổi sang chọn ông Naito. Khi nghe ý kiến mọi người, tớ lại phân vân không biết chọn ai. Nhưng ông Fujita cho dù có dùng nông dược đi nữa thì vẫn có thu nhập cao. Ông Naito tuy không dùng nông dược nhưng lại có thu nhập thấp. Tớ muốn mọi người ăn thứ không có nông dược nhưng nếu thu nhập thấp thì biết làm sao đây? Nhưng việc ông Naito phải dùng máy cày dẫm nát bắp cải thật đáng thương!
Học sinh F: Cho đến ngày hôm qua, tớ chọn ông Fujita nhưng hôm nay học thêm lần nữa tớ lại cảm thấy phân vân. Ông Fujita thì có thu nhập cao nhưng lại sử dụng nông dược, nhìn vào tài liệu thấy có viết chuyện ngộ độc thật là đáng sợ. Ông Naito có thu nhập thấp vì thế cuộc sống khó khăn. Nhưng ông Naito đã bỏ cách dùng nông dược sang không dùng nông dược nên tớ nghĩ ông Naito là OK. Thế nên lúc này tớ chẳng biết nói thế nào cả.
Giờ học kết thúc mà không có kết luận cuối cùng. Từ các lớp bậc trên của tiểu học (lớp 4 trở đi) trong những giờ học sử dụng phương pháp thảo luận, tranh luận, giáo viên thường không đưa ra kết luận cuối cùng hay phê phán ý kiến khác biệt, thiểu số của học sinh.
Dạy cho học sinh nên tư duy độc lập và dám phản biện. Minh họa: Gettyimages
Bởi vì mục tiêu mà các giáo viên Nhật hướng tới là GD nên những học sinh có tri thức, tư duy độc lập, năng lực phê phán và trách nhiệm cá nhân. GD nên những con người biết tự mình suy nghĩ, tự mình nhận định đúng sai, tự mình tìm lấy chân lí và bảo vệ chân lí là một bộ phận quan trọng nằm trong triết lí GD Nhật Bản từ sau chiến tranh thế giới thứ hai.
Không phải chỉ có giờ học về nông nghiệp mà các giờ học Địa lí, Lịch sử cũng vậy. Tôi đã quan sát không ít các giờ học Lịch sử, ở đó học sinh Nhật sôi nổi tranh luận những vấn đề mà nhiều người lớn cũng sẽ lúng túng khi phải đưa ra ý kiến như: "Tán thành hay phản đối cuộc chiến tranh với nước Nga?"(6) "Trách nhiệm chiến tranh thuộc về người dân Nhật hay thuộc về Thiên hoàng?"...
Vai trò giáo viên: Dạy trò độc lập tư duy và dám phản biện
Từ thực tiễn giờ học trên có thể rút ra điều gì?
Nó đã thể hiện rất rõ vai trò của giáo viên trong việc xử lí mối quan hệ giữa GD và thực tiễn, giữa SGK-nội dung chương trình và thực tiễn dạy học của giáo viên.
Những vấn đề liên quan đến các mối quan hệ này đã được các nhà nghiên cứu, các nhà GD Nhật tranh luận sôi nổi suốt từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay. Việc làm rõ những vấn đề này có ảnh hưởng vô cùng quan trọng đến những vấn đề cơ bản mà GD, nơi tạo ra những người làm chủ, nơi quyết định sự hưng vong của cả một quốc gia dân tộc.
Kết cục bi thảm của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai cùng với sự phản tỉnh sâu sắc về một nền GD sai lầm trong quá khứ đã giúp cho người giáo viên Nhật nhận thức rõ về quyền, nghĩa vụ và sứ mệnh của mình.
Nước Nhật từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đã giải bài toán GD tương đối thành công bằng cuộc CCGD triệt để, toàn diện có triết lí và lộ trình rõ ràng. Cuộc CCGD ấy vẫn diễn tiến đến tận ngày nay cho dù triết lí GD về cơ bản là không thay đổi. Trong cuộc CCGD toàn diện và rộng lớn ấy, những người giáo viên trực tiếp giảng dạy ở trường phổ thông đóng một vai trò vô cùng to lớn.
Họ không đơn thuần là người thực hiện những chỉ dẫn cải cách mang tính hành chính từ bộ GD mà họ còn đóng vai trò phản biện chính sách góp phần đảm bảo cho cuộc CCGD diễn ra đúng hướng.
Quan trọng hơn, những người giáo viên bằng thực tiễn GD phong phú, sáng tạo tương ứng với điều kiện cụ thể của từng trường học, lớp học, học sinh đã tạo ra cuộc CCGD từ dưới lên bằng muôn nghìn dòng chảy. Cuộc CCGD ấy đã có những tác động lớn và tích cực tới dòng chảy CCGD từ trên xuống do bộ GD chủ trì.
Việt Nam hiện tại cũng đang đứng trước bài toán GD. Bài toán vừa mang tính kinh điển vừa mang tính thời đại. Muốn giải trọn vẹn bài toán này rất có thể phải giải thêm và cùng lúc một hai bài toán chính và hàng chục bài toán phụ.
Bài toán này tuy khó nhưng thực ra đã nhìn thấy đáp số vì trên thực tế nhiều nước tiên tiến như Nhật đã giải rồi. Vấn đề là ở Việt Nam chúng ta nên giải nó như thế nào? Khó không có nghĩa là không làm hay "há miệng chờ sung" bởi nếu không giải được bài toán đó, chúng ta sẽ mãi là những kẻ bộ hành quờ quạng trong đường hầm không tìm thấy lối ra.
(1) Cả nước sử dụng một bộ sách giáo khoa duy nhất do bộ giáo dục biên soạn và xuất bản.
(2) Ở Nhật pháp luật quy định giáo dục nghĩa vụ là 9 năm cho nên nhà nước mua sách giáo khoa và cấp phát miễn phí cho học sinh từ lớp 1 đến lớp 9.
(3) Do bộ giáo dục Nhật biên soạn và ban hành trong đó tóm lược về mục tiêu, nội dung, phương pháp giảng dạy trong các trường phổ thông. Khoảng 10 năm bộ giáo dục Nhật lại tiến hành sửa đổi bản hướng dẫn giảng dạy một lần. Mỗi lần sửa đổi có thể coi là một cuộc cải cách giáo dục. Bản Hướng dẫn giảng dạy đầu tiên ban hành năm 1947 và bản hướng dẫn giảng dạy mới nhất ban hành tháng 3 năm 2008.
(4) Hồ sơ giờ học là những ghi chép toàn diện về giờ học của giáo viên phục vụ cho công tác nghiên cứu. Trong hồ sơ giờ học có ghi đầy đủ và khách quan về giáo án, tài liệu, dụng cụ giảng dạy đã sử dụng, diễn biến giờ học, hoạt động của thầy-trò, ý kiến của học sinh đặc biệt là cảm tưởng, các ý kiến tranh luận của học sinh( những ý kiến này tuy được giáo viên chép lại hoặc thu thập từ các tờ giấy theo mẫu mà giáo viên đã phát cho học sinh nhưng được giữ nguyên cả văn phong, các lỗi sai về từ vựng, ngữ pháp để đảm bảo tính khách quan ở mức cao nhất có thể). Hiện nay giáo viên ở Nhật có sử dụng các phương tiện kĩ thuật hiện đại như máy quay phim kĩ thuật số, máy ghi âm nên việc lập hồ sơ giờ học trở nên dễ dàng hơn.
(5) Để đảm bảo quyền riêng tư, trong hồ sơ giờ học tên học sinh thường được kí hiệu là A, B, C hoặc dùng tên giả. Chỉ có giáo viên đã tiến hành giờ học đó mới biết chính xác học sinh đó là ai.
(6) Chiến tranh Nga-Nhật( 1904-1905)
Nguyễn Quốc Vương(JP)
Nguồn