Bạn đang xem trang 1 / 2 trang

Tâm trạng khi điên!

Đã gửi: Tư T9 22, 2004 8:40 pm
Viết bởi wasabi
Có người bạn gởi cho mình câu chuyện này ,ai quá rảnh đọc chơi!



eVăn: Dưới đây là một truyện ngắn lạ, hiếm thấy của nền văn chương tiếng Việt đương đại. Truyện đan xen nhiều tình tiết giữa thực tại, hồi ức và liên tưởng - những liên tưởng kỳ dị đến độ phi thực. Không phải là vấn đề của một con người cụ thể ở một miền đất cụ thể nữa, mà ở đây, Nguyễn Nguyên Phước cho ta thấy một điều gì đó khủng khiếp hơn nhiều: sự bào mòn về ý thức hiện hữu của con người hiện đại nói chung.

Tác giả: Nguyễn Nguyên Phước, sinh năm 1976; hiện làm nghiên cứu sinh ở Nhật Bản.


 
Tâm trạng khi điên
Nguyễn Nguyên Phước
Ngày hôm qua, tôi vừa tròn hai mươi tám tuổi. Người ta đưa tin về một quan chức ngành thể thao hiếp dâm một bé gái vị thành niên. Tôi nhìn bức ảnh người đàn ông có mái tóc muối tiêu. Một khuôn mặt tẻ nhạt. Cuộc đời ông ta chắc cũng tẻ nhạt như thế. Nhà ông ta ở gần khu nhà tôi. Một căn nhà sang trọng, ông ta ngồi đó lơ đãng gắp thức ăn. Người ta tin rằng ngủ với những cô gái đồng trinh sẽ đem lại may mắn. Ông ta đang ngồi tù. Đứa em họ tôi cũng đang ngồi tù. Lúc tôi học năm thứ hai, thấy đưa tin truy nã nó. Tôi cũng không chắc chắn mãi đến khi bố tôi đọc báo và xác nhận. Đã lâu lắm rồi ông không đến nhà nó chơi. Nó lừa đảo ngân hàng  hơn một tỷ. Lúc đó nó hai mươi tuổi, bằng tuổi tôi. Lúc đó tôi đang học năm thứ hai, tôi chưa bao giờ có đến một triệu.

Tôi cố gắng hình dung khuôn mặt đứa em tôi. Nó sống ở một nơi mà xung quanh toàn bọn đầu trộm đuôi cướp. Mẹ tôi nói rằng, nó đã thành đàn bà năm mười bốn tuổi. Tôi thì đến bây giờ vẫn chưa từng hôn một đứa con gái nào cả. Tôi không thể tưởng tượng được khuôn mặt nó khi nó thành đàn bà. Trong trí tưởng tượng của tôi, chỉ có hình ảnh một con bé thông minh và lém lỉnh. Lúc đó, nó đang học lớp năm và học rất khá. Tôi vẫn không thể nào quên đôi mắt to tròn ngạc nhiên đầy thích thú của nó khi nó mút que kem. Chưa bao giờ tôi nhìn thấy một niềm vui nào lớn lao đến thế. Giờ thì nó đang ngồi quanh bốn bức tường.

Tôi cũng đang ngồi quanh bốn bức tường. Ở một nơi xa lạ với một thứ ngôn ngữ xa lạ. Nơi đây, tôi lần đầu tiên nhìn thấy những con quạ. Trông chúng thật thảm thương, cứ như thể số phận của chúng là suốt đời phải đậu trên đám dây điện chằng chịt kia vậy. Ở lab, chúng tôi nói chuyện với nhau bằng tiếng Anh vì nó là foreign language to everyone và đó là sự công bằng duy nhất mà sensei của tôi muốn thiết lập. Khi ông nói thì tôi hiểu ông nói gì nhưng khi tôi nói thì rõ ràng là ông không hiểu tôi nói gì nhưng ông vẫn khăng khăng rằng ông hiểu điều tôi muốn nói, và rằng chỉ có tôi là không hiểu điều ông muốn nói với tôi. Cả hai chúng tôi đều cô đơn trong cách diễn đạt của mình.

Buổi sáng đầu tiên, tôi thức dậy, mở cửa sổ, nhìn thấy tuyết trắng xóa, lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy tuyết. Nó giống hệt như giấc mơ hồi tôi còn bé. Thức giấc nhìn ra cửa sổ và thấy tuyết rơi. Những bông tuyết hờ hững rơi. Dường như chẳng có gì cả, ngoài một màu trắng. Hàng cây màu trắng. Cột điện màu trắng. Tòa nhà màu trắng. Những con người mặc đồ trắng. Tất cả đều hiện lên với vẻ bí hiểm và ma quái. Hệt như một câu chuyện cổ tích, hay một đám tang.

Bữa trưa, sensei kể cho chúng tôi nghe về một em bé học sinh cắt cổ bạn nó bằng một cái dao rọc giấy. Ông thản nhiên cầm cái thìa làm động tác đưa ngang qua cổ. Đột nhiên, tôi thấy máu phọt ra ở cổ ông, những giọt máu màu nâu đặc quánh như chè đậu đen mẹ tôi vẫn hay nấu vào mùa hè. Món sashimi bỗng trở nên khó nuốt. Bữa ăn tối, ngày thứ bảy, tôi ngồi cùng hai thằng bạn, một Ấn Độ, một Bangladesh. Món ăn chung duy nhất của chúng tôi là thịt gà. Thằng Ấn Độ tin rằng những con bò là linh thiêng còn thằng Bangladesh thì cho rằng những con lợn là bẩn thỉu. Tôi thèm thịt chó. Chúng nó hỏi tôi có thể ăn được thịt gì. “Tất cả”, tôi đáp, “trừ thịt người”.

Ngày hôm qua, tôi nhận được tin ông tôi mất. Ông và tôi cùng có chung một niềm vui là nuôi gà chọi và giải toán đố. Ông bị một thứ bệnh mà y học không có tên gọi, nên người ta đành xếp nó vào nhóm bệnh thần kinh. Trong khoảng hai mươi năm, trí nhớ của ông bị gặm nhấm dần. Ban đầu, khái niệm về thời gian bị thu hẹp lại. Cuối cùng, tất cả các sự kiện trong quá khứ đều được chập lại vào một thời điểm mà ông gọi là “ngày hôm qua”, dù thực tế có thể nó diễn ra cách đây rất nhiều năm. Lần cuối cùng tôi gặp ông, ông kể về một chuyến đi địa chất thời trai trẻ. Đoàn có mười tám người, ông là trưởng đoàn. Họ lạc vào một cái bản hoàn toàn không tiếp xúc với thế giới văn minh. Người trong bản giao tiếp bằng một ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ với tiếng Việt. Nó giống tiếng chim hót hay tiếng chó sói hú hơn là tiếng người. Họ cũng biết dùng lửa và chế ra một số vật dụng thô sơ khác. Đoàn địa chất được họ cho ăn một bữa thịnh soạn, có rất nhiều món ăn ông không biết tên. Đặc biệt, họ có một thứ đồ uống kỳ dị đựng trong cái ống tre. Nó không phải là rượu hay bia. Nó có một cái vị rất kỳ quặc mà ngôn ngữ của chúng ta không có khả năng diễn đạt. Ông không nhớ được là mình đã uống bao nhiêu, chỉ biết khi tỉnh dậy thì thấy mình nằm dưới chân núi. Những người bạn đồng hành của ông đều biến mất. Nhiều năm sau vẫn không có tin tức gì về họ cả.

Ông tôi có chín người con, bốn con trai và năm con gái. Bố tôi là con cả và là người tỉnh táo nhất nhà. Chú hai và chú ba tôi đều mắc bệnh thần kinh từ nhỏ, cả hai đều chết đúng ngày tròn hai mươi tuổi. Chú tư là người thông minh, tài hoa nhưng từ nhỏ đã được nuông chiều nên hư hỏng. Chú lấy vợ sớm nên con gái chú bằng tuổi tôi, chính là đứa bây giờ đang ngồi tù. Vợ chú là một người đàn bà nhan sắc và lẳng lơ. Bố tôi kể rằng, năm đứa em họ tôi lên bảy, chú tư đột nhiên bỏ nhà ra đi, chẳng để lại một tin tức gì. Bốn năm sau, mẹ nó tái giá. Bố dượng của con bé là một gã xích lô, nát rượu và cục súc. Lão hay đánh đập con bé cực kỳ tàn nhẫn mỗi khi nó không mang đủ tiền về cho lão mua rượu. Cũng cần nói thêm là sau khi mẹ nó tái giá, em họ tôi phải bỏ học đi bán vé số. Bố tôi lấy vợ năm ba mươi tuổi. Tôi ra đời ba năm sau đó. Các cô của tôi thì đều lấy chồng xa, chẳng mấy khi tôi gặp họ. Thỉnh thoảng, mẹ tôi bảo “cái quần mày đang mặc là may từ mảnh vải của cô năm cho” hay “cái mũ này là của cô bảy”. Và như vậy trong hình dung của tôi, cô năm giống hệt như cái quần kẻ sọc hai màu đen và xám mà tôi mặc suốt những năm cấp hai, còn cô bảy là cái mũ màu nâu mà tôi đội cho đến tận ngày vào đại học. Tôi không bao giờ tưởng tượng được khuôn mặt họ. Ngay cả khi sau này dù đã gặp họ một vài lần, những khuôn mặt đó cũng chẳng thể nào in sâu vào trong trí nhớ của tôi. Cô năm vẫn chỉ là chiếc quần sọc, cô bảy vẫn chỉ là chiếc mũ nâu.

Bố tôi là một công chức nhà nước. Ông là người luôn giữ một niềm tin tuyệt đối vào những giá trị mà mình đã từng tôn thờ. Khi em gái tôi có bầu với thằng bồ nó trước khi cưới mấy tháng, ông đã đuổi nó ra khỏi nhà và kiên quyết không dự đám cưới.  Sau này, khi thằng cháu tôi lên hai, nhờ sự tác động của ông thủ trưởng cũ, một người mà bố tôi rất kính trọng, ông mới cho nó bước chân vào nhà. Ở ngay chính giữa phòng khách nhà tôi, ông cho treo một bức ảnh rất to trong đó có hình ông được chụp với một ông thứ trưởng nào đấy mà đến giờ tôi cũng chẳng nhớ tên nhân dịp ông thứ trưởng kia đến thăm cơ quan. Tấm ảnh đen trắng là một cái gì đó rất thiêng liêng và đặc biệt đối với tuổi thơ hai anh em tôi. Ông thứ trưởng, trong bộ đồ kaki giản dị, lúc nào cũng nghiêm khắc nhìn chúng tôi. Ngay cả buổi sáng trước khi lên đường đi du học, tôi vẫn thấy ông nghiêm khắc nhìn tôi. Cái nhìn không mấy thiện cảm.    

Cứ khoảng bẩy giờ sáng, sensei đánh thức cả lab dậy tập thể dục. Ông dẫn chúng tôi đi lại trong khuôn viên của trường và nói những chuyện linh tinh nhảm nhí. Những lúc như thế, thằng Ấn Độ trở nên hoạt bát một cách đáng ngờ vì bình thường nó là đứa trầm tính. Mỗi lần như thế, nó lại kể về mối tình của nó. Nàng hai mươi hai tuổi, nước da bánh mật, đôi mắt to đen, khuôn mặt thánh thiện và nụ cười mê hồn. “Cuộc sống thật đê tiện”, nó thường lẩm bẩm như thế mỗi khi bắt đầu kể về đoạn kết câu chuyện tình của nó. Nàng bị ép gả cho một gã cùng đẳng cấp trong cái giai tầng rối rắm mà mỗi khi thằng Ấn Độ mô tả, tôi mặc dù đã cố gắng tập trung hết sức vẫn không thể hình dung ra được. Nó thì trôi giạt sang cái xứ sở chết tiệt này. Nắng bắt đầu gắt, chúng tôi đi về lab. Buổi tập thể dục sáng thường kết thúc như vậy.

Sau đó, chúng tôi quay về lab. Ở lab, mỗi đứa có một cái bàn nhỏ. Trên bàn, chúng tôi bầy la liệt đủ thứ: sách vở, máy tính, dao cạo râu, bàn chải đánh răng và dầu gội đầu. Thậm chí có lần tôi còn bắt gặp trong ngăn kéo bàn của thằng Ấn Độ có mấy cái bao cao su, chả biết nó mua ở đâu, nhưng tôi biết chắc chắn nó không dùng. Nó là thằng ngoan đạo. Công việc của chúng tôi khá đơn giản, chúng tôi thường gọi đùa là trò chơi nặn đất sét. Sensei giao cho tôi năm cái lọ đựng đủ các loại chất lỏng nhầy nhầy. Tôi bắt đầu trộn chúng với nhau, ngày nào cũng vậy. Ngày nào tôi cũng trộn năm dung dịch đó và chờ đợi. Một sự chờ đợi đầy mệt mỏi và sung sướng. Dung dịch có nhiều màu. Tôi cứ thế trộn và hy vọng. Hy vọng vào sự may mắn. Hy vọng rằng đôi khi Đấng Tối Cao cũng không quên những kẻ trộn dung dịch như tôi. Tôi chờ đợi Người ban ơn. Tôi ngồi trộn dung dịch vì biết rằng mình không đơn độc. Tôi ngồi trộn dung dịch để thấy mình còn tồn tại, mình còn có ý nghĩa. Tất cả mọi người ở lab chúng tôi đều làm như vậy và được trả lương. Chúng tôi ngồi trên những cái bàn nhỏ, tất cả đều im lặng, căng thẳng, run rẩy và sợ hãi. Tất cả chúng tôi đều cố lắng nghe một tiếng gọi mà chúng tôi tin rằng nó tồn tại mặc dù chưa từng ai trong tất cả chúng tôi nghe thấy. Trong trí tưởng tượng của tôi, nó có thể giống như là tiếng gió rít từ phía bên kia cánh đồng, hoặc tiếng quạ kêu trên nóc nhà, hay tiếng máy bay lượn lờ giữa đêm khuya như những bóng ma màu trắng. Nhưng rất có thể, trên thực tế chẳng có âm thanh nào cả. Chiều tối, sensei thu hết tất cả mấy lọ. Ngày hôm sau ông lại phát một loạt lọ mới.  

Ngày hôm qua, ông tôi khóc. Không có giọt nước mắt nào cả. Ông đờ đẫn nhìn vào bức tường màu trắng. Những vệt trắng nham nhở vốn là kết quả của một gã thợ nề vụng về không hiểu sao lại khiến tôi liên tưởng đến nét cọ của một tay họa sĩ siêu thực mà tôi quen ở quán cà phê. Tay này theo tôi vốn chẳng có tài cán gì, hắn chỉ là một tên bịa đặt. Những thứ hắn vẽ chả cái nào ra hồn cả. Hắn chỉ cho tôi một bức tranh tuyền màu trắng, chẳng khác gì người ta cầm một tấm vải nhúng xuống hố nước vôi, và bảo đây là bức “Gấu trắng ở Bắc cực”. Hiển nhiên là hắn chưa bao giờ đến Bắc cực cũng như chưa bao giờ nhìn thấy gấu trắng. Tôi nhìn sang một bức tranh toàn màu đen kịt và hỏi : “Thế bức này là Chó mực ở bãi tha ma à?”. Hắn bảo “Không. Đây là bức Bướm đêm”. Thế là chúng tôi cãi nhau. Hắn thì khăng khăng là hắn vẽ bướm đêm, còn tôi thì khẳng định là tôi chỉ nhìn thấy chó mực. Cuối cùng, cả tôi và hắn đều khóc, khóc vì những điều ngớ ngẩn xảy ra trong cuộc đời chúng tôi, vì những cái chúng tôi chẳng bao giờ hình dung ra được. Từ hôm ấy, tôi không bao giờ gặp lại hắn nữa. Ông tôi cầm chiếc quạt nan cũ kỹ lấy hết sức đập con ruồi trên bức tường. Tất nhiên, chả có con ruồi nào cả. “Lại trượt rồi”, ông lầm bầm và bắt đầu rấm rứt khóc. Tôi muốn dỗ dành ông nhưng không biết làm thế nào cả. Tôi chẳng nhìn thấy con ruồi nào cả. Tôi chỉ nhìn thấy nhát quạt của ông đập vào tường. Nhưng tôi không biết làm thế nào để nói cho ông hiểu được. Làm sao tôi có thể chứng minh được điều đó? Nhỡ có con ruồi thật thì sao? Tôi thấy buồn rười rượi. Tôi xấu hổ vì sự ngu dốt của mình. Vì tôi không nhìn thấy con ruồi.

Buổi tối, tôi và bạn gái đi chơi Hồ Tây. Đang đi bộ trên đường Thanh Niên, đột nhiên một gã thanh niên đầu húi cua, mặt đầy sẹo, chặn chúng tôi lại, cười nhăn nhở nói với bạn tôi: “Em xinh như một con phò”. Đoạn hắn quay sang tôi cười giễu cợt. Tôi cụp mắt xuống. Tôi không dám nhìn vào mắt hắn. Tôi kinh hãi và hiểu rằng nếu có đánh nhau chắc tôi không phải đối thủ của hắn. Tôi im lặng. Tôi im lặng không phải vì tôi là kẻ khôn ngoan như những nhà hiền triết trong sách giáo khoa mà là vì tôi không biết nói gì. Tôi chưa bao giờ lâm vào tình huống khó xử như thế này. Thực ra, về sau này tôi mới nhận thấy rằng những tình huống kỳ quặc như vậy luôn luôn xảy ra. Nó xảy ra thường xuyên đến mức nhiều lúc tôi có cảm tưởng đó là ý muốn quái gở của Thượng Đế. Cuối cùng thì mọi chuyện cũng qua, hắn bỏ đi, còn tôi xấu hổ. Suốt đoạn đường còn lại, chúng tôi không nói với nhau lời nào. Ngày hôm sau, cô ấy gọi điện nói lời chia tay sau “một đêm suy nghĩ rất kỹ”. Cô nói rằng cô không chịu đựng được ý nghĩ rằng người yêu mình là kẻ hèn nhát. Tôi chẳng nói gì. Kẻ hèn nhát không nên nói gì cả. Tôi chia tay mối tình đầu trong nhục nhã. Từ đó trở đi, tôi kinh tởm đàn bà.

Buổi chiều, gió mạnh và nắng gắt. Tôi hay cảm thấy đau đầu vào những lúc như thế. Đầu nhức như búa bổ, tôi không còn giữ được sự tỉnh táo cần thiết để nhận biết mọi thứ nữa. Thay vì trộn dung dịch màu trắng vào dung dịch màu đen, tôi lại trộn dung dịch màu xanh vào màu đỏ. Và kết quả là chả ra sao cả. Gió vẫn thổi mạnh, tai tôi ù đi vì sợ hãi. Tôi chẳng còn nghe thấy gì nữa ngoài tiếng gió. Càng cố gắng tập trung, tôi càng mất phương hướng. Tôi không còn nghĩ được điều gì nữa. Óc tôi như bị vỡ vụn thành trăm mảnh. Sensei đưa cho tôi cốc nước, tôi chẳng kịp nhìn xem nó màu gì, hình như là màu xanh. Tôi uống nhưng kết quả cũng không khá hơn. Tôi bắt đầu nghe thấy tiếng lầm bầm ở đâu đó. Một giọng nói đứt quãng, và lí nhí đến nỗi tôi lúc đầu tôi không thể phân biệt đó là giọng người lớn hay trẻ con. Cuối cùng tôi cũng nhận ra là có hai người đang nói chuyện. “Chỗ này lạnh lắm, mẹ ạ” - giọng một thằng bé khoảng năm sáu tuổi nói. “Nhưng mình đi tìm hai mươi năm nay đâu có chỗ nào tốt hơn”- người mẹ nói. Giọng bà ta trầm đục và có vẻ mệt mỏi. “Thế bố có ở đây không?” - thằng bé lại hỏi. “Mẹ không biết. Con đừng hỏi nữa, mẹ mệt lắm rồi. Mình dừng ở đây thôi. Thôi mình đi ngủ đi con.”

Từ hôm đó trở đi ngày nào tôi cũng nghe thấy tiếng hai mẹ con họ vào lúc trước khi đi ngủ. Tôi kể cho thằng Bangladesh nhưng nó không tin. Nó chả tin vào cái gì ngoài lễ ramadan và những con lợn bẩn thỉu. Ngày nào đối với nó cũng thuộc về tháng ramadan. Nó chỉ ăn vào buổi tối sau khi mặt trời lặn. Sensei nhiều lần cố nhét thức ăn vào mồm nó nhưng không được. Hai mẹ con họ nói đủ thứ chuyện trên đời. Thỉnh thoảng họ lại nhắc đến người bố giấu mặt.

Buổi tối, tôi đi dạo trong thành phố. Một thành phố đơn điệu. Không văn hóa, không lịch sử, không gì cả. Chỉ đơn giản là nơi người ta đến ở, rồi một lúc nào đấy đột nhiên họ quyết định gọi nó là thành phố. Chín giờ tối, không một bóng người. Cứ đi khoảng vài trăm mét, tôi lại thấy một công viên mini. Buổi tối chúng giống như những nghĩa địa. Tôi đi mãi và thấy mệt mỏi. Chẳng có gì đặc biệt, những ngôi nhà giống hệt nhau với những cái mái hình chóp và hàng rào bằng một loại cây nào đó mà tôi không biết tên. Tôi cứ thế đi một mình, chẳng có gì cả ngoài sự sợ hãi. Một thành phố chết. Tôi nằm trên cái ghế đá, nước mắt trào ra. Tôi nhớ đến những buổi tối ngày xưa, tôi hay ngước nhìn bầu trời đầy sao và thấy mình hạnh phúc. Giờ đây, cái niềm vui ấy cũng chẳng còn nữa. Những ngôi sao kia giờ chỉ làm tôi cảm thấy sợ hãi. Chúng đang cười nhạo tôi. Nỗi sợ hãi mơ hồ cứ thế lớn dần lên. Tôi quá đơn độc dưới bầu trời này. Tôi cứ nằm yên như thế, y như một kẻ tội đồ chờ đợi hình phạt.

Sáng sớm hôm sau, mới sáu giờ sáng, thằng Bangladesh đã đánh thức tôi dậy. Tôi lật đật chạy theo nó ra hành lang. Thân hình cao lớn của nó trong cái ánh sáng lờ mờ của buổi sáng mùa đông trông thật khủng khiếp. Thỉnh thoảng, tôi vẫn hình dung ra cảnh nó bóp cổ mình. Với cánh tay lực lưỡng đầy lông lá kia, chắc chắn tôi, cho dù cố gắng giãy giụa đến đâu, cũng không chịu đựng được quá năm phút. Đến cuối hành lang, nó chỉ ra sân trường, rồi thì thầm hỏi: “Mày có nhìn thấy gì không?”. Tôi hơi ngạc nhiên, mới sáng ra mà nó đánh thức mình dậy để nhìn sensei đang nói chuyện với một ông giáo ở lab khác ở dưới sân trường hay sao.

Tôi thờ ơ đáp: "Sensei đang nói chuyện". "Thế mày không thấy gì khác lạ à?" - nó hơi thất vọng. "Chả có gì. Ông ấy vẫn thế." "Mày nhìn quần áo ông ấy xem?" - nó lại thì thầm". "Ừ. Nó có vẻ không giống mọi ngày." "Đấy. Mày bắt đầu thông minh rồi đấy. Mọi ngày ông ấy lúc nào cũng mặc đồ trắng. Nhưng cả tuần nay tao để ý. Trước giờ tập thể dục của bọn mình, chẳng bao giờ ông ấy mặc đồ trắng. Chỉ khi nào gặp bọn mình ông ấy mới mặc đồ trắng thôi." "Thì sao?" "Chẳng sao cả. Tao chỉ thấy lạ thôi. Mà đó là một phát hiện quan trọng đấy. À mà mày đã biết chuyện gì chưa?" - nó lại chuyển sang giọng thì thầm.

Chuyện gì nữa đây? - tôi hơi bực mình. Nó đánh thức mình dậy sớm chỉ vì một chuyện hết sức vớ vẩn mà nó cho là unusual. Chúng tôi làm thí nghiệm suốt ngày chỉ mong có cái gì unusual với lại unexpected xảy ra. Nhưng rốt cục nó lại chẳng bao giờ xảy ra. Tất cả mọi thí nghiệm đều diễn ra hết sức bình thường, bình thường đến mức buồn tẻ, bình thường đến mức chúng tôi chẳng cần nhìn cũng biết kết quả nó phải thế, không thể khác được. Nhưng cuộc sống của chúng tôi thì ngược lại. Chẳng có một quy luật nào hết. Tất cả đều diễn ra hết sức lộn xộn, lộn xộn một cách bất bình thường. “Thằng Ấn Độ sắp lấy vợ”- nó vẫn thì thầm.  

Đột nhiên, tôi thấy rùng mình. Tôi nhớ có lần thằng Ấn Độ bảo với tôi rằng có đến tám mươi phần trăm dân Ấn cưới nhau theo kiểu arranged marriage. Nó cũng nằm trong cái tám mươi phần trăm của cái đất nước gần một tỷ dân ấy. Nó chẳng có sự lựa chọn nào hết. Cô dâu của nó có đẳng cấp cao hơn nó một bậc, một intercaste marriage theo cách gọi của nó. Điều duy nhất mà nó biết về cô dâu tương lai là một tấm ảnh. Tôi đã từng xem tấm ảnh ấy một lần. Cô gái trong ảnh khá dễ thương trong bộ quần áo cổ truyền Ấn Độ. Có lẽ khi chụp tấm hình này, cô không nghĩ rằng một ngày nào đó tấm ảnh sẽ là mối liên hệ duy nhất với vị hôn phu tương lai của cô. Tôi hỏi thằng Ấn Độ:

- Thế mày được chọn cái gì ?

- Voi - nó lầu bầu. - Tao được chọn con voi dành cho lễ cưới. Tao sẽ cưỡi lên con voi đấy trong ngày cưới. Dù sao, tao cũng có sự lựa chọn mặc dù nó không quan trọng lắm.

Ngay từ sáng sớm, bố mẹ thằng Ấn Độ đã đến ngồi chờ ở phòng tiếp tân. Họ đến để đưa nó về Ấn Độ làm đám cưới. Nó không chịu về. Họ phải bay một quãng đường dài để đến đây đưa nó về quê lấy vợ. Dù sao, nó cũng không thể trốn tránh trách nhiệm. Nó có trách nhiệm duy trì nòi giống. Nó có trách nhiệm cưới cô gái mà Thượng Đế dành cho nó. Đấy là truyền thống mà nó không thể phá vỡ. Nó chẳng có sự lựa chọn nào cả vì nếu có chắc chắn nó sẽ không chọn sinh ra làm người Ấn Độ. Bố mẹ nó trông nhỏ bé và nhẫn nhục so với căn phòng tiếp tân quá rộng và quá sang trọng. Họ có nước da ngăm đen rất đặc trưng. Ông chồng để ria mép; cùng với cái trán hói, nó càng làm ông thêm nhỏ bé và nhẫn nhục. Bà vợ đội khăn trùm gần kín mặt nhưng nó vẫn không che được những nếp nhăn mà chỉ cần nhìn thoáng qua người ta đã thấy nó tồn tại mặc dù có thể thị giác không ghi nhận được thông tin về những nếp nhăn đó. Thằng Ấn Độ buồn bã đi theo bố mẹ nó ra khỏi trường. Thỉnh thoảng nó ngoái lại nhìn chúng tôi. Không hiểu sao tôi thấy đôi mắt thằng Ấn Độ buồn ngơ ngác giống hệt đôi mắt con chó cún của tôi ngày trước lúc nó sắp chết. Một tháng sau, chúng tôi nhận được tin nó mất. Một cái chết kỳ lạ.

Thằng Bangladesh ngày càng ăn ít và tất nhiên là nó chỉ ăn vào buổi tối vì những ngày lễ ramadan chẳng bao giờ kết thúc. Nhưng điều kỳ lạ nó không giảm cân nào. Nó giấu thức ăn thừa dưới gầm giường cho đàn chuột. Khoảng nửa đêm, bọn chuột bắt đầu rúc rích mò vào phòng. Chúng bò lổm ngổm trên sàn nhà, leo lên cả bàn học. Mà không chỉ có thế, chúng vừa chạy vừa kêu rinh rích đầy khoái trá. Tôi căm ghét những con chuột màu xám với đôi mắt thao láo; chúng chẳng bao giờ biết xấu hổ. Thằng Bangladesh, ngược lại, rất quý đàn chuột. Nó thường túm cổ lấy con to nhất, vuốt ve một cách rất trìu mến khiến con chuột lim dim vì khoái cảm rồi đột nhiên nó bóp mạnh một cái. Con chuột bị đau kêu oai oái và cuối cùng không chịu đựng được con chuột quay đầu lại cắn một nhát vào tay khiến thằng Bangladesh phải buông tay ra. Ngày nào thằng Bangladesh và con chuột cũng chơi trò đấy. Điều kỳ lạ là con chuột mặc dù rất đau nhưng vẫn vui vẻ tham gia vào trò chơi cùng thằng Bangladesh, cứ như thể giữa chúng có một sự thỏa thuận ngấm ngầm trong trò chơi bệnh hoạn đó. Đàn chuột ngày càng đông, thức ăn thừa của thằng Bangladesh dần tỏ ra không đủ đáp ứng cho cái thói phàm ăn và sinh sản nhanh khủng khiếp của những con chuột, mặc dù thằng Bangladesh đã cố gắng nhịn ăn đến mức tối đa. Thậm chí, nó còn mang cả lọ mứt mà mẹ nó gửi cho nó ăn cả năm để cho đàn chuột ăn trong một tuần. Rồi nó bắt đầu đi xin cả thức ăn thừa của những đứa phòng bên cạnh nhưng dường như nỗ lực của nó chả thấm vào đâu. Cuối cùng thằng Bangladesh quyết định giảm số lượng đàn chuột. Đầu tiên là con chuột đầu đàn. Tối hôm đó, thằng Bangladesh vẫn chơi trò chơi thường lệ với con chuột rồi đột nhiên nó bóp mạnh vào mình con chuột. Con chuột quay đầu lại cố gắng cắn vào tay thằng Bangladesh nhưng lần này nó không buông tay. Bàn tay hộ pháp của nó càng tóm chặt con chuột hơn. Con chuột kêu la thảm thiết. Nó không ngờ lại có kết cục này. Trò chơi của ngày hôm qua cuối cùng cũng kết thúc. Con chuột biến thành một đống bầy nhầy trong tay thằng Bangladesh. Trong bóng tối, tôi vẫn nhìn thấy rõ trên khuôn mặt thằng Bangladesh hiện ra một nụ cười bí hiểm.

Từ hôm đó trở đi, ngày nào thằng Bangladesh cũng giết vài con chuột. Đàn chuột ngày càng trở nên khôn ngoan nhưng thằng Bangladesh còn thông minh hơn. Ngày nào nó cũng tóm được vài con chuột. Những con chuột còn lại phần vì nhu cầu thức ăn, phần vì cái ảo tưởng rằng với kinh nghiệm của ngày hôm qua chúng có thể dễ dàng chạy thoát khỏi bàn tay của thằng Bangladesh nên vẫn mò lên phòng vào ban đêm. Số lượng chuột giảm rất nhanh. Đêm hôm qua, nếu như tôi đếm chính xác thì chỉ còn mười hai con chuột. Thằng Bangladesh thì càng ngày càng say mê với trò chơi giết chuột nhưng bây giờ mỗi ngày nó chỉ giết một con vì đàn chuột giờ còn rất ít. Tôi để ý thấy khuôn mặt nó ngời sáng lên mỗi khi nhìn thấy con chuột giãy giụa trong lòng bàn tay, ngời sáng đến mức trong bóng đêm tôi vẫn có thể nhìn thấy cái vẻ long lanh rất khó tả trên đôi mắt thằng Bangladesh.

Chiều hôm qua, thằng Bangladesh nhận được một tin đặc biệt. Buổi tối, nó không buồn ăn cơm. Dường như có cái gì bất ổn trong tâm trạng của nó. Cuối cùng nó nói với tôi:

- Tao phải về Dhaka làm giáo sư.

- Tuyệt vời. - Tôi nói. - Mày có thể làm cái mà mày thích.

- Tao cũng chẳng biết nữa. - Nó buồn bã lắc đầu. - Từ trước đến giờ, tao chưa bao giờ làm cái gì độc lập cả. Tao sợ sự đơn độc. Nhất là trong nghiên cứu.

Tôi không nói gì. Tôi cũng thế. Tôi sợ nỗi cô đơn khi phải đi một mình trên con đường mà mình không biết phương hướng. Thằng Bangladesh đột nhiên nói:

- Mày có muốn đi cùng tao không?

Tôi không trả lời. Im lặng kéo dài suốt buổi tối. Chúng tôi ngồi theo đuổi những ý nghĩ riêng. Chúng tôi nghĩ về tương lai trong nỗi khiếp sợ. Cuộc sống rồi sẽ ra sao đây?

Ngày hôm qua, tôi đi đưa đám một người bạn thân thời phổ thông; anh mất ở bệnh viện tâm thần ở Trâu Quỳ. Một bệnh nhân tâm thần cùng phòng đã bóp cổ anh cho đến chết; sau đó, hắn dùng một con dao, loại vẫn dùng để rọc giấy, tự cắt cổ mình. Cho đến nay, anh vẫn là người tôi kính trọng nhất vì nghị lực và ý chí. Năm anh lên sáu, bố anh bỏ nhà theo một người đàn bà khác. Anh và em gái sống cùng mẹ và ông ngoại, một ông già mắc bệnh hoang tưởng, hậu quả của những cơn sốt rét rừng hồi còn ở chiến trường. Mẹ anh phải làm rất nhiều việc như gánh nước thuê, bán hàng rong, vé số... để nuôi cả gia đình. Hàng ngày, anh học một buổi còn một buổi phải đi bán kem để có tiền mua sách vở và đóng học phí. Anh luôn là người đứng đầu trong mọi kỳ thi. Hết năm thứ hai đại học, anh được học bổng sang Nhật học. Cùng năm đó, mẹ anh bị tai nạn giao thông, phải cưa hai chân. Đứa em gái anh, có lẽ vì quá mệt mỏi trước cuộc sống gia đình, đã bỏ nhà đi bụi đời. Mấy năm sau, người ta tìm thấy xác nó trong một ngôi nhà hoang ở ngoại thành. Cái chết của nó cho đến nay vẫn chưa rõ nguyên nhân. Học xong tiến sĩ, bạn tôi về  nước và một thời gian sau đó thì mắc bệnh thần kinh. Sau đám tang, mẹ anh đưa cho tôi một cuốn vở nhỏ, loại vở có dòng kẻ ô ly vẫn dùng cho học sinh cấp một; bà nói rằng đây là thứ mà bệnh viện họ tìm thấy ở dưới gầm giường anh. Bà muốn nhờ tôi đọc hộ vì bà không biết chữ. Tôi mở cuốn vở ra, đó là nhật ký anh viết trong những ngày ở Trâu Quỳ. Nhật ký bắt đầu bằng câu: “Ngày hôm qua,...”.


Nhật Bản, 8/2004



Re:Tâm trạng khi điên!

Đã gửi: Tư T9 22, 2004 11:53 pm
Viết bởi glngoc
Đọc truyện không hiểu gì mấy,nhưng vẫn thấy 'ghiền',lạ thật...

Re:Tâm trạng khi điên!

Đã gửi: Năm T9 23, 2004 5:29 am
Viết bởi wasabi
Chắc chỉ có hai người đọc hết truyện ngắn này (?) là Bì và glngoc thôi [grin][grin] Hay đấy chứ !

Re:Tâm trạng khi điên!

Đã gửi: Năm T9 23, 2004 2:23 pm
Viết bởi shin_hack
     "Đứa bạn của em mất rồi anh à!"... hắn nghe đứa bạn thút thít qua Y!M mà bàng hoàng ngơ ngẩn, bàng hoàng cho 1 số phận hẩm hiu, ngơ ngẩn cho 1 người con gái mà hắn chưa từng gặp mặt. Tối qua trong giấc ngủ chập chờn hắn thấy đứa con gái nhỏ xấu số ấy nhìn hắn trừng trừng, đôi mắt buồn rười rượi.....Cả khuôn mặt chỉ có mỗi đôi mắt, gieo mình từ lầu năm chung cư xuống, đôi mắt vẫn trừng trừng. Máu, máu, chỉ một màu đỏ của máu.... Cả đôi mắt cũng đầy máu và ... buồn rười rượi. Hắn hét lên giật mình tỉnh giấc, lại vẫn 1 đôi mắt nhìn hắn....."Mày làm sao thế?" thằng bạn nhìn hắn tròn xoe, cặp mắt ngái ngủ....
         Cuộc đời thật là lạ!! Sự sống và cái chết đôi khi chỉ cách nhau mấy mili, giới hạn đôi khi chỉ mỏng manh hơn sợi chỉ... Hắn đã có lần đứng trên mỏm đá mà chỉ cần bước 1 bước nữa hắn sẽ nhìn thấy những gì người đời thường gọi là : "Thế giới bên kia".  Hắn đã từng đọc trong Thánh thư: "Chúa trời tạo nên tất cả. Khi con người mất đi nghĩa là về với Chúa, nghĩa là Chúa đang cần người". Hắn tự nhủ: "Có lẽ Chúa chưa cần mình, hoặc giả đang gọi nhưng mình không nghe thấy...". Điều đó đồng nghĩa với việc hắn phải cảm ơn Chúa vì đang và đã được sống. Thật nực cười!! Hắn chưa bao giờ có được 1 câu cảm ơn cha mẹ vì đã, đang và sẽ cho hắn quyền được ngắm cuộc đời này... Trong khi đó quanh năm suốt tháng phải đi cảm ơn nào là trường đại học đã giảm học phí cho hắn, cảm ơn tổ chức đã cho nó vài đồng học bổng......Thật rởm đời!!! Thật lố bịch!!! Hắn cười chính mình, cười cho cái lương tâm bị đồng tiền cắn lỗ chỗ, không biết liệu có gì vá nổi không??? Có người bảo tình yêu là sợi chỉ thần có thể vá mọi lỗ thủng...Không biết những lỗ thủng do tình yêu gây ra thì tình yêu có vá được không nhỉ?? Hắn mơ màng rồi lại chìm vào giấc ngủ...Lần này không có đôi mắt kinh sợ ấy, chỉ có tiếng cười của ai đó cất lên man dại.Cười hắn!!        



Re:Tâm trạng khi điên!

Đã gửi: Năm T9 23, 2004 6:18 pm
Viết bởi ho quang nam
  Đọc truyện này thấy người viết đúng là trong tâm trạng "muốn điên".Những chi tiết được đan xen một cách lộn xộn nhưng rất cuốn hút người đọc.Đọc rồi mới hiểu rõ thêm tại sao ở Nhật có nhiều người tự sát đến như vậy.Đến những du học sinh đang ở Nhật mà còn bị stress viếng thăm thường xuyên thì nói gì đến những thanh niên Nhật.
  Shinhack viết truyện hay lắm.Đúng là lương tâm của tụi mình bị "đồng tiền cắm cho lỗ chỗ" rồi.Thử nghĩ một ngày 24 tiếng thì bao nhiêu tiếng không nghĩ đến chữ "tiền"?!,Chắc được 6,7 tiếng khi ngủ và mấy tiếng ngồi học bài.Biết đến bao giờ cả mình và những anh em khác có được cuộc sống thư thả,đừng để vật chất chi phối chứ?Nhìn vào trong gương thấy một gương mặt đang nhìn lại mình.Ngó kĩ thì có lẽ hao hao giống người trong tác phẩm "Tâm trạng khi điên"

Re:Tâm trạng khi điên!

Đã gửi: Năm T9 23, 2004 7:28 pm
Viết bởi 4 eve r
Thật nực cười!! Hắn chưa bao giờ có được 1 câu cảm ơn cha mẹ vì đã, đang và sẽ cho hắn quyền được ngắm cuộc đời này... Trong khi đó quanh năm suốt tháng phải đi cảm ơn nào là trường đại học đã giảm học phí cho hắn, cảm ơn tổ chức đã cho nó vài đồng học bổng......Thật rởm đời!!! Thật lố bịch!!!  

Bao giờ con người được sống thật lòng?


Re:Tâm trạng khi điên!

Đã gửi: Năm T9 23, 2004 8:10 pm
Viết bởi yumi
  Đây cũng là một tâm trạng điên không thể tả:
         THƯ GỞI "TÔI"
Nhiều khi tôi nghĩ rằng tôi biết mình là ai và tôi đang làm gì. Tôi hãnh diện được sinh ra trong cuộc đời và nghĩ đến câu mà đời này người ta thường hay nói: sống hết mình. Ừ thì có bao nhiêu đem hết bấy nhiêu ra mà sống, mà thể hiện. Dễ mà. Có khó gì đâu việc bóc trái chuối có vỏ, bóc vài cái là sạch trơn , ai cũng thấu, cũng hiểu. Chỉ có thế thôi mà. Đời này dễ sống lắm.
     Nhưng đó là những lúc mà tôi đâu hề hay rằng có những đêm, ừ mà lúc đó là ban đêm hay ban ngày vậy nhỉ. Chỉ nhớ lúc đó tôi chỉ có một mình. Căn phòng tôi ở lúc đó lạnh tanh như địa ngục, cảm giác có ai đó lén nấp đâu đây, hình như hắn đang cười nhạo tôi. Tôi không nhìn mình trong gương. Không phải bởi vì bóng tối u ám trùm kín hết tấm gương và không gian quanh đó, mà là vì tôi không muốn nhìn thấy bên kia gương phản chiếu một người nào lạ hoắc lạ huơ tự dưng mang trái tim  và linh hồn tôi đứng đó, nhìn  tôi-cô ấy và đôi mắt trân trân vô hồn soi mói... Cần gì cô ấy soi mói, ngay tự cái con người bên trong của tôi cũng đang soi mói và hành hạ tôi mà. Cô ấy sẽ nhìn tôi, không nói năng gì nhưng ánh mắt ấy nói cho tôi biết rằng cô ấy đang hỏi : bạn là ai?. Tôi sẽ bối rối lắm đây , vì ngay cả tôi bây giờ cũng nào có biết " TÔI LÀ AI" đâu. Tôi trả lời làm sao với cô ấy-cái thân xác hình hài đang vô tình chịu trách nhiệm phải mang cái hồn của tôi đây. Tôi đành ngồi im bất động để cho chiếc caset mặc nhiên rên rỉ trả lời thay : một đêm nhớ nhớ, nhớ ra mình một mình. Một đêm nhớ nhớ ra mình đã ở đâu đây.Một đêm trong đêm . Một vầng sáng chói loá . Một đêm nhớ... nhớ ra ta vô hình....
     Tôi vô hình . Nhưng ngày nào tôi cũng mang ra đường một đứa "TÔI" vui vẻ cười đùa và đôi lúc còn "tha hồ quậy nữa.Tôi mang những câu đùa hợp tình hợp lí mà tôi học lóm từ những cuộc chơi cùng nụ cười khoái chí ra đùa với thằng bạn không mấy thân thiết. Chả là tôi đang nói dóc. Nó quật lại tôi với một câu đùa ,cũng như tôi thôi , câu đùa rất vô tư không có chút ý nghĩa nhưng vẫn hợp tình hợp cảnh."(...) suốt đời chỉ sống trong tưởng tượng thôi".Với vẻ mặt tức giận buồn cười, tôi cong người rượt theo nó đang đắc ý vì đã chơi được tôi.
     Câu đùa thôi mà. Nhưng mà giá như tôi nhớ ra rằng đêm hôm ấy tôi đã thức trắng đêm như thế nào nhỉ . Giá như tôi nhớ ra rằng đêm ấy tôi lại chợt thức giấc nửa đêm vì nghe từ đâu trong tâm tưởng câu hát tàn nhẫn vô tình của ông Tiến nhỉ. Mà thực ra tôi có ngủ đâu. Tôi chỉ đang choáng ngợp đi trong những dòng điên đảo cứ xoáy xoáy mãi  trong đầu tôi đấy chứ. "Mình là ai. Có phải suốt đời mình chỉ sống trong mộng tưởng không. Ừ nhỉ. Chẳng phải mình đã nghĩ rằng đời dễ dàng như bóc trái chuối đấy ư." Nhưng sao trên đời này lại có chuyện oái ăm và tàn nhẫn đến độ chẳng ai cho tôi biết được tôi là ai. Bạn đừng nghĩ tôi là trẻ mồ côi. Tôi chỉ là người bình thường như bao người khác thôi ( đời bảo tôi thế đấy). Tôi vẫn cười vui với mẹ , vẫn hỏi chuyện ba, vẫn nựng em và không thiếu trong bất cứ trò vui nào của bạn bè. Cô bạn thân sẽ chỉ trả lời một lẽ đương nhiên nếu tôi vô tình bâng quơ hỏi câu định kiếp : tau là ai nhỉ. "Thì mày là con của mẹ mày , là bạn của tau chứ ai" . Rồi sau đó thế nào cũng sẽ kèm theo câu : mày sến vừa vừa thôi. Tôi sẽ phì cười nhưng trong đầu đang nghĩ đến khuôn mặt ngạc nhiên của mẹ tôi khi nghe tôi đùa vớ vẩn như thế. " Con ốm à"."À không, con chỉ đang nhẩm câu thơ con mới vừa sáng tác thôi mẹ ạ." Thì khó gì đâu một câu trả lời. Nhưng khó là làm sao để sau khi trả lời xong mà tôi không ngồi bất thần như cái pho tượng đất. Mẹ sẽ mắng cho mà xem. Tôi đành bỏ ra sau hè nheo mắt nhìn cuối trời những ráng chiều đỏ tím tái. Tựa như rằng nó mang một con tim hoàn thiện nhưng bị bầm dập vì suốt một ngày rong ruổi dưới bầu trời. Tôi nheo mắt. Không phải vì ráng chiều chói loà mà vì tôi nhận ra nơi khoé mắt mình có cái gì đó hơi ươn ướt. Kết quả của một chuyến phiêu lưu trong đầu : mình là ai nhỉ và có phải suốt đời mình chỉ sống trong mộng tưởng không. Bấy giờ tôi mới nhận ra chỉ có nước mắt mới là người bạn thân nhất của mình. Hình như tối hôm đó tôi ngủ ngon giấc trong vòng tay của chú gấu bông.
     Câu hỏi được đặt sang một góc của cái đầu rỗng tuếch sáng hôm sau. Nào là bài vở cho kì thi , nào là cuộc hẹn với bạn cho kì nghỉ sắp tới. TÔI bận mà . À không , CÔ ẤY chứ . CÔ ẤY không cho phép tôi làm cho thân thể và trí óc của CÔ ẤY mệt vì những chuyện đâu đâu. CÔ ẤY cần phải thể hiện mình. CÔ ẤY cần phải sống hết mình. Chắc mẩm là CÔ ẤY đã quên sợ hiện diện của TÔI rồi. Ô nhưng mà CÔ ẤY có biết TÔI LÀ AI đâu nhỉ. TÔI trở lại với thực tại, thực tại trong một đêm...
        ...Một đêm nhớ nhớ . Nhớ ra mình một mình. Một đêm nhớ , nhớ ra mình đã ở đâu đây. Một đêm trong đêm. Một vầng sáng chói loá. Một đêm nhớ ...nhớ... ra... ta... vô... hình.


Re:Tâm trạng khi điên!

Đã gửi: Năm T9 23, 2004 8:46 pm
Viết bởi yumi
    Trước đây đọc kowabanashi của Nhật chẳng hiểu mô tê gì hết. Tự dưng thấy người ta sao lại có thể cho là đó là kowai được . Dần dần khi chính mình rơi vào tâm trạng ấy mới thấy nó kowai biết chừng nào.Kowai hơn cả bất cứ thảm kịch nào trên thế giới. Bởi vì hình như đã có một bóng ma giấu mặt nào hiện diện trong mỗi con người mà không ai có thể thấy được trừ chính mỗi người đó. Và họ không còn cách nào khác là đơn độc chiến đấu, vì nào có ai tin vào những điều "vớ vẩn" đó đâu. Cái đơn độc giết dần niềm tin của con người vào cuộc đời. Thật là kinh khủng.

Re:Tâm trạng khi điên!

Đã gửi: Năm T9 23, 2004 8:57 pm
Viết bởi 4 eve r

 
  Ô nhưng mà CÔ ẤY có biết TÔI LÀ AI đâu nhỉ. TÔI trở lại với thực tại, thực tại trong một đêm...
       .


  Cuộc đời là một quá trình ngộ nhận lâu dài. Từ bé khi còn chưa biết gì, cha mẹ đã ngộ nhận giúp ta: “con cái chúng ta giỏi thật”. Lớn lên chút ít, cái tôi bắt đầu bộc lộ, ta ngộ nhận chính bản thân ta.

Có ai đã từng soi gương và ngắm nghía cái thằng tôi trong gương chưa? vớ vẩn thật! ngày nào tớ chẳng soi gương!
Nhưng bạn hỡi! Bạn có thể lắng nghe và biết những gì mà cái thằng tôi trong gương muốn nói hay chưa? đã lần nào bạn trò chuyện với nó chưa? Nếu chưa, tôi sẽ giúp bạn thử một lần nhé.

Hãy mở thật to đôi mắt - vốn dĩ chưa bao giờ nhìn thấy bất cứ một điều gì đã đang và sẽ tồn tại trên cõi đời mộng ảo này, vâng hãy mở to mắt và nhìn thẳng vào nó, bạn nhé. Và bước tiếp theo, là hãy hỏi nó xem: “nó là ai, muốn gì”. Lặp lại điều này độ mươi lần, bạn sẽ chẳng thể nào biết được người trong gương là ai. Và điều tất yếu sẽ xảy ra – câu hỏi muôn thuở tự nhiên sẽ xuất hiện: “ai là tôi ?”.

Tôi đã từng ngộ nhận rằng, mình đã “nhìn” thấy được một người nào đó là chính mình, và đã nhiều lần sung sướng mà thốt lên rằng: cuối cùng mình cũng trả lời được câu hỏi: “ai là tôi”! Sai lầm – vâng, đó chính là sự ngộ nhận lớn nhất của một con người!

Với bạn, liệu bạn có bao giờ ngộ nhận như tôi không???


Re:Tâm trạng khi điên!

Đã gửi: Sáu T9 24, 2004 4:49 am
Viết bởi kelamat


 
Tâm trạng khi điên
Nguyễn Nguyên Phước
Ngày hôm qua, tôi vừa tròn hai mươi tám tuổi.  

Truyện hay. Đọc xong thấy cuộc đời như trò chơi xếp hình, lắp ghép từng mảng, chỗ tối, chỗ sáng. Xót xa và cay độc. Chắc khi điên chẳng có lấy một nụ cười trong cái đoạn hồi ức chông chênh ấy. Những mảnh đời, lắp ghép khập khiễng. Muốn gặp tác giả, xem có khiếm khuyết dị dạng ko mà viết văn chua cay đến thế[bones]