MIYAMOTO MUSASHI
Nguyên tác: Eiji Yoshikawa
Dịch giả: Cung Vũ
CHƯƠNG 39
ÁNH TUYẾT
Miyamoto Musashi đi bộ dọc theo bờ sông, lững thững hướng về phía Kyoto. Hắn nghĩ tới lời cha dặn. Cho đến lúc chết, cha hắn, ông Munisai luôn luôn nhắc hắn phải ghi nhớ công nghiệp hiển hách của tiền nhân. “Ta tuy chỉ là kiếm sĩ quê mùa ở một làng hẻo lánh miền chân núi, nhưng con chớ quên con thuộc dòng dõi Shinmen, một dòng dõi đã từng nêu nhiều chiến tích anh dũng và góp phần xây dựng nên xứ sở này. Con nên tự hào về công nghiệp ấy và phải cố noi theo”.
Những lời trối trăn ấy của cha lúc lâm chung còn như vang vọng bên tai Miyamoto Musashi vừa bùi ngùi vừa cảm khái. Lại nghe nói tại ngã ba sông Kogawa, chỗ hợp lưu của hai dòng suối lớn trước khi đổ vào đại hà chảy ra biển, còn lưu lại di tích một căn nhà và một ngôi cổ miếu. Căn nhà này thuộc dòng họ Shinmen do tổ phụ hắn dựng lên đã lâu đời, có đến hàng mấy trăm năm trước.
Tiện dịp qua đây, hắn muốn viếng thăm cảnh cũ để biết thêm về nguồn gốc của mình, xem những di vật của tiền nhân và vào miếu thắp hương tưởng niệm. Nhưng đến nơi chẳng thấy nhà cửa gì. Hỏi thăm, không ai rõ. Có lẽ nhà xưa, miếu cũ, không chịu nổi sự tàn phá của thời gian, đã sụp đổ rồi; người ta dọn dẹp cày bừa san bằng thành ruộng.
Sự thay đổi sao mà nhanh chóng quá ! Cả một quá khứ oai hùng tan đi không dấu vết. Còn lại, họa chăng chỉ mình hắn, kẻ thừa kế độc nhất và cô đơn của một dòng họ bị quên lãng.
Miyamoto Musashi tần ngần đứng nhìn dòng nước chảy miên man. Rồi thất vọng, hắn bỏ đi, tiếp tục men theo đường ven sông đến khu ngoại thành, không chủ đích.
Lững thững tản bộ trên những con đường ngoại ô vắng vẻ, Miyamoto Musashi đảo mắt nhìn quanh. Rặng liễu trông bên con lạch nhỏ thưa dần. Thay vào đấy, một vài căn nhà gỗ ẩn hiện sau những mảnh vườn xinh xắn bên hàng dậu xanh hoặc sau những cây tùng thấp lè tè thân uốn éo như trong tranh vẽ.
Đến gần một gốc liễu to mọc trên bờ lạch, rễ xù xì bò ngoằn tựa đàn rắn, Miyamoto Musashi tháo hành trang ngồi nghỉ.
Cuối xuân, lá liễu dài xanh biếc rủ xuống trước mặt như tấm mành. Cơn gió thoảng qua, mành liễu rung động. Một mình ngồi không biết làm gì, hắn phóng kiếm cắt từng lá liễu, trước chậm sau mau, rồi xoay cườm tay hươi kiếm ngược lên chẻ đôi nhành liễu. Bất giác hắn nghĩ đến chiêu “hiết liễu kiếm”, một chiêu kiếm được truyền tụng trên giang hồ, do một cao thủ phát huy và khai triển. Nếu quả thật có chiêu kiếm như vậy thì cũng đáng công nghiên cứu lắm, vì nếu ta coi những nhành liễu rung động kia là kẻ địch bao vây tứ phía thì chẻ đôi chúng ra đúng lúc mà chính xác chẳng phải dễ dàng gì. Hắn tự hứa có dịp sẽ tìm hiểu rõ hơn về chiêu thức ấy và người đá phát minh ra nó.
Nhìn con lạch nông, nước lờ đờ chảy dưới chân, Miyamoto Musashi ngạc nhiên.
Nước con lạch như phân đôi ra hai luồng, bên trong bên đục. Hắn đồ chừng phía thượng nguồn có người làm nghề phiếu lụa hoặc mài kiếm nên xả nước đục ra như vậy.
Đang phân vân, bỗng thấy một bà lão đi qua. Hắn nhận ra thân mẫu Koetsu, nhà luyện kiếm đã gặp và cùng uống trà trên đồng Rendaiji ngày nào. Vừa hay, bà cụ cũng nhận ra hắn. Bà mừng rỡ kêu lên:
- Ồ tráng sĩ ! Hân hạnh quá ! Chắc tráng sĩ đương muốn tìm ngõ Honami ?
Bà tưởng Miyamoto Musashi muốn đến thăm bà và Koetsu, nên không để cho hắn kịp đáp, bà tiếp ngay:
- Tệ xá cũng gần đây thôi. Mời tráng sĩ theo lão.
Trước sự ân cần ấy, hắn không muốn và cũng chẳng có lý do gì từ chối, bèn cúi đầu cảm ơn rồi vui vẻ đeo hành trang lên vai theo bà cụ.
Trại Honami bên ngoài trong khiêm nhượng, nhưng bên trong càng vào sâu càng rộng. Ngay cổng vào là một khu vườn trồng toàn trúc xanh, tùng biếc lẫn với những hàng phong, cành dày chi chít đan nhau như một khu rừng nhỏ. Bấy giờ, trên cành, lá non mới nhú, nhưng theo lời bà cụ, đến mùa thu lá phong rực rỡ ánh lên dưới nắng, trông chẳng khác gì rắc vàng. Bởi thế mới có tên “Honami” (ngõ phong vàng) và chủ nhân trại còn được gọi là Honami tiên sinh.
Trong trại có nhiều nhà, chia thành từng khu vực thuộc gia đình Koetsu và gia đình các biểu huynh, biểu đệ Ông. Họ quây quần với nhau, cùng làm nghề đúc và mài kiếm.
Một con suối từ chân núi chảy sát khuôn viên, Koetsu lợi dụng tiện nghi ấy, khơi thêm nhiều mạch nước dẫn quanh co khắp trại. Mạch dùng lấy nước pha trà, mạch dùng nấu ăn tắm giặt, mạch dùng cho lò luyện kiếm.
Kiến thức luyện kim của Koetsu thâm diệu, kinh nghiệm của ông ít người bì kịp, ông lại có tài tổ chức, nên tuy khách đặt hàng nhiều mà ông vẫn đủ thì giờ rảnh rỗi, lúc uống trà, khi ngắm cảnh, đọc sách. Cũng như phần đông các nhà kỹ nghệ và thương gia đương thời, ông xuất thân từ một gia đình kiếm sĩ. Trong cuộc tranh chấp sứ quân, vì không muốn đứng hẳn về phe phái nào, một số kiếm sĩ đã rửa tay treo kiếm, theo đường doanh nghiệp. Riêng Koetsu chọn kỹ thuật luyện kim và chuyên hẳn về ngành đúc kiếm.
Lẽ dĩ nhiên, làm nghề tự do thì địa vị xã hội không được bằng địa vị kiếm sĩ, nhưng cuộc sống đỡ bấp bênh và nguồn lợi dồi dào hơn. Vả nhờ tại học và tiền bạc, đám thương gia tuy không nắm được những địa vị then chốt, lại rất có thế lực và được trọng nể.
Thấy mẹ dẫn Miyamoto Musashi vào, Koetsu chạy ra nghênh tiếp. Hàn huyên xong, ông tạ khách:
- Tráng sĩ thứ lỗi. Lão phu hiện đương bận trông thợ đúc một thanh kiếm đặc biệt nên xin để mẫu thân hướng dẫn tráng sĩ đi xem trang trại. Xin tráng sĩ cứ tự nhiên, chiều nay xong, ta tha hồ chuyện phiếm.
Lời nói của Koetsu thành thật, khách dù dễ mếch lòng đến đâu cũng không thể giận.
Miyamoto Musashi theo Koetsu lão bà, đi một vòng quan sát xưởng đúc kiếm, xưởng nung đồ gốm, thư khố, phòng làm sơn mài. Hắn rất thích thú, không ngờ danh bất hư truyền, Koetsu là người đa tài mà ngành gì ông cũng tỏ ra xuất sắc.
Bà cụ còn pha trà, làm bánh, vừa làm vừa trò chuyện với hắn, coi hắn như người nhà. Trong bầu không khí cởi mở ấy, hắn thấy dễ chịu vô cùng. Những lời thân mật đầm ấm của Koetsu lão bà gây trong lòng hắn một cảm giác yên vui, cái cảm giác hắn chỉ có xưa kia khi còn ở bên cạnh mẹ và chị.
Thấm thoắt đã bốn ngày trôi qua, Miyamoto Musashi ở trại Honami. Ban ngày sau buổi tập dượt sáng, hắn ưa ra vườn tản bộ, vào thư khố đọc sách hoặc có khi đến xưởng luyện kim xem xét và đàm luận kiếm học với Koetsu. Kiến thức của hắn vì thế cũng phong phú thêm, và điều làm hắn sảng khoái hơn cả là luôn luôn hắn có sự quân bình về tinh thần với thể chất.
Nhưng sợ Ở lâu không tiện, Miyamoto Musashi ngỏ ý cáo từ. Thì Koetsu đã khoát tay ngăn lại:
- Trạng sĩ chẳng nên làm thế, phụ lòng hiếu khách của lão phu. Nếu tráng sĩ ở đây thấy buồn, muốn ra đi, lão phu chẳng dám giữ. Nhưng nếu không chê nơi này hủ lậu, xin lưu lại ít lâu nữa. Trên kệ thư phòng còn nhiều sách đáng đọc. Vài ngày nữa, lão phu lại định nung đôi cái bát sành để thử nghiệm chất men mới chế. Tráng sĩ ở lại mà xem.
Nặn đồ gốm cũng thú vị đáo để, chẳng kém gì rèn kiếm. Nếu muốn, tráng sĩ cũng nên làm vài cái cho vui.
Ai mà có thể từ chối những lời mời mọc chí tình đến thế ? Miyamoto Musashi chỉ còn biết cúi đầu vâng lệnh.
Trong thư phòng treo nhiều tranh đẹp, cổ họa thời Kamakura, liễn mang thủ bút của Vương Hi Chi đời Tấn. Có một bức, Miyamoto Musashi ngắm mãi không chán. Bức tranh nhan đề “Hạt dẻ” do Tống Lương Khải vẽ. Nó nhỏ thôi, chỉ bằng cái mặt bàn thấp, giấy cũ, có lẽ trước đây màu vàng nhưng bây giờ đã thành nâu sẫm. Nhưng Miyamoto Musashi thích quá chừng, gần như bị mê hoặc. Hắn nói với Koetsu:
- Tiền bối vẽ tranh, chưa chắc mấy người được bằng. Riêng tại hạ, chỉ mong sao có được những nét bút đơn giản như trong tranh này mà thôi.
Koetsu cười:
- Lão phu lại nghĩ khác. Tranh lão phu, ai học cũng có thể vẽ được, miễn tập cho thuần. Nhưng riêng nét bút của Tống Lương Khải thì khác lắm. Tập không được mà phải có thiên phú. Nét vẽ Tống Lương Khải sinh động vô cùng mà ý tưởng thâm trầm, dùng kỹ thuật không, không đạt được.
Miyamoto Musashi xem lại bức tranh. Trên tranh vẽ một con sóc trầm ngâm nhìn hai trái hạt dẻ, một trái còn nguyên vỏ, một trái vỏ đã nứt đôi để hở nhân bên trong. Con sóc dáng sợ hãi, phân vân. Nỗi băn khoăn của nó lộ trên đôi mắt đen nhánh, đôi chân trước chụm vào nhau và cái đuôi dựng ngược. Bộ lông mềm gió tạt sang bên. Tất cả những ý đó được thể hiện bằng vài nét thủy mặc đơn sơ, thoạt trông thì ngây ngô, nhưng càng nhìn càng linh hoạt và buộc người xem phải suy nghĩ về ý nghĩa tác giả muốn phô diễn.
Miyamoto Musashi gật gù:
- Tiền bối nói rất phải !
Hôm sau, Koetsu vào thư phòng, lại bắt gặp hắn đang ngồi trước bức tranh ấy. Ông cười:
- Vẫn còn mê bức tranh của Tống Lương Khải ? Có vẻ tráng sĩ thích họa phẩm này lắm ? Vậy lão phu xin tặng đấy, khi nào đi thì cuốn lại mang theo.
Miyamoto Musashi phản đối:
- Tiền bối nói đùa. Đây là một tác phẩm vô giá, không chừng là vật gia bảo, tại hạ đâu dám vô lễ thế.
Nhưng Koetsu nghiêm trang:
- Lão phu nói thật. Tráng sĩ thích thì cứ lấy. Thực ra lão phu còn nhiều tranh khác.
Tranh phải để cho người thích thưởng ngoạn nó sở hữu mới đúng. Lão phu chắc họa sĩ khi vẽ tranh này cũng muốn thế.
- Vậy tại hạ lại càng không nên lấy - Hắn cười - thích thì có thích nhưng thì giờ đâu mà ngắm và treo ở đâu mà ngắm ? Tại hạ chỉ là một lãng tử nay đây mai đó, chẳng biết đâu là định sở, đến thân này còn không chắc bảo toàn được thì một họa phẩm quý giá như tranh kia mang đi càng thêm bận !
Koetsu thở dài ảo não:
- Có lẽ tráng sĩ chẳng muốn điều gì hệ lụy. Ở tuổi tráng sĩ, chắc cũng chẳng muốn có nhà làm gì, nhưng theo ý lão phu, ai cũng nên có một chỗ ở riêng biệt, dù đó chỉ là một túp lều. Không có nó, ta sẽ cảm thấy trơ trọi, như bị ruồng bỏ. Sự trơ trọi về vật chất cũng có thể dồn ta vào sự cô đơn tinh thần đấy ...
- Tại hạ chưa bao giờ nghĩ đến điều ấy. Ước mong của tại hạ là được đi đây đi đó, khắp nơi trên xứ sở này, ngủ dưới bóng cao sơn, nằm trên bờ đại hải, trau dồi kiếm đạo và khi cần, đem chút tài mọn của mình ra giúp người cô thế. Có lẽ trong thâm tâm, tại hạ chỉ muốn làm một kẻ suốt đời phiêu lãng.
- Cũng là thường tình ! Tuổi trẻ nào mà chẳng vậy. Nhưng không nên tưởng rẳng giấc mơ của mình chỉ thực hiện được ở những vùng xa xôi, chân trời góc bể. Nếu nghĩ như thế, ta sẽ xao lãng việc giải quyết ngay những vấn đề trước mắt. Đa số thanh niên đều có những ý tưởng không thực tế, lão phu sợ rằng vì thế mà khi thất bại, họ bất mãn với cuộc sống.
Rồi Koetsu cười ha hả:
- Lão phu e đã lạm bàn mất rồi ! Thôi ta quên chuyện ấy đi. Hôm nay lão phu đến đây là có ý muốn mời tráng sĩ đi giải sầu một chút.
- ... ?
- Tráng sĩ đã đến kỹ viện bao giờ chưa ?
- Kỹ viện ở ngoại ô thành Kyoto này ư ?
- Phải. Lão phu có người bạn tên Haiya Shoyu. Ông ta đã có tuổi nhưng tính tình còn trẻ trung ưa đùa cợt. Mới nhận được thư ông ấy hẹn tối nay xuống xóm Rokujo.
Tráng sĩ đi không ?
- Không, tại hạ không hứng.
- Nếu tráng sĩ không muốn đi, lão phu chẳng ép. Nhưng thiển nghĩ chỗ đó cũng có cái hay.
Koetsu lão bà mới bước vào, nghe chuyện, lên tiếng:
- Sao không đi ? Đi đi chứ ! Đi cho biết những điều mình chưa biết ! Haiya Shoyu vui vẻ cởi mở nhưng phong nhã, không làm tráng sĩ thất vọng đâu !
Giọng bà vừa như thúc giục vừa như bắt buộc. Bà sang phòng bên mở tủ lấy hai ba chiếc kimono khác nhau kèm theo thắt lưng hợp với màu áo mang sang. Thường thì các bậc già cả không muốn con cháu mình đến vui chơi ở những nơi trà đình, kỹ viện, nhưng Koetsu lão bà khác hẳn, lại có vẻ hân hoan. Bà háo hức hỏi:
- Nào, mấy màu này tráng sĩ thích màu nào ? Cái này được không ?
Miyamoto Musashi lúng túng:
- Vì lão bá và tiên sinh đã muốn, tại hạ không dám trái ý. Nhưng xin cứ để cho vận y phục cũ. Tại hạ quen rồi, mặc thế này thoải mái hơn.
- Không được ! Tráng sĩ thấy thoải mái, nhưng phải nghĩ đến người khác nữa chứ.
Trong chốn ăn chơi như thế, phải làm như mọi người. Ai đến đó cũng là để quên những điều buồn bực, họ muốn mọi thứ xung quanh đều đẹp mắt, vui tai. Không ai muốn thấy những gì luộm thuộm. Tráng sĩ đừng cho đây là một sự giả trá để che đậy giấu diếm con người thật của mình. Vả lại, những bộ quần áo này có gì là diêm dúa ? Chỉ sạch và đứng đắn thôi. Tráng sĩ mặc vào cho lão coi thử.
Khi Miyamoto Musashi ở phòng ra, Koetsu lão bà cười hớn hở. Bà nghiêng cổ ngắm nghĩa, đi quanh hắn một vòng rồi nói:
- Được lắm. Trông điển trai lắm rồi !
Bà đưa hắn một cây kiếm vỏ nạm ngọc, một cái túi gấm đựng mấy đồng tiền vàng và bỏ vật gì vào tay áo hắn không rõ. Đoạn đẩy hắn ra cửa.
Koetsu thắp hương trên bàn thờ tổ, vái mấy vái rồi cũng ra theo. Koetsu lão bà tiễn chân hai người đến tận sân.
Ngoài hiên, họ xỏ chân vào dép mới do Koetsu lão bà để sẵn và gọi gia nhân ra chờ đóng cổng. Tên gia nhân đến gần lão bà nói nhỏ. Bà giật mình ngước mắt nhìn Koetsu.
- Có chuyện gì vậy thưa mẫu thân ?
- Có ba người ăn mặc theo lối kiếm sĩ đứng chờ ở đầu cổng. Liệu đáng ngại gì không ?
Koetsu nhìn Miyamoto Musashi có ý hỏi. Hắn đáp:
- Không sao. Chắc họ Ở võ đường Yoshioka. Có thể họ chờ tấn công tại hạ, nhưng tiên sinh thì không can gì. Để tại hạ ra trước.
Tên gia nhân nói thêm:
- Lúc nãy, một trong ba người có hỏi dò tiểu nhân về tráng sĩ Musashi ...
Koetsu nhướng lông mày:
- Thế ngươi bảo sao ?
- Dạ, theo lệnh chủ nhân, tiểu nhân đáp ở đây không có ai tên vậy. Hắn tỏ vẻ giận dữ thì một kẻ trong bọn vội kéo ngay hắn đi, vừa đi vừa bàn với nhau những chuyện gì không rõ.
Miyamoto Musashi đề nghị:
- Vậy để tại hạ đi sau một quãng. Nếu xảy ra chuyện gì liên luỵ đến tiền bối, tại hạ thật ân hận lắm !
Nhưng Koetsu gạt ngang:
- Khách sáo ! Tráng sĩ đừng quan tâm. Bọn đệ tử đường Shijo ấy, lão phu chẳng coi vào đâu đâu ! Thôi ta đi kẻo trễ.
Trời về chiều còn sáng. Cả hai thong dong trên đường nhỏ, men theo lạch nước đến bờ sông chẳng gặp chuyện gì bất trắc. Gió xuân nhẹ mơn man. Mặt nước gợn sóng lăn tăn phản chiếu ráng chiều tím nhạt, hàng liễu xanh biếc, rủ lá tha thướt ven sông, thanh bình và diễm lệ. Cảnh trí tươi mát gây lòng khoái hoạt, Koetsu hát một bài, liên tưởng đến Haiya Shoyu, con người lúc nào cũng vui vẻ cợt đùa như cánh nhạn mùa xuân. Bèn hỏi người bạn trẻ:
- Tráng sĩ nghe danh Haiya Shoyu bao giờ chưa ?
- Chưa. Chỉ mới được tiền bối cho biết lúc nãy. Vị đó thân thế ra sao ?
- Ông ta là bạn của lão phu, tính tình phóng khoáng không câu chấp. Lại ưa đùa cợt và sính làm thơ nữa.
- Ồ ! Vậy ra là một thi sĩ ?
Koetsu mỉm cười:
- Gọi như vậy cũng được, nhưng ông ta không sống bằng nghề cầm bút. Ông ta xuất thân từ một gia đình buôn bán và cũng làm nghề ấy. Nói cách khác, ông ta là lái buôn !
- Cái tên Haiya Shoyu (“chính hành”) không mang nghĩa đó. Chính hành là làm việc chính đính, hành vi của người quân tử ...
- Thì ai cũng nghĩ thế, nhưng hành đây là hành thương. Âu cũng là tiền định. Tổ phụ Ông mang hàng hóa đi bán đây đó và đặt cho ông tên ấy. Ông giữ nghiệp cũ, gặp cơ may, phất lên và tích lũy được một gia sản khá lớn. Bây giờ ông thôi không hoạt động thương mại nữa, mặc cho con cái tự ý điều khiển cơ nghiệp, lui về làm thơ, chơi cây cảnh. Gần đến nhà ông ta rồi đấy. Cái cổng đá lớn bề thế kia chính là cổng nhà Haiya Shoyu.
Mãi trò chuyện với Koetsu, Miyamoto Musashi không ngờ có bọn chừng bốn năm người, y phục ra dáng kiếm sĩ đi xa xa phía sau theo dõi. Ngẫu nhiên ngoảnh lại hắn mới để ý bọn họ chạy nấp vào gốc liễu. Gió chiều bỗng trở lạnh và ẩm. Phía đông, mây đen từng đám đùn lên báo hiệu một sự thay đổi thời tiết đột ngột. Áo hai người bộ hành bay phần phật. Miyamoto Musashi ngạc nhiên thấy tay áo bên trái của hắn không nhẹ nhàng tung bay như tay áo bên phải. Nó nặng nề dường như có đựng vật gì ở trong.
Hắn thò tay vào áo lấy ra một sợi dây da thuộc màu nâu mềm, thứ dây da các kiếm sĩ vẫn dùng để buộc cửa tay trước khi lâm chiến. Hắn sực nhớ đến Koetsu lão bà khi trao áo cho hắn, đã bỏ vật gì vào đó. Chắc là cái này đây. Chỉ có bà mới tế nhị như thế. Lòng yêu thương và sự ân cần của bà khiến hắn cảm động. Nhìn Koetsu, ông vẫn điềm nhiên trò chuyện, Miyamoto Musashi quay lại phía sau mỉm cười bâng quơ với những kẻ theo dõi.
Đến trước nhà Haiya Shoyu, Koetsu gọi cổng. Một tiểu bộc tay còn cầm cái chổi bước ra, mời vào. Ông theo tên bộc đi một quãng ngắn, bỗng có cảm giác khác lạ, quay lại thấy Miyamoto Musashi đang bị bốn kẻ lạ mặt bao vây. Ông dừng lại gọi.
- Tiên sinh cứ đi trước, đừng chờ. Tại hạ theo vào ngay đây !
Koetsu nhíu mày. Nhưng nhìn Miyamoto Musashi, ông chỉ đáp gọn:
- Vậy lão phu đợi tráng sĩ trong nhà. Khi dàn xếp xong việc riêng, xin cứ đi thẳng vào đại sảnh.
Bọn kia gườm gườm nhìn vóc dáng cao lớn của nhà kiếm sĩ trẻ tuổi.
- Các ngươi là ai, muốn gì ?
Miyamoto Musashi điềm tĩnh hỏi.
Một kẻ nói:
- Phải chăng ngươi là Miyamoto Musashi ở Miyamoto ?
- Phải.
- Ta là Yoichibei, phái Yoshioka. Chúng ta đến gặp ngươi không có ý định thù nghịch, chỉ muốn trao cho ngươi phong thư của Yoshioka thiếu gia.
Đoạn đưa một cuộn giấy niêm sẵn.
Miyamoto Musashi đón cuộn giấy, đôi mắt sắc như mắt chim ưng không ngớt dò xét bốn kẻ đứng vây quanh và tay không rời đốc kiếm. Hắn bật niêm, mắt liếc nhanh trên những cột chữ lớn rồi gật đầu:
- Được lắm !
- Ngươi phúc đáp ngay để ta về bẩm với thiếu gia.
- Dĩ nhiên ta nhận.
- Ngươi nhận ? Chắc không ?
Miyamoto Musashi quắc mắt:
- Ngươi cho là chuyện này là đùa chăng ?
Thái độ Miyamoto Musashi làm Yoichibei không nghi ngờ gì nữa. Gã thêm:
- Ngươi nên biết từ bây giờ đến lúc ấy chẳng còn bao lâu ...
- Ta sẵn sàng ! Ngay bây giờ cũng được !
- Vậy tốt ! Tối nay cuối giờ tuất, Yoshioka thiếu gia sẽ gặp ngươi tại cổng này.
- Không được ! Ta không muốn làm phiền những người bạn tốt trong nhà này. Vả chăng, ta cũng sắp đến xóm Rokujo giải trí.
Yoichibei ngạc nhiên:
- Xóm Rokujo ?
Nhưng Miyamoto Musashi đã điềm nhiên đi thẳng qua cổng. Câu nói sau của môn đệ Yoshioka chỉ làm hắn mỉm cười.
- Nếu ngươi sai hẹn hay bỏ trốn, đừng mong trở lại Kyoto này nữa !
oo Tư thất của Haiya Shoyu là một thế giới khác biệt hẳn với thế giới xô bồ náo nhiệt ở đô thị. Lối đi từ cổng vào đến tiền đình trải toàn một thứ đá vân đen, xếp đặt công phu nhưng lại có một vẻ tự nhiên như đã được tạo hoá tình cờ đặt lên đó. Hai bên lối đi là những hàng trúc đằng ngà thân thẳng và cao cắt tỉa gọn ghẽ xen lẫn với những bụi trúc đen lùn, lá reo xào xạc mỗi khi gió thổi. Rặng thông cổ thụ xanh um làm bối cảnh phía sau khiến lối đi quanh co càng thêm mát và u tịch. Đi trong khuôn viên một tư thất mà Miyamoto Musashi có cảm tưởng lạc vào một trang viện hay một ngôi chùa cổ kính nào. Mái nhà đại sảnh hơi cong lợp ngói men xanh như bềnh bồng trôi trên những tàn lá. Thật là chỗ ở thần tiên của một cư sĩ giàu có mà sự mưu sinh không còn là một vấn đề phải quan tâm nữa.
Tự sân sau, vang lên những tiếng kêu “bộp bộp” của vợt gỗ đánh vào quả cầu vải trong một trò chơi mới tên là Kemari, được du nhập rất gần đây trong giới quý tộc. Miyamoto Musashi nghĩ, thương gia Haiya Shoyu cũng chơi trò này tất có nhiều liên hệ với giới ấy.
Trong nhà đã lên đèn. Tiểu bộc dẫn khách vào đại sảnh. Nữ tỳ mang trà bánh để lên cái kỷ trước mặt hắn và Koetsu.
- Trời lại trở lạnh nhỉ !
Koetsu định đứng lên khép cửa, nhưng thấy Miyamoto Musashi mãi ngắm nhìn cành mai nở muộn ngoài song nên lại thôi. Ông nhìn ra ngoài:
- Mây đen phủ kín đỉnh Hoài Sơn rồi. Mà gió bấc thổi cũng dữ. Tráng sĩ không lạnh à ?
Miyamoto Musashi cười hồn nhiên:
- Không, tại hạ không lạnh. Nhưng cành mai ngoài kia không khéo gió làm rụng mất !
Người nhà mang lò sưởi tói và khép cửa. Không khí ấm hẳn lên, Miyamoto Musashi cảm thấy thoải mái như khi còn ở nhà Koetsu. Hắn không đả động gì đến chuyện vừa qua mà ông bạn vong niên của hắn cũng không hỏi. Lúc sau, giọng oang oang của chủ nhân đã từ ngoài hiên vọng vào:
- Honami tiên sinh đã đến đấy ư ? Đệ chờ mãi.
Haiya Shoyu bước vào giơ tay khép cửa. Thấy Miyamoto Musashi, ông bỗng khựng lại xin lỗi.
- Lỗi về phần ngu đệ đã không thông báo trước.
Koetsu nói.
Nhưng chủ nhân đã khoát tay và với giọng tự nhiên, vồn vã, ông quay sang hỏi ngay Miyamoto Musashi:
- Tráng sĩ là bạn của Honami tiên sinh thì cũng như bạn của lão phu, đừng nề hà gì. Xin cho biết quý danh tính.
Koetsu đỡ lời:
- Tráng sĩ đây là Miyamoto Musashi, họ Shinmen, quán ở Miyamoto. Cũng có liên hệ với Kaname trong phủ ngày trước.
Haiya Shoyu gầy như hạc, tóc bạc phơ, vóc dáng còn khỏe mạnh nhanh nhẹn.
Ông nói cười sang sảng, giọng ấm và thân mật, không như giọng Koetsu, ôn nhu và hơi kéo dài.
- Ồ thế ư ? Lão phu cũng có biết ông Kaname khi còn phải ra vào trong phủ.
Chẳng hay dạo này Kaname tiên sinh ra sao ?
Trong chuyện thăm hỏi, Miyamoto Musashi chỉ đáp cho đủ lễ, vì hắn cũng chẳng biết gì hơn ngoài lần gặp mặt ngắn ngủi với người chú dượng đêm trừ tịch. Lần tiếp xúc ấy đã để lại trong lòng hắn một kỷ niệm chua chát về tình cốt nhục, hắn chưa quên. Qua câu chuyện với thương gia Haiya Shoyu, hắn lại biết thêm dượng hắn khi làm việc trong phủ, còn là một trong số rất nhiều nha lại đứng ra môi giới giữa giới cầm quyền với các tay phú thương bên ngoài nữa.
Hàn huyên một lúc, Haiya Shoyu xin lui vào nhà trong thay áo.
- Bây giờ đã trễ. Lão phu định đi từ sớm nhưng trông mãi không thấy Koetsu tiên sinh đến. Tối nay trời lạnh hơn bình thường, ta phải dùng cáng chứ không đi bộ được. Để lão phu sửa soạn rồi ta khởi hành là vừa.
Bèn gọi gia nhân khiêng cáng đến.
Lát sau, cả ba người đã ngồi trên ba chiếc cáng do sáu tên phu lực lưỡng khiêng, trực chỉ xóm Rokujo. Đây là lần đầu tiên trong đời, Miyamoto Musashi ngồi cáng.
Đến trường đua ngựa thì trời tối hẳn. Phu cáng dừng lại thắp đèn. Ba chiếc đèn lồng treo trên đầu cáng đong đưa theo nhịp bước, và gió mạnh khiến ngọn lửa mấy lần chực tắt.
Hơi thở của phu cáng đã bắt đầu tỏa ra trắng đục như khói.
- Chà, lạnh dữ !
- Tháng ba gì mà lạ quá ! Chẳng ai bảo là mùa xuân phải không bác ?
Miyamoto Musashi hé rèm nhìn ra ngoài. Xa xa, ánh đèn xóm yên hoa lập lòe ẩn hiện giữa những lùm cây, hắt lên cao thành một vòng sáng mờ mờ dưới bầu trời vần vũ.
Koetsu gọi:
- Tráng sĩ Musashi, chúng ta đến chỗ có ánh sáng đó.
Rồi bảo phu cáng đi chậm lại, song song với cáng của Miyamoto Musashi, ông giải thích:
- Ba năm trước, xóm này ở phố Hoà Ninh gần hoàng cung, nhưng vì ban đêm quá ồn, làm mất trật tự, phiền nhiễu đến hoàng gia nên phải dời ra đây. Xóm này là nơi ăn chơi bậc nhất đô thành, Geisha toàn hạng chọn lọc, những kiểu áo thời trang và những bài ca thời thượng phần lớn đều bắt nguồn từ đó cả. Có thể nói đấy là cái nôi của một trào lưu văn hóa mới.
Nói xong, cười ha hả làm Miyamoto Musashi cũng háo hức và mỉm cười vì lời so sánh.
Gần đến nơi đã nghe tiếng sênh phách đàn ca lẫn tiếng cười nói râm ran theo gió vọng tới.
- Tráng sĩ Musashi ! Có nghe tiếng đàn không ? Shamisen đó ! Đấy là loại nhạc khí mới được canh tân, rập theo kiểu tam huyền mộc cầm ở đảo Ryukyu. Nhiều bản nhạc sáng tác đặc biệt cho loại đàn này rất được ưa chuộng, lão phu đi những trấn xa, hẻo lánh đôi khi cũng nghe thấy, đủ biết nó phổ cập chừng nào và ảnh hưởng của cái xóm yên hoa này quả là mạnh !
Ba chiếc cáng dừng lại bên một con đường lớn, khách qua lại tấp nập. Đèn đủ màu, đủ kiểu la liệt treo trên những cành liễu, phản chiếu qua rèm lá xanh non, tỏ a ra một thứ ánh sáng lung linh kỳ ảo trên khắp mọi chỗ, nhà cửa đường phố, trên cả y phục và diện mạo của mọi người. Tuy tên gọi là Rokujo nhưng khu này, từ khi được dời đến đây vẫn còn mang danh cũ là Yanagimachi nghĩa là Xóm Liễu. Chả là vì từ ngàn xưa, liễu vẫn được liên kết với những nơi ăn chơi xa hoa và hành lạc !
Ba người bước qua một cái cổng gỗ to, hai bên treo hai cái đèn lồng thật lớn viết “Quán Ogiya”. Koetsu với Haiya Shoyu cùng là khách quen, chủ nhân chạy ra, các kiều nữ bao quanh chào đón nói cười hân hoan không sao tả xiết. Ở đây, mỗi người đều có một biệt danh, do các nàng đặt ra căn cứ trên những nét riêng hoặc những điểm đặc biệt nơi họ cư trú. Như Koetsu, các nàng gọi là Honami tiên sinh vì ở ngõ Honami; còn Haiya Shoyu có tên là Bạch Phát thi sĩ, nhà thơ tóc bạc. Nếu Miyamoto Musashi là khách quen, chắc chẳng bao lâu thế nào cũng có tên mới.
Quán Ogiya cùng với Quán Kikyoya là hai nơi giải trí sang trọng nhất xóm Liễu. Chủ nhân quán Ogiya là tay doanh thương giàu có và thế lực. Ngoài quán này ra, ông còn nhiều cơ sở làm ăn khác nên rất được vì nể, nhưng ở nơi ăn chơi này, người ta thường chỉ biết ông qua biệt danh Lạc Thiên mà thôi.
Xóm Liễu có hai Geisha tài sắc vẹn toàn, một tên Yoshino Dayu tiếp khách tại Quán Ogiya, còn người kia tên Murogimi Dayu, làm ở Quán Kikyoya. Danh tiếng hai cô này vang dội vùng cố đô, các bậc phong lưu và khách làng chơi không ai không biết.
Miyamoto Musashi lần đầu tiên đến một nơi ăn chơi phù phiếm nên không khỏi bỡ ngỡ. Hắn cố giữ bình thản, nhưng đôi khi không giấu nổi ngạc nhiên trước những sự bài trí cực kỳ xa hoa và tráng lệ tại nơi này. Trần nhà và những rui kèo chạm trổ tinh vi, hàng lan can uốn cong cánh phượng, đồ cổ ngoạn trong tủ kính, họa phẩm quý giá treo trên vách, nhất nhất cái gì cũng đẹp mắt và cầu kỳ, Miyamoto Musashi tưởng trong vương phủ cũng chỉ đến thế !
Cuối phòng chính, bên ngoài chiếu ngồi lại có một khu vườn nhỏ bài trí theo kiểu của nhà họa cảnh vườn danh tiếng Kobori Eushu để quan khách thưởng ngoạn. Khu vườn trải toàn sỏi vụn bao quanh một phiến đá đen có những chỗ đã mòn nhẵn, có chỗ điểm những vết trắng lấm tấm. Sỏi được cào thành luống mỗi ngày, những vết cào làm người xem có cảm tưởng đứng trước một cảnh biển, sóng đập vào thành đá tung bọt trắng như trong bức tranh sơn thủy của một danh họa đời Tống.
Koetsu kêu lạnh, ngồi co ro trong góc. Bạch Phát lão gia xếp gối cạnh chiếc bàn thấp, ngồi xuống và kéo Miyamoto Musashi ngồi cạnh. Nữ tỳ mang rượu hâm nóng vừa đúng độ đến, ca kỹ theo vào, đàn phách rộn ràng ngay từ cửa.
Miyamoto Musashi mãi ngắm những đồ cổ ngoạn quên cả uống rượu, Haiya Shoyu phải nhắc:
- Kìa, tráng sĩ uống rượu đi chứ ! Để nguội mất ngon !
Chén đầy, chén cạn, hai ông già mạn đàm đủ thứ chuyện, Miyamoto Musashi chỉ ngồi yên nghe hát hoặc nhìn ngắm vu vơ. Thấy người bạn trẻ có vẻ đăm chiêu, Haiya Shoyu nhắc khéo:
- Tráng sĩ uống ít rượu lắm nhỉ ! Đến đây phải vui lên chứ, giữ lễ quá mất thú !
- Đa tạ tiên sinh, vãn bối không uống được nhiều !
- Tráng sĩ hình như chẳng phải là đại kiếm khách !
- Hẳn thế rồi !
Miyamoto Musashi cười vui vẻ, xoay câu nói có ý chế nhạo thành lời đùa cợt !
- Nếu tráng sĩ sợ uống nhiều rượu làm mất nhuệ khí hoặc giảm ý chí luyện tập không thành danh được thì quả không có phong độ của một kiếm khách.
Ông vừa nói vừa cười ha hả.
- Không phải thế. Miyamoto Musashi đáp. Chỉ vì vãn bối nhiễm phải một tật ...
- Tật gì ?
- Cứ say rượu thì buồn ngủ.
- Ngỡ gì ! Say đi rồi ngủ ngay tại đây có sao ! Chẳng ai nói gì đâu.
Quay sang các nàng Geisha chiêu đãi, ông chỉ Miyamoto Musashi:
- Chuốc rượu cho tráng sĩ đi. Chừng nào say, bế tráng sĩ vào giường đi ngủ.
Tiếng cười lại ha hả cất cao, xen lẫn với những tiếng hinh hích của các nàng chiêu đãi cười thầm trong tay áo.
Không khí đã có chiều lơi lả. Các nàng làm ra vẻ bạo dạn hơn.
- Để thiếp chuốc rượu !
Một kỹ nữ lại ngồi sát bên Miyamoto Musashi mặt đỏ như gấc, chẳng biết vì say hay vì thẹn. Có kẻ lên tiếng:
- Không được ! Nương nương đây là tiểu thiếp của Bạch Phát lão gia, để thiếp bồi tiếp công tử.
Tráng sĩ bây giờ đổi thành công tử. Nhưng mọi người, kể cả Miyamoto Musashi, chẳng ai chú ý đến sự thay đổi cách xưng hô nhỏ mọn ấy. Khách và kỹ nữ ngồi lẫn lộn với nhau trên chiếu, bá vai kề vế uống rượu, sự nghiêm chỉnh ban đầu không còn nữa.
Koetsu xem chừng cũng say rồi. Ông nói:
- Yoshino Dayu đâu ? Sao không thấy Yoshino ?
- Ờ ! Cuộc vui thế này mà không có Yoshino ngâm thơ thật phí !
- Đi tìm nàng đến. Để ta giới thiệu với tráng sĩ trẻ tuổi đây ...
- Khó lắm, thưa tiên sinh. Nàng đang bận tiếp khách bên Đông sảnh. Nàng đâu có phải để giới thiệu với ai cũng được !
- Cứ bảo có ta đợi, nàng sẽ sang ngay. Nàng biết rõ ta mà, không ngại !
Một người chạy đi tìm tì nữ của Yoshino dẫn đến. Koetsu hỏi:
- Cháu là tì nữ của Yoshino phải không ?
- Dạ phải.
- Vậy đi mời cô nương đến đây ngay. Nói có Honami Koetsu đợi.
Mắt cô bé chớp chớp ra vẻ ngần ngại. Tì nữ này mới khoảng mười một mười hai mà hai má đã hây hây, mắt đen láy, trong dáng ngây thơ có pha chút tinh nghịch của thiếu nữ sớm dậy thì. Trưởng thành ở những nơi lầu hương gác tía, sau này chắc cô bé cũng kiêu sa chẳng kém gì nàng Yoshino. Koetsu giục:
- Đi ! Đi ngay đi, ta sẽ có thưởng ...
Cô bé tần ngần một lát rồi lui khỏi phòng. Mới vài bước đã thấy ả vỗ tay reo gọi rối rít. Ai nấy đổ xô ra hành lang. Koetsu cũng mở song cửa.
Một cảnh đẹp vô cùng bày ra trước mắt mọi người. Tuyết đã xuống từ bao giờ, phơi phới như ngàn ngàn triệu triệu cánh mai theo nhau rụng. Mặt hoa viên trắng bông. Trên những cành tùng, tuyết đọng nặng chĩu, đong đưa theo làn gió nhẹ.
Các nàng kỹ nữ, ca nhân đứng chật hành lang, bàn tán xôn xao không biết tuyết có còn giữ được thế này đến ngày mai không.
Haiya Shoyu sốt ruột, chờ mãi không thấy Yoshino lại, bèn sai một nữ chiêu đãi khác đi tìm.
Lúc sau, trở về nói nhỏ:
- Yoshino muốn tới lắm, nhưng không được. Khách không cho.
Koetsu trợn mắt:
- Khách nào vậy ? Yoshino đâu phải người thường, nàng muốn làm gì mà chả được ! Hay bây giờ lại ham tiền quá rồi !
- Không ! Nàng nói ông khách này quyền thế lắm. Mấy lần xin cáo biệt mà không được !
Haiya Shoyu gật đầu:
- Dĩ nhiên. Ai lại muốn để một người như Yoshino đi khỏi khi đang ngồi với mình. Khách nào vậy ?
- Thưa, Tokugawa đại gia.
- Tokugawa đại gia ? Ngài đi một mình à ?
- Không. Với vài thân hữu khác nữa.
Haiya Shoyu ngồi thừ người buồn bã:
- Thật đáng tiếc. Tuyết đẹp như thế này, rượu ngon như thế này mà không có Yoshino để ta làm bài thơ cho nàng phổ vào đàn Shamisen dạo lên nghe có phải tuyệt không. Thật đáng tiếc !
Bỗng ông vỗ đùi:
- Hay thế này:
Tokugawa đại gia cũng là thi sĩ. Chúng ta làm bài thơ gửi tới, chắc ông sẽ cảm thông với hoàn cảnh chúng ta, để Yoshino tạm sang đây một lúc. Đại huynh nghĩ thế nào ?
Koetsu mỉm cười:
- Chưa chắc. Nếu muốn Tokugawa thuận, bài thơ phải thật xuất sắc. Xoàng xoàng chỉ tổ làm trò cười.
- Đại huynh lại chê tiểu đệ rồi. Hay chúng ta cùng góp sức làm một bài. Ngắn thôi, chừng bốn câu cũng đủ.
- Hà hà ! Cũng được, nhưng phải cái đệ thơ dở lắm. Xin hiền huynh khởi xướng.
- Hừ ... Nàng nào mang cho ta văn phòng tứ bảo ra đây. Để xem ...
Bút mực mang đến. Ngẫm nghĩ một lúc ông viết:
Ngoài song, hoa tuyết bay
Chim lẻ ước gặp bầy ...
Rồi đưa cho Koetsu. Nhà luyện kiếm tìm mãi không ra vận, hỏi Miyamoto Musashi:
- Thế nào, tráng sĩ có ý kiến gì không ? Giúp lão phu với.
Miyamoto Musashi chữa thẹn:
- Quả tình vãn bối từ trước đến nay chẳng làm thơ bao giờ. Sợ làm hỏng việc của nhị vị tiên sinh. Xin thứ cho.
Mãi sau, Koetsu mới tiếp:
Mai già run cánh mỏng
Khí lạnh ngút từng mây ...
Haiya Shoyu đọc, khen tạm được. Ông cũng nhận là trong lúc này khó tìm ý tưởng đặc biệt. Tuy nhiên, những điều chính đã nói hết trong hai câu “mai già run cánh mỏng” và “chim lẻ ước gặp bầy” rồi. Vậy ta cứ gửi.
Bèn chép vào giấy hoa tiên, niêm phong cẩn thận và trao cho một kỹ nữ:
- Các nàng khác không ai có được phong thái như nàng. Hãy vì ta đưa thư này cho Cô Lãnh đại gia và đừng để đại gia giận ...
Cô Lãnh là biệt danh của Tokugawa Ieyasu ở đây, có nghĩa là ngọn núi đứng biệt lập, ý nói về quyền thế của Tokugawa.
Rượu chừng vài tuần nữa mới thấy người kỹ nữ mang thư phúc đáp về để trong một cái hộp sơn mài cực kỳ mỹ lệ.
Koetsu chột dạ, nói:
- Chắc Tôn đại gia ngạc nhiên lắm, không ngờ lại gặp chúng ta ở đây đêm nay.
Lần sau phải cẩn thận hơn mới được !
Ông thong thả mở hộp, lấy tờ thư ra. Trước nét mặt ngỡ ngàng của cả ba người, phong thư chỉ là một tấm hoa tiên vân màu ngà, trên không có chữ nào cả.
Ông quay sang hỏi người kỹ nữ:
- Thế này là thế nào ? Nàng có chắc không đánh rơi mất thư phúc đáp của Tokugawa đại gia chứ ?
- Tiện thiếp đâu dám cẩu thả. Chính tay đại gia đưa cho tiện thiếp hộp này bảo mang về trình tiên sinh.
Haiya Shoyu vẻ tư lự, lúc sau mỉm cười nói:
- Hay ngài không tìm được tứ nào hợp ý, kéo cờ trắng rồi. Không có chữ gì, thư để trắng tức là đầu hàng.
Haiya Shoyu có tính hay suy diễn mọi việc như vậy để lấy lợi cho mình.
Nhưng Miyamoto Musashi nói:
- Vãn bối không nghĩ thế. Chắc ngài muốn nhị vị tiên sinh đọc lời phúc đáp ...
- Đọc tờ giấy trắng này ?
- Chính thế. Màu trắng là màu tuyết. Và rượu sa-kê cũng trắng.
Koetsu gật gù:
- Tráng sĩ nói phải. Nếu ta đọc, thư này có nghĩa:
“Hãy uống rượu ngắm tuyết ... “ Rồi vỗ vai Bạch Phát thi sĩ, ông nói tiếp:
“Và đừng nghĩ đến chim Yoshino, chim nhạn làm gì cho thêm bận !”.
Haiya Shoyu không vừa ý, cau mặt nhìn ra ngoài trời. Tuyết vẫn rơi phơi phới, phủ trắng phau cả những mái lầu và những mầm mẫu đơn mới nhú.
Koetsu say rồi. Ông nằm yên trong góc, mắt lim dim. Cảnh mãn thiên mai vũ chẳng biết có gợi thêm ý gì cho nhà thơ không, chỉ thấy Bạch Phát lão thi sĩ, uống hết chén này đến chén khác, nét mặt không vui. Các nàng kỹ nữ cũng thu dọn đàn địch sênh phách, tô điểm lại nhan sắc.
Miyamoto Musashi yên lặng đứng dậy, kéo cửa khẽ lẻn ra ngoài. Chẳng ai hỏi gì đến hắn. Hắn chọn thời điểm rút lui thật vừa đúng lúc.
Phía sau các phòng tiếp khách, nhiều hành lang hẹp đan vào nhau như những lối đi dọc ngang trong một mê thất mà ánh sáng yếu ớt của một vài ngọn đèn nhỏ treo ở mỗi khúc quanh không đủ soi tỏ hết mọi chỗ. Miyamoto Musashi men theo những lối đi lờ mờ ấy, tránh mọi cửa mở hé để lọt ánh sáng ra ngoài. Đến một chỗ có mùi thức ăn bốc ra, đồ chừng là bếp, hắn đẩy cửa bước vào.
Trong phòng xếp la liệt thực phẩm. Gạo, ngô, rau, đậu, thịt cá, bát đĩa để đầy kệ.
Thì ra đó là một căn phòng kho. Cuối phòng, một cô bé trạc mười một mười hai đang lúi húi xếp dọn. Thấy có người vào, cô bé ngẩng lên:
- Khách quan là ai ? Vào làm gì ? Chỗ này chỉ dành cho người làm.
Miyamoto Musashi nhận ra ngay cô bé là tì nữ của nàng Yoshino, nhưng giờ đây không có cái vẻ dịu dàng ngây thơ như lúc hắn gặp trong phòng khách nữa. Mắt cô bé sắc như dao, đôi lông mày cau lại.
- Ta không được vào đây hay sao ?
- Không.
- Không.
Cô bé tiến đến trước mặt Miyamoto Musashi:
- Chắc khách quan muốn tìm phòng tắm. Xin đi theo tiểu nữ, phía đằng này.
Cô bé cúi đầu, toan nắm tay Miyamoto Musashi dẫn đi. Hắn vội nói:
- Không. Ta không say và cũng không cần phòng tắm. Ta muốn nhờ cô một việc.
- ... ?
- Dẫn ta đến một căn phòng trống và mang cho ta chút gì ăn lót dạ.
- Vậy xin khách quan cứ trở về phòng, tiểu nữ sẽ gọi người mang thức ăn tới.
- Không. Mọi người đang vui đùa và uống rượu, không ai muốn ăn. Làm phiền họ, ta không thích.
Cô bé gật đầu:
- Vậy khách quan ngồi đây cũng được. Khách quan muốn dùng thứ gì ?
- Chẳng có gì đặc biệt. Mang cho ta liễn cơm trắng với chút củ cái muối là đủ.
Nữ tì ngạc nhiên, giương mắt nhìn, nhưng không nói gì, lẳng lặng đi lấy những thứ ông khách muốn.
Ăn cơm xong, Miyamoto Musashi đứng dậy, toan mở cửa ra ngoài thì nghe tiếng hỏi:
- Khách quan đi đâu ?
Hắn không ngờ cô bé vẫn còn quanh quẩn gần đó, rình rập.
- Ta ra ngoài có chút việc. Sẽ trở về ngay.
- Xin khách quan nhớ quay trở lại. Nếu không, tiểu nữ bị trách phạt.
Miyamoto Musashi cười rộ, lộ hàm răng trắng bóng. Vẻ mặt tươi cười của hắn làm cô bé yên dạ.
- Nhất định rồi. Nếu các vị trong phòng có hỏi thì bảo ta đến khuôn viên Kim Các Tự, vãn cảnh chùa ngắm tuyết, rồi trở lại.
- Vâng.
Cô bé đi trước, mở cổng vườn sau. Trên mái cổng, tuyết đóng dày hàng tấc. Lối vườn sau ngoắt ngoéo, vắng vẻ, không đèn đóm gì nhưng nhờ ánh tuyết hắt lên vẫn đủ sáng. Những vết chân của Miyamoto Musashi in hằn trên nền tuyết tinh khiết như những vết chân dã thú đi tìm mồi trong đêm hoang lạnh.
Đến trước một tiệm bách hóa, hắn bước vào hỏi mua một đôi dép cỏ, thứ tốt dùng để đi tuyết, nhưng không có. Tiệm này phần lớn chỉ bán nón nan rộng vành cho khách đến tiêu khiển ở xóm Liễu nhưng lại muốn che mặt không để người khác biết. Hắn phải nhờ chủ nhân sai người đi mua hộ. Trong lúc chờ đợi, Miyamoto Musashi mượn giấy bút viết một bức thư ngắn, cởi áo ngoài gấp lại cẩn thận, bỏ thư vào tay áo đã gấp rồi đưa cho chủ nhân mà nói:
- Tại hạ ra đi có chút việc, không tiện mặc áo này. Nếu đến đầu giờ tý không thấy về, phiền chủ nhân cho người mang áo đến quán Ogiya tìm Honami tiên sinh trao lại giùm.
Chủ nhân thắc mắc toan hỏi, Miyamoto Musashi vội gạt ngang:
- Mọi chi tiết, tại hạ đã viết trong thư, xin cố giúp cho.
Đồng thời lấy ra ít bạc vụn đưa tặng. Chủ nhân cười vui vẻ bỏ ngay vào bọc, mặt tươi như hoa:
- Được mà ! Được mà ! Khách quan khỏi quan tâm, lão sẽ làm giúp.
Miyamoto Musashi lại mua một cái nón nan. Khi người nhà mang dép về, hắn thay dép mới, buộc quai chằng lên đến cổ chân, thử đi thử lại nhiều lần, khi thấy vừa phải không chặt mà cũng không lỏng quá mới sửa lại áo và kiếm đeo bên sườn, đội nón che kín nửa mặt và rời khỏi cửa hàng bách hóa.
Tuyết vẫn rơi đều đều không ngớt. Những bông to và nhẹ hơn cả cánh hoa mai rụng.
oo Ven bờ sông, trông sang đường Shijo, còn ánh đèn thưa thớt. Nhưng về phía đông gần rừng, ngoài mấy vòng tròn sáng vàng úa từ những cây đèn đá tỏa ra, không có dấu tích gì chứng tỏ có sự sinh hoạt của cư dân. Khu này bình nhật đã ít người qua lại, ban đêm tuyết xuống càng vắng lặng. Sự yên lặng càng rõ rệt hơn khi những mảng tuyết dầy đọng trên cành quá nặng rớt xuống. Tiếng rớt “bịch” ngắn, gọn, không một âm vang, gợi cho người nghe cái cảm giác bực bội như niềm hy vọng đột nhiên bị bóp nghẹt.
Trước thềm tòa cổ miếu ven sông, cổng đóng im ỉm, chừng hai chục người quỳ gối cúi đầu khấn nguyện. Chuông từ xa vẳng lại năm tiếng, báo hiệu giờ dậu đã qua. Đêm nay, tiếng chuông nghe trong và mạnh, như đâm thấu tâm can, khiến mọi người hồi hộp, vô tình xích lại gần nhau. Họ mong tìm được thêm từ người bên cạnh chút hơi âm hay một niềm an ủi.
Yoshioka Denshichiro đứng dậy trước tiên:
- Anh em ! Như vậy đủ rồi ! Đã đầu giờ tuất, ta đi là vừa !
Cả bọn lục tục làm theo, xốc lại áo và buộc lại giày cỏ. Một người nói:
- Đêm nay lạnh lắm đấy, đừng buộc quai dép chặt quá, dễ đứt. Trời thế này, lẽ ra mang giày quai vải mới phải.
Denshichiro đã chuẩn bị kỹ ngay từ nhà, đầu thắt băng vải đen, tay đeo bao da mềm hở ngón để sử kiếm cho tiện. Cả bọn nối đuôi nhau theo chủ soái, lặng lẽ bước những bước vội vàng trên nền tuyết xốp. Bốn bề yên lặng, chỉ nghe tiếng thở đều đều và hơi thở của họ bốc ra thành từng vệt khói trắng đục.
Khu xóm Liễu chỗ nào cũng đông đúc, duy chỉ có cánh đồng trống rỗng sau Kim Các Tự là vắng vẻ. Ở đó ít lùm cây rậm rạp, chỉ có vài gốc thông trơ trọi và cỏ gianh cũng thấp, không làm cản trở cuộc giao đấu bằng bất cứ loại võ khí gì nên cả hai bên dù không ước hẹn, đều ngầm hiểu và cùng hướng về phía đó trước tiên.
Giờ tuất quả có quá sớm. Tuy nhiên Yoshioka đã chọn và Miyamoto Musashi chấp nhận. Denshichiro nóng lòng trả hận, trì hoãn lâu e kẻ địch trốn mất nên gã quyết định hành động càng sớm càng tốt. Yoichibei thì được lệnh lảng vảng gần nơi cổng đá nhà Haiya Shoyu với một võ sinh giữ việc liên lạc. Cho nên khi bọn Miyamoto Musashi lên cáng đến xóm Rokujo, Denshichiro đã được tin báo tức khắc.
Đi được một quãng còn cách Kim Các Tự khoảng chừng vài chục trượng, thấy có lửa lập lòe sau một bức tường đổ nát trên nền nhà cũ bỏ hoang, thầy trò Yoshioka ngạc nhiên khựng lại:
- Ai ?
- Phải Ueda không ?
Thì ra Ueda và Jurozaemon.
Denshichiro hơi bực. Gã rất tin vào kiếm thuật của mình nên thấy đàn em đến đông, gã tưởng họ coi thường mình, nhất là những người đó lại là hai tay xem ra bản lãnh có phần cao nhất phái. Gã buông sõng:
- Đến đây làm gì ?
- Chúng đệ sốt ruột quá, ở nhà không yên nên đến đây xem thiếu gia có điều gì sai phái chăng ?
Lời nói khéo của Ueda làm Denshichiro bớt giận. Tuy vậy gã cũng vẫn không thoải mái:
- Ta đến nhiều người quá. Nếu giết được nó mà giang hồ biết ta đông thế này, tất sẽ bảo ta ỷ chúng hiếp cô, mang tiếng.
- Không hề gì. Đây còn cách Kim Các Tự đến vài chục trượng, chúng đệ ngồi cả đây phòng bất trắc để một mình thiếu gia tới đó trừng phạt nó.
- Cũng được !
- Chắc thiếu gia đi đường lạnh, ngồi đây sưởi ấm cái đã. Còn sớm, bây giờ mới khoảng giữa giờ tuất, vội gì !
Denshichiro đến gần đống lửa, Ueda nhích sang bên nhường chỗ. Đồ chúng lục tục theo sau, quây quần bên ngọn lửa bốc cao. Denshichiro cởi bao tay, giơ ra trước mặt sưởi, bẻ đốt ngón tay kêu răng rắc. Ánh lửa hắt lên mặt hắn làm vằn lên những tia máu trên mặt và làm mặt gã đỏ ửng.
- Gần đây có hàng quán gì không ?
Denshichiro hỏi.
- Có, có một quán ở gần đây.
Denshichiro quay lại bảo người vừa nói:
- Vậy đi mua cho ta bình rượu.
- Mua rượu bây giờ ?
- Chứ gì ! Trời lạnh thế này, có chút rượu vào cho ấm bụng !
- Chắc gì họ còn mở.
- Cứ đập cửa lâu lâu vào, thế nào cũng được.
Đồ chúng Yoshioka biết vị chưởng môn mới của họ thích rượu. Sáng, trưa, chiều, tối, không mấy khi là không thấy Denshichiro thiếu gia chuếnh choáng. Mãi rồi họ cũng chấp nhận, cho đấy là một cái tật vô hại. Bữa nay, trước khi ra đi, Denshichiro chỉ uống chút ít. Gã cũng biết cuộc giao chiến đêm nay hết sức quan trọng, không những cho tính mệnh của gã mà còn cho cả danh dự và tương lai môn phái nữa. Nhưng trời lạnh, ngồi bên đống lửa ấm áp, gã thấy thèm rượu hết sức.
Khi người ta đã muốn điều gì thì luôn luôn có đủ lý lẽ biện minh hầu thỏa mãn ý muốn ấy. Tính Denshichiro lại nóng, ai cản cũng không được, chỉ làm gã tức giận và bướng bỉnh thêm, cho nên đồ đệ Yoshioka ngồi đầy ra đó mà im như thóc.
Ueda liếc mắt hất hàm bảo người vừa nói:
- Thiếu gia đã muốn uống rượu thì ngươi đi mua đi. Một chút cũng chẳng sao, còn hơn để tay chân tê cóng !
Lát sau rượu mang về, hâm vừa đúng độ. Denshichiro ôm vào lòng, tu một hớp, khà ra khoan khoái:
- Hà ! Đây là bạn thiết và là người thân thích nhất của ta đây !
Gã cười ha hả, nhưng Ueda thì nuốt lệ. Hắn thầm mong cho vị chưởng môn của hắn uống ít hơn mọi bữa.
Quả nhiên, sau chừng chục lần đưa bình rượu lên môi, Denshichiro thôi không uống nữa. Gã trao bình cho một đồ đệ gần đấy và bảo:
- Ngươi giữ nó cho ta. Để xong việc, ta sẽ hỏi đến !
Tuy làm ra bộ thản nhiên, Denshichiro cũng biết sinh mệnh mình nằm trong cái bình ấy.
Có tiếng sột soạt. Mọi người như cành cây cong đột nhiên được buông ra, đứng bật dậy.
- Ai ? Miyamoto Musashi hả ?
Mọi người lắng tai, tay để vào đốc kiếm. Im lặng như tờ. Không động tĩnh. Tiếng củi khô nổ lách tách. Lúc sau mới thấy một bóng đen từ phía sau nền nhà đổ hiện ra giơ tay vẫy.
- Anh em còn ngồi cả đây à ?
Bóng đen mặc y phục dạ hành, quần bó chẽn để dễ di động nhưng không giấu được vẻ chậm chạp của một người nhiều tuổi. Khi bóng đen đến gần vùng ánh sáng đống lửa, mọi người mới thở phào nhẹ nhõm.
- Ngỡ ai, hóa ra là Genzaemon lão trượng. Lão trượng đến đây làm gì thế ?
Yoshioka Genzaemon là em Yoshioka Kempo, vào hàng thúc bá của Seijuro và Denshichiro. Ông đã già nhưng vẫn còn lưu tâm đến vận mệnh bản phái và vẫn thường khuyên nhủ thiệt hơn Seijuro khi hắn còn giữ chức chưởng môn.
Denshichiro thấy chú, tỏ vẻ ngạc nhiên. Gã không mong một sự trợ giúp nào ở ông chú già yếu ấy. Khác với Seijuro, những lời nhắn nhủ của ông chỉ làm gã bực mình nhưng vì là hàng dưới, gã chỉ vâng dạ cho xong chứ không để vào tai.
- Denshichiro ! Ta nghe nói ngươi sẽ giao đấu với thằng Musashi tối nay phải không ?
- Thưa thúc thúc, cháu đã định đến thỉnh ý thúc thúc, nhưng vì gấp quá ...
- Còn phải thỉnh ý gì nữa. Anh mày bị nó đánh cho tàn phế, danh dự cả phái Yoshioka bị nhấn xuống bùn nhơ, mày không trả thù ấy thì ai đứng ra cáng đáng ?
- Dạ chính thế. Cháu đã nhất quyết.
- Phải lắm. Ta đến đây cũng vì lẽ ấy. Trời lạnh mà ta không ngại chỉ vì muốn nói với mày một câu. Mày biết câu gì không ?
- Dạ, cháu xin lắng nghe.
- Danh dự bản phái là trọng, thân ta không đáng kể. Nhưng không phải vì thế mà hành động bừa bãi được. Đừng vội vàng hấp tấp, hãy bình tĩnh cháu ạ. Ta nghe thằng ấy kiếm pháp chẳng phải tay vừa.
Ngừng một lúc, ông lại nói:
- Nếu chẳng may cháu có mệnh hệ nào, ta sẽ lo mai táng chu tất.
Denshichiro cười lớn:
- Thúc thúc quá lo xa. Cháu đâu phải như Seijuro.
Đoạn dắt tay chú đến ngồi bên đống lửa, hô mang rượu ra để ông uống. Rượu được vài ngụm, Yoshioka Genzaemon nói:
- Lúc này cũng gần đến giờ rồi. Sửa soạn đi là vừa. Ta nghĩ các anh em khác nên tránh mặt, cả ta nữa. Hãy đứng ở phía xa xa, kẻo giang hồ họ lại nói cuộc chiến không công bằng, rồi đồn đại mất cả hùng khí bản phái.
Mọi người nghe theo, đứng dậy rảo bước ẩn vào sau những gốc thông lân cận, để một mình Denshichiro ngồi bên đống lửa.
Gã đeo bao tay, xốc lại kiếm. Vết chân đồ chúng Yoshioka tản mát ra từ phía in lên nền tuyết trắng những vệt dài đen sẫm.
Không gian vắng lặng, chỉ nghe tiếng củi nổ lép bép. Đôi lúc một cành cây khô gẫy dưới sức nặng của tuyết đọng, vang lên khô khan. Denshichiro đảo mắt dò xét bóng đêm xung quanh.
Chuông từ xa vẳng lại thong thả buông sáu tiếng. Giờ tuất đã qua, vân không thấy Miyamoto Musashi. Denshichiro đã tỏ vẻ bồn chồn nóng nảy.
Từ xa, một bóng đen rảo bước đi đến, nhanh như chạy.
Denshichiro vội vàng phóng chân đá tuyết, dập cho lửa tắt rồi rút vào ẩn dưới một tàn thông. Tiếng bóng đen chạy đến nói trong hơi thở hổn hển:
- Thiếu gia ! Nó sắp tới rồi !
- Yoichibei ! Ngươi thấy nó ở đâu ?
- Đệ mai phục gần chùa, rõ ràng thấy nó bước lên tam cấp. Nó đi một mình, nhưng có vẻ phòng bị kỹ, vừa đi vừa ngoái cổ trông tứ phía, lại tránh những bụi cây rậm.
Thiếu gia sẵn sàng chưa ?
- Rồi ! Để mặc ta. Ngươi tìm chỗ ẩn đi !
- Anh em đâu cả ?
- Họ tản ra quanh đây thôi. Ngươi cũng thế, dừng đứng lớ ngớ ở đó, vướng chân vướng cẳng ta, vô ích.
Yoichibei trở gót. Y làm bộ nghe lệnh, nhưng thực ra thừa lúc Denshichiro quay đi, lẩn ngay xuống sân ngôi cổ tự nấp ở đấy. Y đã có chủ ý. Ở đó y có thể nhìn rõ cuộc đấu và khi cần, tập kích địch thủ nếu có dịp. Đêm khuya vắng vẻ như thế này, ngoài anh em Yoshioka ra còn ai biết ?
Thu hình dưới sàn gỗ, trong bóng tối ẩm thấp. Yoichibei cảm thấy lạnh thấu xương. Mồ hôi trong lần áo lót bốc hơi, lấy bớt đi nhiệt độ, y càng lạnh, răng đánh vào nhau lập cập. Yoichibei mong đó chỉ là cái lạnh bên ngoài chứ không phải vì sợ.
Đến sân sau chùa, Denshichiro đứng lại sửa dây da buộc cổ tay, rồi gác chân lên rễ một gốc cây đổ, đợi. Mắt gã dán vào hàng cột lớn dọc theo hành lang Kim Các Tự.
Trong chùa vắng lặng. Thỉnh thoảng mới có tiếng băng nhũ rơi trên mái xuống đánh bộp một cái.
Denshichiro sốt ruột, đổi thế đứng rồi đi đi lại lại, vết chân hằn sâu trên tuyết, vẻ bực bội. Sự chờ đợi làm gã khó chịu, nhất là bây giờ hơi rượu đã tan hết. Gió lạnh thổi vào mặt gã, nhôn nhốt như kim châm. Yoichibei cũng sốt ruột không kém. Y nhẩy từ chỗ nấp ra. Denshichiro giật mình rút gươm:
- Ai ?
- Tiểu đệ !
Denshichiro cau mặt mắng:
- Ngươi làm gì trong đó ? Miyamoto Musashi đâu ?
- Không biết ! Đệ quả đã trông thấy nó vào chùa. Sao đến bây giờ vẫn chưa thấy mặt.
- Hay thằng khốn kiếp ấy trốn rồi ! Ngươi nhìn phía đó, để ý mọi tiếng động, nhất là ở những chỗ tối. Ta coi phía này.
Đoạn cả hai chia nhau quan sát. Lúc sau vẫn không thấy động tĩnh gì, Denshichiro bắt đầu mất bình tĩnh, cho là Yoichibei đã hoảng báo. Đột nhiên có ánh đèn lập lòe về phía hàng lang chùa. Gã đưa tay gạt Yoichibei và nói nhỏ, bảo y hãy nấp vào sau gốc thông.
Ánh sáng dường như của một chiếc đèn bão, lắc lư theo nhịp bước, từ trong chùa đi ra. Đèn lúc ẩn lúc hiện sau hàng cột lớn, mờ tỏ soi phần dưới bộ y phục nâu sồng của một nhà sư.
Nhà sư đi một mình hay với người nào khác, Denshichiro trông không rõ vì tối quá.
Không dằn được tò mò, gã nhẩy ba bước đến sát hàng hiên. Ngọn đèn đột nhiên tắt phụt.
Trong cái lúc tranh tối tranh sáng, mắt người chưa kịp điều tiết để thích ứng với mọi sự thay đổi chung quanh ấy, Denshichiro bỗng nhiên hét lớn:
- Miyamoto Musashi !
Nhưng lập tức, gã cũng ý thức ngay được sự nhầm lẫn chiến lược của mình.
Denshichiro đứng dưới thềm chùa, thấp hơn Miyamoto Musashi có đến năm sáu bộ. Ở một vị trí như vậy, dù có giở tuyệt kỹ của Yoshioka kiếm phái ra chăng nữa cũng không công được, mà thủ cũng khó. Nhảy lên hiên cho ngang với hắn, sẽ chậm đi một chút, đường kiếm mất đi sự thần tốc, dũng mãnh. Và biết đâu sau hàng cột tối kia chẳng có kẻ ẩn nấp.
Nói thì lâu nhưng phản ứng của Denshichiro rất nhanh. Gã tung mình nhảy lui năm bước ra chỗ khoảng khoát giữa sân. Sau gã là tuyết, là gió, không có gì cản trở, gã có thể mặc sức tung hoàng. Vừa vững vị trí, Denshichiro đã hô lớn:
- Miyamoto Musashi, xuống đây !
Trên hiên, Miyamoto Musashi vẫn không lộ hình tích. Không ai biết hắn đứng đâu.
Ven tường ? Sau cột ? Hắn thận trọng tối đa. Chỉ nghe từ trên thềm vọng xuống:
- Denshichiro ! Ngươi sẵn sàng chưa ?
Giọng Miyamoto Musashi bình tĩnh. Câu hỏi tầm thường ấy không ngờ lại có tác dụng mạnh mẽ tựa gáo dầu sôi đổ vào tâm trạng hừng hực của Denshichiro.
Từ trước, Denshichiro vẫn coi Miyamoto Musashi chẳng qua như một tên lực sĩ quê mùa, nhờ tuổi trẻ và nhanh nhẹn mà thắng được bào huynh gã. Không theo một môn phái chính thống nào, kiếm pháp Miyamoto Musashi.