Bạn đang xem trang 17 / 68 trang

Re:Nét đẹp quê hương!

Đã gửi: Sáu T11 16, 2007 12:31 am
Viết bởi Youtome
  @tieu-ho: Nhìn mấy con tiểu cẩu đồng chí treo lên mà ... chẹp chẹp... thèm quá xá[rolleyes][rolleyes][rolleyes]
   chó ơi, bao giờ tao mới được xực mày đây[lick][lick][lick]
  @tuantuatut: Đồng chí ko cần phải thanh minh, BTC ko hề cấm việc fake IP, vì vậy nếu làm thì đường đường chính chính thừa nhận, xứng mặt nam nhi.
  @Toàn bộ người hâm mộ: Bất cứ hành vi gian lận nào, nếu BTC phát hiện được sẽ trừng trị thẳng tay [shoot]
         [laugh][laugh][laugh]

Re:Nét đẹp quê hương!

Đã gửi: Sáu T11 16, 2007 1:18 am
Viết bởi vodanhkhach
Đền Lê Lai

Đền thờ Lê Lai thuộc địa phận làng Tép, xã Kiên Thọ, Ngọc Lặc Thanh Hóa, cách khu di tích Lam Kinh 5 km về phía Tây.


Lê Lai là một tướng giỏi của nghĩa quân Lam Sơn. Trong một lần bị quân thù vây hãm không còn lối thoát, Lê Lai theo gương Kỉ tín đời Hán đóng giả Lê Lợi “Liều mình cứu chúa” và hy sinh anh dũng để bảo toàn lực lượng cho nghĩa quân. Ghi nhớ công ơn của ông, Lê Lợi cho lập đền thờ ông ở làng Tép ( Quê hương Lê Lai) và lệnh cho quân thần sau này làm giỗ Lê Lai trước ngày giỗ của mình một ngày. Lê Thái Tổ băng hà ngày 22 tháng 8 năm Quý Mùi ( 1433). Nên trong dân gian có câu 21 Lê Lai 22 Lê Lợi và tương truyền rằng những ngày này Thanh Hoá thường mưa rất to như khóc thương cho người anh hùng đã hy sinh vì nghĩa lớn.


        Ngày nay, sau nhiều lần trùng tu đền Lê Lai ngày càng trở nên khang trang đẹp đẽ. Ngoài ngày giỗ theo ý Lê Lợi 21/8 âm lịch, chính hội thờ Lê Lai vào ngày mùng 8 tháng giêng âm lịch. Đây là một ngày hội lớn của nhân dân địa phương, thu hút hàng ngàn du khách đến dâng hương, tế lễ.


Re:Nét đẹp quê hương!

Đã gửi: Sáu T11 16, 2007 1:31 am
Viết bởi vodanhkhach
Động Từ Thức

Động Từ Thức cũng gọi là Động Bích Đào, ở núi Thần Đầu, xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn. Động này gắn với cổ tích đã được tác giả Nguyễn Dữ, thế kỷ XVI chép trong Truyền kỳ mạn lục.



Bấy giờ, Từ Thức người Tống Sơn, nay là Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá làm tri huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nhân đi chơi hội đã cởi áo gấm giúp một cô gái xinh đẹp gặp tình huống éo le. Thời gian sau chàng từ quan, tìm thú vui nhàn tản. Một lần ra cửa biển Thần Phù, Từ Thức ghé vào núi và thấy một chiếc động, được bà chủ gả cho Giáng Hương, chính là người chàng đã cứu thuở nào.

Sống với nhau được một năm, dù thuận hoà, êm ấm trong cảnh phong lưu, Từ Thức chợt nhớ nhà da diết, xin được về thăm. Cảm thông nỗi niềm của chồng, Giáng Hương sắm xe và gài sẵn phong thư kín nói lời ly biệt, bùi ngùi đưa tiễn.



Khi đến quê, chỉ thấy dãy núi vẫn như cũ, còn tất cả đều đổi thay, Từ Thức hỏi một cụ già râu tóc bạc phơ thì mới biết đó là cháu nội của mình. Quả là vật đổi sao dời, chàng đã đi quá lâu. Từ Thức muốn trở lại cõi tiên với vợ, nhưng chẳng còn dịp may … trước cửa động Từ Thức, dây leo chằng chịt đan kết thành những chiếc võng.Động ngoài vô vàn nhũ đá, măng đá lấp lánh hình kho bạc, kho gạo, kho muối, rồng ấp trứng và vỗ vào vách động, nghe vọng âm thanh nhiều cung bậc. Động giữa gần như tròn, cũng có những thảm hoa, đôi hài, áo, mũ, bàn cờ, có đường lên thiên đàng và đường xuống địa phủ. Động trong nhỏ hơn, một vết lõm tạo nên ngôi miếu có bài vị, hương án và ngọn nến. Động Từ Thức mộng mơ được nhiều tao nhân, mặc khách thăm viếng, ngợi ca.


Re:Nét đẹp quê hương!

Đã gửi: Sáu T11 16, 2007 1:37 am
Viết bởi vodanhkhach
Vườn Quốc gia Bến En



Vị trí: Vườn quốc gia Bến En thuộc địa phận huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa, cách thành phố Thanh Hoá 36km về phía tây nam.

Đặc điểm: Tổng diện tích rừng tự nhiên là 16.634 ha, trong đó diện tích rừng nguyên sinh là 8.544 ha với một quần thể nhiều núi non, sông suối, vùng hồ trên núi với nhiều tên gọi và huyền tích về các địa danh.

Vườn quốc gia Bến En có nhiều sinh vật quí. Tại đây có tới 462 loài cây thuộc 125 họ thực vật, gồm những giống loài quí như lim xanh, lát hoa, chò chỉ, trai lý, bù hương... Có các loại thú quí hiếm như sói đỏ, gấu ngựa, vượn đen, phượng hoàng đất, gà tiền mặt vàng...

Phong cảnh của vườn quốc gia Bến En đầy thơ mộng. Hồ sông Mực rộng 3.000 ha với hơn 20 hòn đảo lớn nhỏ. Nhiều hang động nhũ đá lung linh huyền ảo.

Đến với vườn quốc gia Bến En, du khách có dịp tìm hiểu, nghiên cứu về các loài động thực vật quí hiếm ở đây, sống giữa rừng đại ngàn nghe chim kêu vượn hú thâu đêm, nướng cá bên khe suối... thật thú vị. Trong tương lai Bến En sẽ trở thành một khu du lịch rất hấp dẫn.


Re:Nét đẹp quê hương!

Đã gửi: Sáu T11 16, 2007 1:51 am
Viết bởi Chihiro03

HÒooooo....ơiiiii....
Ai đi có nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương....


Bà con chiến đấu dữ dội quá, Chihiro tui cũng ngồi không đặng. Thôi đành thay vì ngồi thương cha nhớ mẹ, ngồi gõ máy tính viết mấy bài về quê hương...[wink]
Hỏi người dân Quảng Nam nào không thuộc câu ca:
"Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm
Rượu Hồng Đào chưa nhấm đã say"
Có câu ca dao nào mà lãng mạn và tình tứ đến thế. Chưa mưa đã thấm, Rượu mà chưa nhấm đã say...
Hay ta đi tìm tới cội nguồn của câu ca dao, đi tìm vẻ đẹp quê hương xứ Quảng
Theo lưu truyền tại vùng quê đất Quảng, ngày xưa, tại Gò Nổi, Điện Bàn, Quảng Nam, trong một gia đình nọ chỉ có hai cha con. Người cha luống tuổi rất thạo trồng dâu, trồng lúa và nấu rượu. Người con gái tuổi độ mười tám, đôi mươi theo cha trồng dâu, chăn tằm, dệt lụa. Cô con gái họ Nguyễn, tên Hồng Đào. Cô không chỉ được bà con cô bác thương yêu về tính tình hiền thục, đoan trang mà còn nổi tiếng xinh đẹp nhất vùng.

Nhờ người cha cần cù chịu khó, vừa làm ruộng, trồng dâu vừa nấu rượu để bán cho bà con hàng xóm, nên hai cha con tuy không giàu có nhưng cuộc sống no đủ, hạnh phúc.

Ngày ngày, vào mỗi chiều khi xong việc đồng áng, Hồng Đào vẫn chăn tằm, dệt lụa và phụ giúp cha bán rượu cho dân lành. Rượu của người cha được nấu từ gạo mới, ướp hương từ những quả đào chín mọng và được ủ trong chum sành chôn dưới đất nên rất thơm ngon.

"Hữu xạ tự nhiên hương"- túp lều tranh dựa vào khóm tre bên cạnh hồ nước chiều nào cũng có khách uống rượu, đặc biệt là đám trai làng. Cánh trai làng, kể cả các làng bên đến đây vì cô Hồng Đào, một thôn nữ xinh đẹp nhất vùng... Và cứ như vậy quán nhỏ được gọi tên là Hồng Đào, và rượu Hồng Đào cũng có từ đó.

Vẻ đẹp Quảng Nam là vậy đó. Hoa hậu Đông Du năm 05 là cô gái người Quảng, Á hậu Đông Du 06 cũng là người Quảng Nam. Còn minh chứng nào hay hơn nữa...[bounce][bounce][bounce]

Re:Nét đẹp quê hương!

Đã gửi: Sáu T11 16, 2007 1:53 am
Viết bởi vodanhkhach
Tại sao gọi Thanh Hoá là xứ Thanh?

Xứ Thanh, một cách gọi dân gian chỉ tỉnh Thanh Hoá, một thực thể địa lý tự nhiên và văn hoá, khiến Pierre Pasquier, viên Toàn Quyền Đông Dương người Pháp trước kia coi Thanh Hoá không chỉ là một tỉnh mà là một Xứ (pays). Cái nhìn địa - văn hoá này đã được cha ông ta từ xa xưa thấu tỏ, do vậy, dù trải qua bao nhiêu triều đại, qua bao cuộc sát nhập và phân chia thì Xứ Thanh vẫn là Xứ Thanh, Thanh Hoá vẫn là Thanh Hoá.

Trước thời Hán, Thanh Hoá thuộc quận Cửu Chân, thời Hán quận Cửu Chân thuộc bộ Giao Chỉ. Thời nhà Lương, đổi Cửu Chân thành ái Châu. Bắt đầu thời phong kiến tự chủ, Thanh Hoá vẫn thuộc Châu ái. Đến thời Lý, năm Thuận Thiên thứ nhất, đổi thành phủ Thanh Hoá, cái tên Thanh Hoá bắt đầu có từ đấy. Sau này, trải qua các triều đại, có lúc Thanh Hoá được gọi là phủ, trấn, lộ, trại, thừa tuyên ..., thậm chí, cái tên Thanh Hóa có từ thời Lý cũng có lúc đổi thành Thanh Đô, Tây Đô, Thanh Hoa, thì cái thực thể Xứ Thanh vẫn không có gì thay đổi. Năm Thiệu Trị thứ nhất, chính thức đổi tên thành tỉnh Thanh Hoá và tồn tại tới ngày nay (Quốc sử quán triều Nguyễn, 1970).

Có điều cần ghi nhận là, thứ nhất, do vị trí nằm giữa (trung gian)  Bắc Bộ và bắc Trung Bộ, nên có lúc Xứ Thanh thuộc về bộ Giao Chỉ, có lúc thuộc quận Cửu Chân, cùng với Nghệ An và Hà Tĩnh. Như vậy, ngay từ thời xa xưa, "tiền nhân" cũng đã có sự "lưỡng lự" về sự cắt đặt vị trí hành chính của Thanh Hoá. Hoặc giả, khi dự báo thời tiết của Đài phát thanh hay truyền hình Việt Nam, có lúc người ta nhập Thanh Hoá vào phía đông Bắc Bộ, có lúc lại gộp chung với bắc Trung Bộ. Do vậy, tính chất trung gian của Xứ Thanh là có thật, là một thực thể địa - văn hoá, để lại dấu ấn nhiều mặt trong đời sống vật chất và tinh thần của con người Xứ Thanh.

Thanh Hoá - Xứ Thanh không phải là tứ trần nội kinh (Xứ Bắc, Xứ Đông, Xứ Đoài, Xứ Nam vây quanh Thăng Long xưa, tương ứng với các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ tiếp giáp với Hà Nội ngày nay), mà là ngoại trấn, là trại, là đất phên dậu, là vùng ngoại vi của trung tâm văn hoá - chính trị Thăng Long hay Huế- Phú Xuân. Vị trí địa - chính trị, địa - văn hoá này cũng tạo cho Xứ Thanh - Thanh Hoá những sắc thái văn hoá mang tính đặc thù.


Re:Nét đẹp quê hương!

Đã gửi: Sáu T11 16, 2007 2:03 am
Viết bởi vodanhkhach
Động Kim Sơn



Động Kim Sơn thuộc xã Vĩnh An, huyện Vĩnh Lộc. Đây là một quần thể động nằm ở núi Kim Sơn hay còn gọi là núi Bông, núi Biện. Núi Kim Sơn nằm giữa một cái hồ rộng chừng 10 ha.


Vì thế muốn vào động phải đi bằng thuyền. Còn nếu đi bằng đường bộ phải đi qua ba cái động cạn. Động Kim Sơn chạy xuyên qua núi (gần giống như Tam cốc ờ Ninh Binh). Cửa động rộng chừng 30m, hình vòng cung do các phiến thạch nhũ tạo thành. ớ phía Đông- Nam cửa động có ba chữ Hán lớn được khắc vào một phiến đá “Kim Sơn Động”. Một khối đá màu trắng khổng lồ nhô lên mặt nước giữa lòng động trông gần giống như một con cá voi. Lại có một dải nhũ lớn từ vòm hang buông xuống lơ lửng trong giống như một chiếc khánh lớn. Trên vòm động có một lỗ hổng lớn, ánh nắng xuyên xuống như một cột lửa làm cho mặt nước lung linh huyền ảo, chiếu lên vách động tạo nên những bức tranh muôn màu muôn vẻ.
Không khí trong hang mát lạnh. Lòng hang rộng như một thung lũng với nhiều nhũ đá rất đẹp. Có hình cô tiên, đàn voi đang uống nước, lũ khỉ leo trèo... Đặc biệt có nhũ đá hình tượng Phật Bà Quan Âm cao 15 m, an tọa ở chính giữa động.







Re:Nét đẹp quê hương!

Đã gửi: Sáu T11 16, 2007 2:06 am
Viết bởi vodanhkhach
Tại sao gọi Thanh Hoá là xứ Thanh? (tiếp theo)

ĐỊA LÍ

Nếu đồng bằng Bắc Bộ là châu thổ của hệ thống sông Hồng, thì đồng bằng Thanh Hoá chính là châu thổ của hệ thống sông Mã- sông Chu, do vậy Lê Bá Thảo cho rằng, quang cảnh đồng bằng Thanh Hoá như là sự lặp lại một phần của đồng bằng châu thổ sông Hồng (Lê Bá Thảo, 1998). Đồng bằng Thanh Hoá là đồng bằng rộng nhất ở Trung Bộ, diện tích bằng 1/2 diện tích của các đồng bằng Trung Bộ cộng lại, tức khoảng 3000 km2, đất đai cũng mầu mỡ hơn. Tuy nhiên, Thanh Hoá với địa hình núi non chiếm 2/3 diện tích cả tỉnh, một số mạch núi kế tiếp mạch núi vùng Tây Bắc chạy sát ra biển, nên ở Thanh Hoá, cảnh quan đồng bằng, biển và rừng núi nối kết và cận kề nhau hơn, làm tăng tính chất rừng và biển của đồng bằng, chứ không "xa rừng, nhạt biển" như đồng bằng châu thổ Bắc Bộ.

Đồng bằng Thanh Hoá là do hệ thống sông Mã và sông Chu bồi phủ, tuy nhiên, đồng bằng phía Nga Sơn lại là sản phẩm thành tạo, bồi phủ của sông Hồng, do vậy, đồng bằng Thanh hoá gắn kết một phần với đồng bằng sông Hồng. Hơn thế nữa, về mặt địa lý tự nhiên, Thanh Hoá được coi là thuộc khu Hoà Bình- Thanh Hoá, phân khác với địa lý vùng Nghệ Tĩnh. Đây lại là một lý do nữa chứng tỏ mối quan hệ gắn kết về tự nhiên giữa Thanh Hoá và Bắc Bộ (Lê Bấ Thảo, 1989).

Cũng giống như sông Hồng ở Bắc Bộ, Sông Mã (có chi nhánh là sông Chu) là cái trục chính, là linh hồn của Thanh Hoá. Bắt nguồn từ Tây Bắc, chảy qua Sầm Nưa (Thượng Lào) rồi vào thượng du Thanh Hoá, nơi rừng núi trùng điệp, có nhiều đỉnh núi cao thuộc loại trung bình, như Bù Rinh (1291 m), Bù Chó (1563 m)...rồi theo hướng đông chảy ra biển vịnh Bắc Bộ. Khoảng trung lưu, sông Mã gặp nhánh sông Chu trước khi đổ ra biển, sông Mã không chỉ bồi đắp nên đồng bằng rộng lớn và tươi tốt, mà mức độ rộng lớn và phì nhiêu của nó chỉ đứng sau châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long, mà còn là đường thông thương huyết mạch giưa miền ven biên, đồng bằng với thượng lưu ở phía tây, là con đường không chỉ chuyên chở lâm thổ sản từ miền núi về miền xuôi, mà còn chuyên chở hàng thủ công, hải sản từ  miền biển, đồng bằng lên miền núi. Cách đây chưa lâu, các đoàn thuyền đinh ngược xuôi tấp nập, nối liền các bến chợ dọc bờ sông, nay được bổ sung thêm hệ thống đường bộ. Sông Mã không chỉ là huyết mạch về kinh tế, mà còn là con "sông văn hoá", tạo nên hai bên bờ tả hữu những hiện tượng văn hoá vật chất và tinh thần phong phú và đa dạng, là con đường giao lưu văn hoá giữa các vùng và các tộc người.

Biển Thanh Hoá vẫn thuộc Vịnh Bắc Bộ, tuy nhiên có vẻ "mặn mòi", "biển" hơn so với biển ở các tỉnh phía bắc, như Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng, Quảng Ninh ...Cũng bắt đầu từ Thanh Hoá, các dãy núi có xu thế tiến sát ra biển, kề liền với đồng bằng, thậm chí ăn ra biển xa, tạo thành các dãy đảo, các hòn, như Hòn Nẹ, Hòn Nôm, Hòn Ngư, Hòn Mê, tạo nên một hệ sinh thái đa dạng : Núi - đồng bằng - biển, mà ở đó sinh hệ khá đa dạng, thường là nơi con người tiền sử lựa chọn sinh sống. Chất biển của Thanh Hoá không chỉ thể hiện ở đường bờ biển dài hơn 200 km, ở dải "cồn cát duyên hải", dấu tích của giới hạn của các vụng biển cũ mà nay châu thổ đã lấp đầy. ở Thanh Hoá cũng như các tỉnh Trung Bộ có nhiều cửa sông chảy ra biển như cửa Đáy, Lạch Trường, Cửa Hới, nơi có nhiều tôm, cá và phát triển nghề biển. Sầm Sơn, nơi phát triển kiểu bè mảng rất độc đáo nơi bãi ngang, giúp con người có thể đi ra khơi xa để đánh bắt cá. Cần phải nói thêm rằng, bè mảng Sầm Sơn, nơi gốc tích của kỹ thuật bè mảng nước ta , chính là sự kết hợp chặt chẽ giữa biển và rừng núi, một khi nguyên liệu chính để làm loại bè mảng vượt biển độc đáo này lại lấy từ tre luồng trên đất Lam Sơn, Quan Hoá, Ngọc Lạc, theo phương thức "măng, tre đưa xuống, cá chuồn đưa lên".

Thanh Hoá là một tỉnh đông dân, khoảng 3triệu 6 người, một tỉnh có dân số thuộc loại đông nhất ở nước ta. ở đồng bằng, tuy đất đai không phì nhiêu như Đồng bằng Bắc Bộ, nhưng mật độ dân cư khá cao, thí dụ ở Đông Sơn mật độ khoảng 1000-3000 người/km2, nơi thấp nhất cũng khoảng 500 người/km2, còn ở thành phố Thanh Hoá và Diễn Châu đạt tới 3000 người/km2. Điều đó chứng tỏ tần xuất sử dụng đất của con người ở đây đạt mức độ cao.

Thanh Hoá là một tỉnh đa tộc người, ngoài người Kinh (Việt) sinh sống ở đồng bằng, còn có các tộc người thiểu số khác, như Mường, Thái, Khơ Mú, Thổ, Mông, Dao, thuộc các nhóm ngôn ngữ : Việt-Mường, Môn-Khơ me, Thái-Tày, Mông-Dao, tụ cư chủ yếu ở miền núi, trên địa bàn các huyện : Mường Lát, Quan Sơn, Quan Hoá, Bá Thước, Thạch Thành, Cẩm Thuỷ, Ngọc Lặc, Lang Chánh, Thường Xuân, Như Xuân, Như Thành. Địa bàn này chiếm 2/3 diện tích cả tỉnh, dân số các dân tộc thiểu số kể trên khoảng 1 triệu người, chiếm khoảng 1/3 cả tỉnh ( Địa chí Thanh Hoá, T.2). Các tộc người ngày nay sinh sống xen cài với nhau, nhưng lại thuộc các vùng sinh thái tự nhiên khác nhau : Thái, Mường ở thung lũng, Thổ, Khơ mú ở rẻo giữa, còn Mông ở rẻo cao. Cũng cần nói thêm rằng, trong sự phân vùng văn hoá của chúng tôi, thì vùng núi các dân tộc Thanh Hoá và Nghệ An lại gần gũi hơn với vùng văn hoá Tây Bắc và miền núi Thanh Nghệ.


Re:Nét đẹp quê hương!

Đã gửi: Sáu T11 16, 2007 2:12 am
Viết bởi vodanhkhach
Tại sao gọi Thanh Hoá là xứ Thanh? (phần cuối)

LỊCH SỬ

Thanh Hoá cũng là một vùng đất lịch sử lâu đời. Có lẽ hiếm có vùng đất nào như Thanh Hoá lại có đầy đủ những mốc nổi tiếng đánh dấu các giai đoạn lớn của lịch sử, từ tối cổ đến tận ngày nay. Do vậy, thiên nhiên và văn hoá Xứ Thanh đều thấm đượm sắc màu lịch sử.
 Di chỉ Núi Đọ phát hiện năm 1960 ở huyện Thiệu Hoá, là cái mốc tối cổ, nơi tìm được dấu tích con người thuộc thời đại đá cũ sơ kỳ, cách ngày nay khoảng hai chục vạn năm*. Kế tiếp, di chỉ hang Con Moong phát hiện ở Thạch Thành, chứa đựng các dấu vết khảo cổ học từ văn hoá Sơn Vi (hậu kỳ đá cũ) ở lớp dưới, trên đó là các lớp văn hoá Hoà Bình, Bắc Sơn. Như vậy, người Con Moong đã sinh sống ở đây nối tiếp mấy chục ngàn năm, suốt từ hậu kỳ đá cũ qua sơ kỳ và trung kỳ đá mới.

Văn hoá khảo cổ Đa Bút ở lưu vực sông Mã là một phát hiện quan trọng của giới khảo cổ học, vì Đa Bút là sự phát triển nối tiếp của văn hoá Hòa Bình - Bắc Sơn trong quá trình chinh phục đồng bằng ven biển Thanh Hoá thời đá mới, cách ngày nay khoảng trên dưới 6000 năm. Đây cũng là thời kỳ "cách mạng đá mới" phát sinh nông nghiệp, khai phá đồng bằng, làm quen với biển cả, phát triển đồ gốm cổ, thời kỳ từ văn hoá Hoà Bình thống nhất hình thành các văn hoá địa phương khá đa dạng, một dấu hiệu mang tính tộc thuộc (Trần Quốc Vượng, Bùi Vinh, 2003).

Văn hóa Hoa Lộc là văn hoá khảo cổ thuộc sơ kỳ thời đại kim khí , phát hiện ở huyện  Hậu Lộc, phân bố chủ yếu ở vùng ven biển, có niên đại khoảng 4000 năm. Về mặt di vật đồ đá, đồ gốm của văn hoá Hoa Lộc có mối quan hệ với các nền văn hoá ven biển khác ở nước ta, như văn hoá Hạ Long ở phía bắc và Bàu Tró ở phía nam. Người ta giả thuyết rằng có thể cư dân Hoa Lộc và các văn hoá ven biển khác cùng thời thuộc về tổ tiên của cư dân nói ngôn ngữ Nam Đảo (Austronesiens).

Đông Sơn là văn hoá thời đại kim khí (đồ đồng, sơ kỳ sắt) , phát hiện lần đầu tiên năm 1924 tại làng Đông Sơn, huyện Đông Sơn, Thanh Hoá, trở thành tên gọi Văn hoá Đông Sơn, một nền văn hoá khảo cổ có diện phân bố rộng, trong đó trung tâm là châu thổ sông Hồng và sông Mã. Các di chỉ khảo cổ Đông Sơn tìm thấy nhiều nhất trên đát Thanh Hoá, hiện vật tiêu biểu của văn hoá Đông Sơn là trống đồng cũng tìm thấy nhiều ở đây với các kiểu dạng khác nhau. Đây là giai đoạn phát triển rực rỡ của văn hoá, văn minh Việt Nam trên cơ sở phát triển nông nghiệp ruộng nước, kỹ thuật đúc đồng, rèn sắt, từ đó hình thành nhà nước cổ đại, hình thành tộc người Việt Cổ, hình thành và định hình cơ tầng của văn hoá Việt Nam cổ truyền.

Như vậy, hơn bất cứ một địa phương nào khác, Thanh Hoá là nơi đã phát hiện được các di chỉ khảo cổ học thuộc hầu hết các thời đại khảo cổ học lớn của nước ta thời tiền sử và sơ sử. Đây không phải là ngẫu nhiên mà là một tất yếu, bởi vì Thanh Hoá về mặt tự nhiên cũng như văn hoá, nó là một “Việt Nam thu nhỏ”. Thanh Hoá cùng với đồng bằng châu thổ Bắc Bộ là cái nôi hình thành dân tộc Việt nam, quốc gia Việt Nam và nền văn hoá Việt Nam. Chẳng thế mà trên mảnh đất Xứ Thanh, đây đó chúng ta có thể bắt gặp những "mô thức" huyền thoại về Tản Viên, Thánh Gióng, Mỵ Châu - Trọng Thủy của "đất tổ" đồng bằng Bắc Bộ được "địa phương hóa" ở đây.  Có chăng chỉ trong thời Bắc Thuộc, nhất là thời phong kiến tự chủ với trung tâm là kinh đô Thăng Long, Thanh Hoá mới ít nhiều trở thành nơi biên viễn, ngoại trấn.

Bước vào thời kỳ lịch sử của dân tộc, trên mảnh đất Xứ Thanh cũng để lại nhiều dấu ấn quan trọng. Sau khởi nghĩa Hai Bà Trưng ở Mê Linh với sự hưởng ứng của "65 huyện thành", khởi nghĩa của Triệu Thị Trinh (Bà Triệu) ở Thanh Hoá nổ ra năm 248 được nhân dân cả quận Giao Chỉ và Cửu Chân hưởng ứng, giết chết viên thứ sử Giao Châu, khiến sử Ngô cũng phải ghi chép : Năm 248 "toàn thể châu Giao đều chấn động" (Lịch sử Việt Nam, tập I, 1971). Cuộc khởi nghĩa cuối cùng thất bại trước sự đàn áp dã man của kẻ thù. Nay lăng mộ và đền thờ của Bà trên núi Tùng ( xã Phú Điền, Hậu Lộc, Thanh Hoá), cũng chính là nơi Bà đã anh dũng hy sinh. Tuy nhiên hình ảnh và sự tích về Bà vẫn không phai nhạt trong tâm tưởng của nhân dân:

"Ru con con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước rửa bành con voi
Muốn coi lên núi mà coi
Có Bà Triệu tướng cưỡi voi bành vàng"

Như vây là, trong các thế kỷ đầu của thời Bắc thuộc, hai cuộc khởi nghĩa lớn đều do thủ lĩnh là hai phụ nữ khởi xướng : Bà Trưng và Bà Triệu, một ở Bắc Bộ, một ở Thanh Hoá. Cho tới nay hàng năm nhân dân đều mở hội tưởng niệm hai Bà.

Thanh Hoá từ lâu được mệnh danh là đất của các bậc đế vương sáng nghiệp, ít nhất cũng đã từng có 4 dòng họ đế vương như vậy gốc tích từ Xứ Thanh : Vương triều Hồ, Vương triều Lê (Tiền Lê và Hậu Lê) và Vương triều Nguyễn. Hồ Quý Ly có gốc tích từ Nghệ An, tuy nhiên đến đời thứ 4 tính từ Hồ Quý Ly trở lên, tổ tiên đã chuyển về Thanh Hoá. Ông vốn là một quý tộc vương triều Trần, nhưng sau xây dựng thế lực lật đổ  vương triều Trần lúc đó đã trở nên thối nát, lập ra vương triều mới : Triều Hồ (Lích sử Việt Nam T.,1). Do vậy, sau khi lên ngôi, ông xây dựng kinh đô mới An Tôn, dân gian gọi là thành Nhà Hồ, tức Tây Đô (nay thuộc Vĩnh Lộc, Thanh Hoá) và thực hiện một loạt cải cách quan trọng. Nơi đây, vẫn còn đền thờ Hồ Quý Ly và truyền tụng nhiều truyền thuyết, huyền thoại về thành nhà Hồ và về vương triều ngắn ngủi này.

Một vương triều khác kế tiếp, vương Triều Lê với vị vua sáng nghiệp là Lê Lợi đã thai nghén và dựng nghiệp lớn từ mảnh đất Lam Kinh,  Xứ Thanh. Đây là một triều đại phong kiến lớn và rực rỡ nhất của chế độ quân chủ Việt Nam. Ngoài những gì sử sách ghi chép thì trong dân gian, những di tích và truyền thuyết về Lam Sơn vẫn để lại những dấu ấn đậm nét. Nổi tiếng nhất là sự tích gươm thần và việc Vua Lê Lợi trả kiếm cho Rùa Vàng, để lại cái tên hồ Hoàn Kiếm ở trung tâm Thăng Long.
Ngoài ra, ở Lam Kinh và các vùng khác ở Xứ Thanh  liên quan tới cuộc khởi nghĩa Lê Lợi,  thì trong tâm thức người dân vẫn không phai mờ những sự tích, truyền thuyết, trong đó Lê Lợi là nhân vật trung tâm. Đó là các truyền thuyết, sự tích gắn với núi Mục Sơn, nơi tiền đồn của nghĩa quân Lam Sơn, đến núi Voi, một môtíp về truyện con voi bất nghĩa, về Núi Rồng có mắt rồng canh gác bảo vệ nghĩa quân thời còn non yếu, Núi Dầu gắn với sự tích Ông bán dầu, tức Trần Nguyên Hãn trước khi gặp Lê Lợi, hay Bà hàng dầu, người chuyên tiếp tế dầu cho nghĩa quân, truyền thuyết về Lê Lai liều mình cứu chúa. Rồi hàng loạt truyền thuyết khác liên quan tới Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn, tạo thành một vùng truyền thuyết  Lam Sơn, phổ biến không chỉ ở người Kinh mà cả người Mường nữa (Truyền thuyết và cổ tích Lam Sơn, 1973).

Ngày nay, trên mảnh đất Lam Sơn, nơi quê hương của Lê Lợi và vương triều Lê vẫn còn tồn tại một quần thể di tích Lam Kinh với những lăng mộ, bia ký của các vua Lê, nền cung điện, những chạm khắc đá tiêu biểu cho kiến trúc và mỹ thuật thời Lê. Đó là những chứng tích vật chất cùng với các chứng tích phi vật thể kể trên, tạo nên tâm thức lịch sử  và lòng tự hào trong lòng người dân Xứ Thanh.

Một vương triều khác, tuy không xây dựng trên chính mảnh đất Xứ Thanh, nhưng những người sáng nghiệp lại có gốc rễ từ đây, đó là nhà Nguyễn, vương triều cuối cùng của chế độ phong kiến nước ta. Người khởi nghiệp các Chúa Nguyễn Đàng Trong là Nguyễn Hoàng. ông là con Nguyễn Kim, quê ở làng Gia Miêu, huyện Hà Trung, Thanh Hoá, là viên tướng của Chúa Trịnh, với con mắt nhìn xa trông rộng đã vận động xin vào trấn thủ Thuận Hoá và Quảng Nam, từ đó xây dựng thanh thế trở thành tập đoàn Chúa Nguyễn Đàng Trong. Nguyễn Hoàng và những người kế nghiệp, như Nguyễn Phúc Chu, Nguyễn Phúc Khoát..., một mặt đối địch với Chúa Trịnh ở Đàng ngoài,  mặt khác, tăng cường mở rộng lãnh thổ, khai phá vào phía nam, tạo nên giang sơn riêng. Trong quá trình khai phá phương nam như vậy, Chúa Nguyễn vận động  nhiều cư dân vùng Thanh Nghệ vào lập nghiệp, là tổ tiên chính của người Việt ở vùng trung và nam Trung Bộ ngày nay. Do vậy, những mối dây liên hệ về xã hội và văn hoá giữa Thanh Hoá với đàng trong, nhất là các tỉnh miền trung là một thực tế lịch sử. Công bằng mà nói, việc Chúa Nguyễn cát cứ khai thác Đàng trong, về phương diện nào đó tạo nên một động lực lịch sử cho quá trình mở mang bờ cõi và định hình cương vực quốc gia Việt Nam. Sau này, Nguyễn ánh khi đánh bại Tây Sơn, khôi phục vương triều dòng họ Nguyễn thì vẫn coi Thanh Hoá là đất tổ của mình.

Xứ Thanh còn là quê hương của nhiều sự kiện và nhân vật lịch sử khác nữa, như Lê Phụng Hiểu, một võ tướng có công lớn với vua Lý, người duy  nhất được hưởng lộc "thác đao điền", khi mất trở thành một vị thánh - Thánh Bưng, Thánh Tến, được thờ phụng và hàng năm tổ chức nghi lễ có trò Chèo Chải  ở Hoằng Sơn quê Ông; như Nguyễn Hữu Cảnh, người đất Hà Trung, có công lớn trong việc chinh phục Chiêm Thành, Chân Lạp, làm trấn thủ nhiều vùng phiên trấn ở phương Nam; như  Đào Duy Từ, một người văn võ song toàn, vừa là tác giả của cuốn binh thư Hổ trướng khu cơ, bàn về việc xây đắp thành, vừa là một nhà nghệ thuật sân khấu với các vở tuồng nổi tiếng, phụ trách nhà hát tuồng thời chúa Nguyễn (Địa chí Thanh Hoá, t.,2)...


(Tổng hợp)

Re:Nét đẹp quê hương!

Đã gửi: Sáu T11 16, 2007 2:47 am
Viết bởi Chihiro03

Ngó lên Hòn Kẽm Đá Dừng
Thương cha nhớ mẹ quá chừng bậu ơi!

Ngoài đầu nguồn sông Thu Bồn của Quảng Nam thì ở đâu có Hòn Kẽm Đá Dừng nữa nhỉ?
Những địa danh, thắng cảnh như Cầu Mới, núi Cấm, Thác Bà, Thác Ông, kể cả Hòn Vọng Phu... còn có thể trùng tên với nơi này nơi khác, nhưng những địa đanh trong các câu ca dao sau đây chắc chắn là của riêng Quảng Nam
Tiếng đồn con gái Bảo An
Sớm mai đi chợ, tối đan mành mành;

Duy Xuyên tơ lụa mỹ miều
Tiếng mai cửi dệt, tiếng chiều xa quay;

Chiều chiều mây phủ Hải Vân
Chim kêu ghềnh đá gẫm thân lại buồn;

Đêm nằm nghe trống Mỹ Sơn
Nghe chuông Trà Kiệu, nghe đờn Phú Bông;

Gió nam thổi xuống Lò Vôi
Ai đồn với bạn ta có đôi bạn buồn?
Dời chưn bước xuống ghe buôn
Sóng bao nhiêu dợn dạ ta buồn bấy nhiêu!

Đường mô xa bằng đường Gia Cốc
Dốc mô ngược bằng dốc Phú Cang
Lời em than hai hàng lụy nhỏ
Em còn mẹ già biết bỏ cho ai?
Phần thời chị gái chẳng có em trai
Anh có thương thì thủng thỉnh rài rài chờ nhau...

Lại có những câu ca dao không nêu địa danh, nhân vật nào của Quảng Nam nhưng do những tính cách đặc thù nào đó, người ta vẫn nhận ra các câu ấy thuần Quảng.
Ai về nhắn với nậu nguồn
Mít non gởi xuống, cá chuồn gởi lên;

Lụt nguồn trôi trái lòn bon
Cha thác mẹ còn chịu chữ mồ côi;

Ngó lên trên rẫy khoai lang
Chẻ tre đang sịa cho nàng phơi khoai

Hai câu trên thì "Quảng Nam" quá rõ rồi (mít non, cá chuồn, lòn bon), còn câu sau được thuần Quảng là ở chữ sịa. Thứ vật dụng này nhỏ hơn chiếc nong, đan bằng tre cật già, mặt sịa toàn những lỗ nhỏ hình vuông. Sịa dùng để đựng, để phơi những thứ nông sản, thực phẩm dạng khô. Phơi khoai lang đã xắt lát như chàng toan tính cho nàng là rất hợp lý và nhờ đó sẽ đạt tình là cái chắc.
Chẳng ồn ào thuyền bè như hàng xóm Đà Nẵng, người Quảng Nam chân chất rứa đó bạn ơi....[oops]