Bạn đang xem trang 2 / 2 trang

Re:HOT : Khai thác bô - xít Tây Nguyên

Đã gửi: Năm T2 26, 2009 3:34 am
Viết bởi Nguyễn Tuấn Anh
Tới thời điểm này mình đã sưu tập nhiều bài viết mang tính lý thuyết về vấn đề này.Sau đây mình xin trích đăng từng phần trong chuyến đi thực tế của ông Nguyễn Trung.Bài viết được lấy từ tranghttp://www.tuanvietnam.net/vn/thongtindachieu/5792/index.aspx  

"Khai thác bô-xít ở Tây Nguyên hiện nay nếu hạch toán đủ, cầm chắc là sẽ lỗ lớn, để lại những hậu quả nghiêm trọng trên nhiều phương diện cho quốc gia, nhất là nước ta đất chật người đông, thiên tai có xu hướng ngày càng gia tăng. Dù khát vọng phát triển nhanh kinh tế đất nước đến đâu chăng nữa, không thể nóng vội và giản lược như cách làm bô-xít theo hai dự án nói trên." - Chuyên gia Nguyễn Trung nhận định về tình hình khai thác bô-xít ở Tây Nguyên sau chuyến đi thực tế.

  Trong những ngày từ 17 đến 23 tháng 12 năm 2008, tôi cùng với một nhóm anh em quan tâm đến vấn đề bô-xít đã cùng nhau đi 4 tỉnh Kontum, Gia Lai, Đắc Nông và Lâm Đồng để tìm hiểu tại chỗ vấn đề khai thác bô-xít. Chúng tôi đã đến hai nơi dự kiến sẽ là nhà máy chế biến alumina tại Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (tại Đắc Nông). Cả hai dự án nay do Trung Quốc xây dựng. Trong chuyến đi này chúng tôi đã gặp được lãnh đạo tỉnh, huyện, sở tài nguyên môi trường.

  Dưới đây là những suy nghĩ của tôi sau chuyến đi này:

Vấn đề nước

  Dự án Tân Rai nằm vùng các suối đầu nguồn cung cấp nước cho các sông La Ngà, Đồng Nai, là các nguồn nước chính của thủy điện Hàm Thuận – Đa Mi và hồ Trị An. Dự án Nhân Cơ nằm vùng đầu nguồn suối Đăk R’Tih – nguồn nước chính của các nhà máy thủy điện nằm trên sông Sêprốc. Cả hai dự án alumina này, mỗi dự án cần khoảng 15 - 20 triệu m3 nước / năm, đều chưa có giải pháp thỏa đáng, lấy nước cho việc này thì lại mất hay thiếu nước cho yêu cầu tại chỗ cho dân sinh, trồng trọt và cho thủy điện.

  Riêng cho dự án Nhân Cơ, vấn đề thiếu nước còn trầm trọng hơn, đến nỗi có ý kiến đề xuất phải tính đến việc xây dựng hệ thống lấy nước từ sông Đồng Nai dài hàng chục cây số bơm lên độ cao phải đạt là hơn 300m – nghĩa là hoàn toàn phi kinh tế và vì thế không khả thi.

Chè và cafe mọc rất tốt nơi sẽ bị bốc đi để khai thác bauxite. Ảnh: Nguyễn Trung

  Vấn đề nước bùn

Nước bùn đỏ, được thải ra trong quá trình sơ chế alumina, còn đọng lại một lượng soude caustic đáng kể, có tác dụng ăn mòn và hủy diệt môi sinh. Với địa thế vùng thượng nguồn, dự án Tân Rai có nguy cơ gây ô nhiễm cho thủy điện Đàm Thuận – Đa Mi và hồ Trị An (nguồn nước chính của thủy điện Trị An và tỉnh Đồng Nai). Nước bùn đỏ của dự án Nhân Cơ có nguy cơ gây ô nhiễm các suối hồ trong vùng và nguồn nước cung cấp cho các thủy điện trên suối Đăk R’Tih.

Với công suất mỗi dự án là 300 – 600 nghìn tấn alumina/năm, ô nhiễm do hàng chục triệu m3 nước bùn đỏ/năm rất nguy hiểm và xử lý rất tốn kém; sự kiện Vedan không thấm tháp gì so với nguy cơ này.
(còn tiếp)

Re:HOT : Khai thác bô - xít Tây Nguyên

Đã gửi: Hai T3 09, 2009 9:30 am
Viết bởi Nguyễn Tuấn Anh
Về hồ chứa bùn đỏ

Trong quá trình sơ chế alumina, bùn đỏ được tách ra từ quặng còn đọng lại một lượng soude caustic có tác dụng ăn mòn và hủy diệt môi sinh nơi chứa nó, có thể làm hỏng các mạch nước ngầm tại lòng hồ và môi sinh của các vùng chung quanh; phương pháp xử lý là phải chôn trong các hồ lớn rồi phủ lên một tầng đất đủ dầy, xong trồng cây lên trên để chống phong hóa. Nhưng đặc điểm tự nhiên của vùng có các hồ chứa bùn đỏ của 2 dự án này là có địa thế cao, gió lớn về mùa khô và mưa nhiều về mùa mưa (thường là gấp đôi lượng mưa trung bình của cả nước). Việc giữ cho hàng triệu tấn bùn đỏ năm này qua năm khác trong các hồ chứa không bị gió bốc bay đi lung tung hoặc không trôi xuống các vùng chung quanh sẽ rất tốn kém và nhiều rủi ro nghiêm trọng.

Chú ý, trong phòng thí nghiệm, tiến bộ công nghệ và khoa học kỹ thuật ngày nay hoàn toàn có khả năng xử lý vấn đề bùn đỏ và nước thải, được ứng dụng thành công phần nào trong thực tế ở quy mô nhỏ; tuy nhiên có hai vấn đề tồn tại lớn nan giải: (a) giá thành, (b)sự phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nơi có vấn đề phải xử lý. Vì vậy, đến nay chưa một nước nào trên thế giới có thể xử lý có hiệu quả thỏa đáng vấn đề bùn đỏ. Riêng nước Mỹ có tới 26.000 km sông suối bị ô nhiễm do khai thác mỏ chưa có cách gì giải quyết ở mức độ có thể chấp nhận được (Sheran – WME – Australia).

Một số công nghệ hóa học hiện đại nhất hiện nay trên thế giới – ví dụ công nghệ Bauxsol -  cũng chưa cho lời giải thỏa mãn, chi phí rất cao, đồng thời phát sinh vấn đề mới. Tại Úc đã có nơi nhà chức trách phải đình chỉ việc thực hiện công nghệ Bauxsol để nghiên cứu thêm (mỏ bô-xít ở địa phương Skytop Mountain – xem: RedOrit Jan. 20-2006 - PATTON TOWNSHIP)...

Vì những lẽ này, và vì nhôm không phải là mặt hàng quý hiếm, nên không quốc gia nào trên thế giới coi bô-xít là khoáng sản chiến lược, không quốc gia nào dám chọn sản xuất nhôm làm chủ bài cho phát triển kinh tế. Cũng vì những lý do ô nhiễm, chỉ có 6% nhôm trên thế giới được sản xuất tại các vùng rừng nhiệt đới nhiều mưa, song thường là những nơi xa và thưa dân cư.

Đáng chú ý, vừa qua phía Trung Quốc và tập đoàn TKV đã tổ chức một đoàn của Lâm Đồng đến tham quan mỏ khai thác bô-xít Bình Quả/Quảng Tây – thủ đô công nghiệp nhôm của Trung Quốc, nơi quặng có hàm lượng 0,65 (của Tây Nguyên là >0,5). Một phó chủ tịch huyện tham gia đoàn về kể rằng những gì thấy được là tuyệt vời, song chính  Bình Quả cũng thừa nhận chưa giải quyết được thỏa đáng vấn đề bùn đỏ.

Sắp tới sẽ có một đoàn như thế nữa cấp các Bộ và Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam đi thăm vùng mỏ khai thác bô-xít ở Bình Quả; thiết nghĩ nên đối chứng mỏ này với gần 100 mỏ bô-xít Trung Quốc đã đóng cửa gần đây (trong đó có một số mỏ ở vùng Hắc Long Giang, và các mỏ ở Hà Nam, ở Tịnh Tây / Quảng Tây) và những điều vừa nói trên về công nghệ Bauxsol.

Ngoài ra Tây Nguyên là vùng cao và có gió mạnh, cung đoạn vận tải quặng từ mỏ về nơi tuyển rửa trung bình là  5 - 10 km, về mùa khô bụi đỏ sẽ tác hại một diện tích lớn rừng và cây trồng ở gần, đồng thời hủy hoại cảnh quan. Xin nhớ đến các vùng “Quảng Ninh đen” năm này qua năm khác toàn một mầu đen vì khai thác than để có thể hình dung tác hại của bụi và bùn đỏ.



Đất khai thác bô-xít (để lầm phèn chua) sau khi hoàn thổ ở Bảo Lộc: Không loại cây nào mọc được ngoài keo tai tượng. Đây chỉ là nơi có quặng bô-xít được đào đi, rồi lấy đất lấp lại, không phải là nơi chứa bùn đỏ. Ảnh: Nguyễn Trung

Re:HOT : Khai thác bô - xít Tây Nguyên

Đã gửi: Hai T3 09, 2009 9:32 am
Viết bởi Nguyễn Tuấn Anh
Thư của Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh
1974-1989


Kính gửi : Các đồng chí uỷ viên Bộ Chính Trị,

  đồng kính gửi : Thủ Tướng và các Phó Thủ Tướng Chính Phủ.



Kính thưa các đồng chí,
Lâu nay tôi không có thông tin, mãi đến gần đây được đọc thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và hàng trăm ý kiến không đồng tình của các nhà khoa học, cán bộ và người dân ở khắp Bắc - Trung - Nam, tôi mới biết ta đồng ý cho Trung Quốc khai thác bauxit ở Tây Nguyên. Nguy hiểm quá ! Tôi cũng thấy những nguy hại như mọi người đã phát biểu : tàn phá môi trường sinh thái, xâm hại rừng nguyên sinh, nguy hại cho đời sống của đồng bào dân tộc người Thượng, lưu độc cho các dòng sông phát nguyên hoặc chảy qua Tây Nguyên, ảnh hưởng rất xấu cho đời sống của người dân Nam Bộ sống dọc hai bờ sông Đồng Nai, có thể ảnh hưởng đến các công trình thuỷ điện phía Nam. Điều đáng lo hơn cả là an ninh quốc gia. Chúng ta đều biết Trung Quốc xây dựng căn cứ hải quân hùng mạnh ở Tam Á đảo Hải Nam, nói thẳng ra là không phải để chống kẻ thù xâm lược nào, mà là đe doạ Việt Nam và sẵn sàng chờ thời cơ thôn tính nốt Trường Sa của chúng ta, sau khi đã nhanh tay chiếm Hoàng Sa từ tay Chính quyền Sài Gòn. Nay lại để Trung Quốc khai thác bauxit ở Tây Nguyên thì sẽ có năm, bảy nghìn hoặc một vạn công nhân hay quân nhân Trung Quốc đến cư trú và hoạt động tại đây, sẽ hình thành một “thị trấn Trung Hoa”, một “căn cứ quân sự” trên địa bàn chiến lược vô cùng xung yếu của chúng ta (vũ khí đưa vào thì không khó gì). Phía Bắc nước ta, trên biển có căn cứ hải quân hùng mạnh, phía Tây Nam nước ta có căn cứ lục quân trang bị đầy đủ thì độc lập, chủ quyền mà chúng ta đã phải đổi bằng hàng triệu sinh mạng cùng xương máu sẽ như thế nào ?!

Về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, chúng ta có đầy đủ căn cứ lịch sử và pháp lý, còn Trung Quốc thì không. Vậy mà báo chí Trung Quốc dựng ra chứng cứ, luôn công khai xí hai quần đảo đó là của họ. Quốc vụ viện Trung Quốc (chính phủ) công khai công bố quyết định lập huyện Tam Sa. Trung Quốc có nhiều hành động rất công khai mà lại dỗ chúng ta im lặng không đưa vấn đề ra công khai, thật là vô lý. Chúng ta muốn sống hoà bình hữu nghị với Trung Quốc, tôi cũng muốn thế. Nhưng hữu nghị cũng phải đấu tranh thích hợp để bảo vệ lợi ích chính đáng của Tổ Quốc ta. Nếu lãnh đạo chưa tiện lên tiếng công khai thì cứ để báo chí, các nhà khoa học lịch sử đưa ra chứng lý, cứ để cho quần chúng biểu tình hoà bình, phản đối khi lãnh thổ Quốc gia bị xâm phạm, không nên dập đi tinh thần yêu nước của họ.

Đành rằng các đồng chí có quyền, muốn làm gì cũng được, quyết định thế nào cũng được, nhưng cũng nên quan tâm dư luận, lắng nghe những lời phân tích lợi, hại, phải, trái mà suy nghĩ cân nhắc. Từ xưa đến nay, ở triều đại nào cũng vậy, chủ trương, chính sách ích quốc, lợi dân thì được dân ủng hộ, chủ trương chính sách sai trái tổn quốc, hại dân thì dân oán. Dân oán, mất lòng tin thì khó yên ổn và thịnh vượng được. “Quan nhất thời, dân vạn đại”, “vua cũng nhất thời, dân vạn đại”.

Thưa các đồng chí,

Trên đây là những lời nói thẳng, tâm huyết của một đảng viên già 70 tuổi Đảng, đã gần đất xa trời, mong được các đồng chí xem xét.

Kính chào,

Nguyễn Trọng Vĩnh

Số nhà 23, Ngõ 5, Phố Hoàng Tích Trí,
Phường Kim Liên, Quận Đống Đa,
Hà Nội
Nguyễn Trọng Vĩnh sinh năm 1916. Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc từ năm 1974 đến năm 1989. Trước đó ở trong quân đội : chính uỷ Khu 1 (1947), cục trường cục tổ chức Tổng cục chính trị (1950), chính uỷ Quân khu 1 (1958), thiếu tướng (1959). Sau một thời gian làm bí thư Tỉnh uỷ Thanh Hoá (1961-1964), ông trở lại quân đội : đoàn uỷ Đoàn 959 kiêm phó ban Công tác miền Tây (CP-38). Uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng (1960-1976). Tham gia cách mạng từ năm 1937. Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Chiến công hạng nhất. Từ khi về hưu, làm phó chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.

nguồn : Bảo tàng Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam

Nguồn: http://www.diendan.org/viet-nam/thu-cua-thieu-tuong-111ai-su-nguyen-trong-vinh/

Re:HOT : Khai thác bô - xít Tây Nguyên

Đã gửi: Ba T3 10, 2009 8:31 am
Viết bởi Ansamurai
Bô-xít Tây Nguyên - ông Mạnh, ông Dũng và Tướng Giáp

Mình xin giới thiệu lại bài này nhưng chỉ dám khuyên là đọc trên tinh thần tham khảo  (nội dung không xác định được )

Re:HOT : Khai thác bô - xít Tây Nguyên

Đã gửi: Tư T3 11, 2009 12:46 am
Viết bởi Ansamurai
Từ chiến thắng Buôn Ma Thuột nghĩ về địa chiến lược Tây Nguyên

"Tây Nguyên luôn luôn là địa chính trị, địa chiến lược và địa kinh tế của Việt Nam. Chúng ta phải biết cách bảo vệ gìn giữ yếu huyệt này. Khai thác Tây Nguyên cho mục đích kinh tế phải hết sức cẩn trọng, cân đối giữa bảo vệ sinh tồn và an ninh phát triển."

Nhân kỷ niệm 34 năm chiến thắng Buôn Ma Thuột, điểm mở đầu trúng huyệt dẫn tới chiến thắng lịch sử 30/4/1975, Đại tá Nguyễn Huy Toàn, chuyên gia lịch sử quân sự và đại tá Quách Hải Lượng, chuyên viên cao cấp Viện nghiên cứu Chiến lược Quân sự phân tích về vị trí chiến lược của Tây Nguyên và những vấn đề đặt ra khi phát triển khu vực trọng yếu này.


Chiến tranh đã lùi xa nhưng ý nghĩa địa chiến lược, địa chính trị và địa kinh tế của khu vực Tây Nguyên đối với đất nước vẫn nguyên vẹn, không hề thay đổi.
(Ảnh: aquasite.net)


“Ai chiếm được Tây Nguyên sẽ làm chủ Việt Nam và Đông Dương”

Từ xưa đến nay, khi nghiên cứu về Việt Nam, người ta thường đánh giá Tây Nguyên là địa bàn chiến lược, có giá trị rất lớn về mặt quân sự, kinh tế, chiến lược.

Cha ông từ xa xưa đã nhận định vùng Tây Nguyên quan trọng tới mức nếu ai chiếm được Tây Nguyên thì coi như đã làm chủ được Việt Nam và Đông Dương.

Sau này, người Pháp, người Mỹ và thế giới cũng nhận thức được vị trí yết hầu của khu vực này với câu nói nổi tiếng: Đây là “nóc nhà của Đông Dương”. Vùng đất này liền kề ngã ba Đông Dương, cho nên khi chiếm lĩnh được khu vực này thì cũng dễ dàng chiếm lĩnh được toàn bộ Đông Dương.

Việc này được chứng minh rất rõ. Trong kháng chiến chống Pháp, Bắc Bộ mới là chiến trường chính. Nhưng khi mở chiến dịch Điện Biên Phủ, ta mở 7 chiến dịch ở 7 khu vực, trong đó, có một trận rất lớn được mở ở Tây Nguyên để bẻ gãy binh đoàn 100 của Pháp. Sau đó ta mới làm trận Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Trong kháng chiến chống Pháp, Tây Nguyên có vị trí quan trọng như vậy.

Người Mỹ ngay khi vào Việt Nam đã nắm bắt được vị trí chiến lược của Tây Nguyên và tập trung tinh lực mạnh vào đây. Các tướng lĩnh Sài Gòn được giao nhiệm vụ chỉ huy ở khu vực này đều là những tướng sừng sỏ trận mạc nhất.

Có biết bao trận đánh mà chúng ta chưa thể giành lại được Tây Nguyên và cuộc chiến tranh cứ kéo dài mãi tới 20 năm.

Buôn Ma Thuột – đòn mở đầu trúng huyệt


Ban Mê Thuột 11.3.1975 (Nguồn: Việt Nam 30 năm chiến tranh giải phóng- NXB Thông tin 2004)

Mùa xuân năm 1975, khi hạ quyết tâm chiến lược để tổng tiến công, tổng nổi dạy ở Miền Nam, Bộ Chính trị có cuộc họp hết sức quan trọng. Tổng Bí thư Lê Duẩn nêu vấn đề: Chúng ta phải “điểm huyệt” ở đâu? Và ông đã nói: phải “điểm huyệt” Buôn Ma Thuột. Vì nếu điểm huyệt được Buôn Ma Thuột, toàn bộ miền Nam sẽ rung chuyển, dẫn đến rút lui chiến lược ở Huế, Đà Nẵng, và đó là thời cơ để chúng ta thần tốc, thần tốc và thần tốc giải phóng miền Nam.

Trong chiến dịch Tây Nguyên, để bảo đảm chắc thắng trong trận then chốt Buôn Ma Thuột, từ ngày 4/3/1975, ta đã tiến công quy mô vừa và nhỏ ở Pleiku và Kontum để nghi binh, cắt đường 19, đường 21 nối với đồng bằng khu 5, ngày 8/3 đánh chiếm Thuần Mẫn, cắt đứt đường 14 giữa Pleiku và Buôn Ma Thuột; ngày 9/3 đánh chiếm khu Đức Lập, Núi Lửa làm cho Buôn Ma Thuột bị cô lập hòan toàn.

2 giờ sáng ngày 10/3, ta tập trung một lực lượng mạnh, hiệp đồng binh chủng đánh thẳng vào Buôn Ma Thuột, mở đầu chiến dịch Tây Nguyên, cũng là mở cửa đột phá của cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975.

Đến ngày 24/3, chiến dịch Tây Nguyên kết thúc, ta giải phóng toàn bộ vùng chiến lược Tây Nguyên.

Cái tài tình của chiến dịch là ta đã chọn và điểm trúng huyệt trọng yếu của địch, làm vỡ thế trận ngay từ đầu, từ thất bại về chiến dịch trở thành thất bại về chiến lược.

Cẩn trọng khi khai thác Tây Nguyên

Chiến tranh đã lùi xa, hơn 30 năm đất nước có hòa bình nhưng ý nghĩa địa chiến lược, địa chính trị và địa kinh tế của khu vực Tây Nguyên đối với đất nước vẫn nguyên vẹn, không hề thay đổi.

Chính vì vậy, trong suốt hơn 30 năm hòa bình, thống nhất Tổ quốc, các thế lực thù địch vẫn không thôi nhòm ngó và tìm cách kích động, quấy phá ở khu vực này.

Hai cuộc bạo loạn năm 2001 và 2004 đã minh chứng rất rõ về tính chất nhạy cảm và ý nghĩa chiến lược của khu vực này đối với an ninh quốc gia.

Nằm trong vành đai núi lửa Thái Bình Dương nên Tây Nguyên cực kỳ giàu tài nguyên, không chỉ bô-xít mà còn nhiều loại khoáng sản quý hiếm khác.

Vấn đề là trữ lượng của những mỏ này rất ít, nếu khai thác thủ công thì không đủ hoàn vốn, còn khai thác công nghiệp, thì chưa triển khai xong, mỏ đã cạn kiệt. Hoặc trữ lượng lớn như bô xít thì lại phân bố trên địa tầng mỏng, diện rộng nên khi khai thác phải bóc bỏ đi cả một lớp thực vật, ảnh hưởng đến môi sinh.

Vì vậy, nếu đặt vấn đề khai thác cần phải cân nhắc rất kỹ lưỡng.

Điều quan trọng hơn cần lưu ý, không giống như dầu khí có thể làm với người Nga, người Mỹ, khu vực này rất không nên đưa bất cứ một người nước ngoài nào vào khai thác vì đây là địa chính trị, địa kinh tế và địa quân sự rất nhạy cảm.

Nhìn ra thế giới, nước nào cũng vậy, cũng có những vùng cấm, khu vực cấm đối với người nước ngoài. Ta cũng phải biết giữ yếu huyệt này.  

Thật ra, phát triển kinh tế là nhu cầu bức thiết và chính đáng của cả dân tộc này, kể từ người lãnh đạo cao nhất đến những người dân thường. Nhưng khi thực hiện, đòi hỏi chúng ta phải thông minh, biết cân đối giữa dựng nước và giữ nước, giữa giữ vững an ninh quốc gia và xây dựng phát triển đất nước, giữa vấn đề kinh tế thị trường và những vấn đề liên quan tới bảo vệ sinh tồn và an ninh phát triển.

Nếu không suy nghĩ được một cách tổng hợp như vậy, lệch theo hướng nào cũng để lại những nguy hại về lâu dài.

Tây Nguyên luôn luôn là địa chính trị, địa chiến lược và địa kinh tế của Việt Nam. Chúng ta phải biết cách bảo vệ gìn giữ yếu huyệt này.  

Nhiều khi phải bỏ qua lợi ích kinh tế trước mắt để bảo vệ lợi ích lâu dài của dân tộc. Nếu chỉ vì lợi ích trước mắt, chúng ta sẽ có tội với thế hệ mai sau.

   * Nguyễn Huy Toàn – Quách Hải Lượng
   *
     Thu Hà (ghi)

http://tuanvietnam.net/vn/tulieusuyngam/6346/index.aspx



Re:HOT : Khai thác bô - xít Tây Nguyên

Đã gửi: Sáu T3 20, 2009 8:39 am
Viết bởi Nguyễn Tuấn Anh
Một người quan tâm đến vấn đề này thì không thề ko đọc bài này: (mọi người có thể down tại địa chỉ http://www.viet-studies.info/kinhte/Boxit_BaoCaoToaDam.pdf )
----------------------------------------
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BÁO CÁO
V/v làm rõ một số ý kiến tại cuộc Tọa đàm về bauxite ngày 20/2/2009
Trân trọng kính gửi:
-đ/c Trương Tấn Sang UV Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư
-đ/c Ngô Văn Dụ Bí thư TW Đảng CSVN, Chánh Văn phòng TW Đảng
Tôi được mời tham gia cuộc Tọa đàm về bauxite do VP TW tổ chức ngày 20/2/2009. Do thời
lượng Tọa đàm có hạn, vì chưa có điều kiện phát biểu, chấp hành ý kiến chỉ đạo của đ/c
Ngô Văn Dụ- chủ trì Tọa đàm, tôi xin được trình bầy với Ban Bí thư và Văn phòng TW Đảng
CSVN một số ý kiến như sau:

1/ Trước hết tôi hoàn toàn đồng tình với đa số các ý kiến tại cuộc Tọa đàm đều cho
rằng việc lựa chọn nhà thầu TQ vào Tây Nguyên là một nguy cơ rất lớn đối với an
ninh quốc phòng. Trong các tham luận công khai, tôi cũng như các nhà khoa học đều hiểu,
nhưng chưa nêu thẳng vấn đề: lựa chọn nhà thầu TQ là một sai lầm cố ý của TKV (Tập
đoàn Than và Khoáng sản ).. Tôi xin nói rõ hơn như sau:

- Là cán bộ của TKV, đến nay tôi đã có kinh nghiệm (hiểu rõ cách đấu thầu) qua không ít
hơn 6 cuộc đấu thầu quốc tế các dự án nhiệt điện chạy than của TKV khi tôi được giao trực
tiếp tham gia (là gíam đốc cty Tư vấn), hay quản lý (là trưởng ban điện lực) và phụ trách (là
Tổng giám đốc cty nhiệt điện). Tôi có thể khẳng định, nếu đấu thầu một cách minh bạch,
đúng luật, và với tiêu chí là lợi ích tối đa lâu dài của đất nước (chứ không phải của chủ đầu
tư) thì không thể có một nhà thầu TQ nào có thể thắng thầu trong bất cứ dự án bauxite nào.
- Để chọn được nhà thầu TQ, TKV đã hạ rất thấp các tiêu chuẩn công nghệ trong đấu thầu,
đã lựa chọn công nghệ thải bùn đỏ bằng công nghệ “ướt” rất lạc hậu và rất nguy hại cho môi
trường mà cả thế giới đã không còn chấp nhận (ngay cả TQ, Nga và Ấn Độ cũng đang
chuyển dần các nhà máy của mình từ công nghệ “ướt” sang công nghệ “khô”, các nước ở
vùng nhiệt đới có mưa nhiều giống như Tây Nguyên cũng không áp dụng công nghệ này).
Đây là một quyết định để dẫn tới việc chỉ các nhà thầu TQ có thể tham gia đấu thầu và có
thể chào giá rất thấp (vì TQ đang có sẵn công nghệ, đang cần phải “bán sắt vụn” lại có dịp
để “chuyển giao” sang VN).
- Việc nâng công suất nhà máy lên gấp 2 lần so với quy hoạch ban đầu và triển khai đồng
loạt cả hai dự án lớn cũng được TKV làm theo “lời khuyên” của nhà thầu TQ, với lý do làm
“nhỏ” thì các nhà thầu sẽ không tham gia. Thực tế cho thấy, tuy đã làm “lớn”, nhưng do cố
tình lựa chọn công nghệ lạc hậu chỉ có ở TQ, nên cũng chẳng có nhà thầu nào khác (ngoài
các nhà thầu TQ) tham gia đấu thầu.
Ngoài ra, tương tự như dự án luyện đồng Sinh Quyền, tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm
alumina cũng rất quan trọng. Tôi e ngại rằng (để đấu thầu, giảm chi phí đầu tư), chất lượng
sản phẩm alumina do TQ chào sẽ rất thấp để sau này TQ sẽ mua lại với giá rẻ mạt (như
hiện đang mua loại đồng của Sinh Quyền). TQ không có công nghệ nguồn về nhôm, cũng
phải đi nhập của các nước phát triển, còn sản phẩm alumina của TQ có chất lượng khác
nhau và có tiêu chuẩn thấp hơn so với của các nước phát triển.

2/ Về ý kiến cho rằng cần phát triển bauxite hơn phát triển cây công nghiệp (của các
đ/c Hoàng Sỹ Sơn- phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng và Phan Tuấn Pha- Bí thư tỉnh ủy
Đắk Nông)
Cả hai đ/c đại diện cho Đảng bộ và UBND các tỉnh có dự án bauxite đều phát biểu ủng hộ
tiếp tục triển khai các dự án bauxite vì hai lý do chính: (i) bauxite có lợi thế hơn sản phẩm
nông nghiệp (cà phê, chè, điều, cau su) vì giá bán sản phẩm nông nghiệp rất biến động; và
(ii) nếu không khai thác bauxite thì (bauxite vẫn chỉ là đất), 20-30 năm nữa con cháu chúng
ta sẽ phê phán chúng ta tại sao không khai thác!.

(i) Trước hết, tôi cho rằng cả hai ý kiến này đều không chính xác, và nếu xem xét kỹ thì đây
là những ý kiến phản khoa học, do thiếu thông tin. Bauxite gắn chặt với vùng đất đỏ bazan
trên Tây Nguyên là tài nguyên khoáng sản có hạn, không tái sinh, còn cây công nghiệp là
nguồn tài nguyên vô hạn, có tái sinh (nhờ được trồng trên đất bazan tài sản vô giá của quốc
gia này). Thế mạnh cạnh tranh cốt lõi của Tây Nguyên là đất đỏ bazan. Phát triển cây công
nghiệp góp phần duy trì và làm tăng thêm mầu xanh cho môi trường, giảm các nguy cơ như
lũ ống, lũ quyét, hạn hán kéo dài, duy trì và phát huy được thế mạnh của đất đỏ bazan. Còn
khai thác bauxite sẽ làm mất đi thế mạnh của Tây Nguyên, hủy diệt mầu xanh, làm thay đổi
thổ nhưỡng của vùng đất đỏ bazan, làm tăng thêm nguy vơ về hạn hán kéo dài, lũ ống, lũ
quyét xẩy ra nhiều hơn. Nếu tiếp tục cho phát triển các dự án bauxite như cách làm hiện nay,
về lâu dài cái giá phải trả của VN là không phát triển được cây công nghiệp trên vùng Tây
Nguyên (do sẽ thiếu nước ngọt, thổ nhưỡng đất bazan thay đổi) và có nguy cơ còn làm mất
và ô nhiễm nguồn nước ngọt để phát triển kinh tế cho các tỉnh vùng hạ lưu (Đồng Nai, Bình
Dương, TP. HCM v.v.).
(ii) Giá bán sản phẩm nông nghiệp tuy có biến động nhưng nhu cầu tiêu dùng của cả loài
người về cà phê, chè, đều là ổn định, được tiêu thụ ở rất nhiều nước, không có sản phẩm
thay thế. Giá bán sản phẩm bauxite biến động rất lớn, nhu cầu của TG cũng thay đổi và chỉ
được sử dụng chủ yếu tập trung ở một số nước có ngành chế tạo xe hơi và máy bay như
Mỹ, Nhật, Đức, Nga, TQ. Tôi xin cập nhật những thông tin gần đây nhất: giá bán nhôm trên
Thị trường Giao dịch Kim loại Luân Đôn (LME) giao động rất lớn, giá thấp nhất 1040U$/tấn
(1993) và cao nhất lên tới 3249 U$/tấn (2006). Chỉ từ tháng 7/2008 đến tháng 10/2008 giá
nhôm tại LME đã giảm từ 3300 xuống còn 1885 rồi 1500 U$/tấn. Theo đánh giá của các
chuyên gia về nhôm, hiện nay giá bán hòa vốn đối với 75% các nhà máy phải là 2500U$/tấn
trong khi giá thành sản xuất bình quân của thế giới 2700-3200U$/tấn. Vì thế các nước đã và
đang tiếp tục cắt giảm sản lượng (chỉ tính riêng năm 2008: TQ đã cắt giảm 18% sản lượng
nhôm tương đương với công suất 3,22-3,70 triệu tấn/năm, 10% sản lượng alumina; tập
đoàn Alcoa của Mỹ đã giảm 18% sản lượng nhôm tương đương với 3,5 triệu tấn/năm;
Brazin giảm tới 40% sản lượng nhôm; Nga- giảm 25%, Tadzickistan (thuộc LX cũ)- 10% v.v.).
Trong các năm tới thị trường và giá bán của sản phẩm bauxite sẽ còn tiếp tục biến động
theo chiều hướng xấu đi: dự báo năm 2009, nhu cầu alumina của TQ chỉ có 27,83 tr. tấn,
trong khi tổng công suất của các nhà máy sản xuất lên tới 32,97 tr.tấn (thừa 5,14 tr.tấn).
(iii) Về ý kiến (của tỉnh Đắc Nông) cho rằng cần khai thác bauxite ngay bây giờ chứ không để
giành cho thế hệ sau, “nếu không khai thác thì bauxite cũng chỉ là đất thôi”: đây cũng là ý
kiến phản khoa học và ngắn về tầm nhìn. Tôi xin báo cáo như sau:
- Nếu hiện nay chúng ta sớm phát triển ngành công nghiệp bauxite-nhôm, thì chúng ta phải
đối mặt với một bất cập rất lớn không thể vượt qua là thiếu điện giá rẻ. Trên thế giới các
nước đều gắn nhôm với thủy điện, vì chỉ có thủy điện mới cho giá rẻ (dưới 3cents/kWh)
trong khi tỷ trọng chi phí về điện trong chi phí sản xuất nhôm rất cao (chiếm tới 40-65%).
Gần đây, Ngân hàng xuất nhập khẩu TQ đã phải cho vay bù lãi suất tới 2-3%/năm để một
công ty nhôm của TQ đầu tư 3,2 tỷ U$ xây dựng nhà máy nhôm ở Mã Lai vì hai lý do:
(i)Khuyến khích việc đưa các dự án nhôm tiêu hao nhiều điện năng ra nước ngoài (trong khi
TQ cũng không phải thiếu điện trầm trọng như VN); (ii) Nhà máy nhôm này (do TQ nắm
không ít hơn 50%) được quyền mua toàn bộ sản lượng điện của nhà máy thủy diện Bakun
công suất 2400MW sẽ được Mã Lai xây dựng ở tỉnh Saravac với giá bán điện chỉ có 2
cents/kWh. Dự án thủy điện này cũng do một tổng công ty nhà nước khác của TQ là
Sinohydro xây dựng. Toàn bộ sản phẩm nhôm sẽ được bán lại cho TQ. Các tập đoàn nhôm
UC Ruasal (Nga) và Alcoal (Mỹ) cũng coi việc đầu tư vào các nhà máy thủy điện để có được
nguồn điện lớn với giá rẻ là ưu tiên số 1 trong hoạt động của mình. Toàn bộ tiềm năng về
thủy điện của các tỉnh Tây Nguyên, nếu được khai thác hết cũng chỉ tương đương với dự án
nói trên của Mã Lai.
- Nếu sau 20-30 năm nữa chúng ta mới phát triển ngành công nghiệp nhôm, thì con cháu
chúng ta sẽ không “phê phán chúng ta là dốt”, như ý kiến của đ/c bí thư tỉnh Đắc Nông,
ngược lại, thế hệ mai sau sẽ phải cám ơn chúng ta là đã rất thông minh, có tầm nhìn xa về
khoa học công nghệ. Nhân đây tôi xin nói rõ hơn:
+Tại cuộc hội thảo đầu tiên về bauxite ở Đắk Nông tháng 12/2007 do tỉnh Đắt Nông và TKV
tổ chức, trong tham luận của mình tôi đã lưu ý đến bom Napal- là một loại bom cháy, có sức
hủy diệt cao là một phát minh của Đại học Ha Vớt Hoa Kỳ, rất có hại trong chiến tranh,
nhưng rất có ích trong phát triển kinh tế.
+Theo dự báo của các nhà khoa học, sau 20-30 năm nữa, trình độ khoa học công nghệ
(trong đó có các công nghệ về hóa-lý) sẽ cho phép chúng ta áp dụng phát minh trên của Đại
học Ha Vớt trong việc đảm bảo an ninh năng lượng. Kim loại nhôm sẽ được sử dụng để
phát điện (có thể thay cho dầu mỏ, khí đốt và than đá hay uranium đang dần cạn kiệt) với
hiệu suất rất cao. Theo tính toán của các nhà khoa học, để sản xuất ra 1 “đơn vị nhôm”,
chúng ta cần 1 “đơn vị năng lượng” (đơn vị này hiện nay rất lớn). Nhưng sau 20-30 năm nữa,
trình độ công nghệ cho phép thực hiện qui trình ngược lại, từ 1 “đơn vị nhôm” chúng ta có
thể sản xuất ra được gần 2 “đơn vị năng lượng” dựa trên nguyên lý hoạt động của bom
Napal (phản ứng ô xy hóa của kim loại nhôm tinh khiết cho phép chúng ta thu được một
lượng nhiệt rất lớn).
+Ngoài ra hiện nay ô xít nhôm Al2O3 (là alumina- sản phẩm của các dự án bauxite Tây
Nguyên để xuất khẩu) mới chỉ được dùng làm nguyên liệu thô cho ngành luyện nhôm và sản
xuất một số hóa chất đơn giản khác. Nhưng trong tương lai, cũng như các loại ô xít kim loại
khác sẽ được sử dụng để khử khí thải CO2 trong các nhà máy nhiệt điện để thu được khí
CO (là một dạng khí cháy, có nhiệt năng cao) có thể tái sử dụng lại ngay cho chính các nhà
máy nhiệt điện hay cho các lò hơi công nghiệp. Trên thế giới hiện nay đã có rất nhiều thành
tựu (bản quyền và bí quyết công nghệ) trong vấn đề này (chủ yếu cũng là của Mỹ).
+Trên quan điểm khoa học và công nghệ, Đảng ta đã rất sáng suốt khi trong Báo cáo chính
trị của Đại hội X đã bỏ cụm từ “khai thác bô-xít và sản xuất alumin” ra khỏi danh mục các
sản phẩm cần được hỗ trợ đầu tư phát triển, thay vào đó, đã khẳng định “Khẩn trương thu
hút vốn trong và ngoài nước để đầu tư thực hiện một số dự án quan trọng về khai thác dầu
khí, lọc dầu và hóa dầu, luyện kim, cơ khí chế tạo, hóa chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây
dựng. Có chính sách hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô”. Tôi cho rằng, ý kiến của đ/c Bí thư
tỉnh Ủy Đắk Nông tại cuộc Tọa đàm là không có tính khoa học và càng không phù hợp với
tinh thần Nghị quyết Đại hội X của Đảng.
Tỷ trọng phân bố trữ lượng bô-xít Việt Nam theo vùng

3/Về ý kiến cho rằng công nghệ của TQ là tốt: Tại cuộc Hội thảo do Liên hiệp các hội
KHKT VN (VUSTA) tổ chức ngày 19/1/2009 vừa qua, trong Báo cáo của mình tôi đã nêu rõ
một ví dụ về công nghệ lạc hậu, không hiệu quả (công nghệ luyện đồng) mà TQ mới chuyển
giao cho TKV trong dự án đồng Sinh Quyền gần đây. Tôi cho rằng không cần nhắc lại. Nhân
đây tôi chỉ muốn nhấn mạnh thêm: Những nhà máy alumina phía Nam TQ (mà TKV đã tổ
chức cho một số cán bộ ngoài TKV đi thăm quan) sử dụng loại bô xít (sa khoáng) khác hẳn
với bô xít của Tây Nguyên (phong hóa) về nguồn gốc. Quá trình sản xuất alumina thực chất
là các quá trình hóa-lý. Việc lựa chọn công nghệ phải dựa trên kết quả phân tích về thành
phần thạch học và thành phần hóa học của quặng chứ không thể sao chép “copy” và đánh
giá công nghệ bằng mắt thường. Ngoài ra, chất lượng quặng bauxite của VN (tuy chưa có
được đánh giá chi tiết, nhưng) căn cứ vào các thông tin hiện có, thì không cao, đòi hỏi phải
tuyển để nâng cao chất lượng trước khi áp dụng công nghệ Bayer.

4/ Về ý kiến cho rằng khai thác bauxite sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và
không chiếm nhiều đất canh tác của các tỉnh Tây Nguyên:

-Trước hết, về kinh tế, các nhà khoa học đều khẳng định điều ngược lại. Rất may, lần nào,
theo báo cáo tại cuộc Tọa đàm của chính đ/c Hoàng Sỹ Sơn- phó Chủ tịch tỉnh Lâm Đồng,
các dự án bauxite hàng năm chỉ đóng góp 120-150 tỷ đồng cho ngân sách địa phương chứ
không phải 1500-2000 tỷ (được phóng đại lên 10 lần) như trả lời trên báo của đ/c Chủ tịch
tỉnh Đắk Nông. Thực ra mức đóng góp này là không tương xứng so với số tiền rất lớn VN
phải đi vay để đầu tư, và thấp hơn nhiều nếu chúng ta đầu tư vào mục đích khác, không
phải là bauxite.
-Về diện tích chiếm đất, tuy diện tích không lớn so với toàn vùng lãnh thổ của Tây Nguyên,
nhưng diện tích đất bị các dự án chiếm dụng vĩnh viễn lại là những nơi có giá trị canh tác
cao, và (theo báo cáo của sở TNMT Đắk Nông) lớn hơn nhiều lần diện tích được tạo ra hàng
năm (so với thành tích mở rộng khai hoang, trồng rừng) của các địa phương này.

5/Về nội dung bức thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: tôi cho rằng ý kiến của đ/c Chủ
tịch VUSTA (Hồ Uy Liêm) nêu trong Tọa đàm (đã không đại diện cho các nhà khoa học) là
rất khiếm nhã. Tôi nghĩ cá nhân đ/c Hồ Uy Liêm cần chính thức xin lỗi Đại tướng về lời phát
biểu gây nghi ngờ nội dung bức thư.
Tôi hoàn toàn ủng hộ và thêm cảm phục Đại Tướng về bức thư đầy tâm huyết và đầy trách
nhiệm đó. Bản thân tôi đã từng làm đại diện cho Bộ Mỏ và Than của VN làm việc tại Ban
Thư ký của COMECON trong cùng thời gian phía Chính Phủ VN đưa dự án bô-xít Tây
Nguyên vào Chương trình hợp tác đa biên của COMECON (ngoài tôi, khi đó còn có nhiều
người khác chứng kiến như các anh Dương Đức Ưng- đại diện cho Bộ Cơ khí Luyện Kim
(nay là Bộ Công thương), Lê Dũng- đại diện cho UB KHKT (nay là Bộ Khoa học công nghệ)
v.v.). Chúng tôi có đủ thông tin và điều kiện để tìm hiểu dự án này. Những vấn đề Đại tướng
đã nêu trong thư là hoàn toàn chính xác. Khi đó (và cả bây giờ), Liên Xô và các nước thành
viên COMECON rất cần bô-xít của VN để luyện nhôm cung cấp cho ngành chế tạo xe hơi,
máy bay, và trang thiết bị quân sự-quốc phòng. Liên Xô (cũ) không cần chè của VN (khi đó
người dân LX chỉ dùng chè của Ấn Độ hay của Srilanca), mà chỉ cần bô-xit của VN, những
vẫn khuyên VN không phát triển dự án bô-xít mà phát triển các nông trường chè.

6/Về nhiều ý kiến cho rằng bài tham luận của TKV là “rất hay nhưng khó tin”. Nhân
đây, tôi cũng xin bình luận thêm như sau:
-Trước hết, có thể thống nhất một điều là: VN lần đầu tiên triển khai các dự án bauxite, chưa
có kinh nghiệm thực tế, nên những vấn đề đang được nêu ra đều chỉ nằm trên giấy (kể cả
nhận định của Bộ Công thương, hay cam kết của TKV), còn dừng ở mức độ lý thuyết, dựa
trên các thông tin trên TG (của các nhà khoa học) đều chưa được thực tế chứng minh
đúng/sai . Điều có thể ai cũng đã nhận ra là tính rủi ro (về mọi mặt: công nghệ, kỹ thuật, môi
trường, an ninh, quốc phòng, v.v...) trên thực tế quá cao, còn những giải pháp mới chỉ là
"khẩu hiệu".
-Bản thân tôi là một cán bộ làm việc ở TKV từ khi TKV mới được thành lâp đến nay (hiện
nay tôi được giao giữ chức Giám đốc Công ty Năng lượng Sông Hồng -TKV, là chi nhánh
của TKV tại Hưng Yên để phát triển bể than Đồng bằng sông Hồng), tôi cũng cho rằng
những "giải pháp" của TKV không có cơ sở khoa học, mới chỉ dừng lại ở mức độ nói về vấn
đề bùn đỏ ( có độ pH cao), TKV cam kết là không nguy hại, có thể xử lý được. Nhưng, như
trên tôi đã nêu, bùn đỏ sẽ ít nguy hiểm khi được xử lý bằng công nghệ thải "khô", còn với
công nghệ thải "ướt" như TKV và các nhà thầu TQ đang áp dụng ở Tây Nguyên (chất lỏng
54,4%, chất rắn 45,6%) thì lại rất nguy hại bởi các lý do sau: (i) "Khô" có nghĩa là ít chất sút
ăn da lẫn trong bùn đỏ; (ii) Nếu thải "khô", các thành phần cỡ hạt khác nhau của bùn đỏ sẽ
đông cứng lại thành chất rắn, ít nguy hại nếu bị trôi lấp. Còn "ướt" thì dung dịch bùn đỏ sẽ
phân ly thành nhiều pha với các cỡ hạt khác nhau, trong đó có pha cỡ hạt siêu nhỏ gồm các
kim loại nặng độc hại sẽ ngấm xuống đất, còn các pha cỡ hạt lớn lại không thể liên kết lại
với nhau khi gặp mưa rất nguy hiểm, dễ bị trôi lấp; (iii) Với công nghệ "khô" thì các đập chắn
của các hồ bùn đỏ không phải chịu lực, chỉ có chức năng "chắn". Ngược lại, với công nghệ
thải "ướt", các đập của hồ bùn đỏ (theo lựa chọn của TKV cao tới 25m, dài 282m, nằm trên
độ cao 850m so với mực nước biển) sẽ giống như các đập hồ thủy điện, phải chịu lực do áp
lực thủy tĩnh của bùn đỏ ướt tạo ra, nên kém an toàn.
-TKV nói sẽ rất coi trọng vấn đề xử lý vấn đề bùn đỏ theo tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên trên
thực tế, vì lợi ích của chủ đầu tư, các thiết kế hồ bùn đỏ đều lấy theo tiêu chuẩn GB của TQ.
Với qui mô hồ thải bùn đỏ lớn như của TKV (rộng 116ha), các nước trên thế giới phải đầu tư
hàng trăm triệu US$, trong khi hồ bùn đỏ của TKV do TQ thiết kế có mức đầu tư ít hơn nhiều
lần. Thực tế các dự án nhiệt điện của TKV do các nhà thầu TQ thực hiện đã cho thất, các
tiêu chuẩn GB của TQ thường thấp hơn nhiều so với của các nước khác, trong khi đó các
nhà thầu TQ thường hay "nói một đằng làm một nẻo", càng không ai dám tin.
-Vấn đề hoàn thổ và bảo vệ môi trường trong khai thác bauxie: mọi người đều hiểu rất rõ
thực trạng môi trường của vùng Quảng Ninh hiện nay như thế nào?
-Một điều nữa không thể khÔng làm các đại biểu nghi ngờ là: (i) Tác giả của những bài trình
diền, tham luận đó của TKV là anh Nguyễn Chí Quang - người đã từng bị Thanh tra Chính
Phủ yêu cầu TKV buộc thôi việc trong dịp Thanh tra CP làm việc với TVN năm 1999-2000.
Sau khi bị sa thải, thời gian gần đây, anh Quang lại đích thân Chủ tịch HĐQT TKV nhận làm
"cố vấn riêng" cho cá nhân Chủ tịch HĐQT. Mặc dù vậy, trong các giao dịch, anh Quang vẫn
tự coi mình là cố vấn của HĐQT TKV, cũng có mặt cùng Chủ tịch HĐQT để báo cáo trong
nhiều cuộc hội thảo và công khai phát biểu dưới tư cách là "đại diện cho TKV"; (ii) Các
chuyên gia giỏi có kinh nghiệm và trình độ thực sự về bauxie-nhôm trước đây (khi làm việc
với COMECON, như Hoàng Kim Phú, Tô Ngọc Thái, Nguyễn Hoàng Ban v.v.) thì không
được TKV sử dụng, trong khi TKV lại tích cực sử dụng một kỹ sư đã về hưu là Dương
Thanh Sùng - người được đánh giá (công khai tại hội thảo của VUSTA) là chỉ thuộc loại
"chai lọ" trong lĩnh vực bauxite-nhôm. Chính vì sự mập mờ này đã làm cho nhiều người
(ngay cả trong TKV và cả bản thân Đại tướng) không thể tin cậy vào những gì "TKV nói".

7/ Về thái độ tiếp thu ý kiến của TKV: Gần đây tôi nhận được công văn "MẬT" của Đảng
ủy TKV gửi cho cá nhân tôi với nột dung hình như là tôi đang bị mắc lừa các thế lực phản
động hay đang chống lại nghị quyết của Đảng vì đã có những phát biểu chống lại các dự án
bô-xít của TKV. Tôi rất bất bình về nội dung công văn này. TKV không những không tiếp thu
ý kiến của tôi (trong khi TKV chưa có ý kiến nào để phản bác và dư luận rộng rãi đều đồng
tình ủng hộ ý kiến của tôi", nhưng Đảng ủy TKV lại có văn bản mang tính răn đe theo kiểu
"cả vú lấp miệng em" như vậy là không thể chấp nhận được. Nhân đây, tôi xin chính thức
báo cáo với Ban Bí thư cũng như VP TW Đảng về vấn đề này như sau:

-Từ trước khi thủ tướng phê duyệt quy hoạch bô-xít, tôi đã viết nhiều bài báo khoa học phân
tích tính không khả thi của các dự án bauxite đăng trên các tạp chí của VN. Sau khi Thủ
tướng ban hành Quyết định số 167/2007/QĐ-TTg ngày 01/11/2007, tôi đuợc mời tham luận
tại cuộc Hội thảo đầu tiên ở Đắk Nông (12/2007) đến nay, tôi (tuy đang hưởng lương do TKV
trả) vẫn đã và đang chính thức phát biểu công khai, minh bạch ý kiến của cá nhân tôi với tư
cách là một cán bộ KHKT phản đối việc triển khai các dự án bauxite trên Tây Nguyên.
-Đây không phải là lần đầu tiên tôi phải đối các việc làm của TKV hay của Bộ Năng lượng
(cũ). Những ý kiến phản đối của tôi trước đây được cho là "trái" với các quyết định của TKV,
và của Bộ NL đến nay đều được thời gian chứng minh là hoàn toàn đúng đắn (như việc
chấm thầu không đúng của dự án điện Na Dương, việc sửa đổi hồ sơ mời thầu có lợi cho
nhà thầu trong các dự án điện, việc di chuyển nhà sàng Hòn Gai ra địa điểm Nam Cầu trắng,
việc gia tăng qua mức sản lượng than của các mỏ để xuất khẩu cho TQ, v.v..)
-Cũng chính vì "trung ngôn thì nghịch nhĩ" tôi đã từng "được" TKV "xử lý" theo cách áp đặt
cho luân chuyển công tác theo tiêu chí việc gì đang làm tốt thì không cho làm nữa, giao cho
việc mới khó hơn, để nhường chỗ cho những "chung thần" chỉ biết làm theo.
-Bản thân tôi, là một cán bộ KHKT được Đảng và Nhà nước ưu tiên cho đi đào tạo nhiều lần
ở nước ngoài, là một Đảng viên ĐCSVN (tôi được kết nạp tại chi bộ Vụ Kế hoạch Bộ Mỏ và
Than từ 1983), tôi luôn sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, đúng lương tri, phục
vụ suốt đời cho sự nghiệp của Đảng và dân tộc, chứ không phải chỉ biết làm theo ý đồ và
phục vụ cho lợi ích của một nhóm người. Bố đẻ tôi là Đảng viên, cán bộ tiền khởi nghĩa,
Huân chương kháng chiến hạng Nhất và hạng Ba, Huy hiệu 60 năm tuổi đảng, Huy hiệu các
chiến sỹ bị địch bắt tù đầy đã giáo dục tôi hiểu rõ thế lực phản động là ai và mình cần phải
làm gì?.
-Tôi không cần phải được Đảng Ủy TKV nhắc nhở về việc tôn trọng pháp luật, trong khi TKV
đã cố tình lợi dụng cơ quan ngôn luận của mình (Tạp chí Than-Khoáng sản VN) để công
khai vi phạm Luật báo chí, tung tin sai sự thật, bôi nhọ danh dự của tập thể công ty do tôi
phụ trách (đúng vào dịp tôi đang bận dự thảo về bauxite ở Đắk Nông)

8/ Về Hội thảo sắp tới do Chính Phủ sẽ tổ chức:
(i) Tôi cho rằng cần được chuẩn bị kỹ và phải có đủ thời lượng cần thiết, tạo được tính công
khai, dân chủ, tránh hình thức vội chụp mũ; (ii) Nội dung Hội thảo nên tập chung ưu tiên bàn
kỹ về tính khả thi về kinh tế, đánh giá hiệu quả kinh tế đầy đủ; và (iii) Để tiết kiệm thời lượng
cho việc trao đổi đầy đủ có lẽ không nên mời các đối tác nước ngoài tham dự vì có nhiều
vấn đề tế nhị và nhậy cảm.
Kinh nghiệm cho thấy tại hội thảo 10/2008 ở Đắk Nông vừa qua, các đối tác nước ngoài chỉ
lợi dụng thời lượng của hội thảo để làm marketing và quảng bá cho bản thân họ. Còn trên
thực tế họ làm như thế nào thì phía VN (Bộ Cơ khí luyện kim trước kia và TKV ngày nay) đã
đi xem, thăm quan, khảo sát gần như khắp TG rồi. Nếu đã mời đối tác nước ngoài, cần mời
đầy đủ cả các đối tác cũng đã từng khuyên chúng ta không nên làm ồ ạt như hiện nay (như
nhà thầu của Pháp)
Cuối cùng, tôi xin chân thành cám ơn các đ/c đã cho phép tôi có dịp trình bầy ý kiến của
mình. Xin kính chúc các đồng chí sức khỏe và hạnh phúc.
Kính thư,

TS. Nguyễn Thành Sơn


Re:HOT : Khai thác bô - xít Tây Nguyên

Đã gửi: Ba T6 02, 2009 7:12 am
Viết bởi lacvotinh
Deleted by forever.
Nếu lacvotinh còn post những bài có nội dung như thế này thì sẽ bị xoá nick.