Bạn đang xem trang 2 / 3 trang

Re:RẠNG ĐÔNG CỦA LÃNH ĐẠO MỚI

Đã gửi: Hai T12 15, 2008 11:28 pm
Viết bởi TamTokyo
CUỘC CHIẾN TRĂM NĂM GIỮA NGÂN HÀNG QUỐC
TẾ VÀ TỔNG THỐNG HOA KỲ
Tôi có hai kẻ thù chính: quân đội miền nam trước mặt tôi và cơ cấu tiền tệ sau lưng tôi. Trong hai thế lực này, sự uy hiếp của kẻ đứng sau lưng mới là lớn nhất. Tôi nhìn thấy một nguy cơ trong tương lai đang đến gần chúng ta, khiến chúng ta lo sợ cho sự an nguy của đất nước.
Sức mạnh của đồng tiền sẽ tiếp tục thống trị và làm tổn thương đến người dân, và đến khi những đồng tiền cuối cùng tích tụ lại trong tay một số kẻ thì đất nước của chúng ta sẽ bị phá hủy. Hiện giờ tôi lo lắng cho tương lai của đất nước hơn bất cứ lúc nào, thậm chí còn hơn cả trong tình huống chiến tranh. [1]

Lincoln, Tổng thống thứ 16 của Mỹ

Nếu nói lịch sử Trung Quốc được xoay quanh bởi những cuộc đấu tranh quyền lực chính trị, và nếu không hiểu được những tính toán trong lòng các bậc đế vương thì chúng ta không thể hiểu thấu được cái tinh thần cốt lõi của lịch sử Trung Quốc. Như vậy, lịch sử phương Tây phát tiển từng bước theo sự tiến hóa của đồng tiền, nếu không hiểu được cơ mưu của đồng tiền thì không thể nắm được nguồn mạch của lịch sử phương Tây.
Quá trình lịch sử trưởng thành của nước Mỹ đầy rẫy những sự can thiệp và âm mưu của các thế lực quốc tế, trong đó, điều khiến người ta sợ nhất chính là sự thâm nhập và âm mưu lật đổ của các thế lực tài chính quốc tế đối với nước Mỹ, nhưng đây cũng là điều chẳng mấy ai biết.
Việc thiết kế và xây dựng chế độ dân chủ hầu như là hành động ngăn cản sự uy hiếp của các thế lực phong kiến chuyên chế, và đã thu được hiệu quả khả quan ở phương diện này, nhưng bản thân chế độ dân chủ lại không có được sức miễn dịch đáng tin cậy đối với những mầm bệnh chết người mới được sinh ra từ quyền lực của đồng tiền.
Khả năng phán đoán và phòng ngự của chế độ dân chủ mới đối với hướng tấn công chính của chiến lược thông qua việc khống chế quyền phát hành tiền tệ của ngân hàng quốc tế nhằm khống chế toàn bộ quốc gia đã xuất hiện những lỗ hổng lớn. “Tập đoàn lợi nhuận đặc thù siêu tiền tệ” và chính phủ do dân Mỹ chọn ra trong thời gian hơn một trăm năm trước cũng như sau cuộc nội chiến bắc nam đã tiến hành những cuộc đấu tranh quyết liệt nhằm xây dựng một định chế tài chính của hệ thống ngân hàng trung ương tư hữu Mỹ. Tổng cộng đã có tất cả 7 tổng thống Mỹ, nhiều ủy viên quốc hội khác đã bỏ mạng vì cuộc chiến giữa hai thế lực này. Các nhà sử học Mỹ đã chỉ ra rằng, tỉ lệ thương vong của các tổng thống Mỹ so với thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai còn cao hơn nhiều so với tỉ lệ thương vong bình quân của một đoàn thủy quân lục chiến!

Đi sâu vào hệ thống tài chính của Trung Quốc, và câu chuyện đã xảy ra cho nước Mỹ hôm qua, liệu sẽ tiếp tục tái diễn ở Trung Quốc hôm nay?

VỤ ÁM SÁT TỔNG THỐNG LINCOHN
Tối thứ sáu ngày 14 tháng 4 năm 1865, Tổng thống Lincoln đã vượt qua được cuộc nội chiến kéo dài bốn năm đầy tang tóc trong muôn vàn nguy cơ và gian khổ. Cuối cùng, năm ngày trước khi nhận
được tin thắng lợi - tướng Robert Lee thống lĩnh quân đội miền nam đã đầu hàng tướng Grant của quân miền bắc – vị tổng thống đã cảm thấy đỡ căng thẳng hơn.
Và trong lúc hứng chí, ông đã đến nhà hát Ford ở Washington để xem buổi biểu diễn. Vào lúc 10 giờ 15 phút, lợi dụng lúc không có cận vệ bên cạnh, một kẻ sát thủ đã lẻn tới cạnh Tổng thống, dùng một khẩu súng cỡ lớn nhằm thẳng vào đầu ông mà bóp cò, Lincoln bị trúng đạn đổ vật về phía trước.
Sáng sớm hôm sau, Tổng thống qua đời
Hung thủ là một diễn viên có chút tiếng tăm khi đó có tên là John Wilkes Booth. Sau khi ám sát xong Lincoln thì tay này hoảng sợ bỏ trốn, ngày 26 tháng 4 hung thủ bị bắn chết trên đường bỏ trốn. Trong xe ngựa của hung thủ, người ta đã phát hiện thấy rất nhiều thư từ viết bằng mật mã và một số vận dụng cá nhân của Juda Benjamin - Bộ trưởng Bộ chiến tranh của Chính phủ miền nam và sau này là Bộ trưởng ngoại giao, một người có thực quyền về mặt tài chính ở miền nam đồng thời có mối quan hệ rất thân mật với các đại gia ngân hàng ở châu Âu.
Sau đó người này đã đào tẩu sang Anh. Sự kiện Lincoln bị ám sát về sau đã được lan truyền rộng ra và nhiều người cho rằng đây là một âm mưu có quy mô lớn. Những nguời tham gia trong âm mưu
này có thể là các thành viên nội các của Lincoln, các ngân hàng ở New York và Philadenphia, quan chức cao cấp của Chính phủ miền nam, giới quyền lực trong ngành xuất bản báo chí và các phần tử nổi loạn ở miền bắc.
Thời đó có một giả thuyết lan truyền rộng rãi rằng, Booth không hề bị giết chết, mà là được phóng thích, còn thi thể được mai táng sau này là người đồng mưu của anh ta. Edwin Stanton - Bộ trưởng chiến tranh nắm giữ trọng quyền khi đó đã che dấu chân tướng sự việc. Thoạt nghe thì đây có vẻ là một giả thuyết hoang đường. Thế nhưng, sau khi một loạt các văn kiện bí mật của Bộ trưởng chiến tranh được giải mã vào những năm 30 của thế kỷ 20 thì các nhà sử học đã phát hiện ra một sự thật đầy kinh ngạc về cái chết của Tổng thống Lincoln, trên thực tế chẳng khác gì lời đồn thổi của thiên hạ.
Otto Eisenschiml, nhà sử học đầu tiên chuyên nghiên cứu về đề tài này đã gây chấn động cho các đồng nghiệp trên thế giới bằng những phát hiện đầy bất ngờ trong bài viết “Tại sao Lincoln bị ám sát?”. Sau đó, Theodore Roscoe đã cho công bố kết quả nghiên cứu có sức ảnh hưởng rộng rãi hơn nữa bằng cách chỉ ra rằng:Phần lớn các nghiên cứu lịch sử của thế kỷ 19 liên quan đến việc tổng thống Lincoln bị ám sát đều miêu tả sự việc giống như một vở bi kịch điển hình của nhà hát Ford vậy … Chỉ có một số ít nhìn nhận sự việc như là một cuộc mưu sát: Lincoln chết trong tay một tên tội phạm thô bỉ … tội phạm phải bịtrừng phạt theo pháp luật; thuyết âm mưu đã bị bóp chết; cuối cùng Đức và Mỹ đã giành được thắng lợi, Lincoln cũng đã thuộc về “quá khứ”.Thế nhưng, việc giải thích sự kiện ám sát tổng thống vừa không khiến cho người ta hài lòng vừa khó khiến cho người ta khâm phục. Thực tế cho thấy, tên tội phạm liên quan đến cái chết của Lincoln vẫn
đang nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. [2]
Trong bài viết “Hành động ngu xuẩn” thuộc cuốn hồi ký của mình, Izola Forrester, cháu gái của tên hung thủ, đã nói rằng, bà phát hiện thấy ghi chép bí mật “Kỵ sĩ rạp xiếc” (Knights of the Golden Circle) đã bị Chính phủ cố ý cất vào trong kho văn kiện, đồng thời bị Edwin Stanton xếp vào loại tài liệu tuyệt mật. Sau khi Lincoln bị ám sát, bất cứ ai cũng không được tiếp cận với những tài liệu này. Do mối quan hệ huyết thống giữa Izola và Booth, hơn nữa, với tư cách là một nhà văn chuyên nghiệp, cuối cùng bà đã trở thành là người đầu tiên được phép đọc những tài liệu này. Trong cuốn sách của mình,
bà đã viết rằng:Những bao tài liệu cũ kỹ thần bí này được cất giữ trong một két bảo hiểm nằm trong góc khuất giữa nơi đặt di tích của “âm mưu thẩm phán” và căn phòng trưng bày. Nếukhông phải là năm năm trước, khi đọc những tư liệu (ở căn phòng đó) mà tôi đã tình cờ nhìn thấy cạnh chiếc tủ, thì có thể chẳng bao giờ tôi biết chúng (tài liệu bí mật) tồn tại.
Những tài liệu ở đây có liên quan đến ông nội tôi. Tôi biết ông từng là thành viên của một tổ chức bí mật. Tổ chức này chính là “Kỵ sĩ rạp xiếc” do Bickley sáng tập nên. Tôi có giữ một tấm ảnh của ông - bức ảnh ông chụp chung với họ, tất cả họ đều ăn mặc chỉnh tề. Bức ảnh này được phát hiện trong
quyển “kinh thánh” của bà nội tôi …tôi còn nhớ bà từng nói rằng chồng bà (Booth) là “công cụ của người khác.[3]
“Kỵ sĩ rạp xiếc” và các thế lực tài chính New York rốt cuộc có mối quan hệ như thế nào? Có bao nhiêu người trong chính phủ của Lincoln đã tham gia vào âm mưu ám sát Lincoln ? Tại sao các nghiên cứu về cái chết của Lincoln trong suốt thời gian dài luôn lạc hướng như vậy? Cái chết của Lincoln cũng
giống với cái chết của Kennedy sau đó 100 năm, đều là sự phối hợp mang tính tổ chức trên quy mô lớn, mọi chứng cứ đều bị bịt đầu mối, mọi sự điều tra đều bị đánh lạc hướng một cách hệ thống, chân tướng của sự việc luôn được che phủ bởi một màn sương lịch sử dày đặc.
Muốn hiểu được động cơ và mưu đồ thực sự đằng sau việc Lincoln bị sát hại, chúng ta cần phải tìm hiểu sâu hơn những cuộc đối đầu trong nỗ lực khống chế quyền phát hành tiền tệ của quốc gia này suốt quá trình lập quốc của Mỹ.

QUYỀN PHÁT HÀNH TIỀN TỆ VÀ CHIẾN TRANH ĐỘC LẬP CỦA NƯỚC MỸ
Trong các cuốn sách giáo khoa lịch sử phân tích nguồn cơn của cuộc chiến tranh độc lập ở Mỹ có rấtnhiều các nguyên tắc và giá trị vừa toàn diện lại vừa trừu tượng được đem ra phân tích và trình bày.
Nhưng ở đây, chúng ta sẽ nhìn từ một góc độ khác để tìm hiểu sâu hơn bối cảnh tài chính cũng như vai trò hạt nhân của nó trong cuộc cách mạng này.
Đa số những người đến Mỹ mưu sinh sớm nhất chính là những cùng dân hết sức nghèo khổ, ngoài những hành lý đơn giản đem theo hầu như họ chẳng có tài sản hay tiền bạc gì. Thời đó, ở miền bắc
Mỹ người ta vẫn chưa khám phá ra những mỏ vàng bạc lớn như sau này, cho nên nguồn tiền tệ lưu thông trên thị trường cực kỳ thiếu hụt. Thêm vào đó là tỉ lệ nhập siêu của Anh quốc đã khiến cho một lượng lớn tiền vàng bạc chảy về quốc gia của xứ sở sương mù này, và điều đó càng làm tăng thêm
tình trạng thâm hụt lượng tiền lưu thông [4].
Phần lớn hàng hóa và dịch vụ do những người dân di cư mới của miền Bắc Mỹ làm ra từ sự lao động khổ nhọc đã không thể được trao đổi hiệu quả do thâm hụt lượng tiền lưu thông, từ đó đã gây cản trở nghiêm trọng đến bước phát triển của nền kinh tế. Để ứng phó với vấn đề nan giải này, người ta buộc
phải sử dụng các loại tiền tệ thay thế khác để tiến hành mua bán hàng hóa.
Chẳng hạn, các hàng hóa được chấp nhận với mức độ cao như da và lông động vật, vỏ ốc, thuốc lá, gạo, lúa mạch, ngô được sử dụng như một loại tiền. Chỉ riêng ở miền bắc Carolina, từ năm 1715 đã có hơn 17 loại hàng hóa được dùng như tiền tệ quy định (Legal Tender), Chính phủ và người dân có
thể dùng những hàng hóa này để tiến hành các hoạt động giao dịch như đóng thuế, trả nợ, mua bán dịch vụ hàng hóa. Khi đó tất cả những loại tiền tệ thay thế này đều lấy đồng bảng Anh làm tiêu chuẩn tính toán.
Trong hoạt động thực tế, do giá thành, quy cách, mức độ chấp nhận và tính chất có thể lưu giữ lâu của các loại hàng hóa này khác nhau, nên rất khó cho việc đo lường theo tiêu chuẩn. Ở mức độ nào đó, chúng đã cứu vãn được tình trạng thâm hụt tiền lưu thông đang cấp bách, nhưng nó cũng đã tạo nên tình trạng thắt cổ chai cho sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa.[5]
Sự thiếu hụt tiền kim loại trong thời gian dài và sự bất tiện trong việc sử dụng các loại tiền hiện vật thay thế đã thúc đẩy Chính phủ thoát ra khỏi lối tư duy truyền thống, và bắt đầu một thử nghiệm hoàn toàn mới: dùng loại tiền giấy có tên là Colonial Scrip để in tiền – loại tiền chuẩn được pháp luật quy định thống nhất.
Sự khác biệt lớn nhất giữa loại tiền giấy này so với chi phiếu ngân hàng đang lưu hành ở châu Âu chính là nó không có bất cứ khoản hiện vật vàng hay bạc nào bảo đảm mà chỉ là một loại tiền tín dụng Chính phủ. Mọi người trong xã hội đều cần phải đóng thuế cho Chính phủ, mà chỉ cần Chính phủ tiếp
nhận loại tiền giấy này như bằng chứng của việc nộp thuế, thì nó đã có đầy đủ các yếu tố cơ bản để lưu thông trên thị trường.
Loại tiền mới này quả nhiên đã thúc đẩy sự phát tiển nhanh chóng của nền kinh tế xã hội, các giao dịch hàng hóa cũng ngày càng trở nên nhộn nhịp.
Lúc này, Adam Smith của nước Anh cũng đã chú ý đến sự thể nghiệm tiền tệ mới này của Chính phủ thuộc địa ở bắc Mỹ, và ông hiểu khá rõ vai trò kích thích to lớn đối với thương mại của loại tiền giấy này, đặc biệt là đối với khu vực bắc Mỹ đang thiếu hụt tiền kim loại. Ông cho rằng, “việc mua bán trên cơ sở tín dụng khiến cho các thương gia có thể định kỳ kết toán số dư tín dụng giữa các bên theo mỗi tháng hoặc mỗi năm, và điều này đã giảm thiểu sự bất tiện (trong giao dịch). Một hệ thống tiền giấy được quản lý tốt không những tạo ra sự thuận tiện trong sử dụng
mà còn có thể có rất nhiều ưu thế trong một số tình huống nào đó.” [6]
Nhưng một loại tiền tệ không có thế chấp là kẻ thù tự nhiên của các ngân hàng, bởi vì nếu không có các khoản vay của Chính phủ làm thế chấp thì Chính phủ cũng không cần phải vay các khoản tiền kim loại vốn rất thiếu hụt thời bấy giờ, và như vậy, quả cân lớn nhất trên tay của các ngân hàng trong chốc
lát cũng mất đi uy lực.
Trong cuộc vi hành của Benjamin Franklin đến nước Anh vào năm 1763, khi được vị chủ quản của Ngân hàng Anh hỏi về nguyên nhân phát triển thịnh vượng của thuộc địa ở châu lục mới, Franklin đã trả lời rằng: “Điều này rất đơn giản. Ở đất thuộc địa, chúng tôi phát hành tiền tệ của riêng mình, gọi là‘chứng chỉ thuộc địa’. Chúng tôi căn cứ vào nhu cầu của thương nghiệp và công nghiệp để phát hành
một lượng tiền tệ cân đối, như vậy, sản phẩm rất dễ dàng chuyển từ tay người sản xuất đến tay người tiêu dùng. Dùng phương thức này, chúng tôi tạo ra loại tiền giấy của riêng mình, đồng thời bảo đảm sức mua của nó, và (Chính phủ) của chúng tôi không cần phải trả lợi tức cho bất kỳ ai.”[7]
Loại tiền mới này tất nhiên sẽ dẫn đến việc thuộc địa châu Mỹ thoát ly khỏi sự khống chế của ngân hàng Anh quốc.
Các ngân hàng Anh tỏ ra phẫn nộ và bắt tay nhau hành động. Nghị viện Anh dưới sự khống chế của các nhà ngân hàng đã thông qua “Đạo luật tiền tệ”(Currency Act) vào năm 1764, theo đó, Nghị viện
nghiêm cấm các bang trong thuộc địa châu Mỹ in ấn và phát hành tiền giấy của riêng mình, đồng thời yêu cầu Chính phủ các nơi này phải sử dụng toàn bộ vàng và bạc để đóng những khoản thuế cho chính phủ Anh quốc.
Franklin đã miêu tả một cách đau đớn về hậu quả kinh tế nghiêm trọng do đạo luật này mang lại cho các bang ở xứ thuộc địa như sau, “chỉ trong một năm, tình hình (thuộc địa) đã hoàn toàn đảo ngược, thời kỳ phồn thịnh đã kết thúc, kinh tế suy thoái nghiêm trọng đến mức từ đường phố cho đến bến
cảng đều tràn ngập những đám người thất nghiệp.”
“Nếu như ngân hàng Anh không tước đoạt quyền phát hành tiền tệ của xứ thuộc địa, thì người dân của xứ thuộc địa sẽ vui vẻ đóng các khoản thuế trà và các sản phẩm khác. Dự luật này đã gây nên tình trạng thất nghiệp và sự bất mãn. Xứ thuộc địa không thể phát hành được tiền tệ của mình, từ đó
sẽ không thể thoát khỏi sự khống chế của quốc vương George đệ tam và ngân hàng quốc tế một cách vĩnh viễn, là nguyên nhân chủ yếu gây ra cuộc chiến tranh độc lập ở Mỹ.”[9]

Re:RẠNG ĐÔNG CỦA LÃNH ĐẠO MỚI

Đã gửi: Hai T12 15, 2008 11:39 pm
Viết bởi TamTokyo
Những người đặt nền móng xây dựng nên Hợp chủng quốc Hoa Kỳ có sự nhận thức tương đối sáng suốt về sự khống chế của Ngân hàng Anh đối với nền chính trị của nước Anh và sự bất công đối với
người dân. Người hoàn thành bản“tuyên ngôn độc lập” Mỹ nổi tiếng khi chỉ mới 33 tuổi chính là Thomas Jefferson - Tổng thống thứ ba của nước Mỹ, người có một câu danh ngôn cảnh báo người đời rằng: Nếu cuối cùng người dân Mỹ để cho ngân hàng tư nhân khống chế được sự phát hành tiền tệ của quốc gia thì những ngân hàng này trước hết sẽ thông qua việc tăng lạm phát tiền tệ, sau đó thông qua việc thắt chặt tiền tệ để tước đoạt tài sản của người dân, cho đến một ngày, khi con cái của họ thức tỉnh, thì họ đã mất đi nhà cửa vườn tược của mình và miền đất mà cha ông họ đã từng khẩn hoang khai phá.
Sau hơn 200 năm khi lắng nghe lại câu nói này của Jefferson được phát ngôn vào năm 1791, chúng ta vẫn không khỏi kinh ngạc trước sự chính xác đến kinh người trong những lời nói của ông.
Ngày nay, các ngân hàng tư nhân quả nhiên đã phát hành hơn 97% lượng lưu thông tiền tệ quốc gia của Mỹ, người dân Mỹ quả nhiên cũng mắc nợ ngân hàng với khoản tiền lên đến con số thiên văn
44.000 tỉ đô-la Mỹ - và có lẽ một ngày nào đó khi họ thức tỉnh thì cũng sẽ thấy rằng mình đã mất đi nhà cửa vườn tược và tài sản, giống như đã từng xảy ra vào năm 1929.
Khi xem xét kỹ lịch sử và tương lai, những người dẫn đường vĩ đại của Hoa Kỳ đã viết ra một cách rõ ràng trong mục 8 chương 1 Hiến pháp của nước Mỹ rằng: “Quốc hội có quyền in và quy định giá trị của đồng tiền quốc gia.”
---------------------------------------------------------


CHIẾN TRANH TIỀN TỆ - PHẦN 2
CHIẾN DỊCH THỨ NHẤT CỦA NGÂN HÀNG QUỐC
TẾ: NGÂN HÀNG ĐẦU TIÊN CỦA HỢP CHỦNG QUỐC HOA KỲ (1791-1811):

Thomas Jefferson" A private central bank issuing the public currency is a greater menace to the liberties of the people than a standing army"
Tôi tin chắc rằng, sự đe dọa của tổ chức ngân hàng đối với tự do của chúng ta còn nghiêm trọng hơn uy lực quân sự của kẻ thù. Họ đã tạo ra một tầng lớp quý tộc rủng rỉnh tiền bạc và coi
thường chính phủ. Quyền phát hành tiền tệ phải được đoạt lại từ tay ngân hàng, nó phải thuộc vềnhững người chủ thực sự của nó – nhân dân.

Thomas Jefferson1802
Alexander Hamilton là một nhân vật có tầm ảnh hưởng quan trọng trong mối quan hệ mật thiết với dòng họ Rothschild. Sinh ra ở quần đảo Tây Ấn Độ thuộc Anh, Hamilton đến Mỹ với tên tuổi,danh tính và nơi xuất thân được dấu kín, sau đó kết hôn cùng cô con gái của một gia đình giàu có ở New York. Và theo những biên lai chuyển khoản còn lưu trữ ở bảo tàng Anh quốc, chúng ta có thể thấy rằng, Hamilton đã từng tiếp nhận sự trợ giúp của dòng họ Rothschild. [13]

Năm 1789, Hamilton đã được Tổng thống Washington bổ nhiệm làm Bộ trưởng thứ nhất Bộ tài chính, và chịu trách nhiệm về hệ thống ngân hàng trung ương của Mỹ. Năm 1790, đối mặt với những khó khăn kinh tế và khủng hoảng nợ nần sau cuộc chiến tranh độc lập, ông ta kiên quyết đề nghị quốc hội thành lập một ngân hàng trung ương tư nhân kiểu như ngân hàng Anh để phụ trách hoàn toàn việc phát hành tiền tệ. Lập luận của ông ta là: với trụ sở đặt tại Philadelphia, Ngân hàng trung ương tư nhân sẽ cho xây dựng chi nhánh của mình tại các nơi, tiền và nguồn thuế của Chính phủ cần phải đặt trong hệ thống của ngân hàng này, ngân hàng này phục trách việc phát hành tiền tệ quốc gia để thỏa mãn nhu cầu phát triển kinh tế, cho vay và thu lợi nhuận từ Chính phủ Mỹ. Giá trị cổ phần của ngân hàng này là 10 triệu đô-la Mỹ, trong đó tư nhân nắm giữ 80% cổ phần, 20% còn lại thuộc về Chính phủ Mỹ. Cổ đông bầu ra 20 người trong số 25 người của hội đồng quản trị, 5 người còn lại do Chính phủ bổ nhiệm.
Hamilton đại diện cho lợi ích của giai cấp thống trị tinh anh Hoa Kỳ. Ông ta từng chỉ ra rằng,“mọi xã hội đều phân chia thành đa số và thiểu số. Thiểu số xuất thân từ các gia đình danh gia vọng
tộc, còn đa số chính là dân đen. Trước những rối loạn và biến động, nhóm đa số thường rất ít khả năng đưa ra được sự phán đoán và quyết định chính xác.”
Mà Jefferson thì đại diện cho lợi ích của nhân dân, đối với quan điểm của Hamilton, câu trả lời của ông là, “chúng tôi cho rằng chân lý sau đây là không cần phải chứng minh: Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể tước đoạt được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”
Liên quan đến vấn đề chế độ ngân hàng trung ương tư nhân, cả hai bên đều chĩa mũi nhọn công kích vào nhau.Hamilton cho rằng, “nếu như không đem lợi ích và của cải của những cá nhân có tiền trong xã hội tập hợp lại với nhau thì xã hội này không thể thành công”.[14] “Công trái quốc gia,nếu không phải là quá nhiều, thì cũng phải là hạnh phúc của quốc gia chúng ta.”
Jefferson phản pháo rằng, “Sự đe dọa của một tổ chức ngân hàng đối với tự do của chúng ta còn nghiêm trọng hơn uy lực quân sự của kẻ thù”.“Chúng ta vĩnh viễn không thể chấp nhận việc cho phép giai cấp cầm quyền tăng thêm nợ trên đầu trên cổ của nhân dân.”

Tháng 12 năm 1791, khi phương án của Hamilton được giao cho quốc hội thảo luận, ngay lập tức đã dẫn đến sự tranh luận gay gắt chưa từng có. Cuối cùng, thượng nghị viện đã thông qua
phương án này với đa số phiếu ủng hộ, và cũng vượt qua ải hạ nghị viện với số phiếu 39/20. Lúc này, tổng thống Washington đang trong tình trạng phải xử lý khủng hoảng nợ nghiêm trọng và đã bị đẩy vào thế phân vân cực độ. Ông đã hỏi ý kiến Jefferson và Madison - Bộ trưởng ngoại giao của Hoa Kỳ thời đó. Những người này đã chỉ rõ ràng rằng, đề án này xung đột với hiến pháp. Hiến pháp trao quyền cho quốc hội phát hành tiền tệ, nhưng quốc hội không được quyền phát hành tiền tệ cho bất cứ ngân hàng tư nhân nào. Hiển nhiên,những phân tích này đã tác động sâu sắc đến tổng thống, thậm chí ông ta đã quyết tâm phủ nhận pháp lệnh này đến cùng.Sau khi biết được tin tức này, Hamilton tập tức thuyết phục Washington, những sổ sách số liệu của Hamilton ở cương vị Bộ trưởng tài chính tỏ ra càng có sức thuyết phục nhiều hơn: nếu không thành lập ngân hàng trung ương để nhận sự đầu tư của nước ngoài đổ vào thì Chính phủ sẽ sụp đổ rất nhanh. Cuối cùng, những nguy cơ trước mắt đã áp đảo những suy nghĩ lâu dài cho tương lai.
Ngày 25 tháng 2 năm 1792, Tổng thống Washington đã đặt bút ký trao quyền thành lập ngân hàng trung ương thứ nhất của Mỹ với thời gian hiệu lực trong 20 năm.[
Các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế cuối cùng đã giành được thắng lợi quan trọng. Đến năm 1811, tư bản ngoại quốc đã chiếm được 7 triệu trong tổng số 10 triệu cổ phần gốc, Ngân hàng Anh và
Nathan Rothschild trở thành cổ đông chủ yếu của ngân hàng trung ương Mỹ – Ngân hàng thứ nhất của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (The First Bank of the United States)

Hamilton cuối cùng trở nên vô cùng giàu có. Ngân thàng thứ nhất sau này cùng với công ty Manhattan New York do Alan Bow thành lập đã trở thành Ngân hàng thứ nhất của phố Wall. Năm 1955, nó đã được sáp nhập với Ngân hàng Chase của Rockefeller và trở thành Ngân hàng Chase
Manhattan .


Re:RẠNG ĐÔNG CỦA LÃNH ĐẠO MỚI

Đã gửi: Hai T12 15, 2008 11:41 pm
Viết bởi TamTokyo
Rockefeller
Chính phủ tỏ rõ khát vọng cực độ đối với tiền tài, phù hợp với mong đợi của ngân hàng trung ương tư nhân – ngân hàng đang nóng lòng trông chờ chính phủ vay nợ. Chỉ trong vòng năm năm ngắn ngủi kể từ khi ngân hàng trung ương thành lập (1791 – 1796), số nợ vay của chính phủ Mỹ đã tăng thêm 8,2 triệu USD.
Năm 1798, Jefferson đã nói một cách đầy hối tiếc rằng: “Tôi thật sự hy vọng chúng ta có thể sửa chữa, chỉnh sửa thêm cho bản hiến pháp, loại bỏ quyền vay nợ của Chính phủ”.
Sau khi trúng cử tổng thống khóa thứ ba (1801 – 1809), Tổng thống Jefferson đã nỗ lực không ngừng hòng phế bỏ Ngân hàng thứ nhất của Mỹ, và đến khi hoạt động của ngân hàng sắp mãn hạn vào năm 1811 thì sự đấu sức giữa đôi bên đã đến mức cực điểm. Hạ nghị viện đã phủ quyết đề án kéo dài thời hạn kinh doanh của ngân hàng với 65 phiếu thuận và 64 phiếu chống, còn thượng nghị viện thì ở thế giằng co 17/17. Lần này, phó tổng thống đã phá vỡ thế bế tắc bằng một phiếu phủ quyết quan trọng và một quyết định được thông qua ngày 3 tháng 3 năm 1811, theo đó, Ngân hàng thứ nhất của Mỹ phải đóng cửa.
Lúc này, Nathan Rothschild đang trấn giữ ở London, khi hay tin đã nổi trận lôi đình. Ông ta nói một cách đe dọa rằng: “Hoặc là ngân hàng (Ngân hàng thứ nhất Mỹ) được quyền kéo dài thời hạn kinh doanh, hoặc là nước Mỹ sẽ phải đối mặt với một cuộc chiến tranh tai họa nhất.” Nhưng đáp lại lời thách thức ấy của Nathan, Chính phủ Mỹ vẫn không hề đưa ra bất cứ hành động nào, Nathan lập tức đáp trả: “Hãy dạy cho những người Mỹ vô lý này một bài học, hãy đưa chúng trở về thời kỳ thuộc địa.”
Kết quả là mấy tháng sau, cuộc chiến tranh năm 1812 giữa Anh và Mỹ đã nổ ra. Cuộc chiến đã kéo dài suốt ba năm, mục đích của Rothschild là hết sức rõ ràng. Họ phải đánh cho đến khi những khoản nợ của Chính phủ Mỹ chất cao như núi, và chính phủ Mỹ rốt cuộc không thể không đầu hàng, phải nhượng bộ để cho họ được tiếp tục chi phối ngân hàng trung ương mới thôi. Kết quả là khoản nợ của Chính phủ Mỹ đã tăng vọt từ 45 triệu đô-la lên đến 127 triệu đô-la, để rồi cuối cùng, vào năm 1815, Chính phủ Mỹ cũng đã phải chịu khuất phục. Ngày 5 tháng 12 năm 1815, tổng thống Madison
đã đề xuất thành lập ngân hàng trung ương thứ hai, kết quả là Ngân hàng thứ hai của nước Mỹ (The Bank of the United States) đã được khai sinh vào năm 1816 (1816 – 1832).

Re:RẠNG ĐÔNG CỦA LÃNH ĐẠO MỚI

Đã gửi: Hai T12 15, 2008 11:55 pm
Viết bởi HoAnG-ShiGa
Về quyển "Chiến tranh tiền tệ" mà anh Tâm nhắc tới em chưa có đọc qua nhưng đã xem qua 1 chút cuốn “Lời thú tội của một sát thủ kinh tế” của tác giả John Perkins, xin trích 1 đoạn giới thiệu cuốn sách:




Dù tác giả là một người hầu như không tên tuổi, và cuốn sách không được một tờ báo lớn nào nói đến (cho mãi đến gần đây), nó đã leo lên hàng thứ sáu trong danh sách các quyển bán chạy nhất (tháng 3/2006). Cuốn sách cũng đang được nhiều đại học khuyến khích sinh viên đọc, và nghe đâu Hollywood cũng sẽ quay thành phim với tài tử Harrison Ford thủ vai chính.



Đây là hồi ký của một nhân vật tên John Perkins, tự xưng đã từng làm “sát thủ kinh tế”. “Sát thủ kinh tế”, theo lời Perkins, là người được giới đại doanh thương Mỹ gửi sang các quốc gia đang phát triển để thực hiện những mưu đồ kinh tế đen tối nhằm phục vụ quyền lợi của giới này, và gián tiếp là của nước Mỹ. Cuốn sách là “ lời tự thú” của Perkins về những “tội lỗi” ông đã làm trong thập niên 1970.



Tác giả kể: sau khi tốt nghiệp đại học, ông ta được một công ty tư vấn ở Boston (Mỹ) tuyển mộ làm chuyên viên kinh tế với hai nhiệm vụ. Đầu tiên, ông sẽ được gửi sang một quốc gia đang phát triển để biện minh (thường là dối trá) những dự án cơ sở hạ tầng (như xa lộ, đê đập, mạng điện...) cách nào để các quốc gia này vay được tiền của các tổ chức và ngân hàng quốc tế và, cùng lúc, giúp các đại công ty Mỹ (như Bechtel, Halliburton) “trúng thầu”.



Sau đó, “sát thủ kinh tế” Perkins phải làm thế nào để các quốc gia ấy... phá sản, không trả được nợ. Khi đã sa vào hoàn cảnh ấy, các nước này phải nghe lời chủ nợ, trở thành một “đàn em” dễ bảo của Mỹ, cho Mỹ khai thác dầu hỏa và các tài nguyên thiên nhiên khác, lập căn cứ quân sự, hoặc ít nhất thì cũng bỏ phiếu theo Mỹ ở Liên hiệp quốc.



Sự nghiệp của Perkins bắt đầu ở Indonesia năm 1971 với nhiệm vụ lập một dự án mạng điện cho đảo Java. Ông ta nhận lệnh đưa ra những dự báo kinh tế cực kỳ lạc quan để USAID (Cơ quan Viện trợ kinh tế của Mỹ) và các ngân hàng quốc tế có thể cho Chính phủ Indonesia vay tiền. Tất nhiên, dự án ấy sẽ thất bại (hoặc không nhiều lợi ích như dự báo), Indonesia không thể trả nợ, và sa vào cái “còng” của Mỹ.



Chu toàn tốt đẹp sứ mạng ở Indonesia, năm 1972 Perkins được gửi sang Panama. Làm “cố vấn” cho “kế hoạch phát triển toàn bộ” của nước này, Perkins được sếp ra lệnh đề nghị một loạt dự án không thực tế, ngụy tạo các con số, tưởng tượng một tương lai sáng ngời cho Panama để Ngân hàng Thế giới đầu tư hàng tỉ đô la vào cơ sở hạ tầng ở nước này. Perkins cũng không quên gài vào những hợp đồng cho vay một số điều kiện mà chỉ các công ty Mỹ mới thỏa mãn được.



Thâm độc hơn, vì Chính phủ Panama lúc ấy có thái độ “kình” Mỹ, cụ thể là muốn Mỹ trả lại kênh Panama, Perkins được chỉ thị phải làm sao để các nhà lãnh đạo nước này “nhu mì” hơn đối với Mỹ.



Song, có lẽ “thành tích” rực rỡ nhất của Perkins là ở Ảrập Saudi, nơi Perkins “hạ cánh” năm 1974. Như mấy lần trước, ở đây Perkins cũng được lệnh thổi phồng dự báo tăng trưởng để biện minh cho các món vay và các hợp đồng với các công ty Mỹ.



Quan trọng hơn, Perkins thú nhận rằng, để tránh tái diễn cuộc khủng hoảng dầu hỏa như vào những năm 1970, ông ta được lệnh thuyết phục Chính phủ Ảrập Saudi (1) không để dầu hỏa chảy vào Mỹ bị gián đoạn, ở một giá “phải chăng”; (2) dùng tiền bán dầu hỏa để mua ngân khố phiếu của Mỹ; (3) rồi lại dùng tiền lãi để thuê các tập đoàn kinh doanh của Mỹ “hiện đại hóa” Ảrập Saudi theo kiểu phương Tây.



Perkins khoe rằng ông đã biến Ảrập Saudi thành “con bò sữa có thể vắt đến ngày về hưu” cho ông và các sếp của ông, và tự đắc là “Bộ Ngân khố Mỹ thuê chúng tôi, trả lương chúng tôi với tiền của Ảrập Saudi, để xây dựng cơ sở hạ tầng ở đó, thậm chí nhiều thành phố của họ là hoàn toàn do chúng tôi xây dựng”.



Sau vài chuyến công tác nữa ở Iran và Colombia, Perkins giải nghệ “sát thủ” năm 1980. Bị “lương tâm cắn rứt” từ đó đến nay, ông ta viết cuốn này (dù bị cản trở nhiều lần, ông ta nói).



Lời bình



Phải nhìn nhận rằng "Thú tội của một sát thủ kinh tế" quả hấp dẫn như truyện gián điệp: những cái chết bí ẩn, những buổi trưa làm tình vụng trộm, những thành phố nhiệt đới có vẻ kỳ bí đối với người phương Tây, những cuộc trốn thoát trong đường tơ kẽ tóc. Tuy nhiên, đọc kỹ, có nhiều điều không ổn về tác phẩm lẫn tác giả này.



Trước hết, ai biết chút ít về thời cuộc, về chính trị thế giới, và không quá ngây thơ, hẳn sẽ không lấy làm lạ về những xì căng đan mà Perkins kể lại. Có ai lạ gì chuyện các nhà lãnh đạo những nước nhỏ, đang phát triển (và đôi khi của vài quốc gia đã phát triển) bị nước ngoài mua chuộc (bằng tiền hoặc bằng sex), bắt chẹt, hăm dọa...



Thậm chí, áp lực này diễn ra một cách chính thức, công khai, ngay trong những cuộc gặp giữa các nhà lãnh đạo, bị báo chí phanh phui, lắm khi còn để lại dấu vết trong các hiệp ước thương mại. Đó là những chuyện “thường ngày ở huyện”. Có đại diện (thương mại, ngoại giao, quân sự...) nào của Mỹ (và hầu hết mọi nước khác) từ thấp đến cao, lại không sử dụng mọi thủ đoạn để đem lại lợi ích cho mình?



Đằng khác, chả lẽ lãnh tụ các nước chậm tiến không bao giờ phạm lỗi lầm, quyết định sai về dự án này, kế hoạch nọ và không tham ô? Cần gì những người như Perkins chỉ bảo, thúc giục? Và đúng là các tư vấn ngoại quốc hay thổi phồng triển vọng các dự án, song chắc gì chỉ các công ty ngoại quốc thủ lợi?



Cái mới lạ ở cuốn này là Perkins kể những thủ đoạn của các nhà ngoại giao, nhà kinh tế (thường là nghiêm trang đạo mạo) dưới dạng hồi ký hấp dẫn như một truyện gián điệp đầy tình tiết ly kỳ (có “sát thủ”, có rượu, có đàn bà, có án mạng, có hẹn hò giữa đêm khuya ở nhà ga, quán xá...), úp mở nghi vấn (nhưng không bằng cớ, thậm chí không đưa tên nhân chứng) về những “bí ẩn” trong cái chết của Tổng thống Kennedy, tướng Torrijos của Panama, ngay cả của mục sư Martin Luther King...



Có thể Perkins nói thật, có thể ông nói phét. Làm sao biết được?



Hơn nữa, những chi tiết ông đưa ra lại làm cho người đọc thắc mắc thêm: cớ gì mà một công ty tư vấn to lớn, có uy tín lâu đời ở Boston lại chọn Perkins (lúc đó chưa đến 30 tuổi, mới xong cử nhân kinh doanh) để giao những sứ mạng quan trọng như vậy? Vài phân tích kinh tế của Perkins càng làm người đọc hoài nghi kiến thức của ông ta.



Chẳng hạn, không ai hiểu biết về kinh tế lại so sánh doanh thu của xí nghiệp và GDP của quốc gia (hai phạm trù hoàn toàn khác nhau), để kết luận rằng công ty này “mạnh” hơn quốc gia nọ. Nhiều chi tiết trong sách là hoàn toàn sai. Chẳng hạn tác giả bảo rằng National Security Agency (cơ quan tuy rất lớn, song chỉ chuyên về mật mã) là một cơ quan kinh tế của Chính phủ Mỹ... Cũng nên để ý là hầu hết kinh nghiệm của Perkins là khoảng 30 năm về trước.



Tóm lại, "Thú tội của một sát thủ kinh tế" là một cuốn sách hấp dẫn, và nếu người đọc chưa bao giờ nghe về những thủ đoạn lươn lẹo, dối trá, quỷ quyệt, hắc ám của các đại công ty ở các quốc gia chậm tiến, thì cũng nên đọc để biết vài nét chính.



Song, đối với những chi tiết về hành tung của tác giả, cũng như những gì mà ông không đưa bằng chứng, thì hãy cứ... hoài nghi.







Qua đó có thể thấy cuốn "Chiến tranh tiền tệ" đề cập đến 1 nội dung không còn mới nữa, mà từ lâu đã là nghi vấn của nhiều nguời, nhưng tác giả viết trên 1 khía cạnh khác.




Vậy theo cuốn này có thể chỉ đích danh những kẻ đứng đằng sau giật dây là những 多国籍企業, còn như theo quyển anh Tâm giới thiệu có thể chỉ đích danh đó là những Citi, JP Morgan, Goldman Sachs hay Merrill Lynch,hoặc đã phá sản mới đây như Lehman Brothers.



Tuy nhiên về vấn đề đang tranh luận, xin đuợc đưa ý kiến là mọi nguời hãy xem lại chính kiến của những nguời viết bài. Bài của Cao Huy Thuần do anh Tuệ đăng không nhằm vinh danh 1 nuớc Mỹ như mọi nguời hiểu, mà đó là nhằm đề cao vai trò của nguời lãnh đạo đất nuớc, sứ mạng và trọng trách của họ phải thực hiện. Qua đó kêu gọi VN hãy tìm đến 1 phuơng thức mới trong việc chọn Leader. Tất nhiên trong bài viết không tránh khỏi 1 số chỗ đề cao Mỹ theo cách sùng bái chủ nghĩa tự do của Mỹ.

Re:RẠNG ĐÔNG CỦA LÃNH ĐẠO MỚI

Đã gửi: Ba T12 16, 2008 12:02 am
Viết bởi anhsiu
  Bài hát ni hay quá : http://jp.youtube.com/watch?v=ESOVrc4K3CQ&feature=related

Re:RẠNG ĐÔNG CỦA LÃNH ĐẠO MỚI

Đã gửi: Ba T12 16, 2008 12:04 am
Viết bởi HoAnG-ShiGa
Còn 1 câu nữa chắc mọi nguời cũng đã nghe trên tivi hoặc nhìn thấy nhan nhản trên các báo "アメリカ支配の終わりの始まり", chúng ta hãy cùng theo dõi cái 終わりの始まり này  liệu có diễn ra không, dòng chảy của lịch sử sẽ đi về đâu trong 1 thời gian không xa nữa.

Re:RẠNG ĐÔNG CỦA LÃNH ĐẠO MỚI

Đã gửi: Ba T12 16, 2008 12:09 am
Viết bởi TamTokyo
Ecuador, một quốc gia Nam Mỹ, nơi được xem là "sân sau" của Mỹ, đang cố gắng thoát ra khỏi vòi bạch tuột của Mỹ ( hay nói đúng hơn là tư bản Mỹ ) bằng cách này đây .Và dĩ nhiên, tư bản Mỹ không phải ngồi yên để bị xù nợ dễ dàng như vậy. Ecuador thành công sẽ làm nên hiệu ứng domino cho các quốc gia Nam Mỹ khác, vốn là các con nợ kinh niên của Mỹ .


Ecuador sẽ được vào Guinness là quốc gia có số lần tuyên bố mất khả năng trả nợ nhiều nhất: 6 lần, danh hiệu mà không một người Ecuador nào có thể tự hào.
Tổng thống Ecuador cho biết ông muốn những nước nắm giữ trái phiếu của nước này chấp nhận thương lượng giảm mạnh nợ sau khi đất nước Nam Mỹ này tuyên bố mất khả năng trả nợ lần thứ 2 trong 1 thập kỷ.
Trong lần phát biểu trên một kênh truyền hình ngày thứ Bảy tuần qua (ngày 13/12), ông nói ông muốn những người nắm giữ trái phiếu sẽ có thiện chí giảm bớt nợ cho nước này. Ông vẫn nhắc lại rằng phần lớn trong số 3,9 tỷ USD tiền nợ là bất hợp pháp.
Ông phát biểu như sau:”Chúng tôi đang chuẩn bị cho kế hoạch tái cơ cấu nợ, số tiền sẽ được giảm đi rất nhiều. Chúng tôi sẽ đưa ra dự thảo thừa nhận một phần nhất định của các khoản nợ, chúng tôi nợ các bên số tiền thấp hơn rất nhiều so với họ tuyên bố.”
Ngày 13/12, ông đã từ chối trả một khoản lãi suất 30,6 triệu USD cho 510 triệu USD trái phiếu đáo hạn năm 2012 và có thời hạn chi trả lãi suất vào ngày hôm nay(ngày 15/12), hoàn thành "lời hứa" của mình trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2006.
Ecuador đang chuẩn bị thủ tục pháp lý cần thiết để ngăn tài sản của Ecuador ở nước ngoài tránh khỏi khả năng bị thâu tóm.
Bằng việc tuyên bố mất khả năng trả nợ, ông Correa, một đồng minh của tổng thống Venezuela đã hoàn thành cam kết ông đưa ra năm 2006 trong chiến dịch tranh cử của mình.
Tuyên bố của ông được đưa ra trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đi xuống, nhu cầu dầu giảm bớt trong khi dầu là sản phẩm xuất khẩu chủ lục của nước này. Ecuador đã tuyên bố mất khả năng trả nợ vào năm 1999 và nợ những bên nắm giữ trái phiếu khoảng 10 tỷ USD.
Theo ông Correa, khoản nợ trên đã được thanh toán vài lần:”Vào đầu thập niên 1980, chúng tôi nợ 4 tỷ USD, chúng tôi đã trả đến 7 tỷ USD trong suốt thập kỷ qua và hiện chúng tôi vẫn còn nợ 3,6 tỷ USD.
Tại sao Ecuador tuyên bố mất khả năng trả nợ trong khi tiềm lực tài chính vẫn còn đủ?
Tổng số nợ nước ngoài hiện tại của Ecuador tương đương với 21% GDP. Dự trữ ngoại tệ của nước này là 5.65 tỷ USD, thừa sức trả được cả vốn lẫn lãi của số trái phiếu vừa tuyên bố mất khả năng trả nợ. Tuy nhiên việc tuyên bố mất khả năng trả nợ, theo một số nhà phân tích, không hẳn chỉ để tổng thống Correa giữ lời hứa của mình với dân Ecuador.
Sau khi thắng cử năm 2006, Rafael Correa đã nhiều lần làm các nhà đầu tư nước ngoài "thót tim" và bán đổ bán tháo trái phiếu Ecuador vì những lời đe dọa sẽ mất khả năng trả nợ. Ông Correa, một đồng minh thân cận của Hugo Chavez, đã từng cắt đứt quan hệ với WorldBank, tuyên bố không trả nợ IMF, và đòi thương lượng lại các hợp đồng ăn chia với các hãng khai thác dầu khí nước ngoài. Tất cả những động thái này đã từng được cho là một "âm mưu" của chính Ecuador nhằm thao túng giá trái phiếu của chính mình để âm thầm mua lại với giá rẻ.  
Xem xét ví dụ sau: Công ty E bán trái phiếu với hạ giá 5% cho các nhà đầu tư. Sau đó chính E tung tin đồn E sắp phá sản làm các nhà đầu tư lo ngại bán tống bán tháo trái phiếu vừa mua, có thể với mức hạ 50%.  
E lẳng lặng cho người mua lại và như vậy kiếm được chênh lệch 45% mà chẳng mất gì cả.  
Theo số liệu của DTCC, đến thời điểm hiện tại số lượng CDS đó có giá trị ròng là $642m, nghĩa là Venezuela sẽ là người chịu thiệt hại nặng nhất khi Ecuador tuyên bố mất khả năng trả nợ. Tại sao ông Rafael Correa lại hành xử không đẹp với ông Hugo Chavez như vậy? Hay có liên quan ngầm nào giữa hai việc này.
Felix Salmon, một blogger kinh tế nổi tiếng, cũng cho rằng hành động vừa rồi của Ecuador là “ngu ngốc” (Ecuador's Idiotic Default) . Ngay khi trái phiếu thời hạn năm 2012 mất khả năng thanh toán, các loại trái phiếu khác của Ecuador cũng tự động mất khả năng thanh toán.  
Như vậy sẽ rất khó cho Ecuador có thể thương thảo tái cơ cấu lại số trái phiếu đó. Hiển nhiên các nhà đầu tư sẽ kiện Ecuador ra tòa, mà là tòa New York vì tất cả bonds của Ecuador đều phát hành ở New York và hợp đồng ký theo luật Mỹ.
Nếu vậy nhiều khả năng tòa sẽ ra lệnh phong tỏa toàn bộ tài sản của Ecuador ở nước ngoài, mà tình cờ cũng ở Mỹ là chính. Kể cả các khoản tiền thu được từ xuất khẩu cũng sẽ bị chặn lại.  
Bên cạnh đó Ecuador sẽ mất hết khả năng vay nợ nước ngoài, kể cả vay từ các tổ chức quốc tế như WB, IMF. Các nhà đầu tư tư nhân cũng không dại gì bỏ tiền đầu tư ở Ecuador mà sẽ rời sang các nước láng giềng. Ecuador sẽ được vào Guinness là quốc gia có số lần tuyên bố mất khả năng trả nợ nhiều nhất: 6 lần, danh hiệu mà không một người Ecuador nào có thể tự hào.
Felix Salmon cho rằng Ecuador sẽ phải rút lại tuyên bố mất khả năng trả nợ hoặc tìm cách thỏa thuận với các nhà đầu tư nước ngoài trước khi quá muộn.

Tổng thống của Ecuador là ai?
Ông R.Correa sinh ngày 6/4/1963 ở thành phố Guakin, năm 1987 ông tốt nghiệp ĐH Thiên chúa giáo Ecuador chuyên ngành kinh tế, năm 1991 đỗ Thạc sỹ Kinh tế ở Bỉ, năm 1999 lấy bằng Thạc sỹ kinh tế ĐH Illinois (Mỹ), 2 năm sau thì lấy thêm bằng Tiến sỹ ở đây.
Năm 1987, sau khi tốt nghiệp đại học, ông R.Correa đã đến vùng núi nơi cư trú của người da đỏ để dạy học và giúp thổ dân phát triển nông nghiệp. Năm 1988 ông quay về làm Trưởng phòng Tài vụ trường ĐH Thiên chúa giáo kiêm Chủ nhiệm Tài vụ Chương trình tài trợ giáo dục Ecuador của Ngân hàng phát triển châu Mỹ.
Từ 1993 đến 2005, ông lần lượt giữ các chức Giáo sư, Chủ nhiệm Khoa kinh tế, Chủ nhiệm Trung tâm nghiên cứu kinh tế - xã hội ĐH Saint Franco. Tháng 4/2005 ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Tài chính và Kinh tế, nhưng đến tháng 8 cùng năm thì bị bãi chức vì bất đồng quan điểm với chính phủ lúc đó.
Khi đắc cử, ông R.Correa được gọi là “gương mặt trẻ trên chính trường Mỹ Latinh”.
Được đào tạo tại Mỹ nhưng ông kiên quyết phản đối sự thao túng của Washington đối với đất nước mình. Ông cho rằng, quá trình “đô-la hóa” bắt đầu ở Ecuador từ năm 1999 là sai lầm, tuy chưa thể loại bỏ ngay được trong bốn năm tới. Ông cũng cho biết, ông muốn có mối quan hệ “tốt nhất có thể” với Mỹ.
R.Correa thông thạo tiếng Anh, tiếng Pháp. Ông đã kết hôn, có vợ và ba con, một trai, hai gái.
Ông R.Correa có quan hệ thân thiện với Tổng thống Venezuela H.Chavez.


Cũng có một cái gì đó rất gần, rất giống với " Chiến tranh tiền tệ" ....:
Ép một quốc gia vay nợ với lãi suất cao ngất , để rồi, muốn trả nợ hay nói đúng hơn là không để vỡ nợ, quốc gia đó phải đi vay thêm với lãi suất cao hơn .
Và đương nhiên, kẻ cho vay sẽ khéo léo dùng các mỹ từ : "vì tự do", " mang lại dân chủ ", "chống khủng bố" ,v.v.. để phá hoại kinh tế, kích động xung đột nội bộ ,v.v..nhằm  hạ bệ, lật đổ những lãnh đạo đối lập , dựng lên chính phủ mới chấp nhận vay tiền của chúng ....



Re:RẠNG ĐÔNG CỦA LÃNH ĐẠO MỚI

Đã gửi: Ba T12 16, 2008 10:58 am
Viết bởi nguyenhoangtue
Em vẫn dựa cột mà nghe mà . chỉ có điều buồn ngủ quá nên không đọc kĩ ,chỉ ghe qua mấy comment của các bác mà viết bài . Đọc comment của mấy bác thấy  hướng hiểu của mấy anh thế nào thì khua môi theo ý  của mình mà triển khai . he he he
Em mong các bác ko cần comment cho bài viết của em .  cứ coi như người qua đường đi , thêm bớt 1 2 từ thì  trái đất vẫn quay , bác Thuần cứ làm giáo sư bên Pháp , bác Obama thì cứ nói , sao mà anh Kami lại phản ứng  dữ vậy he he he


Không biết cái diễn đàn Đông Du bao giờ mới bớt đi những con sâu như thế này!

Cám ơn Tâm post những bài về chiến tranh tiền tệ , và những chủ trương từ trong Lịch sử của nước Mỹ. Lúc đầu Tâm có nói" không đồng ý với GS Cao Huy Thuần về luận điểm của Ông ta trong bài viết này". Nhưng qua nhũng bài post tiếp theo không biết có vô tình hay không đã minh chứng cho luận điểm trong bài viết của GS Cao Huy Thuần càng rõ ràng hơn trong chiến lược dùng người để ứng xử với từng nhu cầu thời đại của Nước Mỹ! Không cần phải nói Obama là ai nữa, nhưng cho đến lúc này Tổng Thống tương lai của Mỹ Quốc sẽ nhận được rất nhiều ủng hộ từ Phi Châu , và Á Châu, vậy thì Nuớc Mỹ có được lợi hay không???
[bounce][bounce]

Re:RẠNG ĐÔNG CỦA LÃNH ĐẠO MỚI

Đã gửi: Ba T12 16, 2008 1:03 pm
Viết bởi makelovedonotmakewar
Mấy bài của bác Tâm dài quá.Bác có thời gian làm ơn tóm gọn lại vài chục dòng nội dung chính để anh em học tập chứ thấy nguyên một tràng vậy, đọc đã mất thời gian và lại e không thấm.
Kính bút.

@Xuantruyen Anh có lập trường tôn trong sự khác biệt nhưng đọc qua những bài viết của em thì anh thấy rõ ràng em nên bớt nói,mà tập trung lo học hành đi. Nói hơi thẳng, kiến thức em còn nông cạn mà đã lo đi rêu rao, ban phát. Anh lạm nghĩ cũng có đôi chút khôi hài ở đây.
@Kami không nên phá không khí bàn luận bằng những comment hằn học, chẳng liên quan gì đến topic như vậy.