Đi du học - tôi học được gì?
Điều quan trọng nhất là tôi học được sự tự giác và lòng tự trọng của người trí thức.
“Đi du học cả năm nay, anh học được gì ngoài lĩnh vực chuyên môn? Có đáng phải đi du học không?”. Một câu hỏi chơi của bạn đã chạm đến một điều tôi suy nghĩ từ suốt bao nhiêu năm, khi còn ngồi ở ghế trường trung học và đại học ở Việt Nam. “Đi du học tôi học được nhiều lắm, tôi học được những thứ mà suốt 12 năm học phổ thông và mấy năm học đại học ở Việt Nam tôi không được học hoặc chỉ được học nửa vời”...
Thứ nhất, điều quan trọng nhất là tôi học được sự tự giác và lòng tự trọng của người trí thức. Khi làm bài kiểm tra, tôi không thấy giáo sư Mỹ phải đi “tuần tra” khắp lớp như ở Việt Nam (VN) để canh chừng nạn quay cóp. Các vị cứ ung dung ngồi đọc báo, hoặc làm việc riêng, vậy mà chẳng thấy sinh viên (SV) nào mở tài liệu ra xem, cũng chẳng thấy SV hỏi bài nhau.
SV nào không đến lớp làm kiểm tra được hôm đó, cứ xin phép, giáo sư sẽ “make up a test” (cho đề riêng) hôm khác. Nhiều SV khi làm đề thi riêng, đem ghế ra ngoài hành lang làm một mình, để khỏi bị bài giảng của giáo sư làm phân tâm. Tôi cố tình để ý những sinh viên này và cũng không thấy họ mở tài liệu ra. Những người xung quanh tự giác như thế, tôi cũng phải theo.
Trong khi đó, ở VN tôi bị xem là lập dị khi không quay cóp. Kỷ niệm buồn nhất của tôi về chuyện này xảy ra năm lớp 12. Các bạn tôi mở sách hướng dẫn giải bài tập ra chép trong lúc làm bài tập Anh văn nên được điểm 9-10. Tôi không chép, tự làm nên được 4, và kết quả là thầy mắng cho một trận vì “cả lớp làm được như thế, mà em làm không được là sao?”. Và đương nhiên khi ra chơi các bạn tôi có dịp cười rũ rượi về cái-thằng-lập-dị như tôi.
Ngày đầu tiên tôi bước vào giảng đường của Mỹ, bài học đầu tiên của tôi là đừng bao giờ chơi trò “plagiarism” (đạo văn). Nếu giáo sư của tôi phát hiện tôi đạo văn của ai đó, coi như tôi phải “goodbye” cái trường của tôi vĩnh viễn, đó là luật.
Các vị giáo sư ở bên này có trình độ thật, bằng cấp thật, nên có thể “ngửi được cái mùi… kém cỏi” của văn SV dễ dàng. Các vị đã đọc rất nhiều sách nên nắm rõ trường phái nào, ý tưởng nào của ai, ở sách nào… Do đó, khi nghi ngờ SV “thuổng” ý tưởng nào của ai đó, các vị có thể kiểm tra ngay.
Ngày nay, các vị giáo sư còn được nhiều phần mềm và website hỗ trợ cho việc này. Chỉ cần gõ lại câu văn bị nghi ngờ của SV vào ô tìm kiếm (giống như khi tìm kiếm trên google hay yahoo), lập tức kẻ đạo văn sẽ lộ mặt, nếu câu văn đó thật sự là đồ chôm chỉa. Vậy khi trích dẫn thì sao?
SV phải tận dụng tối đa thư viện, nhờ đó khả năng nghiên cứu độc lập được nâng lên.
Tránh trích dẫn nguyên văn, SV phải dùng ngôn từ của mình để diễn đạt lại điều muốn trích dẫn. Trong trường hợp phải trích dẫn nguyên văn, người trích dẫn phải để đoạn trích dẫn đó trong ngoặc kép. Nhưng dù trích nguyên văn hay không nguyên văn, người trích dẫn cũng phải ghi ngay xuất xứ của ý tưởng đó ngay sau câu trích dẫn.
Hiện nay ở Mỹ có 3 kiểu ghi xuất xứ, trích dẫn phổ biến: kiểu APA (của Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ phát minh), MLA (Hiệp hội ngôn ngữ học hiện đại Hoa Kỳ) và kiểu của trường ĐH Chicago. Mỗi kiểu được đúc kết trong một cuốn sách dày như cuốn tự điển, quy định rõ cách trích dẫn câu, ý, bảng biểu, sơ đồ… như thế nào và cách ghi chú...
Trong thời gian học dự bị, chỉ riêng việc học mấy kiểu trích dẫn này đã ngốn của chúng tôi 3 tuần. Ngay từ đầu học kỳ, các vị giáo sư đều ghi rõ trong chương trình học rằng SV phải theo kiểu trích dẫn APA, MLA hoặc Chicago tùy giáo sư. Các vị giáo sư nói rằng: “Việc trích dẫn không làm cho tiểu luận của SV trở nên vô giá trị, mà ngược lại vì tiểu luận đó có căn cứ, và người viết tiểu luận đó thể hiện rằng mình có học thật sự”.
Thứ hai, tôi học được khả năng tự quản lý, sắp xếp sự học của mình. Ngay từ đầu học kỳ, giáo sư sẽ phát cho SV một cái syllabus (tạm dịch là chương trình học). Trong syllabus, giáo sư ghi rõ môn đó là môn gì, môn đó dạy cái gì, ngày nào học cái gì, sv phải đọc sách nào, trang mấy; khi nào kiểm tra, nội dung ra sao… Căn cứ trên cái syllabus sinh viên cứ theo đó mà sắp xếp lịch học, vì vậy SV rất chủ động, thoải mái trong việc học của mình.
Tuần đầu tiên của học kỳ thường là tuần học thử. Trong tuần này SV sẽ đi học hết những môn mà mình muốn học. Sau đó, so sánh syllabus các môn với nhau SV quyết định sẽ chính thức học môn nào, bỏ môn nào. Cũng dựa vào cái syllabus SV sắp xếp chuyện đi làm thêm, học thêm, và lịch đi chơi giải trí cho cả học kỳ.
Thứ ba, tôi học được cách lý luận độc lập. Khoa học là vô biên, là sự phát triển không ngừng, nên không có học thuyết tuyệt đối. Do đó, SV được quyền chất vấn giáo sư, đặt vấn đề ngược lại, nếu cảm thấy nghi ngờ điều giáo sư vừa nói và thậm chí đặt vấn đề với cả những học thuyết. Giáo sư không bao giờ chửi SV là đồ ngu, mà khuyến khích hỏi tới nơi tới chốn.
Một giáo sư ngôn ngữ học của ĐH Santa Cruz nói: một nghiên cứu của ngành giáo dục Mỹ cho biết câu hỏi “tại sao” và “như thế nào” chiếm gần 80% trong các câu hỏi được nêu lên trong giảng đường Mỹ.
Ngay cả văn thơ, SV cũng không bị bắt buộc học thuộc lòng những tác phẩm, thay vào đó là chú trọng phần lý luận. Tác phẩm có sẵn trong sách, khi cần có thể mở ra xem, vậy tại sao phải học thuộc lòng? Vấn đề là sau khi xem tác phẩm SV có biết đưa ra ý kiến của mình hay không.
SV không buộc phải có ý kiến giống sách giáo khoa, vì khả năng cảm thụ của mỗi người mỗi khác, miễn là khi đưa ra nhận định SV có đủ lý luận để chứng minh cho nhận định của mình. Ở VN suốt 12 năm học, tôi phải ca ngợi các tác phẩm văn thơ mà tôi được học, bằng mọi mỹ từ tốt đẹp - dù có nhiều bài tôi chẳng hiểu mô tê gì.
Thứ tư, tôi học được cách nghiên cứu độc lập. Người viết bài này từng chứng kiến Rosa, một học sinh lớp 5 phải tự vào thư viện tìm tòi về địa lý thành phố Santa Cruz, nơi em đang ở, sau đó viết “report” (tường thuật chứ không chép lại những gì em tìm được trong thư viện). Đương nhiên cách làm này sẽ khiến em nhớ nhiều hơn là học và trả bài như con vẹt. Sau đó không lâu tôi có gặp lại Rosa, nhân lúc nói chuyện về thời tiết, em đã giải thích cho tôi tại sao khí hậu Santa Cruz được xem là “dễ chịu” nhất nước Mỹ.
Ở bậc học ĐH, các giáo sư cũng làm như thế, nên SV phải tận dụng tối đa thư viện, nhờ đó khả năng nghiên cứu độc lập được nâng lên. Người học có cảm giác, ông thầy chẳng dạy gì cho mình cả, suốt ngày ông chỉ bắt SV vào thư viện, đọc đọc, chép chép, rồi đến lớp thảo luận. Tuy vậy qua cách học đó, những kiến thức khi đã vào đầu thì không chạy ra được dù muốn tống nó ra. Ở VN thời gian “gạo” bài còn không đủ, lấy đâu ra thời gian vào thư viện; thế nên sau kỳ thi, dù tôi không yêu cầu nhưng những kiến thức đó vẫn tự động “trở về” với… thầy cô.
Thứ năm, tôi học được cách làm người lớn. Các giáo sư, văn phòng khoa, nhân viên của trường đối xử với SV như một người lớn thật sự. Họ biết tôn trọng, lắng nghe SV. Đi đến đâu cũng thấy những “nụ cười nở trên môi”, những lời “xin lỗi”, “cám ơn”, “xin vui lòng” từ những người đó. Khi SV đến làm việc với khoa, thư viện… SV không có cảm giác mình là một kẻ đi xin xỏ, nhờ vả. Trong khi ở VN tôi phải khúm núm như một con chuột, nhưng vẫn bị quát nạt.
Chuyện riêng tư của SV được tôn trọng tuyệt đối. Sau kỳ thi, mỗi SV nhận được một cái phong bì, trong đó là điểm số của mình và lời nhận xét của giáo viên. Không ai biết điểm của ai. Trường đối xử với tôi như thế, nên tôi không thể trả đũa bằng những cái trò phá phách, nghịch ngợm, cứng đầu theo kiểu trẻ con được.
Còn nhiều lắm bạn hiền ơi, nhưng thư đã dài, khi khác tôi sẽ kể tiếp. Chỉ mong sao SV ở trong nước cũng được học như thế…
Phan Sinh (Cali, khuya 04.05.2004)