Viết bởi phuongthe_ngoc » Năm T4 27, 2006 4:01 pm
Phải chăng vì mầu hoa đào thắm tươi, nồng nàn, quyến rũ; hay vì kiếp hoa đào mỏng manh bạc mệnh; hay vì vườn hoa đào đẹp một cách thanh thoát, thần tiên v.và đã khiến gây được nhiều mỹ cảm cho người đời, nhiều thi hứng cho các tao nhân mặc khách? Chẳng thế, trong kho tàng thi ca phong phú của Nhật Bản, của Trung Hoa cũng như của Việt Nam, đã không hiếm những áng thơ văn tuyệt mỹ, những trang tình sử diễm lệ có liên quan tới hoa đào. Nước Nhật, ai cũng biết, có một đường lối giáo dục nghiêm khắc, một quân đội hùng mạnh, can cường, từng đi chinh phục được nhiều dân tộc trên thế giới, vậy mà dân họ lại có một cái nhìn rất bi quan về kiếp người, khi đem cuộc đời ngắn ngủi của hoa đào ra so sánh, như hai câu thơ tiêu biểu dưới đây:
Anh đào nở ba ngày đã rụng
Khác chi người một kiếp phù du. Trong một bản dân ca Nhật Bản đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc và chế lời Việt, cũng mang một quan niệm yếm thế không kém:
Rượu nồng ta uống, uống, uống say một đêm ngất ngây
Thả hồn theo gió heo may, đến hôn hoa, những cánh hoa anh đào say
Nhạc nghe xa vắng những tiếng buồn, đường tơ héo hon, đường tơ héo hon
Chạy theo ánh sáng lung linh, ánh trăng thanh đến mơn man cuộc tình trinh.
Trời xuân man mác những mối sầu, tình theo gió mau
Cánh hoa tươi tốt không lâu, một đêm nào sẽ rớt mau về đời sau.
Rượu nồng ta uống choáng cõi đời để quên nắng phai, để quên nắng phai
Ðời người mỏng quá đi thôi, hỡi ai ơi hãy quên đi, rượu đầy vơi... Trong khi đó, người Trung Hoa và người Việt Nam lại có cái nhìn rất phong phú và yêu đời về hoa đào, về cây đào. Người Trung Hoa xưa ví nhân tài như cây đào, cây mận. Ðịch Nhân Kiệt làm tể tướng đời Ðường, thu dụng được nhiều nhân tài, nên có người bảo "Cây đào, cây lý trong nước ở cả cửa tướng công".
Nói về thi ca Trung Hoa, kinh Thi, tập thơ dân gian cỗ nhất của họ , do đức Khổng Tử san định khoảng giữa thế kỷ thứ sáu trước công nguyên, mục Chu Nam, thơ Ðào Yêu có câu :
Ðào chi yêu yêu
Chước chước kỳ hoa
Chi tử vu qui
Nghi kỳ thất gia. ...........
Nghĩa :
Mơn mởn đào tơ
Rực rỡ nở hoa
Cô nàng lấy chồng
Êm ấm cửa nhà. Ở đây, cây đào non đã được ví với người thiếu nữ trẻ trung đến tuổi dậy thì, tuổi lấy chồng.
Trong Tả Truyện, chương thập tứ niên, hoa đào lại được biểu hiệu cho người phụ nữ có nhan sắc diễm lệ.
Truyện kể, nàng Tức Vỉ, vợ Tức Hầu đời Xuân Thu, có sắc đẹp tuyệt trần. Sở Văn Vương mê nàng, tìm cách diệt Tức Hầu rồi đem nàng về phong làm Phu Nhân.
Tức Vỉ chẳng những có dáng hình tha thướt, yểu điệu mà đặc biệt hai má lúc nào cũng đỏ au như cánh hoa đào, vì thế, nàng được người đương thời tặng cho biệt danh "Ðào Hoa Phu Nhân".
Bài Ðào Nguyên ký của Ðào Tiềm cho hay, vào đời Tấn (245-419) có người thuyền chài ở Vũ Lăng, một hôm chèo thuyền đi ngược dòng suối, thấy có nhiều hoa đào trôi theo dòng nước đổ xuống, sau lạc vào nơi trồng cơ man là cây đào, ở đây người ta sống rất an vui hạnh phúc. Sau đó, chữ "động đào", hay "đào nguyên", hay "nguồn đào" được dùng chỉ nơi tiên ở.
Trong huyền thoại Trung Hoa có nói đến vườn đào của Tây Vương Mẫu nơi thiên giới. Nơi đây, hoa nở quanh năm, trái đủ bốn mùa. Ai được ăn trái đào tiên này sẽ trường sinh bất lão (truyện Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân cũng có nhắc tới).
Bởi vậy, ta thường thấy trong những bức tranh hay tượng Tam Ða (hình ba ông Phúc-Lộc- Thọ), ông Thọ bao giờ trên tay cũng cầm trái đào ; còn trong tranh Tết thì hình thằng bé mũm mĩm, dang tay ôm trái đào tiên khổng lồ vào lòng, là có ý chúc trường thọ.
Còn về chuyện ái tình thì không thể không nhắc tới giai thoại Hoa Ðào Thôi Hộ, vì hoa đào ở đây đã làm nền cho một câu chuyện tình lãng mạn nhất, trong văn chương thi phú Trung Hoa.
Thôi Hộ, một danh sĩ đời Ðường (618-907), nhân dự hội Ðạp Thanh, chàng lạc bước đến Ðào Hoa Thôn, rồi ghé vào Ðào Hoa Trang, gõ cổng xin nước giải khát. Một thiếu nữ ra mở cổng, rụt rè đưa nước cho chàng. Nàng rất đẹp, vẻ mặt e lệ, hai má đỏ hây như càng đỏ hơn dưới bóng cây hoa đào. Chàng cũng ngượng ngập, đỡ bát nước uống rồi vội vã từ giã ra về.
Nhớ người, nhớ cảnh, năm sau đến ngày hội xuân, Thôi Hộ háo hức trở lại Ðào Hoa Trang, nhưng nơi đây cửa đóng then cài, người xưa vắng bóng, chỉ có ngàn hoa đào vẫn rực rỡ đang mỉm cười trước gió đông. Quá xúc cảm, chàng đã phóng bút đề bài thơ tứ tuyệt trên cổng nhà nàng:
Khứ niên, kim nhật, thử môn trung
Nhân diện, đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Ðào hoa y cựu tiếu đông phong. Nghĩa :
Cửa này, năm ngoái, cũng hôm nay
Mặt ngọc hoa đào, ánh đỏ hây
Mặt ngọc đi đâu mà chẳng biết
Hoa đào năm ngoái vẫn cười tươi. Xế chiều, người thiếu nữ và thân phụ đi viếng chùa xa trở về, chợt nhìn thấy mấy câu thơ trên cổng, nét bút bay bướm, tình ý nồng nàn thì nàng đoán ngay của khách du xuân năm ngoái, lòng xiết bao cảm động. Từ đó, ngày ngày nàng có ý ngóng trông... Nhưng hết mùa hoa đào này đến mùa hoa đào khác trôi qua, ai kia vẫn bặt vô âm tín.
Hoàn toàn tuyệt vọng, người thiếu nữ sầu khổ, bỏ ăn quên ngủ, dung nhan mỗi ngày một tiều tụy võ vàng. Thân phụ nàng hết lòng tìm thầy cứu chữa, nhưng vô hiệu vì:
Nhược hữu lương y viên tuyệt mạng
Tùng lai vô dược liệu tương tư. Nghĩa :
Ví có thầy giỏi cứu được mạng sống con người
Nhưng chưa từng có thuốc chữa được bệnh tương tư. Rồi tới một mùa hoa đào sau đó vài năm, biết không thể sống nổi, người thiếu nữ thú thật tâm sự cùng cha già, và xin cha tha cho tội bất hiếu.
Nhìn con gái đang hấp hối trên giường bệnh, xót con nóng lòng, ông lão chạy vội xuống đường mong tìm cho ra người đề thơ trên cổng, đến nỗi đâm bổ vào một chàng văn nhân. Nhìn nét mặt lão hốt hoảng, nước mắt đầm đìa, chàng hỏi cớ sự, hiểu ra liền òa lên khóc và thú nhận mình chính là Thôi Hộ, kẻ đã đề thơ ngày trước. Ông lão mừng rỡ, cuống quít kéo chàng vào nhà thì cũng vừa lúc người thiếu nữ trút hơi thở cuối cùng.
Quá thương cảm, Thôi Hộ quì xuống bên giường, cầm lấy tay nàng, áp mặt vào mặt nàng, nức nở khóc. Kỳ lạ thay, nước mắt chàng Thôi vừa nhỏ xuống mặt người thiếu nữ thì nàng từ từ mở mắt, sống lại.
Sau đó, chuyện gì phải đến đã đến và thiên tình sử Hoa Ðào Thôi Hộ đã khép lại ở đây, nhưng dư âm của nó vang vọng mãi đến muôn đời sau.
Riêng ở nước ta, hoa đào đã đi vào lịch sử, ngôn ngữ hàng ngày và thi ca một cách đậm đà ý vị.
Về lịch sử, vào tết Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung sau khi đem đoàn quân tốc chiến từ Nam ra Bắc, đại phá được 20 vạn quân Thanh xâm lược, liền sai quân sĩ chọn lấy một cành bích đào đẹp nhất Thăng long, cho ngựa phi gấp mang vào Phú Xuân để tặng công chúa Ngọc Hân, thay cho thiếp báo tin mừng chiến thắng.
Trong ngôn ngữ hàng ngày thì - màu đào, dùng để tả màu hồng thắm hay đỏ tươi như : má đào, lụa đào, cờ đào, máu đào...
Qua thi ca, thành ngữ - "đào tơ mơn mởn" chỉ người thiếu nữ đang tuổi dậy thì, có vẻ đẹp tươi mát, đầy sức sống - "Liễu yếu đào tơ" chỉ người thiếu nữ có vẻ đẹp yểu điệu mảnh mai - "Số đào hoa" là số có duyên, được nhiều người khác phái ưa thích -Kiếp đào hoa cũng như Số hoa đào, nói như Nguyễn Du trong truyện Kiều : 'Chém cha cái số hoa đào/ Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi' (c.2151-2152) chỉ số phận hẩm hiu, bạc mệnh của kiếp gái giang hồ.
Tục ngữ: ‘ Một giọt máu đào, hơn ao nước lã’. Ý nói, bà con có chung một huyết thống, dầu xa nhưng còn hơn người dưng.
v.v...
Trong truyện cổ tích Từ Thức, động Bích Ðào ở xã Trị Nội, huyện Nga Sơn gần núi Thần Phù, là di tích một câu chuyện thần tiên. Tích xưa kể rằng, Từ Thức nguyên là Tri Huyện Tiên Du (Bắc Ninh), vào ngày hội hoa mẫu đơn tại ngôi chùa sở tại, chàng đã cởi áo khoác cầm cố, để giải cứu cho người thiếu nữ chót đánh gẫy cành hoa quý.
Ít lâu sau, Từ Thức treo ấn từ quan, ngày ngày ngao du sơn thủy. Một hôm chàng chèo thuyền ngoài cửa bể Thần Phù, ghé vào bờ núi đề thơ rồi lạc đến một động tiên, chàng được phu nhân Tiên Chủ gả con gái yêu là Giáng Hương cho, để đền cái ơn đã cứu nàng thuở nào.
Sống ở Ðào Nguyên tuy vui sướng nhởn nhơ nhưng Từ Thức không nguôi lòng nhớ cố hương, bèn xin trở về. Biết không thể lưu giữ được lâu hơn, phu nhân ban cho vân hạc đưa chàng về trần, còn Giáng Hương trước phút từ biệt, trao cho chàng một phong thư, dặn khi tới nhà hãy đọc.
Từ Thức về tới quê, xiết bao bỡ ngỡ vì cảnh cũ đã hoàn toàn thay đổi mà người xưa cũng không còn. Chàng hỏi thăm ông già bà cả trong xóm, có người cho biết, cụ tổ ba đời của ông ta tên là Từ Thức, đi vào núi không thấy về, nay đã trên 60 năm.
Quá bơ vơ, lạc lõng, chàng Từ Thức tính quay lại níu lấy cánh hạc để trở về tiên động, nhưng cánh hạc đã bay vút trời cao. Chàng mở thư vợ ra xem, mới hay ‘’ Tình duyên trần tiên đã đoạn, muốn tìm lại động xưa chẳng còn được nữa’’.
Sau đó ít lâu, Từ Thức đi vào núi Hoành Sơn ( gần Thanh Hóa), không thấy trở lại.
Thi sĩ Tản Ðà, giữa đầu thế kỷ XX, cảm hứng chuyện cũ, sáng tác nên bài từ khúc
Tống Biệt:
Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai
Suối tiễn, oanh đưa, những ngậm ngùi
Nửa năm tiên cảnh,
Một bước trần ai
Ước cũ, duyên thừa có thế thôi!
Ðá mòn, rêu nhạt
Nước chảy, huê trôi.
Cánh hạc bay lên vút tận trời
Trời đất từ nay xa cách mãi.
Cửa động đầu non, đường lối cũ
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi. Khác với bài hát Thiên Thai của Văn Cao, nhằm ca ngợi cảnh đẹp và hạnh phúc mà hai chàng Lưu Thần, Nguyễn Triệu trong truyện thần tiên Trung Hoa, được vui hưởng khi lạc tới Ðào Nguyên, đến quên cả đường về; sau hai chàng trở lại trần gian vẫn còn luyến tiếc mãi :
- Thiên Thai, chốn đây hoa xuân chưa gặp bướm trần gian
Có một mùa đào cùng ngày tháng chưa tàn phai một lần
.....
Ðào Nguyên trước, Lưu Nguyễn quên đường về
.....
Nay tìm Ðào Nguyên, Ðào Nguyên nơi nao?
Bài từ khúc của Tản Ðà lại hướng về quê hương hạ giới, cốt làm nổi bật hai khía cạnh trong đời sống tâm lý muôn thuở của thế nhân:
Con người ta sống ở nơi nào, dù được sung sướng đến đâu (như ở chốn thiên tiên) vẫn không thể quên được cố hương, và sẽ có ngày tìm về.
Trái lại, dù được sống ở quê hương, nhưng một khi người xưa, cảnh cũ không còn, tất cả đã hoàn toàn đổi thay, thì con người lại cảm thấy bơ vơ lạc lõng, ắt có ngày sẽ tính chuyện bỏ xứ ra đi.
Lại như trong thi ca bác học cổ điển của ta, vì chịu ảnh hưởng văn học Trung Hoa nên các mầu sắc, hình ảnh : mầu đào, hoa đào... thường được sử dụng để tả nhan sắc của người phụ nữ (có tính cách ước lệ). Song chắc chắn chưa một tác phẩm nào lại ca ngợi sức quyến rũ phi thường của đôi má đào người đàn bà, như trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, sáng tác cuối thế kỷ XVIII:
Áng đào kiểm đâm bông não chúng
Khóe thu ba dợn sóng khuynh thành.
Bóng gương lấp ló trong mành
Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa.
(c.15-18)
Má đào không thuốc mà say
Nước kia muốn đổ, thành này muốn long.
(c.167-168) Ðôi má đỏ au như trái đào của người cung phi ở đây không phải bùa mê thuốc ngải mà có sức hấp dẫn mê hồn, có khả năng làm say đắm lòng người, đến độ có nhiều vị trấn thành, trị quốc mê mệt, tới sao lãng cả công vụ, đưa đến tình trạng mất thành, mất nước như chơi.
Riêng Nguyễn Du, trong tác phẩm Ðoạn Trường Tân Thanh, viết hồi đầu thế kỷ XIX, thì cây đào được dùng làm bối cảnh cho cuộc tình của đôi tài tử giai nhân Kim Trọng - Thúy Kiều.
Sau buổi được tao ngộ cùng Thúy Kiều trong ngày hội Ðạp Thanh, Kim Trọng trở về, không lúc nào quên được nàng. Chàng say mê Kiều đến độ giả danh du học, thuê hiên Lãm Thúy, để mong có cơ hội gặp lại người tình trong mộng của mình.
Cây đào ở cuối vườn nhà Kiều, bên kia tường là hiên Lãm Thúy, Kim Trọng ngày ngày ghé mắt nhìn sang. Lần đầu tiên Kim thoáng nhìn thấy Kiều dưới tàn cây đào :
Cách tường phải buổi êm trời
Dưới đào dường có bóng người thướt tha. Khi Kim vừa chạy ra thì người con gái đã đi mất, nhưng Kim đã với được chiếc kim thoa của nàng, vướng trên một cành đào:
Lần theo tường gấm dạo quanh
Trên đào nhác thấy một cành kim thoa
Giơ tay với lấy về nhà. Nhờ đó, Kim Trọng đã được gặp lại Thúy Kiều.
Nhân một hôm cha mẹ và hai em vắng nhà, Kiều khẽ hắng giọng làm hiệu gọi Kim, cũng ở bên gốc cây đào này :
Dưới hoa sẽ dặng tiếng vàng
Cách hoa đã thấy có chàng đứng trông. Thì ra, Kim Trọng lúc nào cũng loanh quanh luẩn quẩn ở gần cây đào, để chờ Kiều. Như thế, cây đào đã gắn liền với những kỷ niệm về mối tình đầu giữa Kim và Kiều.
Sau nửa năm xa vắng (Kim phải về Liêu Dương thọ tang chú), Kim trở lại vườn Thúy, chàng thấy mọi vật đều đã đổi thay, riêng có cây đào năm xưa vẫn tưng bừng nở hoa như ngày nào, như muốn trêu ghẹo nỗi cô đơn của chàng.
Tâm trạng Kim Trọng lúc này chẳng khác nào Thôi Hộ khi trở lại Ðào Hoa Trang, không được gặp lại người thiếu nữ đã cho chàng bát nước giải khát, trong ngày hội xuân năm trước. Thế nên, Nguyễn Du đã mượn ý hai câu thơ cuối trong bài tứ tuyệt của Thôi Hộ, để tả cảnh ngộ và tâm trạng Kim Trọng:
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông. Có ai ngờ câu chuyện tình Hoa Ðào Thôi Hộ vẫn còn để lại dư âm đến tận ngày nay?
Vào mùa hoa đào năm 1991 tại Parc de Sceaux, nhìn thấy vườn đào rực rỡ với muôn ngàn đóa hoa đang lung linh trong nắng xuân hồng, chúng tôi lại nhớ đến khung cảnh thơ mộng trong cuộc tao ngộ giữa danh sĩ Thôi Hộ và người em gái Ðào Hoa Trang thuở nào, lòng bỗng dạt dào cảm xúc.
Thay vì thương cảm cho tình cảnh của chàng Thôi khi trở về chốn cũ, không được gặp lại người xưa, như Nguyễn Du trong truyện Kiều, hay hầu hết các vị nam nhân khác, mỗi khi nhắc đến câu chuyện tình thơ mộng này . Chị em phụ nữ chúng tôi lại thường xót xa cho cảnh ngộ của người em gái Ðào Hoa Trang, chỉ vì đôi lời thơ hoài cảm của ai kia mà mang lụy vào thân, đã bao tháng năm phải chờ đợi trong cô đơn, âm thầm, vô vọng... Nên đã sáng tác mấy vần thơ, thác lời người em gái Ðào Hoa Trang , gọi là chút giao cảm giữa người kim,cổ :
Trong vườn hoa đào rộ nở
Lung linh dưới nắng xuân tươi
Cô em má hồng ửng đỏ
Chợt chàng Thôi Hộ ghé chơi. Bốn câu thơ viết theo thể phú, mô tả cộc tao ngộ giữa danh sĩ Thôi Hộ và người em gái Ðào Hoa Trang.
Gặp nhau chỉ dám thoáng nhìn
Sông chờ, bến hẹn tưởng nghìn kiếp xưa.
Cổng ngoài có mỗi bài thơ
Hoa đào vẫn nở, người mơ chẳng về. Hai câu năm sáu, viết theo thể hứng; nhân cuộc gặp gỡ nẩy sinh tình yêu. Rồi dùng thể tỉ để diễn tả tâm tình người đẹp:
Nàng vừa gặp chàng là bị trúng ngay tiếng sét ái tình. Nàng yêu liền, và tưởng chừng hai người đã thương nhau, đã chờ đợi nhau từ nghìn kiếp trước ; nay bất ngờ được gặp, hẳn đôi bên sẽ không bao giờ còn lìa xa nữa.
‘Sông chờ’, ‘bến hẹn’ dùng phép tỉ, vừa nhân cách hóa, vừa mượn hình ảnh thơ để diễn tả tình cảm tha thiết đợi chờ của hai kẻ yêu nhau, hay ít ra cũng có trong tưởng tượng, trong mơ ước của nàng.
Hai câu kết, người em gái Ðào Hoa Trang lộ vẻ đau đớn, vừa tủi thương cho mình, vừa hờn trách đối tượng. Tưởng chàng yêu nàng tha thiết thế nào, ngờ đâu chỉ vẻn vẹn có một bài thơ, rồi bỏ đi chẳng một âm hao ; trong khi tình yêu của nàng dành cho chàng là cả một niềm thủy chung như nhất, chẳng khác nào những bông hoa đào hằng năm vẫn nở mỗi độ gió đông về (gió đông tức gió xuân, vì mùa xuân mới có gió từ phương đông thổi tới).
Ðể kết thúc bài Hoa Ðào Trong thi Ca, chúng ta có thể nói :
Hoa đào là một thực tại, nhưng thực tại đó hiện hữu như thế nào còn tùy thuộc nhiều yếu tố, nhất là môi trường nó xuất hiện và cảm quan của người tiếp nhận. Như hoa đào tả chốn Bồng Lai thì người ta cho nó có vẻ đẹp xinh tươi, nở chốn thiền môn thì có vẻ đẹp thanh tịnh, xuất hiện trước mắt những kẻ đang yêu thì có vẻ đẹp rực rỡ, nồng nàn... Như vậy đủ rõ, qua cái nhìn của mỗi cá nhân, hoa đào thực tại không còn là thực tại mà đã được chuyển hóa, có thể bị bi quan hóa, như cái nhìn của người Nhật ; nhưng thường được thi vị hóa gấp năm, gấp mười lần, riêng trong thi ca còn được thăng hoa gấp cả trăm lần, như bài thơ tứ tuyệt của Thôi Hộ, như bài hát Thiên Thai của Văn Cao v.và
Hoa đào quả là một ân sủng của Thượng Ðế ban cho loài người. Vườn đào quả là một Thiên Ðường mà chúng ta có thể tới, ngay trong cuộc sống hiện tại.
Cảnh đẹp tinh khiết, tươi thắm của hoa đào, vườn đào, chẳng những làm cho ta mát mắt, tâm trí thư giãn ; nó còn nuôi dưỡng tâm hồn trong sáng, tươi trẻ của chúng ta ; đặc biệt hơn nữa, nó đã và sẽ khơi nguồn thi hứng bất tận cho loài người. Trên văn đàn Việt Nam cũng như quốc tế , nhờ nó mà nẩy sinh thêm biết bao kỳ hoa, dị thảo.
(Pro.Pham Thi Nhung-France)
Phải chăng vì mầu hoa đào thắm tươi, nồng nàn, quyến rũ; hay vì kiếp hoa đào mỏng manh bạc mệnh; hay vì vườn hoa đào đẹp một cách thanh thoát, thần tiên v.và đã khiến gây được nhiều mỹ cảm cho người đời, nhiều thi hứng cho các tao nhân mặc khách? Chẳng thế, trong kho tàng thi ca phong phú của Nhật Bản, của Trung Hoa cũng như của Việt Nam, đã không hiếm những áng thơ văn tuyệt mỹ, những trang tình sử diễm lệ có liên quan tới hoa đào.
Nước Nhật, ai cũng biết, có một đường lối giáo dục nghiêm khắc, một quân đội hùng mạnh, can cường, từng đi chinh phục được nhiều dân tộc trên thế giới, vậy mà dân họ lại có một cái nhìn rất bi quan về kiếp người, khi đem cuộc đời ngắn ngủi của hoa đào ra so sánh, như hai câu thơ tiêu biểu dưới đây:
Anh đào nở ba ngày đã rụng
Khác chi người một kiếp phù du.
Trong một bản dân ca Nhật Bản đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc và chế lời Việt, cũng mang một quan niệm yếm thế không kém:
Rượu nồng ta uống, uống, uống say một đêm ngất ngây
Thả hồn theo gió heo may, đến hôn hoa, những cánh hoa anh đào say
Nhạc nghe xa vắng những tiếng buồn, đường tơ héo hon, đường tơ héo hon
Chạy theo ánh sáng lung linh, ánh trăng thanh đến mơn man cuộc tình trinh.
Trời xuân man mác những mối sầu, tình theo gió mau
Cánh hoa tươi tốt không lâu, một đêm nào sẽ rớt mau về đời sau.
Rượu nồng ta uống choáng cõi đời để quên nắng phai, để quên nắng phai
Ðời người mỏng quá đi thôi, hỡi ai ơi hãy quên đi, rượu đầy vơi...
Trong khi đó, người Trung Hoa và người Việt Nam lại có cái nhìn rất phong phú và yêu đời về hoa đào, về cây đào. Người Trung Hoa xưa ví nhân tài như cây đào, cây mận. Ðịch Nhân Kiệt làm tể tướng đời Ðường, thu dụng được nhiều nhân tài, nên có người bảo "Cây đào, cây lý trong nước ở cả cửa tướng công".
Nói về thi ca Trung Hoa, kinh Thi, tập thơ dân gian cỗ nhất của họ , do đức Khổng Tử san định khoảng giữa thế kỷ thứ sáu trước công nguyên, mục Chu Nam, thơ Ðào Yêu có câu :
Ðào chi yêu yêu
Chước chước kỳ hoa
Chi tử vu qui
Nghi kỳ thất gia.
...........
Nghĩa :
Mơn mởn đào tơ
Rực rỡ nở hoa
Cô nàng lấy chồng
Êm ấm cửa nhà.
Ở đây, cây đào non đã được ví với người thiếu nữ trẻ trung đến tuổi dậy thì, tuổi lấy chồng.
Trong Tả Truyện, chương thập tứ niên, hoa đào lại được biểu hiệu cho người phụ nữ có nhan sắc diễm lệ.
Truyện kể, nàng Tức Vỉ, vợ Tức Hầu đời Xuân Thu, có sắc đẹp tuyệt trần. Sở Văn Vương mê nàng, tìm cách diệt Tức Hầu rồi đem nàng về phong làm Phu Nhân.
Tức Vỉ chẳng những có dáng hình tha thướt, yểu điệu mà đặc biệt hai má lúc nào cũng đỏ au như cánh hoa đào, vì thế, nàng được người đương thời tặng cho biệt danh "Ðào Hoa Phu Nhân".
Bài Ðào Nguyên ký của Ðào Tiềm cho hay, vào đời Tấn (245-419) có người thuyền chài ở Vũ Lăng, một hôm chèo thuyền đi ngược dòng suối, thấy có nhiều hoa đào trôi theo dòng nước đổ xuống, sau lạc vào nơi trồng cơ man là cây đào, ở đây người ta sống rất an vui hạnh phúc. Sau đó, chữ "động đào", hay "đào nguyên", hay "nguồn đào" được dùng chỉ nơi tiên ở.
Trong huyền thoại Trung Hoa có nói đến vườn đào của Tây Vương Mẫu nơi thiên giới. Nơi đây, hoa nở quanh năm, trái đủ bốn mùa. Ai được ăn trái đào tiên này sẽ trường sinh bất lão (truyện Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân cũng có nhắc tới).
Bởi vậy, ta thường thấy trong những bức tranh hay tượng Tam Ða (hình ba ông Phúc-Lộc- Thọ), ông Thọ bao giờ trên tay cũng cầm trái đào ; còn trong tranh Tết thì hình thằng bé mũm mĩm, dang tay ôm trái đào tiên khổng lồ vào lòng, là có ý chúc trường thọ.
Còn về chuyện ái tình thì không thể không nhắc tới giai thoại Hoa Ðào Thôi Hộ, vì hoa đào ở đây đã làm nền cho một câu chuyện tình lãng mạn nhất, trong văn chương thi phú Trung Hoa.
Thôi Hộ, một danh sĩ đời Ðường (618-907), nhân dự hội Ðạp Thanh, chàng lạc bước đến Ðào Hoa Thôn, rồi ghé vào Ðào Hoa Trang, gõ cổng xin nước giải khát. Một thiếu nữ ra mở cổng, rụt rè đưa nước cho chàng. Nàng rất đẹp, vẻ mặt e lệ, hai má đỏ hây như càng đỏ hơn dưới bóng cây hoa đào. Chàng cũng ngượng ngập, đỡ bát nước uống rồi vội vã từ giã ra về.
Nhớ người, nhớ cảnh, năm sau đến ngày hội xuân, Thôi Hộ háo hức trở lại Ðào Hoa Trang, nhưng nơi đây cửa đóng then cài, người xưa vắng bóng, chỉ có ngàn hoa đào vẫn rực rỡ đang mỉm cười trước gió đông. Quá xúc cảm, chàng đã phóng bút đề bài thơ tứ tuyệt trên cổng nhà nàng:
Khứ niên, kim nhật, thử môn trung
Nhân diện, đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Ðào hoa y cựu tiếu đông phong.
Nghĩa :
Cửa này, năm ngoái, cũng hôm nay
Mặt ngọc hoa đào, ánh đỏ hây
Mặt ngọc đi đâu mà chẳng biết
Hoa đào năm ngoái vẫn cười tươi.
Xế chiều, người thiếu nữ và thân phụ đi viếng chùa xa trở về, chợt nhìn thấy mấy câu thơ trên cổng, nét bút bay bướm, tình ý nồng nàn thì nàng đoán ngay của khách du xuân năm ngoái, lòng xiết bao cảm động. Từ đó, ngày ngày nàng có ý ngóng trông... Nhưng hết mùa hoa đào này đến mùa hoa đào khác trôi qua, ai kia vẫn bặt vô âm tín.
Hoàn toàn tuyệt vọng, người thiếu nữ sầu khổ, bỏ ăn quên ngủ, dung nhan mỗi ngày một tiều tụy võ vàng. Thân phụ nàng hết lòng tìm thầy cứu chữa, nhưng vô hiệu vì:
Nhược hữu lương y viên tuyệt mạng
Tùng lai vô dược liệu tương tư.
Nghĩa :
Ví có thầy giỏi cứu được mạng sống con người
Nhưng chưa từng có thuốc chữa được bệnh tương tư.
Rồi tới một mùa hoa đào sau đó vài năm, biết không thể sống nổi, người thiếu nữ thú thật tâm sự cùng cha già, và xin cha tha cho tội bất hiếu.
Nhìn con gái đang hấp hối trên giường bệnh, xót con nóng lòng, ông lão chạy vội xuống đường mong tìm cho ra người đề thơ trên cổng, đến nỗi đâm bổ vào một chàng văn nhân. Nhìn nét mặt lão hốt hoảng, nước mắt đầm đìa, chàng hỏi cớ sự, hiểu ra liền òa lên khóc và thú nhận mình chính là Thôi Hộ, kẻ đã đề thơ ngày trước. Ông lão mừng rỡ, cuống quít kéo chàng vào nhà thì cũng vừa lúc người thiếu nữ trút hơi thở cuối cùng.
Quá thương cảm, Thôi Hộ quì xuống bên giường, cầm lấy tay nàng, áp mặt vào mặt nàng, nức nở khóc. Kỳ lạ thay, nước mắt chàng Thôi vừa nhỏ xuống mặt người thiếu nữ thì nàng từ từ mở mắt, sống lại.
Sau đó, chuyện gì phải đến đã đến và thiên tình sử Hoa Ðào Thôi Hộ đã khép lại ở đây, nhưng dư âm của nó vang vọng mãi đến muôn đời sau.
Riêng ở nước ta, hoa đào đã đi vào lịch sử, ngôn ngữ hàng ngày và thi ca một cách đậm đà ý vị.
Về lịch sử, vào tết Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung sau khi đem đoàn quân tốc chiến từ Nam ra Bắc, đại phá được 20 vạn quân Thanh xâm lược, liền sai quân sĩ chọn lấy một cành bích đào đẹp nhất Thăng long, cho ngựa phi gấp mang vào Phú Xuân để tặng công chúa Ngọc Hân, thay cho thiếp báo tin mừng chiến thắng.
Trong ngôn ngữ hàng ngày thì - màu đào, dùng để tả màu hồng thắm hay đỏ tươi như : má đào, lụa đào, cờ đào, máu đào...
Qua thi ca, thành ngữ - "đào tơ mơn mởn" chỉ người thiếu nữ đang tuổi dậy thì, có vẻ đẹp tươi mát, đầy sức sống - "Liễu yếu đào tơ" chỉ người thiếu nữ có vẻ đẹp yểu điệu mảnh mai - "Số đào hoa" là số có duyên, được nhiều người khác phái ưa thích -Kiếp đào hoa cũng như Số hoa đào, nói như Nguyễn Du trong truyện Kiều : 'Chém cha cái số hoa đào/ Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi' (c.2151-2152) chỉ số phận hẩm hiu, bạc mệnh của kiếp gái giang hồ.
Tục ngữ: ‘ Một giọt máu đào, hơn ao nước lã’. Ý nói, bà con có chung một huyết thống, dầu xa nhưng còn hơn người dưng.
v.v...
Trong truyện cổ tích Từ Thức, động Bích Ðào ở xã Trị Nội, huyện Nga Sơn gần núi Thần Phù, là di tích một câu chuyện thần tiên. Tích xưa kể rằng, Từ Thức nguyên là Tri Huyện Tiên Du (Bắc Ninh), vào ngày hội hoa mẫu đơn tại ngôi chùa sở tại, chàng đã cởi áo khoác cầm cố, để giải cứu cho người thiếu nữ chót đánh gẫy cành hoa quý.
Ít lâu sau, Từ Thức treo ấn từ quan, ngày ngày ngao du sơn thủy. Một hôm chàng chèo thuyền ngoài cửa bể Thần Phù, ghé vào bờ núi đề thơ rồi lạc đến một động tiên, chàng được phu nhân Tiên Chủ gả con gái yêu là Giáng Hương cho, để đền cái ơn đã cứu nàng thuở nào.
Sống ở Ðào Nguyên tuy vui sướng nhởn nhơ nhưng Từ Thức không nguôi lòng nhớ cố hương, bèn xin trở về. Biết không thể lưu giữ được lâu hơn, phu nhân ban cho vân hạc đưa chàng về trần, còn Giáng Hương trước phút từ biệt, trao cho chàng một phong thư, dặn khi tới nhà hãy đọc.
Từ Thức về tới quê, xiết bao bỡ ngỡ vì cảnh cũ đã hoàn toàn thay đổi mà người xưa cũng không còn. Chàng hỏi thăm ông già bà cả trong xóm, có người cho biết, cụ tổ ba đời của ông ta tên là Từ Thức, đi vào núi không thấy về, nay đã trên 60 năm.
Quá bơ vơ, lạc lõng, chàng Từ Thức tính quay lại níu lấy cánh hạc để trở về tiên động, nhưng cánh hạc đã bay vút trời cao. Chàng mở thư vợ ra xem, mới hay ‘’ Tình duyên trần tiên đã đoạn, muốn tìm lại động xưa chẳng còn được nữa’’.
Sau đó ít lâu, Từ Thức đi vào núi Hoành Sơn ( gần Thanh Hóa), không thấy trở lại.
Thi sĩ Tản Ðà, giữa đầu thế kỷ XX, cảm hứng chuyện cũ, sáng tác nên bài từ khúc
Tống Biệt:
Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai
Suối tiễn, oanh đưa, những ngậm ngùi
Nửa năm tiên cảnh,
Một bước trần ai
Ước cũ, duyên thừa có thế thôi!
Ðá mòn, rêu nhạt
Nước chảy, huê trôi.
Cánh hạc bay lên vút tận trời
Trời đất từ nay xa cách mãi.
Cửa động đầu non, đường lối cũ
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi.
Khác với bài hát Thiên Thai của Văn Cao, nhằm ca ngợi cảnh đẹp và hạnh phúc mà hai chàng Lưu Thần, Nguyễn Triệu trong truyện thần tiên Trung Hoa, được vui hưởng khi lạc tới Ðào Nguyên, đến quên cả đường về; sau hai chàng trở lại trần gian vẫn còn luyến tiếc mãi :
- Thiên Thai, chốn đây hoa xuân chưa gặp bướm trần gian
Có một mùa đào cùng ngày tháng chưa tàn phai một lần
.....
Ðào Nguyên trước, Lưu Nguyễn quên đường về
.....
Nay tìm Ðào Nguyên, Ðào Nguyên nơi nao?
Bài từ khúc của Tản Ðà lại hướng về quê hương hạ giới, cốt làm nổi bật hai khía cạnh trong đời sống tâm lý muôn thuở của thế nhân:
Con người ta sống ở nơi nào, dù được sung sướng đến đâu (như ở chốn thiên tiên) vẫn không thể quên được cố hương, và sẽ có ngày tìm về.
Trái lại, dù được sống ở quê hương, nhưng một khi người xưa, cảnh cũ không còn, tất cả đã hoàn toàn đổi thay, thì con người lại cảm thấy bơ vơ lạc lõng, ắt có ngày sẽ tính chuyện bỏ xứ ra đi.
Lại như trong thi ca bác học cổ điển của ta, vì chịu ảnh hưởng văn học Trung Hoa nên các mầu sắc, hình ảnh : mầu đào, hoa đào... thường được sử dụng để tả nhan sắc của người phụ nữ (có tính cách ước lệ). Song chắc chắn chưa một tác phẩm nào lại ca ngợi sức quyến rũ phi thường của đôi má đào người đàn bà, như trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, sáng tác cuối thế kỷ XVIII:
Áng đào kiểm đâm bông não chúng
Khóe thu ba dợn sóng khuynh thành.
Bóng gương lấp ló trong mành
Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa.
(c.15-18)
Má đào không thuốc mà say
Nước kia muốn đổ, thành này muốn long.
(c.167-168)
Ðôi má đỏ au như trái đào của người cung phi ở đây không phải bùa mê thuốc ngải mà có sức hấp dẫn mê hồn, có khả năng làm say đắm lòng người, đến độ có nhiều vị trấn thành, trị quốc mê mệt, tới sao lãng cả công vụ, đưa đến tình trạng mất thành, mất nước như chơi.
Riêng Nguyễn Du, trong tác phẩm Ðoạn Trường Tân Thanh, viết hồi đầu thế kỷ XIX, thì cây đào được dùng làm bối cảnh cho cuộc tình của đôi tài tử giai nhân Kim Trọng - Thúy Kiều.
Sau buổi được tao ngộ cùng Thúy Kiều trong ngày hội Ðạp Thanh, Kim Trọng trở về, không lúc nào quên được nàng. Chàng say mê Kiều đến độ giả danh du học, thuê hiên Lãm Thúy, để mong có cơ hội gặp lại người tình trong mộng của mình.
Cây đào ở cuối vườn nhà Kiều, bên kia tường là hiên Lãm Thúy, Kim Trọng ngày ngày ghé mắt nhìn sang. Lần đầu tiên Kim thoáng nhìn thấy Kiều dưới tàn cây đào :
Cách tường phải buổi êm trời
Dưới đào dường có bóng người thướt tha.
Khi Kim vừa chạy ra thì người con gái đã đi mất, nhưng Kim đã với được chiếc kim thoa của nàng, vướng trên một cành đào:
Lần theo tường gấm dạo quanh
Trên đào nhác thấy một cành kim thoa
Giơ tay với lấy về nhà.
Nhờ đó, Kim Trọng đã được gặp lại Thúy Kiều.
Nhân một hôm cha mẹ và hai em vắng nhà, Kiều khẽ hắng giọng làm hiệu gọi Kim, cũng ở bên gốc cây đào này :
Dưới hoa sẽ dặng tiếng vàng
Cách hoa đã thấy có chàng đứng trông.
Thì ra, Kim Trọng lúc nào cũng loanh quanh luẩn quẩn ở gần cây đào, để chờ Kiều. Như thế, cây đào đã gắn liền với những kỷ niệm về mối tình đầu giữa Kim và Kiều.
Sau nửa năm xa vắng (Kim phải về Liêu Dương thọ tang chú), Kim trở lại vườn Thúy, chàng thấy mọi vật đều đã đổi thay, riêng có cây đào năm xưa vẫn tưng bừng nở hoa như ngày nào, như muốn trêu ghẹo nỗi cô đơn của chàng.
Tâm trạng Kim Trọng lúc này chẳng khác nào Thôi Hộ khi trở lại Ðào Hoa Trang, không được gặp lại người thiếu nữ đã cho chàng bát nước giải khát, trong ngày hội xuân năm trước. Thế nên, Nguyễn Du đã mượn ý hai câu thơ cuối trong bài tứ tuyệt của Thôi Hộ, để tả cảnh ngộ và tâm trạng Kim Trọng:
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
Có ai ngờ câu chuyện tình Hoa Ðào Thôi Hộ vẫn còn để lại dư âm đến tận ngày nay?
Vào mùa hoa đào năm 1991 tại Parc de Sceaux, nhìn thấy vườn đào rực rỡ với muôn ngàn đóa hoa đang lung linh trong nắng xuân hồng, chúng tôi lại nhớ đến khung cảnh thơ mộng trong cuộc tao ngộ giữa danh sĩ Thôi Hộ và người em gái Ðào Hoa Trang thuở nào, lòng bỗng dạt dào cảm xúc.
Thay vì thương cảm cho tình cảnh của chàng Thôi khi trở về chốn cũ, không được gặp lại người xưa, như Nguyễn Du trong truyện Kiều, hay hầu hết các vị nam nhân khác, mỗi khi nhắc đến câu chuyện tình thơ mộng này . Chị em phụ nữ chúng tôi lại thường xót xa cho cảnh ngộ của người em gái Ðào Hoa Trang, chỉ vì đôi lời thơ hoài cảm của ai kia mà mang lụy vào thân, đã bao tháng năm phải chờ đợi trong cô đơn, âm thầm, vô vọng... Nên đã sáng tác mấy vần thơ, thác lời người em gái Ðào Hoa Trang , gọi là chút giao cảm giữa người kim,cổ :
Trong vườn hoa đào rộ nở
Lung linh dưới nắng xuân tươi
Cô em má hồng ửng đỏ
Chợt chàng Thôi Hộ ghé chơi.
Bốn câu thơ viết theo thể phú, mô tả cộc tao ngộ giữa danh sĩ Thôi Hộ và người em gái Ðào Hoa Trang.
Gặp nhau chỉ dám thoáng nhìn
Sông chờ, bến hẹn tưởng nghìn kiếp xưa.
Cổng ngoài có mỗi bài thơ
Hoa đào vẫn nở, người mơ chẳng về.
Hai câu năm sáu, viết theo thể hứng; nhân cuộc gặp gỡ nẩy sinh tình yêu. Rồi dùng thể tỉ để diễn tả tâm tình người đẹp:
Nàng vừa gặp chàng là bị trúng ngay tiếng sét ái tình. Nàng yêu liền, và tưởng chừng hai người đã thương nhau, đã chờ đợi nhau từ nghìn kiếp trước ; nay bất ngờ được gặp, hẳn đôi bên sẽ không bao giờ còn lìa xa nữa.
‘Sông chờ’, ‘bến hẹn’ dùng phép tỉ, vừa nhân cách hóa, vừa mượn hình ảnh thơ để diễn tả tình cảm tha thiết đợi chờ của hai kẻ yêu nhau, hay ít ra cũng có trong tưởng tượng, trong mơ ước của nàng.
Hai câu kết, người em gái Ðào Hoa Trang lộ vẻ đau đớn, vừa tủi thương cho mình, vừa hờn trách đối tượng. Tưởng chàng yêu nàng tha thiết thế nào, ngờ đâu chỉ vẻn vẹn có một bài thơ, rồi bỏ đi chẳng một âm hao ; trong khi tình yêu của nàng dành cho chàng là cả một niềm thủy chung như nhất, chẳng khác nào những bông hoa đào hằng năm vẫn nở mỗi độ gió đông về (gió đông tức gió xuân, vì mùa xuân mới có gió từ phương đông thổi tới).
Ðể kết thúc bài Hoa Ðào Trong thi Ca, chúng ta có thể nói :
Hoa đào là một thực tại, nhưng thực tại đó hiện hữu như thế nào còn tùy thuộc nhiều yếu tố, nhất là môi trường nó xuất hiện và cảm quan của người tiếp nhận. Như hoa đào tả chốn Bồng Lai thì người ta cho nó có vẻ đẹp xinh tươi, nở chốn thiền môn thì có vẻ đẹp thanh tịnh, xuất hiện trước mắt những kẻ đang yêu thì có vẻ đẹp rực rỡ, nồng nàn... Như vậy đủ rõ, qua cái nhìn của mỗi cá nhân, hoa đào thực tại không còn là thực tại mà đã được chuyển hóa, có thể bị bi quan hóa, như cái nhìn của người Nhật ; nhưng thường được thi vị hóa gấp năm, gấp mười lần, riêng trong thi ca còn được thăng hoa gấp cả trăm lần, như bài thơ tứ tuyệt của Thôi Hộ, như bài hát Thiên Thai của Văn Cao v.và
Hoa đào quả là một ân sủng của Thượng Ðế ban cho loài người. Vườn đào quả là một Thiên Ðường mà chúng ta có thể tới, ngay trong cuộc sống hiện tại.
Cảnh đẹp tinh khiết, tươi thắm của hoa đào, vườn đào, chẳng những làm cho ta mát mắt, tâm trí thư giãn ; nó còn nuôi dưỡng tâm hồn trong sáng, tươi trẻ của chúng ta ; đặc biệt hơn nữa, nó đã và sẽ khơi nguồn thi hứng bất tận cho loài người. Trên văn đàn Việt Nam cũng như quốc tế , nhờ nó mà nẩy sinh thêm biết bao kỳ hoa, dị thảo.
(Pro.Pham Thi Nhung-France)