làm thế nào để trở thành người nhật bản

Gửi bài trả lời

Mã xác nhận
Nhập vào đoạn mã xác nhận mà bạn thực sự nhìn thấy trong hình. Tất cả chữ cái đều được phân biệt với chữ số và không có số O.

Nếu bạn muốn đính kèm một hay nhiều tập tin trong bài viết, hãy sử dụng công cụ bên dưới.

Kích thước tệp tối đa cho mỗi tệp đính kèm: 1 MiB.

Xem toàn bộ Xem lại chủ đề: làm thế nào để trở thành người nhật bản

Re:làm thế nào để trở thành người nhật bản

Viết bởi longtaithien » Ba T1 29, 2008 4:47 pm


xin cho hỏi ,làm thế nào để trở thành người nhật bản ,mà không phải nhập quốc tịch nhật ,có thể gọi là nhật hoá toàn phần ,
mình rất thíc nhật bản
hồi âm cho mình theo địa chỉ :
ltrunghatt@gmail.com hay ltrungnhats@gmail.com
website :http://thannhatt.blog.com
điện thoại :073 937 079


Nói thật với bạn là chỉ có một cách duy nhất thôi. Mà cũng hơi khó. Mình không chắc lắm.
Trước hết bạn phải có niềm tin mãnh liệt vào thuyết luân hồi của đạo Phật.
Sau đó Chết đi mà đầu thai lại.

[lol][lol]

Re:làm thế nào để trở thành người nhật bản

Viết bởi yakusokusurune » Ba T1 29, 2008 2:49 am

lang thiet phong còn tiếp không,post lên anh em xem tiếp với.chờ tin vui[grin]

Re:làm thế nào để trở thành người nhật bản

Viết bởi Lang Thiet Phong » Tư T8 01, 2007 9:43 pm

Namnh quá khen.
Hoan hô bác Vương Trí Nhàn lặn lội mày mò cho chúng cháu (và cả các bác) một bài tổng hợp thú vị.
Sẽ có người phản đối rằng người nước nào mà chả có cái xấu, đó cũng chỉ là chuyện thường.Mà số đông mới là lực lượng tạo nên xã hội, nếu ngày nay cái xấu nhiều hơn  thì biết đâu sau này những cái quy chuẩn ấy được coi là tốt không biết chừng, nghe cũng "lao lúng" ra phết. Hôm nào cụ thể hoá xem anh em học sinh Đông Du nhà mình có những điểm xấu nào cũng hay hay nhể .Ai tán đồng ý tưởng này không ạh .
 [grin][grin][grin]

Re:làm thế nào để trở thành người nhật bản

Viết bởi namnh » Tư T8 01, 2007 8:43 pm

lâu lắm mới có những bài post có giá trị
tóm lại tinh thần của bài viết là mong muốn có sự đổi mới, về chất hơn là về lượng
đọc mà chột dạ (thấy mình trong đó)[lol][lol][lol]

Re:làm thế nào để trở thành người nhật bản

Viết bởi Lang Thiet Phong » Tư T8 01, 2007 7:55 pm

Típ một đoạn nữa nhé.Đọc từ từ cho ..đỡ đỏ mặt.Hè hè, các cụ nhà mình cũng thẳng thắn quá ha, thế mà cả trăm năm nay chưa thay đổi mấy, không bít trăm năm sau thì sao đây.


(tiếp)
Nhắm mắt bắt chước điều không hay của cổ nhân và ngại thay đổi
(Dương Dũ Thúc, báo Nông cổ mìn đàm, 1902)
Người nước chúng ta sự tính lợi hại xét hơn thua không rõ, cứ người sau thì làm theo những điều người trước hay làm. Bởi vậy cho nên cả nước giàu không đặng giàu nhiều, nghèo thì nghèo đến đỗi không áo không quần mà thay, rồi mỗi mỗi cứ đổ lỗi cho trời cho số, cho ngày sinh tháng đẻ. Cổ đạo (1) là những lẽ phải; có vua tôi, có cha con, có anh em, có vợ chồng, có bạn hữu; nếu người nay mà trái những điều đó mới mang tai(2). Chớ ví như đổi tục gian ra ngay, tục làm biếng ra siêng, đổi dối ra thiệt, tục nghịch ra thuận, tục ngu ra trí, tục hèn ra sang, tục dơ ra sạch, tục vụng ra khéo, tục trược(3) ra thanh, đổi như vậy thì là phải lắm. Xin hãy coi gương người dị quốc (4), hoặc phương Đông phương Tây, phương Nam cùng phương Bắc, người ta thường hay đổi hay sửa, ít bắc chước những điều tệ của người trước; bởi vậy nay người ta thanh lịch lắm. Nếu mà cứ theo tục sai không đổi thì quả là khờ và bị thiệt hại.
(1) đạo lý cổ truyền
(2) chịu những điều khốn khổ, có hại
(3) trược tức là trọc, có nghĩa là đục, không trong sạch
(4) người các nước khác

Trí túc và Hiếu cổ(Quốc dân độc bản – tài liệu do Đông Kinh Nghĩa Thục soạn, 1907)
Dân ta đại để bảo thủ mà không biết tiến thủ. Sở dĩ bảo thủ một là do trí túc, hai là do hiếu cổ (1). Thường thường cho rằng quê mùa chất phác là hay, lặng lẽ rút lui là cao thượng, không biết rằng như vậy là chỉ muốn ăn chơi lười biếng. Đó là tri túc làm trở ngại cho chí tiến thủ. Không biết rằng thế đạo (2) ngày một suy, mà lại than thở phong tục xưa không được phục hồi. Lòng hiếu cổ ấy trở ngại cho chí tiến thủ.
(1) Trí túc: biết thế nào là đủ; hiếu cổ; ưa thích những gì đã có từ xưa.
(2) đạo sống ở đời

Cái gì cũng đổ tại trời
(Quốc dân độc bản, 1907)
Thuyết mệnh trời làm cho dân ta bị trở ngại. Nước yếu không quy trách nhiệm cho chính sự tồi tệ, quốc dân bất tài, mà lại nói vận số không phải do người quyết định. Lụt lội hạn hán không trách cứ là không có kế hoạch tiêu nước kịp thời, không phòng ngừa đói kém mà lại nói thiên tai không phải do người gây nên. Dịch bệnh lan tràn thì nói con người sống chết có số, đề phòng cũng vô ích. Cùng làm một nghề, kẻ thành người bại, cũng lại nói họ gặp may, ta gặp rủi. Than ôi! sao lại có cách nói tự hại mình đến thế?

Dân khí bạc nhược
(Phan Chu Trinh – Thư gửi Chính phủ Pháp, 1906)
Nước Nam độ bốn mươi năm nay, vận nước ngày một suy, suốt từ trên đến dưới chỉ biết chuyện lười biếng vui chơi. Pháp chế luật không còn có cái gì ra trò, nhân tài cũng tiêu diệt đi mất cả. Người trên thì lâu lâu được thăng trật(1), chẳng qua như sống lâu lên lão làng; người dưới '74hì đem của mua quan , thật là tiền bạc phá lề luật. (...). Suốt cả thành thị cho đến hương thôn, đứa gian giảo thì như ma như quỷ, lừa gạt bóc lột, cái gì mà chẳng dám làm; đứa hèn yếu thì như lợn như bò, giẫm cổ đè đầu, cũng không dám ho he một tiếng.
(1) trật: cấp bậc phẩm hàm.

Pháp luật đơn sơ(Quốc dân độc bản, tài liệu của Đông Kinh nghĩa thục, 1907)
Dân trí càng mở mang thì pháp luật càng phải tinh tế. Luật lệ nước ta sơ sài hết sức. Những điều rõ ràng thì hoặc là phiền toái vô dụng, hoặc là khe khắt quá khó lòng giữ đúng (...) Những điều ta nói ta làm hàng ngày mà theo luật quy tội, thì sáng bị tội đồ, tội lưu, chiều bị tội phạt trượng. Đến những điều đáng phải theo cũng không thể theo được. Trên cũng như dưới đều mơ mơ màng màng, cơ hồ thành một nước không có pháp luật. Dân không giữ chữ tín, trong dân gian người ta làm khế ước với nhau, thường mực chưa khô đã bội ước. Quy tắc của trường học, kế hoạch của công sở phần lớn nằm trên giấy, treo lên cho vui mắt, đọc lên cho vui tai mà thôi. Trên dưới không tin nhau, mà mong giữ đúng pháp luật thì thật là khó thay! Đã không giữ được
thì thay đổi đi là hơn.

Làm ra vẻ yêu nước để mưu lợi riêng
(Phan Bội Châu - Cao đẳng quốc dân, 1928)
Chứng bệnh hay giả dối là chứng bệnh chung của người nước ta mà ở trong lại có một chứng đặc biệt là chứng ái quốc giả... Nào đám truy điệu, nào tiệc hoan nghênh, nào là kỷ niệm anh hùng, nào là sùng bái chí sĩ, chuông dồn trống giục, Nam hát Bắc hò, xem ở trong một đám lúc nhúc lao nhao, cũng đã có mấy phần người biết quyền nước đã mất thì tính mạng không còn, hồn nước có về thì giang sơn mới sống. Nếu những tấm lòng ái quốc đó mà thật thà chắc chắn thì giống Tiên Rồng chẳng hạnh phúc lắm sao? Nhưng tội tình thay, khốn khổ thay, người ưu thời mẫn thế chẳng bao nhiêu mà người rao danh thì đầy đường đầy ngõ. Giọt nước mắt khóc nước vẫn ngày đêm chan chứa mà xem cho kỹ thì rặt nước mắt gừng; tiếng chuông trống kêu hồn vẫn trong ngoài gióng giả mà nghe cho tới nơi thì rặt là chuông trò trống hội; ngoài miệng thì ái quốc mà trong bụng vẫn là kim khánh mề đay; trước mặt người thì ái quốc mà đến lúc đếm khuya thanh vắng thì tính toán những chuyện chó săn chim mồi. Cha ôi! Trời ơi! ái quốc gì, ái quốc thế ư? Đeo mặt
nạ ái quốc để phỉnh chúng lừa đời, một mặt thời mua chuốc lấy tiếng chí sĩ chân nhân, một mặt thì ôm chặt lấy lốt ông tham bà đốc.

Học đòi làm dáng một cách sống sượng
(Nguyễn Văn Vĩnh, Đăng cổ tùng báo, 1907)
Cứ chiều đến, độ sáu bảy giờ, đứng ở góc hồ Hoàn Kiểm, trông kẻ đi qua người đi lại, thấy ngứa mắt quá. Nhăng trông mấy ông ăn mặc quần áo Tây. Gớm, sao mà khéo bắt chước, giả sử sự học hành, sự buôn bán mà cũng bắt chước được khéo thế thì hay quá! Ông cổ cồn trắng, cổ nút xanh, nút đỏ, đầu thì mũ cỏ, tay thì ba toong, giày thì bóng nhoáng, hai ngón tay thì khéo gẩy gẩy cái nách áo gi-lê. Ông ngồi xe thực khéo lấy dáng. Ngày xưa cái ô lục soạn , cái điếu thuốc lá bọt. Nay những cái ấy đã cho là đồ cũ rồi. Cái xe Nhật Bản bây giờ cũng bỏ. Bây giờ có xe cao su, êm hơn mà ngồi ưỡn ra bệ vệ hơn nhiều. Tay cần quyển sách hay là cái nhật trình (1), mắt giả lờ trông thì lại ra tuồng (2) nữa. Em (3) thực là người hiếu sự duy tân. Cách ăn mặc An Nam đội cái khăn bằng cái rế, búi tóc như quả bưu , áo lướt tha lướt tư ướt, giày lẹp cà lẹp kẹp, móng tay gãi đầu như người rũ chiếu thì cũng bẩn lắm thực. Em cũng muốn rằng người An Nam ăn mặc cho gọn gàng sạch sẽ diện mạo tinh nhanh, nhưng mà thấy những trò sài sơn (4) của các ông cũng ngứa mắt lắm.
(1) báo ra hàng ngày
(2) trông có vẻ phường tuồng.
(3) Bài này ký tên Đào Thị Loan là một trong những bút hiệu của Nguyễn Văn Vĩnh. Bởi in trong mục
Nhời đàn bà, nên xưng "em”
(4) Ăn diện.

Cái hay của người không biết học
(Nguyễn Trọng Thuật - Điều đình cái án quốc học, Nam Phong, 1931)
Từ Lê Hồng Đức bắt đầu gieo cái mầm cẩu thả , rồi Mạc Trịnh lại càng tài bồi cho thành cái rừng cẩu thả. Cẩu thả nên toàn mô phỏng, mô phỏng thì không còn biết biến hóa nữa. Như người học vẽ tranh mà làm cách lồng phóng hay là can-ke thì thế nào cũng không đúng. Kỳ cạch mãi càng không đúng, bấy giờ khoanh tay lại lắc đầu lè lưỡi mà rằng "Bức vẽ mẫu là thiên tài trời đã định, mà mình là bất tài trời đã định"... Bấy giờ dẫu có ai hoán anh cho biết cũng không tin, có ai biệt sáng biệt lập (1) cái gì cũng không thèm ngó tới.
(1) sáng tạo.

Óc sùng ngoại lại quá nặng
(Nguyễn Trọng Thuật – Điều đình cái án quốc học, Nam Phong, 1931)
Anh thợ vẽ cầm lấy cái bút là vẽ ngay phong cảnh Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự; thày đồ tìm đến cái bút là tả ngay lịch sử Hán Cao Tổ Trương Lương Hàn Tín; anh phường tuồng ra trò là diễn ngay tấn Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi. Thổ sản thổ hóa mà hễ cái gì tồi thì cho một tiếng "nam” vào để giễu, như cái áo tơi gọi là áo cừu nam sột soạt, anh chàng dở người mà hay bàn thời thế họ gọi là Gia Cát nam. Cái gì tốt thì cho một tiếng "tàu" vào để khen, như măng khô gọi là măng tàu. Ấy cũng vì tư tưởng đã thiên di như thể, những nhà chế tạo nội hóa rất khốn khổ, đồ tốt không bán được phải thất nghiệt, mà những đồ thô bỉ tầm thường thì may còn ngoi ngóp sống để kiếm ăn với những người quê mùa nghèo khó.

Tính ỷ lại
(Phan Bội Châu - Cao đẳng quốc dân 1928)
Tục ngữ có câu rằng Tháp đổ đã có Ngô xây - Việc gì vợ góa lo ngày lo đêm. Tháp đó là tháp của ta, ta không xây được hay sao? Nghểnh đầu nghểnh cổ trông ngóng, nếu Ngô không sang thì vạn tuế thiên thu chắc không bao giờ có tháp. Tháp đổ mặc tháp, khoanh tay đứng dòm, nghiễm nhiên một đống bù nhìn rồi hẳn. Hỏi vì cơn cớ làm sao? Thì chỉ vì ỷ lại.
Câu tục ngữ ấy thật vẽ đúng tâm tình người nước ta. Nếu ai cũng lo gánh vác một phần trách nhiệm của mình thì có gánh gì không cất nổi. Nhưng tội tình thay, anh nào chị nào trong óc cũng chất đầy một khối ỷ lại. Anh Cột trông mong vào chú Kèo, cô Hường trông mong vào thím Lục, mà chú Kèo, thím Lục lại ỷ có anh Cột, cô Hường rồi. Rày lần mai lữa, kết cục không một người làm mà cũng không một người phụ trách nhiệm.

Quá tin ở những điều viển vông
(Phan Bội Châu – Cao đẳng quốc dân 1928)
Mê tín sinh ra những việc nực cười. Ngày giờ nào cũng là trời bày định mà bảo rằng có ngày dữ ngày lành; núi sông nào cũng là đất tự nhiên mà bảo rằng có đất tốt đất xấu; vì nấu ăn mới có bếp mà bảo rằng có ông thần táo; vì che mưa gió mà có nhà mà bảo rằng có ông thần nhà; cho đến thần cửa thần đường, thần cầu tài, thần cầu tử, trăm việc gì cũng trông mong vào thần; kết quả thần chẳng thấy đâu, chỉ thấy những cửa nát nhà tan, của mòn người hết, tin thần bao nhiêu thì tai họa bấy nhiêu...

Tư tưởng gia nô
(Phan Bội Châu - Cao đẳng quốc dân 1928)
Xem lịch sử nước ta tư xưa đến nay hơn ba nghìn năm, chỉ có gia nô mà không có quốc dân. Quyền vua có nặng, nặng không biết chừng nào; gia dĩ (1) quyền quan lại hứng đỡ quyền vua mà từng từng áp chế. Từ cửu phẩm kể lên cho đến nhất phẩm, chồng càng cao, ép càng nặng, đến dân là vô phẳng thân giá (2) lại còn gì. Thằng này là con ngựa thằng nọ là con trâu buộc cương vào thì cắm cổ cứ đi, gác ách vào thì cúi đầu cứ lủi . Gặp Đinh thì làm nô với Đinh, gặp Trần thì làm nô với Trần, gặp Lê Lý thì làm nô với Lê Lý.
Phận con hầu thằng ở, được đôi miếng cơm thừa, canh thải, đã lấy làm hớn hở vênh vang; tối năm (3) đứng đầu ruộng mới được bát cơm ăn, suốt đêm ngồi bên bàn khung cửi mới được tấm áo mặc, mà mở miệng ra thì “cơm vua áo chúa"; đồng điền này, sông núi nọ mồ hôi lẫn nước mắt cày cấy mở mang, nhưng mà “chân đạp đất vua", lại giữ chặt một hoạt kê vô lý (4). Cái tư tưởng gia nô! Cái trí thức gia nô! Bệnh gia truyền làm nô đó không biết tự bao giờ để lại, bắt ta phải gông đầu khoá miệng, xiềng tay xiềng chân, chịu gánh gia nô cho già đời mãn kiếp.
(1) thêm vào đó
(2) giá trị con người
(3) quanh năm
(4) đại ý: Tự mình làm ra mà lại bảo là do ơn người khác, thật là câu chuyện buồn cười

Cái tánh di truyền của dân tộc ta
X.T.T. (Tiếng Dân, số 179, ngày 15-05-1929)
Trong mục “Lật chồng báo cũ” chúng tôi sẽ lần lượt giới thiệu với độc giả trích đoạn các bình luận về đạo đức xã hội của các nhà văn hóa thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám 1945 trên các báo chí công khai.
Trước hết là một số bài của báo Tiếng Dân do nhà yêu nước Huỳnh Thúc Kháng làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Số 1 của báo ra ngày 10-08-1927. Sau khi ra số 1966 ngày 24-04-1943, báo Tiếng Dân đã bị nhà cầm quyền đình bản.
Tức như hiện trạng xã hội ta ngày nay, thử hỏi cái tánh di truyền từ thuở này ở đâu, thì không biết tìm vào đâu, mà nói đến cái xấu thì hiện trên thế giới đều lấy mình làm gương. Xin kể mấy điều về hình di truyền của người mình như sau này: Một là học để làm quan. Người sinh ở đời có học mới khôn, có khôn mới làm hết được bổn phận làm người. Làm quan chẳng qua là một việc trong sự làm người đó mà thôi. Thế mà người mình có cái tánh di truyền "đi học cốt để làm quan !" vì cái tánh đó, cha truyền con nối, trước bày nay làm, dầu cho ngày nay phép học, phép thi đổi ra cách mới, càng chiến thương chiến, giặc tới bên chân, mà người đi học trong nước vẫn ôm lấy cái hy vọng "làm quan" là chú chốt. Hai là, làm quan ăn lót. Người mình mà có cái hy vọng làm quan không phải vì ra mà kinh bang tế thế đặng ăn lộc nước mà thôi đâu, cốt là mượn cái địa vị thế lực mà làm cái lợi riêng nữa, vì thế nên làm quan mà ăn của dân, cho là cái quyền lợi tự nhiên mình được hướng, tập dữ tánh thành, không ai cho là điều quái lạ hổ thẹn nữa. Ba là, a dua người quyền quý. Theo thời đại chuyên chế, ông quân chú là thần thánh
bất khá xâm phạm, lần lần rồi đến những chân tay đầy tớ của ông cũng không ai dám động đến. Ngu dốt mà cũng xưng là thông minh, bạo ngược mà cũng tán răng nhân đức. Dầu cho ké nào có dựa được một chút quyền vị nọ mà đứng vào cái địa vị, dân cũng không dám nói đến. Tham nhũng đến đâu mà cũng phô rằng thanh liêm, hèn mạt đến đâu mà cũng tôn làm tài đức. (Thử xem mấy bài tấu, sớ, biểu, chương của đám quan trường, cùng những đơn nguyện lưu các phú huyện, thì gần như trong đời không có ông hôn quân cùng kẻ tham lại nào, mà thuần là thần thánh tài năng cả). Vì cái tánh đó di truyền đã lâu, cho nên bất kỳ việc gì, người ra thế nào, đã là quyền quý thì cứ nhắm mắt tán dương. Thói này thì ngày nay lại thịnh hơn ngày xưa" vì không cần phải vua quan mà thôi, xem những tiếng "vạn tuế" cao xướng hàng ngày thì đủ biết! Bốn là, trọng xác thịt. Vì trọng xác thịt, nên ngoài sự án sung mặc sướng, ở yên ra, gần như không có tưởng gì nữa, tự mình đã thế mà đối với kể khác cũng lấy cái mục đích đó mà xem xét, nghĩa là không hỏi nhân cách thế nào, mà chỉ thấy ăn mặc xa hoa, lầu cao nhà lớn thì sinh lòng hâm mộ muốn bắt chước theo, dầu có hại nòi nát giống, mắng mẹ đạp cha, mà đạt được mục đích thì cũng không từ. Những điều như thế kể ra không xiết, nếu những điều xấu cũ cứ một mực thịnh hành, mà không có cái gì ngăn ngừa, lại thêm cái văn minh xu xác thế lực kim tiền noi theo mà thối giục lên nữa, thôi thì lửa nọ được dầu, sóng kia thuận gió, không những quét sạch bao nhiêu tánh di truyền tốt của ông bà ngày trước, mà còn có thể cuốn cả hai mươi triệu đồng bào ta xoay vào cái rốn biển trầm luân mà không sao
ngóc đầu dậy được Ai mà nói rằng cải lương, xưng rằng tiến bộ, xin trước nhất bắt đầu từ chỗ cái tánh di truyền của ta mà phù thực điều tốt bỏ hẳn điều xấu rồi mới nói đến chuyện khác.

Tùy tiện, cẩu thả trong giao lưu, tiếp xúc
(Phan Chu Trinh, nước Việt Nam mới sau khi Pháp Việt liên hiệp, 1912)
“Xét nước ta đời thụ phong Trung Quốc chỉ là chính sách ngoại giao cho nên coi là trò chơi, không coi là vẻ '76ang. Kẻ lấy Trung Quốc làm ỷ lại, ắt là vào thời cuối(1): vua nhác, tôi nịnh, binh bị không sửa sang, coi họ như cha mà quên điều nanh ác. Thời cuối các đời Trần, Lê đều có, mà triều ta(2) lại càng nhiều. Sứ thần ngày xưa làm nhục được người Trung Quốc coi như vinh dự. Những kẻ đi việc sứ đời sau lấy việc được một bài thơ, bài văn, một lời than , tiếng cười của sĩ phu Trung Quốc trở về để khoe khoang với bạn bè làm vẻ vang. Mặt này lại là một điều suy sút của sĩ phu
nước ta.
(1) tức giai đoạn suy tàn của một triều đại.
(2) triều ta đây tức là nhà Nguyễn.

 
(Vuong Tri nhan)                      
[lol][lol][lol]

(còn tiếp)

Re:làm thế nào để trở thành người nhật bản

Viết bởi namnh » Tư T8 01, 2007 5:32 pm

cái này hay à nghen, pác Teppu kiếm đâu ra vậy?
đáng đọc để ngẫm nghĩ

Re:làm thế nào để trở thành người nhật bản

Viết bởi Lang Thiet Phong » Tư T8 01, 2007 1:42 pm

Nam-mô-...a-dzi-đát ....Không dám ,không dám.
Iem vẫn còn đang lông bông, chưa ngộ đạo, chắc chỉ xin nhận là Thích Mĩ Nhân, hay Thích Linh Tinh thôi bác ạh.
Cái bài này công nhận hay. Các cụ nhà mình viết ra cách đây cả trăm năm mà thấy vẫn đúng đáo để.Cứ tưởng gần đây người Việt mới nảy sinh những thói hư tật xấu, ai dè cũng có lâu lâu rồi đấy nhỉ.
Để pà con cô bác đọc cho trôi trôi rồi em xin gửi tiếp.Bài này khá dài ạh. Đọc một phát hết ngay không thú.

[lol][lol][lol]

Re:làm thế nào để trở thành người nhật bản

Viết bởi nguyenhoangtue » Tư T8 01, 2007 1:08 pm

Chiến ơi post lên đi! hê nhưng mà Chiến có thích chữ Thích không?
Chữ này hay hay lắm! Anh nghĩ Chú trở thành Thích Thiết Phong hợp hơn là Lãng Thiết Phong đó!
Thân mến! Post tiếp nha![grin][grin][grin]

Re:làm thế nào để trở thành người nhật bản

Viết bởi Lang Thiet Phong » Tư T8 01, 2007 12:34 pm


Chờ mà đọc Người Việt xấu xí gì đó của Vương Trí Nhàn! Đang chờ đây!


Tặng Mr チック ゲン テー một đoạn này.

Vương Trí Nhàn
Báo Thể thao & Văn hóa

Gần đây nhiều nhà nghiên cứu nước ta gặp nhau ở một ý tưởng đồng thời với việc ca ngợi những truyền thống tốt đẹp, chúng ta phải sớm bắt tay vào việc miêu tả và đánh giá những thói hư tật xấu từng hình thành trong lịch sử và đã ăn sâu trong mỗi con người, đó là những nhân tố khiến xã hội trì trệ, bảo thủ. Đây là một hướng suy nghĩ đúng, đang được sự cổ vũ và đồng tình của dư luận.
Sau đây, chúng tôi xin được phép giở chồng sách báo cũ, ghi lại những nhận xét của các bậc tiền bối về những hạn chế của con người Việt Nam trong lịch sử. Các đầu đề 'nhỏ là do chúng tôi mạn phép đặt ra để cùng nên theo dõi.
Khi đoạn trích bỏ qua một số câu chữ không cần thiết mà tập trung vào ý tưởng chính chúng tôi dùng dấu ba chấm đặt trong ngoặc đơn. Những chú thích cuối bài đều là của người biên soạn...

Đường xá nhà cửa luộm thuộm nhếch nhác
Nói riêng về một sự ở... Nay trong kinh thành, con đường lục bộ cho đến đường các nha thự, chợ quán, tường hào, vườn hoa và các bến sông, chỗ nào cũng có uế khí, thậm chí có kẻ trước mặt công chúng mà đi tiểu đại. Các cầu dọc theo sông, không luận ngây đêm đàn ông đàn bà, cứ ra nơi ấy mà phóng uế, quen lấy làm thường... Ở phương Tây, phàm những người nào bỏ rác làm nhơ đường đều bị phạt cả vì việc ấy bất nhã mà có mối hại chung. Ta cũng là người như họ, lại không biết xấu hổ sao?
Đến như gạch vỡ, ngói hư, cây nhành khô lá rụng, rác và tro than các nhà loại ra, người nước khác đều thu nhặt làm đồ vật hữu dụng. Mà người mình thì vứt ra cùng đường, ném xuống ao vũng, hoặc đổ ra ngoài hào quanh thành, chất đầy cả bến sông.
...Dinh thự các quan, tường vách xiêu đổ Ngoài đường thì bùn lầy, vườn tược thì rác bấn, trước sân thì cỏ mọc. Ngoài hào thì nơi lồi nơi hủng , các nhà trong thành hai bên đường gần nhà chỉ theo giới hạn mà quét dọn. Những đường bèn vách tường đó, mùi hơi hôi thối, người đi qua phải che mũi đi mau. Như thế thì lòng tu ố(1) ở đâu? Sao gọi là nước biết giữ lễ nghĩa?

Nói năng thô tục
Nước ta những nơi chợ búa thành phố, không luận đàn bà trẻ con, đến người có học biết chữ mà cũng mở miệng là nói lời thô bỉ. Tập thành thói quen, những tiếng tục tĩu , người nghe nhơ cả lỗ tai, mà người nói lại lấy làm khoái. Cho đến câu mắng bài chửi, đọc ra có cung có điệu, người nào mắng chửi cả ngày mà không trùng lặp, thì người ta xem như Tô Tấn, Trương Nghi (2) chiếm giải quán quân.
Đến lúc diễn ra cái bộ dạng mắng chửi, tiếng như mõ rao, chân như múa hát lên tay xuống ngón , mặt như sơn đổ, tóc như tơ vò,nước miếng như bọt giải, tay cầm dát lia, chân đi cà xiểng, không khác gì người điên. Lại còn một điều xấu nữa, hễ có bất bình với ai thì phát thệ(3) và nguyện rủa chúc dữ(4) rất nặng. Thường hàng ngày cùng giao du với nhau , mà đến lúc bô nhau , chất chứa điều bất bình lâu, thì khí yêu(5) nhân đó mà sinh ra, người nọ bảo người kia "đầy miệng điều láo,'một ngày bán được ba gánh giả, đến đâu cũng dối, ba ngày không mua được một điều thực". Thật là không còn chút lễ nghĩa liêm sỉ nào! Cái phong tục kiêu bạc(6) đến thế là cùng. Thế giới chưa có nước nào như xứ mình.

(1) tu ố: ghét điều xấu ở kẻ khác.
(2) các nhà thuyết khách nổi tiếng đời Chiến quốc bên Trung quốc
(3) phát thệ: thế bồi
(4) chúc: khấn. Chúc dữ: ước cho mắc sự dữ
(4) tinh thần gian tà bất chính
(5) cũng tức là kịnh bạc vớ nghĩa cổ" kẻ không biết tự trọng
(Nguyễn Trường Tộ (1828-1871 )Về việc cải cách phong tục, 1871).

Dễ học cái dở hơn cái hay
(Lương Dũ Thúc, Nông cổ mín đàm, 1904)
Người bổn quốc chúng ta lúc này cũng đã có nhiều người thành thị lịch lãm về sự dinh dãy (1), cách ở ăn sạch sẽ, về lệ luật phép tắc thông thạo nhiều; tôi chỉ không hiểu cho rõ làm sao mà thông thái mau hết mức về việc xa xỉ, về lý tự bạo (2), mà không thông thái về cách tính toán, về phép thương cổ (3); không có thấy bày ra hãng buôn nào cho lớn làm nghề nào cho to; vụ lợi (4) thì không làm, còn vụ hại thì thích lắm. Trong năm mười năm tới nữa mà cứ không buôn lớn và không học nghề chi cho giới, thì kẻ nghèo khó còn thặng (5) trên số ngàn nữa.
(1) chỉ lối sống sang trọng
(2) chỉ tham vọng muốn trở nên ông kia bà nọ.
(3) buôn bán.
(4) việc sinh lợi
(5) dư ra

Xấu làm tốt dốt làm thông (Ngô Đức Kế, tạp chí Hữu Thanh, 1923)
Chúng ta thừa thụ cái cơ nghiệp của tiền nhân, sinh nở phồn thực ở đất nước này đã mấy nghìn năm đến nay lại gặp lúc ngọn triều tiến hoá tràn khắp mọi nơi, thế mà không làm sao bước tới theo người. Mà chỉ mê mẩn tối tăm, ngu hèn dốt nát đói nghèo khốn khổ, không dám ló đầu ra với mọi người. Nhất ghét là xấu làm tốt dốt làm thông, mượn cái văn minh của người mà trang sức bề ngoài, kỳ thực trăm việc chẳng ra gì, mà nhân cách một ngày một hư, phong tục một ngày một nát; ngọc vàng bề mặt, thối nát bề trong, văn minh chẳng thấy đâu mà càng ngày càng thêm man rợ.
Nghĩ thấy Tổ quốc mình như thế, thôi thì không có việc mà bàn không có chuyện mà chép, mà cũng không bàn làm gì không chép làm gì.

Bắt chước vội vã thêm gây hại (Trần Trọng Kim, Nho giáo, 1930)
Tính bắt chước vốn là tính tự nhiên của loài người, dẫu ở nước nào cũng thế cả. Nhưng giá ta có sẵn cái tinh thần tốt rồi chỉ bắt chước lấy những điều có bổ ích thêm cho tinh thần ấy thì thật là hay lắm. Chỉ hiềm vì mình để cái tinh thần của mình hư hỏng đi, mà lại mong bắt chước sự hành động của người ta thì sự bắt chước ấy lại làm cho mình dở hơn nữa. Vì đã gọi bắt chước là chỉ bắt chước được cái hình hài bề ngoài mà thôi còn cái tinh thần ở trong, phi (1) lâu ngày nhiễm (2) lấy được mà hóa (3) đi, thì khó lòng mà bắt chước được. Thành thử bao nhiêu những sự bắt chước chỉ là làm loạn cả tính tình tư tưởng và phong tục của mình. Có lắm người vọng tưởng (4) rằng mình cố bắt chước được người ngoài là mình làm điều có ích cho sự tiến hóa của nòi giống. Không ngờ rằng sự bắt chước vội vàng quá lại thành cái độc gây
ra các thứ bệnh cho xã hội. Mà sự lầm lỗi ấy chỉ một ngày một thêm ra chứ không bớt đi được.
(1) không phải.
(2) thâm nhập.
(3) thay đổi. Từ điển Hán Việt của Thiều Chửu ghi: phàm vật này mất đi mà vật kia sinh ra gọi là hoá.
(4) vọng tưởng: nghĩ lầm

Ích kỷ và khôn vặt (Nguyễn Đỗ Mục, Đông dương tạp chí, 1914)
Cái tật ích kỷ vốn là một thứ hay lây: Trông thấy những vườn hoa cây cảnh ở sân nhà trường hay ở nơi đền chùa, hoặc cạnh đường đi lối lại, đã không biết giữ gìn để làm một cái cảnh vườn chung thì chớ, nhiều người lại còn đang tay bẻ tàn bẻ hại, để đem về nhà mà chơi thích chí lấy một mình. Cái chứng ích kỷ đã mọc ra, đến lúc lớn lên thành ra một người đi đến đâu phá hủy đến đấy. Cũng vì lẽ đó mà dân An Nam không mấy khi có được cảnh vui chung (1), ai có muốn chơi cảnh thì lại phải xây một vài cái bể cạn hay là bầy mươi lăm cái chậu con để làm một khu vui riêng mà không chung chạ với ai cả. Dần dần nảy ra một cái tư tưởng đáng cười, đáng khinh, đáng ghét, đáng sợ là hai chữ ích kỷ, mà một câu "ăn cỗ đi trước lội nước đi sau" đủ vẽ hết được ruột gan.
(1) tức là không có các loại công viên hoặc khu giải trí công cộng

Vụng nói chuyện (Nguyễn Văn Vĩnh, Đông dương tạp chí, 1914)
Ai có ý đến những nơi họp tập, hoặc là chỗ chơi bời thì thực là buồn thay cho cái trí dục của những người đời nay. Ngoại giả chuyện cô đầu, chuyện cờ bạc, chuyện hát tuồng, chuyện chim chuột, chuyện quần áo còn thì không mấy khi được nghe những câu chuyện lý thú, làm tỏ được học vấn kẻ nói, lợi được trí khôn người nghe. Mà xem như trong cách nói chuyện, thì thiếu niên (1) ta nghe lại có ý thích những câu chuyện tầm thường, nói chuyện để mà khoe cho người nọ người kia biết cát cách của ta chơi xa xỉ hoặc là kỳ khu... Ai ăn nói có tư tưởng, có tỏ học vấn thì thường người nghe thích nhưng ít cầu, vì câu chuyện có nghĩa, làm cho phải nghĩ, phải đối đáp nhọc mệt... Người nói chuyện hay, cũng có kẻ phục là người có ích, nhưng trong cái phục có cái ghen cô cát ghét. Ghen là vì ở đâu đến cướp mất tai kẻ nghe, ghét là
vì ở đâu đến làm tỏ cái nhàm của câu cười cợt tầm thường người ta đang thú.
(1) Hồi đầu thế kỷ XX, chữ thiếu niên không phải dùng để chỉ lớp thiếu nhi từ l0 đến 14 tuổi như bây giờ. Mà có nghĩa là người trẻ tuổi, tức lớp thanh niên 18 tuổi trở lên.

Học để kiếm gạo (Phan Bội Châu, Lời hỏi các bạn thanh niên, 1928)
Đi học để kiểm gạo (1), tệ hại lớn lắm. Vì cốt kiểm gạo thời cái mục đích đã dở hoặc nhân vì mục đích đó mà sinh ra hay giả dối, hay tham lợi riêng, cốt được gạo thời thôi, đạo đức mà chi, hợp quần mà chi, ái quốc mà chi, trăm việc hỏng trớt. (1) hiểu theo nghĩa rộng: chỉ cốt sinh lợi, có tiền.

Thị hiếu tầm thường
(Nguyễn Văn Vĩnh, Nhời đàn bà, Đăng cổ tùng báo, 1907)
Cái lý thú của nước Nam ta nhỏ mọn lắm. Kia cái đồng hồ từ tám mươi đời thì quấn vải tây điều, kết quả găng. Nọ núi non bộ khéo chắp tỉ mỉ trong trồng cây uốn con phượng. Cầu quán con con, thuyền bé lý tí. Câu đối về tranh hết tứ thời phong cảnh lại đến thiên lý giang sơn (1). Thi họa nhỏ nhen, thi chẳng ra thi, họa chẳng ra họa. Giang sơn treo cửa sổ, sơn thủy để đầu giương. Hoành phi câu đối thì chữ nghĩa đẹp phẩy mác hơn đẹp ý tình (2). Đồ chạm đồ cẩn thì tỷ mỳ con dơi già quả mướp non, người ngoại quốc mua cho cũng là thương công hơn trọng khéo. Ghế giường bàn tủ dáng dấp nặng nề. Nói tóm lại thì người Nam mình chưa cái gì là cái khéo. Mà càng bắt chước Tây bắt chước Tàu bao nhiêu càng xấu bấy nhiêu. Người mỗi ngày một hay, vi xảo (3) là thông ngôn ông tạo hoá. Ta mỗi ngày một đổ (4), vi xảo là
cơn hứng chí điên cuồng. Học chẳng phải mà bắt chước cũng chẳng phải. Xảo nghệ Kẻo mà khéo thêm ra chẳng thấy đâu, lại đang nghề nguyên lành hóa nghề lang lố (6).
(1) cảnh sắc bốn mùa và núi sông. ngàn dặm, các mô-tlp đã trớ thành sáo mòn.
(2) "phẩy mác” là tên gọi hai nét dùng trọng chữ Hán, đây ý nói chỉ có cái đẹp bế ngoài.
(3) trình độ kỹ thuật.
(4) kém đi hỏng đi.
(5) đây hiểu là quan niệm.
(6) nghĩa như nhố nhăng.

Thời gian phí phạm
(Phan Khôi, Cái đồng hồ của người Việt Nam, Phụ nữ tân văn, 1931)
Trong tiếng ta có một lời mà người ta hay dùng là „cơm vua ngày trời“, tỏ ra ý ăn hết chừng nào thì ăn, làm được chừng nào thì làm, không bị hạn chế và thôi thúc chi hết. Lại có thành ngữ "làm việc quan" là làm việc rồi (1)… Phải, phàm kẻ làm việc quan không bị hạn chế thôi thúc thì tội gì làm đúng đắn làm kịp thời vụ làm chi! Bởi vậy cho nên ngày xưa chúng ta không có đồng hồ.
Chẳng những vì khoa học không ưa nên không làm được đồng hồ, mà chính vì cái quan niệm “cơm vua ngày trời” và “làm việc quan" ấy nó choán sẵn trong đầu rồi, không có sự cần nên không làm đồng hồ được.
Có người đeo cái đồng hồ không chạy, máy ở trong đã hư hết, nhưng vì nó đẹp nên cũng đeo cho có với người ta. Ta chưa nhìn rõ cái giá trị thật của thời gian là thế nào.
(1) làm qua loa cho xong. “Rồi" ở đây như chữ “rồi” trong “ăn không ngồi rồi”.

Không lo xa, dễ thỏa mãn
(Lương Dũ Thúc, Báo Nông cổ mìm đàm, 1902)
Tôi luận rằng người nước Nam ta khi túng thiếu thì lo lắng thở than, trong lúc đói lo một hồi mà thôi, chớ no không lo nữ. (…) Người nước của chúng ta, bởi không từng trải ít thấy rộng ít nghe xa (…) hễ vừa mới động nở nòi ra một thí(1) thì là đổi tính đổi nết, làm bề làm thế(2), muốn nghỉ mà ăn chơi. Bới làm sao vậy? Bởi trong trăm người mới có một, thì là trong một xóm ở chừng một trăm, người ấy đã đặng trên mấy bợm(3) khác. Có bạc chục bạc trăm, cho
vô cho ra, đã có người thiếu nợ mình rồi, cho nên hết muốn ráng sức nữa. Vì vậy nhiều khi nghèo nàn khổ sở lại… Đến lúc nghèo rồi lại than thở trách trời sinh mình sao mà vận xấu, mới cho khá rồi lại làm cho nghèo, tại trời không thương.
(1) khá giả một tí.
(2) làm dáng, khoe mẽ.
(3) bợm đây không có nghĩa xấu mà chỉ nghĩa bọn khác, kẻ khác.

Tầm nhìn hạn hẹp
(Phan Bội Châu, Việt quốc sử khảo, 1908)
Tục ngữ có câu rằng "cọp chết để da, người chết để tiếng". Xem câu nói đó thời danh vẫn nên quý. Nhưng tội tình thay! Óc ti ti như óc dơi, mắt ti ti như mắt muỗi, ngoài buồng the, bếp núc, vẫn không biết gì là nước non, trừ sọ bò đầu heo, vẫn không biết gì là rồng rắn. Huống chi vết xấu ở gia đình, thói hư ở xã hội, gắn sâu buộc chặt trải mấy nghìn năm, đoàn thanh niên cho đến phường tân tiến(1), đua tranh danh giá, chẳng cu-li thượng đẳng thời nô lệ quá ưu, miệng chưa ráo sữa đã lóc lẻm những thẻ bạc bài ngà, ức(2) chưa rời nôi mà ao ước những mề đay kim khánh. Ôi! Thế là vinh danh hay sao? Qúy hóa hay sao?
(1) đoàn thanh niên đây chỉ thế hệ trẻ, còn phường tân tiến trong xã hội Việt Nam đấu thế kỷ XX là tớp
người đi theo xu thế Âu hóa.
(2) ngực.

Không biết giữ chữ tín
(Trần Chánh Chiếu, Lục tỉnh tân văn, 1908)
Không giữ chữ tín thì anh lừa tôi, tôi lừa anh, trăm chuyện sẽ nát, tinh thần xã hội tan rã (…). Bất tín lớn nhất: một là dối trá. Nhiều người nước ta vụng trong đường mưu sinh(1) nhưng lại giỏi dối trá giả mạo. Hai là bội ước các quy chế, chương trình, mà lại làm ra vẻ tuân hành: Nói mười không giữ được hai ba; Ngay khi ký quy ước đã không cố ý thực hiện, cứ ký bừa, bất kể sau này ra sao. Cho nên quy ước chưa ráo mực mà như đã bỏ đi: Còn như ước
miệng(1) thì chỉ là "nói láo mà chơi nghe láo chơi" (. ..). Những thói xấu ấy đầy rẫy mà cứ điềm nhiên không cho là quái gở.
(1) kiếm sống
(2) thỏa thuận miệng

Ăn xổi ở thì, chưa lo làm đã lo phá
(Trần Chánh Chiếu, Lục tỉnh tân văn, 1908)
Nước nào cũng có gian giảo, Tây, Nam, Chệt, Chà (1) đều có kẻ tốt người xấu. Song nước ngoài người ta gian khéo xảo lớn, còn nước mình gian vụn xảo vặt. Nói giác thể (2) như một nguời Chệt kia lãnh của người ta đi buôn, lãnh rồi thì lo làm ra té lời cho nhiều, có gian lận thì lấy trong cái tiền lới ấy, chứ không khi nào đụng toi vốn bao giờ. Họ tính như 100đ (*) mà làm lợi ra 0,30đ (*), dầu có gian, chủ có hay cũng giám mà cho gian. Còn người nước Nam không phải vậy, cứ guốc đẽo hoài. Chủ ra vốn cho 10đ (*) đã phá tán cho lỗ lã, rồi cứ cái vốn lấy hoài, cứ cái mạch châm hoài. Đụng 0,50đ (*) cũng gian, 0,30đ (*) cũng gian, làm sao mà không háp tiệm (3) Chuyện gì hồi lãnh coi công việc bần hàn ăn mắm muối, vợ rách con đói, chứng lãnh việc rổi, vợ đeo vòng con đeo vàng,chồng giầy vợ dép lên xe xuống ngựa, vợ lấy bạc góp chồng lấy bạc góp, chồng trai gái đào đĩ, sắm giường sắm màn riêng, vợ tùng điệp (4) đem cả kiếng họ (5) đến tiệm mà ăn phá. Ôi tính hay ăn xổi, xài gấp giật gấp, nước mình nay ra đi buôn thì không khác gì mấy đứa con nít tập đi tập chạy !
(1) Chệt (có khi viết Chiệc): người tàu, Chà: người Mã Lai hoặc Ấn Độ, còn Tây và Nam, tức người phương Tây và người Việt.
(2) Ví dụ
(3) Cũng như sập tiệm
(4) Liên tục, dồn dập
(5) Chi họ, dòng họ
(*) Các con số này lần lượt là: 1 đồng, 3 hào, 10 đồng, 5 hào

Nhìn đâu cũng thấy sự tầm thường về trí tuệ(Ngô Đức Kế, Cảm tưởng trong lúc biên tập, báo Hữu thanh, 1923)
Đến với các bậc tân nhân vật (1) để nghe nóng một đôi điều về đường học vấn thì phần nhiều chỉ nghe bàn đến vấn đề lương ít, lương nhiều, không thì mũ, giầy, đồng hồ xe đạp, mốt nào khéo, mốt nào mới, mày mua hiệu nào tao gửi bên Tây, không thì con bé nọ, con bé kia, món này mày, món kia tao, thế thôi. Đến các nhà buôn bán, thì ra những Công ty to nhỏ thập hiệu (2) lớn, vận hàng chở hóa, kẻ vào người ra chen vai kề cánh, chẳng hiệu chú khách thì hàng ông Tây, còn hàng An Nam thì chỉ là buôn lẫn bán quanh, mình cạnh tranh với mình, không những không cạnh tranh lợi được với kẻ ngoại phương (3), mà lại còn nói dối bán lừa, chưa khỏi thói mua hành bán tỏi.
Thứ đến các nhà chế tạo (4) thì chẳng thấy khói lên không nghe máy động, các đồ thủ nghệ cũng có tiến bộ, song các nguyên liệu phải nhờ vào người cung cấp mà vật chế tạo không chở được ra ngoài dương (5), đồ sản xuất mà có đường tiêu thụ không, người làm càng nhiều thì nghề càng không, hết mồ hôi nước mắt chỉ đủ “tay vó miệng lẩm” (6).
(1) tức các nhân vật đào tạo theo kiểu phương Tây
(2) chưa rõ nghĩa
(3) người nước ngoài
(4) các nhà sản xuất
(5) tức xuất khẩu
(6) tương tự tay làm hàm nhai.


Còn dài lắm. Anh Thích có thích nữa thì em gửi tiếp nhé.
[grin][grin][grin]

Re:làm thế nào để trở thành người nhật bản

Viết bởi nguyenhoangtue » Tư T8 01, 2007 2:14 am


Chà chà làm thế nào để trở thành người VN nhỉ?


Chờ mà đọc Người Việt xấu xí gì đó của Vương Trí Nhàn! Đang chờ đây![grin]