Gia nhập WTO - được và mất?

Gửi bài trả lời

Mã xác nhận
Nhập vào đoạn mã xác nhận mà bạn thực sự nhìn thấy trong hình. Tất cả chữ cái đều được phân biệt với chữ số và không có số O.

Nếu bạn muốn đính kèm một hay nhiều tập tin trong bài viết, hãy sử dụng công cụ bên dưới.

Kích thước tệp tối đa cho mỗi tệp đính kèm: 1 MiB.

Xem toàn bộ Xem lại chủ đề: Gia nhập WTO - được và mất?

Re:Gia nhập WTO - được và mất?

Viết bởi TamNagoya » Tư T1 25, 2006 2:19 pm

Cảnh báo từ những con số

63.000 doanh nghiệp (DN) nhỏ và vừa của 30 tỉnh, thành trong nước vừa được Cục Phát triển DN nhỏ và vừa, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiến hành điều tra về năng lực cạnh tranh, công nghệ sản xuất... và đã đưa ra những con số làm nhiều người phải giật mình.

Gần 50% số DN có mức vốn hoạt động dưới 1 tỉ đồng, còn lại có mức vốn hoạt động từ 2 đến không quá 5 tỉ đồng. Nghĩa là trong 63.000 DN, có đến 31.500 DN có vốn hoạt động chỉ đủ để mở... một quán cà phê loại trung bình. Chưa hết, kết quả điều tra, khảo sát về trình độ quản lý và công nghệ sản xuất cũng khiến nhiều người phải... hốt hoảng. Có tới 55.63% chủ DN trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống, trong đó 43,3% chủ DN có trình độ học vấn phổ thông các cấp. Số người là tiến sĩ chỉ có 0,66%, thạc sĩ 2,33%, đã tốt nghiệp đại học 37,82%, tốt nghiệp cao đẳng chiếm 3,56%, tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp chiếm 12,33% và 43,3% có trình độ thấp hơn. Điều đáng lưu ý là đa số các chủ DN là những người có trình độ học vấn từ cao đẳng và đại học trở lên thì cũng rất ít người được đào tạo về kiến thức kinh tế và quản trị DN. Tất nhiên điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến việc lập chiến lược phát triển, định hướng kinh doanh và quản lý của DN. Về trình độ sử dụng công nghệ, chỉ có khoảng 8% số DN đạt trình độ công nghệ tiên tiến, nhưng phần lớn lại rơi vào các DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Bên cạnh đó, chỉ tiêu về sử dụng công nghệ thông tin cũng cho thấy, tuy số DN có sử dụng máy vi tính lên đến hơn 60% nhưng chỉ có 11,55% DN có sử dụng mạng nội bộ và chỉ có 2,16% số DN có website riêng.

Cuộc điều tra cũng chỉ ra một nghịch lý: Trong khi trình độ về kỹ thuật công nghệ còn thấp nhưng nhu cầu đào tạo về kỹ thuật và công nghệ của DN có tỉ lệ rất thấp, chỉ 5,65% DN được điều tra có nhu cầu về đào tạo công nghệ. Điều này cho thấy DN nhỏ và vừa VN chưa coi trọng đúng mức đến các vấn đề về kỹ thuật và công nghệ. Mặc dù đây là yếu tố quyết định sự thành bại của DN trên thương trường.

Nâng cao năng lực cạnh tranh để hội nhập không thể cứ mãi hô khẩu hiệu. Làn sóng hàng ngoại đang chuẩn bị ồ ạt đổ vào “sân nhà” khi VN thực hiện các cam kết hội nhập. Những con số công bố của Cục Phát triển DN nhỏ và vừa, như một cảnh báo về sự khó khăn mà nhiều DN phải đối đầu khi bước vào sân chơi lớn, nếu không kịp hiểu mình đang ở đâu để điều chỉnh.

Bài này được đăng trên báo Người Lao Động.

Re:Gia nhập WTO - được và mất?

Viết bởi ore » Chủ nhật T1 22, 2006 9:29 pm

Khi nào có thời gian , tôi sẽ viết bài về :So sánh Quản trị Kinh Doanh theo kiểu Nhật và Mỹ- VN sẽ theo ai?(hoặc không theo ai cả)


Anh Tâm ơi, em đang chờ dàiiii cổ bài viết của anh đấy! [bounce]

Re:Gia nhập WTO - được và mất?

Viết bởi TamNagoya » Ba T1 17, 2006 3:11 am

Để các bạn hình dung một cách cụ thể về trường hợp 1 mặt hàng khi được giảm thuế nhập khẩu , sẽ xảy ra những biến động tích cực ,tiêu cực đến nền kinh tế ,xin được đăng lại bài báo trên VNEXPRESS sau đây.Hy vọng các bạn
sẽ phần nào hiểu được rõ hơn về "Được và mất" khi VN vào WTO>

Điện thoại nội 'xin chết' khi thuế nhập khẩu bằng 0

Các nhà phân phối khẳng định, giảm thuế nhập khẩu điện thoại xuống 0% sẽ đánh bật được hàng ngoài luồng, Nhà nước tăng thu và dân tình cũng được hưởng lợi. Tuy nhiên, 2 dự án sản xuất điện thoại "made in Vietnam" cũng như dân kinh doanh hàng xách tay lại canh cánh nỗi lo.


Giá điện thoại có thể giảm nhờ chính sách thuế thay đổi. (Tuổi Trẻ)
Dù lộ trình giảm thuế đối với mặt hàng điện thoại bắt đầu vào năm 2008, tuy nhiên khi nghe tin này các nhà nhập khẩu đã bắt đầu "vui ra mặt". Phó giám đốc Công ty FPT Mobile Bùi Ngọc Khánh cho rằng, giảm thuế cũng đồng nghĩa với việc nhà cung cấp sẽ giảm giá bán các sản phẩm ra thị trường.

Ông Khánh phân tích, hiện nay, các doanh nghiệp nhập khẩu điện thoại di động đang phải chịu nhiều loại thuế khác nhau trong đó có thuế nhập khẩu (5%) và thuế giá trị gia tăng (10%). Nếu được hưởng thuế suất nhập khẩu 0% thay vì 5% như hiện nay, giá bán cho người tiêu dùng có thể giảm tương ứng thậm chí còn nhiều hơn, bởi thuế thấp sẽ khuyến khích nhập nhiều mà càng nhập nhiều giá càng giảm.

Theo ông Khánh, giảm thuế suất xuống 0% còn giúp đánh bật được hàng ngoài luồng ra khỏi thị trường VN. Thời gian qua, thuế cao, hàng nhập lậu lan tràn khiến các doanh nghiệp phải bao phen khốn đốn, bản thân Nhà nước cũng không thu được thuế. Để hạn chế vấn nạn này, trước đó, nhiều biện pháp như dán tem chính hãng, tem hợp chuẩn... được đưa ra, tuy nhiên, theo các doanh nghiệp, chỉ khi nào thuế nhập khẩu không còn, hàng ngoài luồng mới khó có đất sống.

Giám đốc Công ty TNHH Thuận Pháp - một đơn vị phân phối sản phẩm Nokia Nguyễn Thị Phương nhấn mạnh, nhìn bề ngoài việc giảm thuế nhập khẩu xuống 0% sẽ làm Nhà nước giảm thu, nhưng xét về thực chất nó mang lại lợi ích tổng thể cho cả ba bên, doanh nghiệp, Nhà nước và người tiêu dùng.

Theo bà Phương, hàng ngoài luồng đang là nỗi bức xúc của không ít doanh nghiệp. Do không phải đóng thuế nên loại hàng này có thể giảm giá đến mức mà các hãng phân phối không thể làm được, trong khi đó, tâm lý của người tiêu dùng VN phụ thuộc rất nhiều vào giá. "Đôi khi chỉ chênh lệch vài trăm nghìn đồng, người tiêu dùng vẫn chọn hàng nhập lậu, huống chi chênh lệch giữa hàng chính hãng và hàng ngoài luồng hiện nay lên tới 1 triệu đồng/máy", bà Phương nói.

Lộ trình giảm thuế điện thoại là công việc của năm 2008 song thông tin này lại như một gáo nước lạnh dội lên đầu những người đang ấp ủ dự án sản xuất điện thoại "Made in Vietnam". Ngay sau khi có thông tin liên quan đến chuyện giảm thuế đối với mặt hàng điện thoại di động, ban lãnh đạo Công ty cổ phần Vina - Mobi VN, đơn vị triển khai dự án điện thoại giá rẻ tại VN, vội triệu tập cuộc họp khẩn để bàn biện pháp đối phó. Tổng giám đốc Lê Quang Hòa thừa nhận, thuế nhập khẩu bằng 0% cũng đồng nghĩa với việc dự án của công ty đứng trước nguy cơ phá sản.

Theo ông, một khi các sản phẩm ngoại nhập không chịu thuế thì hàng trong nước khó mà cạnh tranh nổi. "Đến nước này, chúng tôi chỉ còn cách chuyển hướng sang gia công", ông Hòa nói.

Nhà máy thiết bị Bưu điện (Postef), đơn vị thứ 2 tâm huyết với đề án sản xuất điện thoại di động giá rẻ thương hiệu Việt, cũng thấy trước khó khăn khi lộ trình giảm thuế được áp dụng từ năm 2008. Theo một quan chức của Postef, đề án chưa được phê duyệt song bản thân công ty cũng sẽ phải tính toán đến các chiến lược kinh doanh sao cho hiệu quả.

Theo một số chuyên gia trong ngành, dù thuế nhập khẩu vẫn giữ nguyên 5% như hiện nay thì dự án sản xuất điện thoại giá rẻ mang thương hiệu Việt đã ít khả thi và khá nhiều mạo hiểm. Bản thân các hãng lớn như Nokia, Samsung... chiếm một thị phần điện thoại di động khá lớn cũng chưa hề có ý định xây dựng nhà máy sản xuất tại VN.

Giám đốc Công ty Vietphone - chuyên phân phối các sản phẩm viễn thông - Dương Công Đức cũng cho rằng, hiện nay ngành sản xuất điện thoại trong nước đã không thể cạnh tranh lại với các đại gia, thì cần gì phải xem xét đến 2 năm nữa khi thuế nhập khẩu bằng 0. "Rõ ràng, việc giảm thuế ảnh hưởng trực tiếp đến các nhà sản xuất VN", ông Đức nói.

Theo ông, điện thoại nội địa - phần lớn là điện thoại bàn - chỉ chiếm chưa tới 1% thị trường trong nước nhưng chủ yếu lắp ráp linh kiện và bán theo kiểu ép người mua. Do vậy, trong vài năm tới, nhà sản xuất nội địa chắc chắn không còn cửa để phát triển mà phải tính cách khác để tồn tại.

Không chỉ các nhà sản xuất trong nước mà dân kinh doanh hàng xách tay cũng giật mình trước tin Chính phủ sẽ cắt giảm thuế nhập khẩu điện thoại xuống 0%. Anh Phạm Việt Tuấn, trùm phân phối điện thoại di động tại các tỉnh miền Đông Nam cho biết: "Phần lớn hàng bán đều là xách tay hoặc second hand, mai mốt giá hạ xuống sát rạt làm sao sống nổi với hàng mới cứng". Nhẩm tính một hồi, anh Tuấn quyết định chọn phương án, đến thời điểm "hot" nhất, anh ta sẽ chơi toàn hàng độc để cạnh tranh cao cấp với hàng giá rẻ sẽ tràn lan trên thị trường. Anh khẳng định hàng của mình có lợi thế hơn so với nhập khẩu chính ngạch, nhờ đã "hô biến" khâu thuế giá trị gia tăng (VAT). "Sản phẩm chính ngạch được miễn thuế nhưng vẫn chịu VAT cho khách hàng, chắc chắn giá đội cao hơn so hàng của mình một mức", anh nói.

Bạn sẽ ủng hộ hay phản đối phương án này?

Lưu ý: VN phải giảm thuế nhập khẩu DTDD do đã ký Hiệp định khung về ASEAN điện tử (e-ASEAN),được các nước thành viên ASEAN ký kết vào tháng 11/2000 tại Singapore,theo đó các nước thành viên cam kết xoá bỏ thuế quan và các biện pháp phi thuế quan đối với các sản phẩm công nghệ thông tin theo 3 đợt khác nhau.

Re:Gia nhập WTO - được và mất?

Viết bởi kimams2003 » Tư T1 11, 2006 4:00 pm

Từ hôm em đưa bài "Nhìn sang Trung Quốc" thấy mọi người thảo luận nhiều , càng đọc thấy mình càng mở tầm nhìn hơn.Vì em không có nhiều hiểu biết trong vấn đề này nên chỉ đứng ngoài cuộc nghe mọi người tranh luận để học hỏi.Hi vọng sẽ còn nghe được nhiều từ mọi người, đặc biệt là từ những ai có nhiều quan tâm đến nền kinh tế Việt Nam hiện nay[grin]

Re:Gia nhập WTO - được và mất?

Viết bởi TiNhYeUBuOnLaM » Tư T1 11, 2006 1:41 pm

Hoàn toàn đồng ý với anh Phúc về việc Việt Nam không nên đặt nặng vấn đề thời gian gia nhập WTO, bởi đó chính là điểm yếu của chúng ta trên bàn đàm phán, và các đối thủ sẽ lợi dụng điểm yếu đó để làm khó dễ cho ta.
Thận trọng là 1 yếu tố cần thiết, song trong kinh tế và đặc biệt là kinh doanh,
đột phá đóng 1 vai trò đáng kể trong việc đưa nền kinh tế đi lên.
Việc Trung Quốc không còn chiến tranh từ năm 1949 đúng là 1 điểm lợi thế hơn ta thật, bởi đến năm 1973 ta mới kết thúc chiến tranh với Mĩ, và đến tận năm 1975 mới thống nhất đuợc đất nuớc. Nhưng nếu nhìn lại lịch sử Trung Quốc, thì trong 10 năm của Đại cách mạng văn hoá giai đoạn 1966-1976, đất nuớc Trung Quốc không khác gì trải qua 1 cuộc nội chiến đẫm máu. Sự kiện này diễn ra cho đến tận khi Mao Trạch Đông quá cố mới đuợc dẹp yên. Kết quả của cuộc Đại cách mạng văn hoá này là 1 đất nuớc Trung Quốc hoang tàn, vô trật tự, trộm cuớp triền miên, và quan trọng hơn hết là 1 tầng lớp tri thức có vai trò lớn trong xã hội đã bị tẩy chay. Bè lũ 4 tên do Giang Thanh cầm đầu đã nhấn chìm cả đất nuớc Trung Quốc vào bùn đen, kéo lùi sự phát triển của đất nuớc trong thế kỉ 20. Vì vậy có thể khẳng định, sau khi chiến tranh thống nhất đất nuớc kết thúc thì xuất phát điểm của Trung Quốc không hơn ta. Tuy nhiên nguời anh cả Trung Quốc này lại đi truớc Việt Nam trong nhiều nuớc cờ như đạo nhập nền kinh tế thị truờng, hay thiết lập các đặc khu kinh tế. Không thể phủ nhận việc 1 số chính sách kinh tế của Việt Nam là do đi theo con đuờng của Trung Quốc. Chẳng thế mà đã có bài báo khi nhìn nhận về vấn đề này đã nói: Việt Nam vẫn đang núp trong cái bóng hùng vĩ của Trung Quốc. Bản thân em là 1 nguời Việt Nam, không khỏi tức giận khi nghe những câu kiểu này, nhưng thực tế vẫn là thực tế, Việt Nam vẫn đang đi sau Trung Quốc.
Đó chính là lí do giải thích tại sao em lại cho rằng nền kinh tế Việt Nam phải tạo ngay một buớc đột phá. Tuy nhiên kiến thức còn hạn hẹp, chắc chắn không tránh khỏi suy luận sai lầm, mong được các sư huynh chỉ giáo.
[smile]

Re:Gia nhập WTO - được và mất?

Viết bởi vanphuc » Tư T1 11, 2006 10:41 am


Khi nào có thời gian , tôi sẽ viết bài về :So sánh Quản trị Kinh Doanh theo kiểu Nhật và Mỹ- VN sẽ theo ai?(hoặc không theo ai cả)
Vấn đề này có nhiều điều gây tranh cãi, mong rằng mọi người sẽ tích cực tham gia cho ý kiến.

Em rất mong chờ baig phân tích của anh Tâm [smile]
 Nhưng chung ta cũng cần phải đặt vào hoàn cảnh của đất nước ta so với những dân tộc đã rất thành công khi ra nhập WTO.Từ nam 1972 chúng ta đã phải gửi những sinh viên đang ngồi trên ghế giảng đường ra trận.Nó cũng chính la nguyên nhân mà chúng ta yếu kém trong đội ngũ lãnh đạo ở nhiều cấp ngành ngày nay.Vì vậy việc ra nhập WTO phải rất thận trọng và không coi nặng về vấn đề thời gian.Chúng ta đã gặt hái được những thành công từ chính sách mở của rồi đấy thôi.Những nhà phân tích thì ai nói cũng có lý cua họ ,vì nếu không có lý thì họ đã không nói.Rất hi vọng vào những quyết định sáng suốt của chính phủ Việt Nam.Chúng ta cung hãy nhìn một chút về Trung Quốc,chẳng phải họ cũng rất thận trọng,và chờ thời cơ phù hợp trước khi ra nhập,và nên nhớ Trung Quốc đã không có chiến tranh từ năm 1949.Và hãy nhin thử Campuchia thay đổi nhiều không khi ra nhập WTO.
 Vấn đề quan trọng vẫn là thực lực va những chính sách sáng suốt của người lãnh đạo.

Re:Gia nhập WTO - được và mất?

Viết bởi TiNhYeUBuOnLaM » Tư T1 11, 2006 2:01 am

Theo ý kiến của không chỉ riêng em thì hiện nay mối quan tâm hàng đầu không phải là việc Việt Nam có nên gia nhập WTO hay không, mà là nên gia nhập khi nào, sớm hay muộn mà thôi.
Cuối năm vừa rồi, Việt Nam đã lỡ mất chuyến tàu cuối để vào WTO, nhưng điều đó cũng không có nghĩa, Việt Nam sẽ vào được WTO trong năm nay, năm 2006.
Không phải em muốn nói kiểu vơ đũa cả nắm, nhưng đúng là ở Việt Nam đã có 1 tiền đề thật khó mà có thể thay đổi được, đó là '' còn nằm trong chăn thì chưa biết lạnh ''( Câu này không phải thành ngữ, do em mới chế ra thôi, bởi vùng em đang ở lạnh tới -14 độ C). Lấy ví dụ như ngành công nghiệp oto ở trong nước, trong thời gian được nhà nước bảo hộ, đã không tìm cách để nâng cao năng lực cạnh tranh mà chỉ tìm mọi cách nâng giá kiếm lời, đã dẫn đến tình trạng thị trường oto bị giảm sút trong năm qua. Đó là chưa kể ai cũng biết thuế nhập khẩu oto nguyên chiếc từ ngày 1/1/2006 sẽ giảm xuống. Việc này tuy so sánh thì sẽ không tránh khỏi khập khiễng, nhưng cũng có thể liên tuởng tói việc Việt Nam gia nhập WTO. Đúng như bài báo đã phân tích, ai dám chắc rằng trong thời gian được nhà nuớc chăm nom, các doanh nghiệp sẽ tìm cách đổi mới để nâng cao hiệu quả sản xuất nhằm nâng cao năng lực cacnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế đang tới gần. Nên chăng giật chăn và lôi đứa con cứng đầu ra trời giá lạnh để nó tự tìm cách suởi ấm, hay là bật máy suởi và nhẹ nhàng đánh thức  để rồi 1 tiếng sau nó vẫn còn ngái ngủ trong chăn.
Việc Việt Nam gia nhập WTO thực chất cũng không khác việc đem con bỏ chợ, bởi 1 khi đã hội nhập thì tính chỉ đạo nền kinh tế của nhà nuớc sẽ bị giảm đáng kể, nhất là với 1 nước vừa mới treo băng rôn bảng hiệu kinh tế thị truờng định huớng xã hội chủ nghĩa như Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên cũng nên đặt niềm tin là đứa con này sẽ trưởng thành và ngày càng lớn mạnh hơn trong hoàn cảnh khắc nghiệt.

Bản thân em ủng hộ việc Việt Nam nên gia nhập WTO ngay khi có thể, bởi theo em tính khả thi của việc này hiện nay chưa cao, những tin tức đã đưa về khả năng gia nhập WTO của Việt Nam đã gần đến chẳng qua chỉ để tô hồng cho mục tiêu phải gia nhập WTO trong năm 2005 mà thôi.

Re:Gia nhập WTO - được và mất?

Viết bởi TamNagoya » Tư T1 11, 2006 12:31 am

Khi nào có thời gian , tôi sẽ viết bài về :So sánh Quản trị Kinh Doanh theo kiểu Nhật và Mỹ- VN sẽ theo ai?(hoặc không theo ai cả)
Vấn đề này có nhiều điều gây tranh cãi, mong rằng mọi người sẽ tích cực tham gia cho ý kiến.[grin]

Re:Gia nhập WTO - được và mất?

Viết bởi TamNagoya » Tư T1 11, 2006 12:20 am

Mời các bạn đọc bài của TS Lê Nết và bài phản biện của Giang Lê(bài được đăng trên VNNet)
Bài của TS Lê Nết:

Nguyên trưởng đoàn đàm phán WTO của Việt Nam Nguyễn Đình Lương phát biểu: “Trong quá trình hội nhập, chúng ta còn có những cái được như: mất đi những qui định luật pháp tối nghĩa, khó thực thi, gây khó dễ cho việc làm ăn của doanh nghiệp; mất đi cách làm ăn trì trệ, dựa dẫm, tắc trách; mất đi những cán bộ lười biếng, kém năng lực; mất đi những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, liên tục thua lỗ”. Do đó, hội nhập càng nhanh thì dân càng mừng, và việc gia nhập WTO là điều nên làm càng sớm càng tốt.

Song thực ra, việc xây dựng nhà nước pháp quyền, với hệ thống pháp lý minh bạch, xoá sổ các doanh nghiệp thua lỗ xuất phát từ nhu cầu thực tại của Việt Nam. Không vào WTO ngay thì chúng ta cũng phải làm, với điều kiện Chính phủ Việt Nam đủ quyết tâm. Câu hỏi của WTO lẽ ra phải là: khi tham gia vào WTO, thế giới sẽ mua gì ở chúng ta? Nói cách khác: Việt Nam có thể cạnh tranh ở những mặt hàng gì?  

Thật ra, chúng ta mới chỉ xuất khẩu được hàng hoá dưới dạng thô, còn những hàng hoá có hàm lượng chất xám cao thì vẫn chưa đủ sức cạnh tranh.  Năng lực cạnh tranh của Việt Nam theo báo cáo của World Economic Forum trong những năm qua liên tục giảm (hiện đang đứng thứ 81).  

Nói một cách hình tượng: sau khi vào WTO, Việt Nam sẽ bán dầu thô, gạo, hàng may mặc, thủy hải sản dạng thô, và mua tất cả các mặt hàng còn lại! Song, ngoại trừ hàng may mặc, các mặt hàng xuất khẩu còn lại không phụ thuộc vào việc có tham gia vào WTO hay không.  

Bên cạnh đó, hàng may mặc, giày da của Việt Nam thì hiện chưa cạnh tranh được với Trung Quốc.  Các chuyên gia kinh tế lại cho rằng, vào WTO là nhắm đến khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam trong tương lai. Như vậy, câu hỏi bây giờ không phải là vào hay không vào WTO, mà khi nào thì nên vào.

Trong bài “WTO và Việt Nam” ngày 28/11/2005 trên tạp chí Wall Street Journal, Luật sư Fred Burke cho rằng nếu muốn vào WTO bây giờ, thì Việt Nam sẽ phải mở cửa một số ngành được bảo hộ như tài chính, viễn thông và cam kết thực thi quyền sở hữu trí tuệ một cách hiệu quả hơn.  Những thách thức này thoạt nhìn có vẻ lớn, song thực ra không phải vậy.  

Đối với việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ, đây không phải là vấn đề khó, vì điều này phù hợp với chiến lược phát triển tiềm lực khoa học kỹ thuật của Việt Nam. Đối với lĩnh vực viễn thông cũng vậy.  Hiện nay, các gia đình có thu nhập trung bình hầu hết đã có máy điện thoại. Họ không dễ gì bỏ số điện thoại đang có của VNPT để đăng ký thuê bao một số điện thoại mới của nhà cung cấp dịch vụ viễn thông nước ngoài.  

Vấn đề khó nhất có thể là việc mở cửa thị trường tài chính. Khi đó tất yếu sẽ dẫn đến cuộc đua lãi suất tiết kiệm và chất lượng dịch vụ, và người thua cuộc có thể là các ngân hàng quốc doanh, do hiện phải gánh số lượng nợ xấu của các doanh nghiệp nhà nước. Giải pháp cho vấn đề này có thể là cho giải thể các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả; và điều này sẽ dẫn đến nạn thất nghiệp.

Tuy nhiên, đây chưa chắc đã là điều xấu, vì nếu các doanh nghiệp này trước sau gì cũng phải giải thể, thì người lao động ở đó nên tìm việc làm khác sớm chừng nào tốt chừng đó. Vấn đề là những người thất nghiệp đi làm ở đâu, và nếu họ không kiếm được nơi làm việc mới, họ có thể khởi nghiệp để trở thành một doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) được không?

Như vậy, điều đáng lo ngại hơn cả là phải làm sao để nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh của Việt Nam, chủ yếu là các doanh nghiệp SME, sao cho họ đủ sức hội nhập.  

Việc Việt Nam sớm gia nhập WTO trên lý thuyêt có thể mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp SME, nhưng chúng ta chưa xây dựng được thế mạnh, khác hẳn các doanh nghiệp Trung Quốc trước khi họ gia nhập WTO.

Hiện nay, các doanh nghiệp SME vừa mới phát triển, họ cần một thị trường trong nước đủ vững. Tiểu thương ở các chợ, các hiệu tạp hoá cần phải có thời gian để chuyển sang làm nghề khác trước khi hình thức buôn bán của họ bị các hệ thống bán lẻ nước ngoài lấn át.

Các nghiệp chủ nhỏ cần đủ thời gian để phát triển quan hệ với khách hàng lớn và có một số vốn nhất định trước khi chịu đựng sóng gió cạnh tranh từ nước ngoài.  

Vào WTO cần phải có chuẩn bị. Công tác chuẩn bị không phải chỉ là việc Nhà nước phải tiến hành chiến lược đàm phán như thế nào, mà còn là việc các doanh nghiệp trong nước cần xác định rõ rằng việc gia nhập WTO là xu thế không thể tránh khỏi, và cần nâng cao được sức cạnh tranh trước khi hội nhập; chứ không phải hội nhập đi đã, rồi chờ sức cạnh tranh sẽ tự nâng cao.

Thời gian chuẩn bị là bao lâu tùy thuộc vào nỗ lực của cả Nhà nước và các doanh nghiệp Việt Nam. Song có thể nói rằng chưa bao giờ cơ hội dành cho các doanh nghiệp SME của Việt Nam lại tốt như bây giờ.  

Dĩ nhiên, không có nghĩa là chúng ta nên kéo dài cơ hội này một thời gian nữa, song việc Việt Nam không gia nhập được WTO năm 2005 cũng là một chuyện “tái ông mất ngựa”.

Vào mà không chuẩn bị kỹ - cái giá sẽ đắt hơn?

Trong khoảng 1 - 2 năm trước khi chúng ta bước vào cuộc chơi WTO, là thời điểm quý giá cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nâng cao khả năng cạnh tranh của mình để đón chờ một cuộc đấu mới. Cụ thể là: tăng cường học hỏi phương pháp quản lý chuyên nghiệp, tiếp thị chuyên nghiệp, xây dựng chữ tín với khách hàng, xây dựng thương hiệu, đào tạo đội ngũ nhân viên đủ tầm và có trình độ ngoại ngữ.  

Nên chăng các ngân hàng, nhất là các ngân hàng cổ phần, chuyển từ hình thức cho vay dựa trên tài sản thế chấp sang hình thức cho vay dựa trên dòng lưu kim (cash flow)?  Kiến thức về quản lý rủi ro phải nhanh chóng được đưa vào ngân hàng. Nhà nước cần mạnh dạn ưu đãi thuế tối đa cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (có doanh thu cả năm ít hơn 10 tỉ đồng), chấp nhận thất thu thuế trong 2 năm tới ở khu vực này.

Ngoài ra, cơ quan quản lý cạnh tranh phải sớm ra đời để có thể thực thi được Luật Cạnh tranh, bảo vệ được người tiêu dùng và các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Về mặt chính sách, Nhà nước nên hướng các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư vào mặt mạnh của Việt Nam - đó là con người.  Dân số trẻ và thông minh là điểm rất mạnh của người Việt Nam. Để hội nhập, việc đầu tiên là phổ cập tiếng Anh và phổ cập Internet.  Sau đó, tuỳ từng khu vực (lao động trình độ cao và trình độ trung bình) mà Nhà nước cần có những định hướng khác nhau.

Đối với lao động trình độ trung bình, cần đẩy mạnh xuất khẩu lao động và đưa người Việt Nam ra nước ngoài để học tập và kiếm thu nhập và khởi nghiệp, đồng thời giáo dục đạo đức, văn hoá, văn minh cho người Việt Nam trước khi ra nước ngoài.  Khi người Việt đã trở thành một cộng đồng đông dân khắp năm châu, họ sẽ là đầu cầu đề các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam vươn ra thế giới.

Đối với lao động trình độ cao, cần tạo ra cạnh tranh trong ngành giáo dục để các trường trong nước sớm đuổi kịp các nước trong khu vực ít nhất là về chương trình đào tạo, sau đó là về nghiên cứu khoa học. Ngân sách nhà nước trong ngành giáo dục phải gắn với điều kiện cải tiến phương pháp và chương trình giảng dạy. Trường nào không chịu thay đổi nhất quyết phải bị cắt giảm ngân sách. Sau đó,  trong các trường nên tạo ra các vườn ươm doanh nghiệp (incubator) để sinh viên ra trường có thể trở thành chủ doanh nghiệp, cũng như các trung tâm xúc tiến thương mại hoá nghiên cứu khoa học giữa các trường đại học và các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Doanh nghiệp vừa và nhỏ là người Việt Nam. Họ là những người sẽ ở lại Việt Nam - dù thành công hay thất bại. Họ là người đang tạo ra đa số công ăn việc làm ở Việt Nam. Sự ủng hộ của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với Nhà nước hiện nay là cần hơn bao giờ hết.

Thời điểm gia nhập WTO hãy được coi là thời điểm các doanh nghiệp SME đứng vững trên thị trường nội địa và xây dựng được thế mạnh để cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Biết rằng càng vào sau giá phải trả càng đắt. Tuy nhiên, bài học Mexico và Bangladesh vẫn còn đó. Nên nhớ, vào mà không chuẩn bị e rằng cái giá phải trả sẽ còn đắt hơn!

Bài phản biện của Giang Lê

Trái với quan điểm của tác giả TS. Lê Nết trong bài: "Vào WTO, thế giới sẽ mua gì của chúng ta?", độc giả Giang Lê lại đặt câu hỏi: "Có gì đảm bảo nếu đứng ngoài WTO 10 năm nữa thì các DN vừa và nhỏ của VN sẽ đủ sức cạnh tranh với DN nước ngoài?". Độc giả Giang Lê chứng minh: "Chưa thấy có thành viên nào của WTO xin ra, bởi còn rất nhiều nước đang xếp hàng để được vào".

Núp sau bảo hộ - DN không thể thành "người lớn"!

Cách đây vài ngày khi đọc bài phỏng vấn nguyên trưởng đoàn đàm phán BTA Nguyễn Đình Lương tôi đã rất khâm phục vị quan chức có cái nhìn rất sáng suốt này. Tôi đã mừng cho đất nước có những người như ông Lương và thầm mong ông sẽ được giữ những trọng trách cao hơn để giúp dân giúp nước. Bởi vậy tôi không thể không phản hồi lại bài viết của TS. Lê Nết.

Bài của TS. Lê Nết có thể tóm tắt như sau: Việt Nam chưa nên gia nhập WTO trong thời điểm này vì hai lý do. Thứ nhất hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) của Việt Nam chưa đủ mạnh để cạnh tranh với các đại công ty đa quốc gia nếu chúng ta mở cửa cho họ vào ngay lúc này. Thứ hai Việt nam chưa có một thế mạnh canh tranh nào để có thể vươn ra thế giới trong thời điểm này. Nghĩa là nếu gia nhập WTO chúng ta sẽ chỉ có thể xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng thấp như khoáng sản, dầu thô, nông sản.
Kiến nghị của TS. Lê Nết là Chính phủ cần có chính sách khuyến khích và ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam để những doanh nghiệp này lớn mạnh trước khi gia nhập WTO. Ngoài ra cũng cần xây dựng những khuôn khổ luật pháp cần thiết để đảm bảo sự cạnh tranh công bằng giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam với các công ty đa quốc gia khi chúng ta gia nhập WTO.

Trước hết, xin nhấn mạnh tôi hoàn toàn đồng ý là chúng ta cần tạo mọi điều kiện cho hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam phát triển cũng như đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa tất cả các loại hình doanh nghiệp của Việt Nam. Tuy nhiên, khác với TS. Lê Nết, tôi cho rằng gia nhập WTO chính là cách tốt nhất để giúp cho những doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam phát triển và cũng chính là cách tốt nhất để Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh của mình.

Thật ra đây không phải là ý kiến của tôi mà là ý kiến của nhiều nhà kinh tế rút ra từ những bài học thực tiễn của nhiều nước đang phát triển trong hơn 50 năm qua. Phát triển hệ thống các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Sau chiến tranh Thế giới thứ hai, nhiều nước đang phát triển mà điển hình là các nước châu Mỹ La tinh đã theo đuổi chính sách “import substitution” (tạm dịch là “thay thế nhập khẩu”) do hai nhà kinh tế Raul Presbish và Hans Singer đề xướng đầu những năm 50 của thế kỷ trước. Chính sách này về căn bản cũng gần giống như ý tưởng của TS. Lê Nết, nghĩa là cần phải đóng cửa với thế giới bên ngoài để các doanh nghiệp trong nước có điều kiện phát triển cho đến khi các doanh nghiệp đó đủ sức cạnh tranh với các công ty đa quốc gia.

Hai nhà kinh tế trên lập luận rằng những doanh nghiệp trong nước như là các đứa bé sơ sinh (infant industries) cần phải có thời gian được bố mẹ (government) bao bọc để có thể lớn mạnh trước khi mở cửa cho người ngoài vào.

Điểm khác biệt duy nhất trong ý kiến của TS. Lê Nết và hai nhà kinh tế nói trên là TS. Lê Nết muốn nhà nước bảo vệ (bằng cách chưa gia nhập WTO vội) và giúp đỡ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (ưu đãi thuế) trong khi hai nhà kinh tế nói trên muốn bảo vệ các doanh nghiệp lớn.

Chính sách đóng cửa để bảo vệ “quân ta” này đã bị nhiều nhà kinh tế khác (như Anne Krugger, Helen Huges, Hans Andtz) chỉ trích mạnh mẽ. Họ vạch ra rằng nếu được bảo hộ các “infant indusrties” này sẽ không bao giờ lớn mà sẽ mãi mãi cần sự che trở và trợ giúp của nhà nước.

Anne Krugger (hiện là Phó giám đốc Quĩ Tiền tệ quốc tế - IMF) đưa ra một khái niệm rất nổi tiếng là “rent seeking” - sau này đã được sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực ngoài kinh tế. Bà Krugger cho rằng khi được ưu đãi và bảo vệ, các doanh nghiệp trong nước sẽ không chịu cải cách để nâng cao tính cạnh tranh mà chỉ tìm cách xoay xở để giữ lại bổng lộc từ những ưu đãi và trợ giúp của nhà nước.

Do vậy, cho dù ý định ban đầu của chính sách bảo vệ các doanh nghiệp trong nước là tốt, kết quả đạt được sẽ hoàn toàn trái ngược.

Ai "ngán" gia nhập WTO nhất?

Thực tế phát triển kinh tế của châu Mỹ La tinh ở nửa sau của thế kỷ 20 đã chứng tỏ chính sách “đóng cửa” của Presbish và Singer hoàn toàn sai lầm. Những nước theo đuổi chính sách này (trong đó có Mexico là một ví dụ của TS. Lê Nết đã nêu ra) đã loay hoay gần nửa thế kỷ với những cuộc khủng hoảng và suy thoái.

Trong khi đó, những con hổ châu Á mà điển hình là Hàn Quốc, Đài loan, Singapore, Hồng kông với chiến lược mở cửa và hướng ra bên ngoài đã phát triển vượt bậc. Ngay trong nội bộ châu Á, những nước áp dụng chính sách đóng cửa như Ấn Độ, Bangladesh, Indonesia cũng mất một thời gian khá dài trước khi thay đổi chiến lược phát triển. Đến hôm nay, không còn ai biết đến xe hơi “Made in India” nhưng đó đã từng là một ngành công nghiệp của Ấn Độ được bảo hộ gần 50 năm để rồi vẫn là một “infant industry” và đã chết khi Ấn Độ mở cửa.

Sẽ có ý kiến cho rằng, “import substitution” là bảo vệ các doanh nghiệp lớn, còn TS. Lê Nết cho rằng cần bảo vệ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Về bản chất thì việc bảo vệ và ưu đãi đều có những hậu quả như nhau cho cả doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ. Có gì đảm bảo rằng nếu chúng ta đứng ngoài WTO 10 năm nữa thì các SME của Việt Nam sẽ đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài? Hay trong 10 năm đó các doanh nghiệp này sẽ tập hợp nhau lại thành những hiệp hội, những nhóm quyền lợi đủ mạnh để tiếp tục “rent seeking”?

Quan trọng hơn, bài viết đã bỏ quên một mảng lớn trong nền kinh tế Việt Nam là các doanh nghiệp lớn, các tổng công ty nhà nước đã và đang được bảo hộ mạnh mẽ.

Thứ nhất, nếu Việt Nam không vào WTO để tránh sự cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài thì không chỉ các doanh nghiệp vừa và nhỏ được bảo vệ như TS. Lê Nết đề xuất, mà cả các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp nhà nước đang làm ăn thua lỗ và tràn lan tham nhũng. Những doanh nghiệp lớn này, với các quan hệ chính trị của mình, có thể sẽ vận động đẩy lùi cái mốc gia nhập WTO xa hơn nữa, chẳng phải để giúp cho những đàn em vừa và nhỏ đâu mà để họ tiếp tục độc quyền kiếm lợi cho bản thân họ.

Hãy thử hỏi một trong các nhà sản xuất xe hơi hiện đang có nhà máy hoạt động ở Việt Nam xem họ có thích thú gì cái ý tưởng ra nhập WTO không? Hay hãy thử hỏi ông điện lực, hay ông hàng không xem có muốn bị nước ngoài vào cạnh tranh hay không? Chắc chắn là không!

Và đó chính là điều mà Anne Krugger đã cảnh báo.

Thứ hai, nếu Việt Nam không vào WTO và các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục làm ăn kém hiệu quả thì chính đây sẽ là một trở ngại cho sự hình thành và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. TS. Lê Nết khi đề cập đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã không chỉ ra những doanh nghiệp loại này sẽ hoạt động trong những lĩnh vực nào.

Thật ra điều này không khó, ai cũng có thể thấy rằng những doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu tập trung ở khu vực dịch vụ và công nghiệp nhẹ cung cấp một số chủng loại hàng tiêu dùng có giá trị gia tăng không cao và một số sản phẩm là đầu vào cho các ngành công nghiệp lớn. Khi những doanh nghiệp lớn tiếp tục trì trệ và ít chịu sức ép cạnh tranh từ bên ngoài thì những doanh nghiệp lớn đó chẳng cần lo nghĩ đến việc liên kết phát triển những nhà cung cấp đầu vào cho mình với giá rẻ.

Xin lấy một ví dụ điển hình ở Việt Nam. Hiện nay các nhà máy sản xuất (đúng hơn là lắp ráp) xe hơi ở Việt Nam đa phần là nhập linh kiện từ bên ngoài, tỷ lệ nội địa rất thấp. Tình hình này cũng đã từng xảy ra trong ngành công nghiệp xe máy cách đây hơn chục năm. Nhưng khi làn sóng xe máy Trung quốc tràn vào thì các nhà máy sản xuất xe trong nước phải tìm cách giảm giá thành bằng cách nội địa hóa các linh kiện xe máy. Và đó chính là một cú hích cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh sản xuất linh kiện xe máy.

Việt Nam có nhiều mặt hàng để bán!

Thế mạnh cạnh tranh của Việt Nam, theo TS. Lê Nết viết rằng: “Sau khi vào WTO, Việt Nam sẽ bán dầu thô, gạo, hàng may mặc, thủy hải sản dạng thô, và mua tất cả các mặt hàng còn lại! Song, ngoại trừ hàng may mặc, các mặt hàng xuất khẩu còn lại không phụ thuộc vào việc có tham gia vào WTO hay không”.

Thực ra, may mặc nói riêng và các loại hàng hóa tiêu dùng trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ nói chung (dày dép, xe đạp, bàn ghế) đã và đang là những thế mạnh của Việt Nam. Những ngành này không cần nhiều vốn và công nghệ cao trong khi cần nhiều nhân công mà Việt Nam không thiếu. Đúng là hàng tiêu dùng của Trung quốc đang tràn ngập các siêu thị trên thế giới, nhưng những vụ kiện phá giá một số sản phẩm công nghiệp nhẹ của Việt Nam (xe đạp, pin) ở một số nước cho thấy chúng ta thực sự có thế mạnh cạnh tranh trong lĩnh vực này.

Có hai lý do Việt Nam không sợ sự canh tranh của Trung Quốc. Thứ nhất là chiến lược kinh doanh “không bỏ hết trứng vào một rọ” của các nhà đầu tư nước ngoài. Trong vài tuần gần đây, giới kinh doanh quốc tế cho rằng Việt Nam sẽ đón nhận một làn sóng đầu tư nước ngoài rất lớn vì nhiều công ty đa quốc gia muốn dàn trải rủi ro nên bắt đầu giảm bớt đầu tư vào Trung Quốc (xem Business Week và Asia Pulse).

Việc Canon đầu tư một nhà máy sản xuất máy in laser lớn nhất thế giới hay Intel quyết định đầu tư vào một nhà máy sản xuất chip ở Việt Nam là một ví dụ.

Ngay cả ngành dệt may cũng vậy, kể cả khi Trung Quốc gần như chiếm ưu thế tuyệt đối, Việt Nam, Campuchia, Bangladesh, Thổ nhĩ kỳ vẫn xuất được hàng vì các nhà bán lẻ (retailer) không muốn mua hàng từ một nguồn duy nhất là Trung Quốc.

Thứ hai là sự đa dạng hàng hóa. Với các mặt hàng tiêu dùng thì không có nhãn hiệu nào giống nhãn hiệu nào và một nhà sản xuất năng động luôn có đưa ra những mẫu mã mới để tránh bị cạnh tranh từ những nhà sản xuất lớn hơn.
Trên thực tế các nhà sản xuất xe đạp của Việt Nam đã rất thành công khi không đối đầu trực diện với xe đạp Trung Quốc mà chuyển sang sản xuất xe đạp điện. Người Việt Nam đầy đầu óc kinh doanh, đi bất cứ ngõ hẻm nào ở Hà nội và Sài gòn bạn cũng có thể “ngửi” thấy mùi kinh doanh (entrepreneurship), đây là nhân xét của James Riedle, một nhà kinh tế rất gần gũi với Việt nam cách đây gần 10 năm.

Với những khả năng như vậy, chúng ta chắc chắn sẽ lách qua được “rừng” hàng tiêu dùng “Made in China” để xuất hàng công nghiệp nhẹ của Việt Nam ra thế giới. Và Việt Nam cần vào WTO để ít ra cũng có một xuất phát điểm cạnh tranh ngang bằng Trung Quốc, để tránh những vụ kiện phá giá không đáng có, để bạn hàng tin tưởng hơn, để có nhiều cơ hội học hỏi hơn.

"Còn nhiều nước xếp hàng chờ vào WTO"

TS. Lê Nết viết rằng “cần nâng cao được sức cạnh tranh trước khi hội nhập; chứ không phải hội nhập đi đã, rồi chờ sức cạnh tranh sẽ tự nâng cao”. Đúng là chúng ta lúc nào cũng cần phải nâng cao tính cạnh tranh chứ không phải đợi đến lúc vào WTO mới làm. Tuy nhiên nếu cứ núp sau sự bảo hộ thì liệu chúng ta có nâng cao được sức cạnh tranh hay không?

Câu trả lời của Anne Krugger như đã nói ở trên là không.

Thêm vào đó, những người cổ súy cho việc gia nhập WTO không bao giờ cho rằng cứ gia nhập đã rồi sẽ tăng sức cạnh tranh. Trái lại, lập luận căn bản của việc gia nhập WTO nói riêng hay cổ vũ cho mậu dịch tự do (free trade) nói chung là từ lý thuyết “lợi thế so sánh” (comparative advantage) ra đời cách đây gần 200 năm. Lý thuyết này cho rằng bất kỳ nước nào cũng có lợi thế (tương đối) riêng của mình nên sẽ có khả năng cạnh tranh đặc thù khi tham gia vào một hiệp định thương mại tự do. Nếu biết khai thác thế mạnh của mình, bất cứ nước nào cũng sẽ gia tăng tốc độ phát triển và có thể chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng có lợi nhất cho mình.

Đài Loan là một điển hình của việc vận dụng lý thuyết comparative advantage để phát triển. Trong những năm 50 của thế kỷ trước, Đài Loan có hoàn cảnh rất giống Việt Nam hiện tại - nghèo, đông dân, kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Với chính sách mở cửa ra bên ngoài, xuất khẩu của Đài Loan đã đi lên từ những sản phẩm nông nghiệp, đến những mặt hàng tiêu dùng công nghiệp nhẹ như dệt may, rồi đến các sản phẩm điện tử, và bây giờ là một số sản phẩm công nghệ cao có giá trị gia tăng lớn. Chính sách hướng ra bên ngoài như vậy đã giúp cho hệ thống các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Đài Loan phát triển, là nền tảng của cả nền kinh tế của Đài Loan sau này. Và Đài Loan đã không đợi đến khi họ có đủ sức cạnh tranh mới mở cửa.

Thay cho lời kết - Cái giá của việc gia nhập WTO, ông Nguyễn Đình Lương nói: "Chưa có nước nào nói bị thiệt vì gia nhập WTO”. Có lẽ cần bổ xung thêm vào câu nói của ông Lương là bên cạnh đó, "còn rất nhiều nước đang xếp hàng để được vào".

Một thực tế khác cũng cần nhìn nhận là nhiều nước có điều kiện kinh tế xã hội (bao gồm cả khuôn khổ luật pháp) cũng chỉ bằng hay thậm chí còn kém Việt Nam (Campuchia, Mông cổ, Cu ba) hiện đã là thành viên của tổ chức này.

Chưa thấy có thành viên nào của WTO xin ra cả!

@vanphuc:cám ơn em đã cho link nhưng anh xin đăng cả 2 bài cho mọi người tiện so sánh.







Re:Gia nhập WTO - được và mất?

Viết bởi Nguyen Tran Phuong » Ba T1 10, 2006 11:31 pm

Đúng là nên vào WTO nhưng không phải bằng mọi giá.
Điều này còn có một ý nghĩa khác nữa là, không vào WTO thì vẫn có thể có con đường khác.

Ví dụ về sản xuất Otô. Tuy không vào WTO,nhưng vẫn có thể tạo ra môi trường cạnh tranh tốt trong nước để thúc đẩy công nghiệp otô. Chẳng hạn chỉ chơi với Nhật về lĩnh vực sản xuất Otô. Sẽ ký kết với Nhật về việc mở cửa thị trường ô tô trong nước,đổi lại Nhật sẽ giúp Việt Nam thu mua đồ nông sản chẳng hạn.Như vậy có phải là vừa tiếp cận được với nền công nghiệp ô tô tiên tiến vừa xuất được đồ nông sản sang một thì trường rất lớn. Cũng như vậy,chỉ cần chơi với một số nước về một số lĩnh vực cụ thể. Sẽ đặt câu hỏi là, nói thế thì đơn giản chứ ai chịu kí kết với mình như vậy??? Nếu nhìn thế này thì sẽ thấy có nhiều khả năng thành công trong việc kí kết hợp tác đơn phương. Vì rất nhiều nước đã tham gia vào WTO,hơn nữa lại bao nhiêu nước đang muốn vào. Như vậy sẽ nảy sinh ra nhu cầu hợp tác đơn phương, vì các nước vào WTO đã chịu một luật chung rồi. Mình đứng ngoài có thể linh động được những trận đánh đơn phương đó. Rồi các bạn xem, sẽ đến lúc người ta đòi rút ra khỏi WTO???bởi vì sẽ đến lúc họ thấy rằng hợp tác đơn phương cũng là một cách tốt khi mà cơ hội hợp tác đơn phương đến với họ.

Có lẽ diễn đạt hơi khó hiểu.Lấy ví dụ thế này cho dễ hiểu. Ví dụ tổ chức thi quốc tế thiết kế nhà quốc hội VN. Cuối cùng mình trọn được một công ty của Đức thiết kế. Thế là mình mời họ hợp tác luôn trong việc thiết kế tại Việt Nam tất cả các công trình khác,và chỉ cho phép thêm một công ty thiết kế khác của Nhật tham gia thiết kế tại VN, vì biết rằng chỉ cần hai công ty của Đức và Nhật thôi cũng đầy đủ những chi thức cơ bản và có công nghệ cao nhất trong thiết kế bây giờ...không cần mời thêm những cho khác cho phức tạp. Và cũng chỉ cần hai công ty này vào Việt Nam thì sẽ vừa đủ tạo ra một môi trường cạnh tranh hiệu quả nhất. Vì không phải rằng cứ môi trường cạnh tranh càng khốc liệt thì kinh tế xã hội sẽ càng phát triển.

Cái khó là làm sao lấy được sự cân bằng trong quan hệ với các nước.