Bạn đang xem trang 1 / 2 trang

Cái nhìn mới : Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc

Đã gửi: Năm T2 05, 2009 2:42 pm
Viết bởi Nguyễn Tuấn Anh
Như tiêu đề của topic,nơi đây sẽ là chỗ của những cái nhìn về 1 trong những vấn đề tôi rất quan tâm Quan hệ Việt Nam- Trung Quốc.Nói là cái nhìn mới nhung có thể đối với nhiều người đây là những chuyện biết rồi,nhưng đối với tôi đó là những chuyện tôi chưa được biết và có thể có nhiều bạn cũng chưa biết.Mình hy vọng topic này sẽ giúp cho chúng ta có cái nhìn hiểu biết hơn về chủ đề này.
(tôi cũng rất mong nhận được những lời bình luận của những người hiểu chuyện để chúng ta có cái nhìn thật đúng đắn nhất .Xin cảm ơn )

Re:Cái nhìn mới : Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc

Đã gửi: Năm T2 05, 2009 2:46 pm
Viết bởi Nguyễn Tuấn Anh
Bài đầu tiên,xin được nói về vấn đề tôi từng ko vui nhất trong lịch sử:"cải cách ruộng đất".Nhưng các bạn có biết không?Đằng sau nó vẫn là bàn tay của TQ.Xin trích 1 bài viết bên trang http://www.x-cafevn.org.Trong bài này còn nhiều vấn đề đánh để ta suy nghĩ:
Bùi Minh Quốc

Trân trọng gửi nhà văn - chiến sĩ Nguyễn Khắc Phục từng chiến đấu trên chiến trường Khu 5 cũ đang tiếp tục can đảm chiến đấu chống bành trướng, cùng toàn thể các đồng nghiệp, các cán bộ đảng viên và các bạn đọc quan tâm đến dân sự quốc sự.

Kính nhờ báo Văn Nghệ, báo Nhân dân, báo Người Đại biểu Nhân dân cùng tất cả các đài, báo trong ngoài nước và trên mạng internet công bố giùm.

Đúng ra, đối với đất nước ta, chủ nghĩa bành trướng hiện đại Trung Quốc đã có cả “diễn biến vũ trang” lúc rộ lên, lúc âm thầm nhỏ lẻ, và trong cái im ắng của những năm tháng bình yên thì kẻ thù nguy hiểm truyền kiếp phương bắc vẫn không ngừng chuẩn bị cho “diễn biến vũ trang”, nhưng dưới đây xin chỉ tập trung nói về diễn biến hòa bình.

Lâu nay khi nói đến “chống diễn biến hòa bình” chúng ta thường chỉ chú ý nhìn về phía tây, phía các nước đế quốc thù địch cũ.Thế là chệch hướng rất tai hại, là mất cảnh giác rất nghiêm trọng, một sự mất cảnh giác chiến lược.

Hãy cùng nhau đọc lại một đoạn hồi ký của bậc lão thành cách mạng Hoàng Tùng, nguyên bí thư trung ương Đảng, trưởng ban tuyên giáo trung ương: “Mùa thu năm 1950, Trung Quốc phái hai đoàn cố vấn sang Việt Nam. Một đoàn chính trị do La Quý Ba làm Tổng cố vấn. La Quý Ba trước là bí thư của Mao, bí thư Sơn Tây. Ông này là người nghiêm chỉnh, phục Mao Trạch Đông như một ông thánh. Ông là người tin cẩn của Mao. Còn Tổng cố vấn về quân sự là Vi Quốc Thanh. Đoàn cố vấn quân sự đông hơn, vì nó có đủ cả các bộ máy của quân sự. Ta không hiểu thâm ý của Trung Quốc là muốn sửa ta. Họ sang để giới thiệu kinh nghiệm Trung Quốc, lý luận Mao Trạch Đông, lý luận quân sự, tổ chức quân đội. Việc đầu tiên là họ sửa đổi đã. Họ sửa cả Đảng trong quân đội cho nên mới lập ra chức chính ủy. Trước, ta chỉ có chính trị viên. Cũng là chính trị cả nhưng có khác nhau về chức năng. Chính ủy là người bao trùm lên Tư lệnh, chứ không phải Tư lệnh là người quyết định. Lập ra Chính ủy là để xác định vị trí của Đảng, mà việc đầu tiên là nhằm vào ông Giáp. Vì ông Giáp xuất thân từ trí thức, năm 1950 mới có 10 tuổi Đảng, mặc dù ông tham gia cách mạng từ những năm 1930, nhưng ông hoạt động bị bắt rồi lại đi học mãi đến năm 1940 mới được Bác kết nạp vào Đảng, theo Trung Quốc ông là một trí thức xuất thân không phải công nông, mà để ông nắm quân sự thì không ổn. Đặt ra những Chính ủy để phụ trách Đảng trong quân đội. Có người đưa cho đoàn cố vấn một danh sách cán bộ trong quân đội xuất thân gia đình không phải là công nông định để gạt ra khỏi quân đội. Ai đưa danh sách này cho đoàn cố vấn? Tôi ngờ rằng đó là một người trong quân đội (…). Ông Giáp mới đưa danh sách đó cho Bác, Bác bảo đốt ngay đi, thay bằng ấy người thì quân đội không còn cán bộ…”.

Đoạn vừa trích dẫn trên là rút từ một bản photo truyền tay nhiều năm nay trong các lão thành cách mạng, các cựu chiến binh và các nhà nghiên cứu, tôi nêu ra để bạn đọc tham khảo khi đối chiếu với thực tế lịch sử trước và sau năm 1950. Phần tôi thì tôi tin những điều ông Hoàng Tùng kể là có thật; cũng như nhà văn Nguyễn Khải viết “Đi tìm cái tôi đã mất”, bậc lão thành Hoàng Tùng tự buộc mình phải nói với mọi người những sự thật quan thiết đến vận mệnh dân tộc để đáp ứng nhu cầu tâm linh của một người cao tuổi đã sắp về cõi.

Qua vụ việc ông Hoàng Tùng kể, ta thấy cái đòn “diễn biến hòa bình” của Trung Quốc trước hết nhằm vào quân đội ta (hãy nhớ đến luận điểm “súng đẻ ra chính quyền, súng chỉ huy Đảng” của Mao Trạch Đông), nhằm vào từ người đứng đầu là đại tướng tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp cho đến hàng loạt sĩ quan trung cao cấp, và đòn này được sự hưởng ứng (hay tiếp tay?) ngay từ trong nội bộ ta. May mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã lẳng lặng dẹp khéo ngón đòn ấy, không thì chúng ta không thể có được Điện Biên Phủ.

Nhưng đến cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức với cả một hệ thống cố vấn Trung Quốc từ trung ương tới địa phương kèm sát các đoàn ủy của ta thì mưu đồ nham hiểm bất thành nêu trên đã thành công ở qui mô chưa từng thấy, dưới một hình thái bi thảm chưa từng thấy: Đảng ta tự đưa mình vào cảnh dùng tay nọ chặt tay kia. Hàng nghìn cán bộ đảng viên, hầu hết là những người tận tụy nhất, trung kiên nhất, hy sinh nhất, những người con ưu tú nhất của Đảng, của dân tộc bị giết, bị hành hạ, tù đầy, số sống sót thì bị vô hiệu hóa. Hàng vạn người dân lương thiện, trong đó nhiều người là ân nhân của cách mạng và kháng chiến cũng chịu cảnh tương tự. Tổn thất này vượt ngàn lần so với những tổn thất do thực dân đế quốc gây ra, cùng những hệ lụy tai hại dai dẳng về mọi mặt, nhất là về chính trị và văn hóa.

Nói cho chính xác thì qua vụ cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, Đảng ta đã rơi vào cảnh tự chặt đứt dưới chân mình những cội rễ dân tộc mà từ đó Đảng được sinh ra. Đường lối giai cấp trong công tác cán bộ chính thức xác lập, đưa hàng vạn nông dân thất học vốn hiền lành chất phác nhưng được bồi dưỡng để nói điêu, tố điêu rất giỏi, thoắt cái đã trở thành cán bộ cốt cán. Khối đại đoàn kết toàn dân chỉ còn là hình thức, Mặt Trận trở thành nơi trình diễn sự đoàn kết bề ngoài, bên trong là “đoàn kết” kiểu chơi cha thiên hạ.

Giáo sư Phan Ngọc trong bài “Những suy nghĩ ban đầu về vấn đề học thuyết Hồ Chí Minh” cho biết một chi tiết quan trọng trong lịch sử Đảng bấy lâu bị bưng bít: “…khi anh Đào Duy Dếnh tức Đào Phan bí thư thành ủy Hà Nội bị bắt vào tù, anh tuyên truyền đường lối Việt Minh cho anh em cộng sản trong nhà tù Sơn La thì mọi người đều tán thành, nhưng có một người nói: “Có một Nguyễn Ái Quốc chứ mười Nguyễn Ái Quốc mà đi theo con đường ấy cũng thất bại”. Người đó là Lê Đức Thọ”(trang 9 tạp chí“Biển và Bờ” tháng 5.2008). “Con đường ấy” mà Lê Đức Thọ bài bác chính là con đường do Nguyễn Ái Quốc vạch ra, là đường lối Việt Minh – đường lối đoàn kết toàn dân đánh Pháp đuổi Nhật được quyết định tại hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 8 tháng 5 năm 1941.

Nhà cách mạng lão thành Nguyễn Hữu Đang lúc sinh thời, từng kể với nhà thơ Phùng Quán và người viết bài này (tại chòi ngắm sóng của anh Phùng Quán): Hồi ở Việt Bắc, có thời gian sức khỏe yếu, ông được cho đi nghỉ dưỡng. Phụ trách cơ sở nghỉ dưỡng là một cán bộ cao cấp nhưng có tính hay nói tục (sau này lên tới cấp tướng, ở trong trung ương nhiều khóa nhưng vẫn hay văng tục). Một buổi tối ngồi quây quần trò chuyện, khi đề tài chuyển đến vấn đề đoàn kết dân tộc, đoàn kết tất cả những người yêu nước không phân biệt giai cấp, thì cái vị hay văng tục kia bật ra một câu khiến ông nhớ đời: nói thế chứ đoàn kết thế đéo nào được! (xin phép bạn đọc tôi ghi nguyên si cái từ văng tục của vị kia đúng như cụ Nguyễn Hữu Đang đã kể).

Thế lực bành trướng trong giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc dễ dàng nhận ra: từ khá sớm, trong đầu óc không ít cán bộ nòng cốt cao cấp của Đảng ta luôn có một mảnh đất mầu mỡ để gieo và thúc cho bốc nhanh những mầm mống giai cấp chủ nghĩa dù tạm thời bị xẹp xuống sau thất bại của Xô viết Nghệ Tĩnh nhưng sẽ sẵn sàng mọc dậy khi có cơ hội. Đấy chính là bàn đạp êm ái và đắc dụng nhất cho những bước chân bành trướng mà tất cả các thế lực bành trướng cổ truyền phương bắc chưa hề có được.

Sau cải cách ruộng đất, ủy viên bộ chính trị Lê Đức Thọ làm trưởng ban Tổ chức trung ương, nắm quyền về cấu trúc, xây dựng tổ chức và sắp đặt nhân sự trong toàn Đảng. Nắm tổ chức, nắm nhân sự là nắm thực quyền hầu như toàn quyền rồi còn gì! Xin hãy nhớ, Lê Đức Thọ nắm tổ chức (có thời gian còn nắm luôn cả tư tưởng) mấy chục năm liên tục cho tới 1986.

Hãy cùng nhau đọc lại những trang hồi ký của nhà cách mạng lão thành Nguyễn Văn Trấn ghi lời kể của ủy viên trung ương Đảng Bùi Công Trừng về hành xử của Lê Đức Thọ trong hội nghị trung ương lần thứ 9, năm 1963; nhân vật đầy quyền uy này ngang nhiên chặn lời cả cụ Hồ - “Bác phải để cho anh em người ta nói chứ!” - và lúc giải lao, Lê Đức Thọ cầm thuốc lá đi mời người này người nọ vừa làm ra vẻ “gần gũi” vừa để “chiếu tướng”. Sau hội nghị, lập trường chính trị của Đảng ta ngả hẳn sang lập trường của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, hữu nghị với Liên Xô chỉ là bề ngoài để có vũ khí đánh Mỹ, bên trong là theo Trung Quốc chống Liên Xô kịch liệt. Xảy ra cái gọi là “Vụ án xét lại chống Đảng” do Lê Đức Thọ làm trưởng ban chuyên án, được phong (hoặc tự phong) là “tư lệnh đánh xét lại”, mà sau này nhà ngoại giao Nguyễn Khắc Huỳnh trong hồi ký của mình nhận xét rằng đó chỉ là thủ đoạn nham hiểm dựng ra vụ án nhằm thanh toán các đồng chí thật sự tài đức để thoán đoạt quyền bính. Hàng trăm cán bộ sĩ quan trung cao cấp trong và ngoài quân đội cùng gia đình họ bị tù đày, hành hạ triền miên, có người đã chết trong tù, về sau các nạn nhân kể rằng mọi cuộc thẩm vấn đều cố gán ép để họ khai một điều gì đó dính líu đến đại tướng Võ Nguyên Giáp nhưng không ai khai cả vì chẳng có gì để khai (Xin lưu ý: đại tướng Võ Nguyên Giáp một lần nữa lại là đích nhắm của các âm mưu đen tối, và cũng xin lưu ý: vụ việc xảy ra khi ta sắp phải đối đầu trực tiếp với Mỹ, còn Trung Quốc âm thầm chuẩn bị bắt tay với Mỹ và nắm Pôn-pốt thủ lĩnh Khơ - me Đỏ).

Có bao giờ âm mưu và thủ đoạn diễn biến hòa bình của phương Tây và của các thế lực bành trướng cổ truyền Trung Quốc đạt kết quả to tát như thế chưa?

Chưa.

Bởi vì phương Tây và các thế lực bành trướng cổ truyền Trung Quốc không có được mối quan hệ giữa hai “Đảng anh em” cầm quyền trên hai đất nước xung đột lâu đời về lợi ích quốc gia. Tính chất đặc biệt nguy hiểm trong âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa bành trướng hiện đại Trung Quốc đối với nước ta chính là ở đấy: bành trướng thông qua mối quan hệ giữa hai Đảng cầm quyền. Và tính chất đặc biệt nguy hiểm này chưa bao giờ được đề cập, được làm rõ trong công tác lý luận và tư tưởng, thậm chí còn cố tình lờ đi. Chính nhờ mối quan hệ giữa hai Đảng mà bọn Trần Ích Tắc, bọn Lê Chiêu Thống hiện đại thẻ - đỏ - tim - đen mới ẩn náu lâu đến thế, sâu đến thế trong bộ máy cầm quyền, và bọn này đã từ trong bóng tối ung dung thực hiện mọi âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình” một cách “chính thống”. Chưa hề có một cuộc kiểm điểm đến nơi đến chốn về công tác tổ chức công tác cán bộ và công tác tư tưởng, những khâu có tính quyết định, là nguyên nhân của nguyên nhân mọi thành công và mọi sai lầm, nhất là những sai lầm dẫn đến tội ác (xảy ra ngay trong Đảng và ngoài xã hội) trước và sau khi có đổi mới (1986). Công tác bảo vệ chính trị nội bộ (trước kia gọi là bảo vệ Đảng) cũng chưa hề cho toàn Đảng toàn dân thấy tình hình thế lực bành trướng cài cấy người của chúng vào nội bộ ta như thế nào và ta đã đối phó ra sao, chỉ thấy những sai lầm chính trị mang tính hồ đồ rất có hại cho khối đại đoàn kết toàn dân và có lợi cho kẻ địch bành trướng như đẩy người Hoa về nước trong đó có rất nhiều bà con đã đóng góp của cải xương máu cho cách mạng Việt Nam, loại ra ngoài tổ chức hoặc vô hiệu hóa rất nhiều đảng viên người Hoa hoặc gốc Hoa từng chiến đấu vào sinh ra tử, dâng hiến cuộc đời cho Tổ Quốc Việt Nam và cách mạng Việt Nam như một con dân đất Việt. Sau sự hồ đồ đó lại là một trạng thái như thể không còn tên địch nào của thế lực bành trướng cài cắm trong nội bộ ta nữa.

Hãy cùng nhau mở lại báo Tuổi Trẻ ngày 27.4.2008 để đọc trên trang nhất một đoạn trong bài “Trị “chạy” chức” của nguyên phó ban tổ chức trung ương phụ trách công tác bảo vệ chính trị nội bộ Nguyễn Đình Hương:

“Vụ chạy chức ở Cà Mau không phải cá biệt, có thể nói cái sự “chạy” thì nơi nào cũng có, cấp nào cũng có, trung ương cũng có, tỉnh có, huyện có, các bộ ngành đều có…” ( ) “và chạy ở mức 100 triệu đồng chưa là cái gì, tôi biết có những trường hợp “chạy” lớn hơn nhiều”( ) “Chừng nào công tác cán bộ vẫn do một người hoặc một nhóm người quyết định mà người dân “chẳng biết đâu mà lần”, nạn “chạy chức, chạy quyền” sẽ vẫn còn đất sống”.

Có phải tình trạng “công tác cán bộ vẫn do một người hoặc một nhóm người quyết định” chính là tình trạng cố hữu từ thời trưởng ban Lê Đức Thọ chưa bao giờ được kiểm điểm làm rõ nên kéo dài suốt cho đến nay? Với một tình hình như thế, lấy gì đảm bảo kẻ địch bành trướng không cài cấy ngày càng sâu và ngày càng cao lực lượng của chúng trong nội bộ ta? Những vụ việc nghiêm trọng về gian lận đảng tịch và nhiều vấn đề nghiêm trọng khác của các đảng viên cao cấp Lê Đức Anh, Nguyễn Khoa Điềm, rồi vụ T4, vụ Tổng cục 2 hoạt động phá hoại có hệ thống kéo dài v.v… bị các lão thành cách mạng tố cáo và đòi hỏi phải giải quyết rốt ráo bao năm nay vẫn chưa xử lý rành mạch có liên quan gì đến những yếu kém, sự chệch hướng hoặc cố ý chệch hướng và buông lỏng trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ?

Gần đây, tại cuộc hội thảo triển khai nghị quyết 23 của Bộ chính trị về văn hóa văn nghệ, ủy viên bộ chính trị, thường trực ban bí thư trung ương Trương Tấn Sang cảnh báo: “Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình” nhằm tạo ra sự “tự diễn biến” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa trong xã hội ta”.

Cần đi sâu phân tích và làm rõ thêm ý kiến quan trọng nêu trên.

Trước hết phải vạch ra cho cụ thể, dứt khoát: trong “các thế lực thù địch” hiện nay, thì thế lực nào là nguy hiểm nhất?

Câu trả lời đã rõ như ban ngày: đó là thế lực bành trướng hiện đại trong giới cầm quyền Trung Quốc, chứ không phải những thế lực từ phương tây hay từ cộng đồng người Việt hải ngoại. Chúng đã và đang tạo ra sự “tự diễn biến” trong nội bộ dân tộc ta, mà trước hết là nội bộ Đảng ta như thế nào, và có phải chỉ diễn ra trong lãnh vực tư tưởng-văn hóa thôi không?

Xin nêu một dẫn chứng nho nhỏ mà tôi là một nhân chứng trực tiếp. Năm ngoái, (2007), nhà thơ Phan Đắc Lữ (một người tham gia kháng chiến từ lúc 16 tuổi, thuộc dòng họ Phan ở Bảo An, Gò Nổi, Quảng Nam, bà con gần gũi với các nhân vật yêu nước, cách mạng, và cán bộ cao cấp Phan Khôi, Phan Thanh, Phan Bôi, Phan Diễn…) đưa tôi đọc bản thảo tập thơ “Bốn mùa tôi” của ông. Ông kể rằng ông gửi bản thảo để xin giấy phép của nhà xuất bản Hội Nhà văn, nhưng bị họ cắt sửa tệ hại quá nên chẳng muốn in nữa. Trong những chỗ bị cắt, có 4 câu thơ này:

Tổ Quốc ta nơi nào cũng đẹp
Từ ải Nam Quan đến Cà Mau
Sông là máu đừng đem mua bán
Núi là xương đừng lấy đổi trao
(“Ký sự ngược sông Thu”)

Quái thật! Dưới chế độ ta, lại có kẻ nào dám cả gan hạ bút cắt bỏ những câu thơ yêu nước như thế? Nhìn kỹ vào các chữ ký trên bản thảo thì thấy, trực tiếp cầm kéo cắt là biên tập viên Ngô Văn Phú, ký duyệt là giám đốc Nguyễn Phan Hách, người kế nhiệm Ngô Văn Phú (đã nghỉ hưu nhưng được mời làm tiếp trong chân biên tập). Ngô Văn Phú và Nguyễn Phan Hách thì tôi biết, đó là hai đảng viên chức sắc trong Hội Nhà Văn và giới xuất bản, khó có thể nghĩ hai nhà văn ấy không yêu nước, nhưng thật tình tôi không hiểu nổi tại sao hai ông lại đang tâm dập tắt một tiếng lòng yêu nước của đồng nghiệp? Rõ ràng, đây là bằng chứng không thể chối cãi về tình trạng “tự diễn biến”. Từ người yêu nước, hai ông đã “tự diễn biến” thành công cụ cho thế lực vong bản bên trong và bành trướng bên ngoài, nếu không sớm tỉnh ngộ thì từng ngày một, qua từng việc một, sẽ dần dà tự hủy tư cách yêu nước của người đảng viên.

Trường hợp tôi vừa kể không phải là cá biệt. Nó diễn ra đầy rẫy hàng ngày trong hoạt động báo chí và xuất bản, bắt nguồn từ một tình trạng “tự diễn biến” ở cấp cao hơn trên qui mô lớn hơn. Cách đây hơn một năm, trong thư ngỏ gửi Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam cùng toàn thể đồng nghiệp trong Hội, tôi đã nêu vấn đề:“Chủ nghĩa bành trướng trong giới cầm quyền Trung Quốc không bao giờ tự lùi bước, tự mất đi, nó là mối họa trường kỳ đối với dân tộc Việt Nam ta cùng các dân tộc Đông Nam Á, và ngay cả với chính nhân dân Trung Quốc. Mấy chục năm qua, trong sinh hoạt văn hoá của nhân dân ta thiếu vắng hẳn các công trình nghiên cứu và tác phẩm văn học nghệ thuật về đề tài này, thậm chí các cuộc chiến tranh chống bọn diệt chủng Khơ me đỏ ở Cam-pu-chia, bọn bành trướng Trung Quốc ở biên giới phía Bắc, ở biển Đông, với xương máu của hàng vạn bộ đội và nhân dân ta, cũng vô cớ (một cách cố ý) bị biến thành đề tài cấm kỵ khiến sự thật lịch sử dần bị vùi lấp. Tại sao lại có một chủ trương thiếu văn hoá, đi ngược lại lợi ích dân tộc như vậy? Vấn đề hết sức nghiêm trọng này cần sớm được làm rõ, mà Hội Nhà văn Việt Nam là nơi cần phải có tiếng nói sớm nhất”. Thư ngỏ của tôi và của nhà văn Nguyễn Khắc Phục (ông có thư ngỏ gửi các nhà văn Trung Quốc về vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa, thư ngỏ gửi thanh niên Việt Nam về nhiệm vụ chống bành trướng) bị báo Văn Nghệ cất kỹ vào ngăn kéo. Hơn một năm qua, ban chấp hành Hội Nhà văn vẫn im lặng. Không thể nghĩ là các nhà văn hội viên không yêu nước nhưng sự im lặng của ban chấp hành Hội khiến nhân dân buộc phải nghĩ rằng cái hội này đã thành công cụ của thế lực vong bản bên trong và bành trướng bên ngoài. Mà không chỉ riêng Hội Nhà văn “tự diễn biến” đáng xấu hổ như thế. Hầu hết các hội đoàn đều im lặng. Mặt trận Tổ Quốc cũng im lặng; bài phát biểu về vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa của giáo sư Tương Lai, ủy viên đoàn chủ tịch trung ương Mặt trận tại diễn đàn Mặt trận không báo nào đăng. Thanh niên, sinh viên, nhà báo, văn nghệ sĩ đi biểu tình trật tự ôn hòa trên đường phố và trước đại sứ quán, tổng lãnh sự quán Trung Quốc để trực tiếp khẳng định với đối phương Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam thì bị đàn áp thô bạo – bị quật xuống đường, bị bóp cổ, bị còng tay, rồi công an lôi về phường sách nhiễu, không từ cả đến các cựu chiến binh cao tuổi chỉ đứng bên hè hoan nghênh ủng hộ, mọi người phải phẫn nộ hỏi những người lính ăn lương từ tiền thuế của dân để làm nhiệm vụ bảo vệ dân: “Các anh có còn là người Việt Nam nữa hay không?”. Có nhà báo bị đưa ra tòa với một màn xử ngụy trang vụng về gượng gạo bằng khép tội trốn thuế. Phải chăng những người ngồi ghế xét xử đã “tự diễn biến” thành công cụ cho thế lực vong bản bên trong và bành trướng bên ngoài?

Theo nhận xét của riêng tôi, tình hình “tự diễn biến” đã trở nên rất nguy hiểm: trong nội bộ dân tộc, nội bộ đảng cầm quyền đã xuất hiện một thế lực ăn bám, ăn cắp, ăn cướp và mại bản về kinh tế, vong bản về chính trị và tư tưởng. Thế lực này núp trong bóng tối đằng sau cái bình phong Đảng lãnh đạo đang từng ngày từng giờ đẩy đảng viên vào cảnh dần dần tự hủy tư cách yêu nước của mình, đồng thời phá hoại nghiêm trọng tư cách yêu nước, tư cách vì dân của Đảng. Cách đây 20 năm, trước khi qua đời, nhà văn Nguyễn Minh Châu (giải thưởng Hồ Chí Minh) viết: “Làm thằng nhà văn Việt Nam vào lúc này mà tìm cách lẩn tránh vấn đề dân chủ là thiếu tư cách”. Tôi xin theo cái ý kiến rất xác đáng đó để nói to lên với mọi người rằng: làm người đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam vào lúc này mà tìm cách lẩn tránh vấn đề dân chủ và vấn đề chống bành trướng là thiếu tư cách.

TỔ QUỐC TRÊN HẾT, QUYỀN DÂN TRÊN HẾT

Đó là cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đó là cốt lõi của tư cách đảng viên.

Đó là tiêu chí hàng đầu trong phẩm chất chính trị của mỗi cán bộ gánh vác việc dân việc nước.

Đó là nguyên lý tồn tại của Đảng cầm quyền hiện nay và bất kỳ một đảng cầm quyền nào trong một chế độ đa đảng sau này.

Năm ngoái (2007), sau khi trúng cử đại biểu quốc hội, được báo chí hỏi ông thấy thế nào khi vẫn còn một số ít những người bỏ phiếu không bầu cho ông, chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã phát biểu (đại ý): tôi thấy cần phải tự xem lại mình. Một ý kiến rất đáng hoan nghênh, và tôi mong sớm có những việc làm đi đôi với lời nói đó; những người gánh vác việc dân việc nước cần phải thường xuyên “tự xem lại mình” từng ngày một, qua từng việc một.

Xin hãy mở lại báo Tuổi Trẻ ngày 13.01.2008 đọc trên trang nhất bài tường thuật với những hàng tít lớn sau đây:

“TẠI HỘI NGHỊ PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG, THỦ TƯỚNG NGUYỄN TẤN DŨNG: CÔNG KHAI HẾT, CẢ CHI TIÊU NGÂN SÁCH VÀ TÀI SẢN


Theo thủ tướng, có bốn nguyên nhân dẫn đến tham nhũng là thể chế còn sơ hở, thủ tục hành chính rắc rối phiền hà, tinh thần phê bình và tự phê bình còn yếu, đặc biệt là trách nhiệm của cấp ủy và người đứng đầu chưa được thể hiện”.

Gần một năm qua, tình hình tự phê bình và việc xem xét trách nhiệm của cấp ủy và người đứng đầu đã thể hiện như thế nào?

Mặt trận chống tham nhũng – theo tôi, cần phải chính thức gọi theo cách của Hồ chủ tịch là đánh giặc nội xâm – diễn biến rất xấu, những nhà báo, những sĩ quan công an được công luận thừa nhận là những chiến sĩ có công trên mặt trận này đáng lẽ được biểu dương thì lại bị áp đặt những bản án phản công lý mà các báo không được phép phân tích bình luận, vậy mà không thấy đâu một lời tự phê bình của Tổng bí thư và Thường trực ban bí thư.

Gần một năm qua, không có một nhúc nhích gì về việc công khai tài sản. Một cán bộ cao cấp phát biểu ở Quốc Hội rằng chưa công khai được vì Hiến pháp qui định phải tôn trọng quyền bí mật tài sản của công dân (!). Ái chà chà, tôn trọng Hiến pháp mà lại để luật báo chí luật xuất bản vi phạm Hiến pháp bao năm ròng như thế? Còn việc kê khai tài sản thì Hiến pháp có cấm việc tự nguyện kê khai và công bố công khai đâu? Hiến pháp và nhân dân không những không cấm mà còn hoan nghênh tất cả các ủy viên bộ chính trị, ủy viên trung ương ngay ngày mai tự nguyện công khai tài sản của mình trên các báo đài.

Xin mời các ủy viên bộ chính trị và ủy viên trung ương Đảng, các đại biểu Quốc Hội cùng tất cả mọi người đọc câu thành ngữ dân gian mới đang lưu truyền mà tôi nghe được:

"Đảng chỉ tay, Quốc hội giơ tay, Mặt trận vỗ tay, Chính phủ ra tay, Doanh nghiệp nhà nước ngửa tay, Công ty hữu hạn ngoặc tay, Công an còng tay, Tội phạm bắt tay, Báo chí chùn tay, Trí thức phẩy tay, Đồng đội cụt tay, Quan chức đầy tay, Dân trắng tay".

(Xin ghi chú ngay: tôi hiểu chữ Đảng trong câu thành ngữ trên không phải là toàn Đảng mà chỉ là một thiểu số quyền lực trong Đảng được đưa lên theo cách “công tác cán bộ vẫn do một người hoặc một nhóm người quyết định” như nguyên phó ban tổ chức trung ương Nguyễn Đình Hương đã thẳng thắn phơi bày).

Đó là hậu quả kết đọng đau đớn của tình trạng tự diễn biến bên trong và diễn biến từ bên ngoài.

Tình hình là như thế, theo sự quan sát và nhận thức của tôi.Tôi rất mong có một cuộc thảo luận bình đẳng, công khai và thẳng thắn để nhận được sự chỉ bảo xem nhận định của tôi có chỗ nào quá mức, chỗ nào chưa đúng mức so với thực tế.

Từ những nhận định về tình hình như đã trình bày, xin nêu mấy ý kiến về nhiệm vụ (đây chỉ là mấy ý kiến sơ bộ phác ra, tôi sẽ tiếp tục suy nghĩ và trình bày thêm sau, mong sớm có một cuộc thảo luận rộng rãi trong toàn Đảng toàn dân, chắc chắn sẽ xuất hiện vô vàn sáng kiến đóng góp cho công việc chung):

1- Trong nhiệm vụ chống diễn biến hòa bình, phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ chống diễn biến hòa bình của chủ nghĩa bành trướng hiện đại Trung Quốc, phải chống triệt để, thường xuyên và lâu dài trên tất cả mọi mặt nhưng trước hết phải tập trung chống thủ đoạn chiến lược diễn biến hòa bình thông qua mối quan hệ giữa hai Đảng cầm quyền.

2- Vận động toàn Đảng toàn dân yêu cầu cơ quan lãnh đạo Đảng phải tiến hành ngay việc xem xét lại một cách căn bản mối quan hệ giữa Đảng ta và đảng Cộng sản Trung Quốc (theo tôi, thực tế lịch sử đã cho thấy đó là mối quan hệ giúp một hại mười, sự giúp đỡ là của nhân dân Trung Quốc, chúng ta đời đời ghi ơn, nhưng thế lực bành trướng luôn lợi dụng sự giúp đỡ đó để thực hiện mưu đồ bành trướng). Trong khi chờ đợi cơ quan lãnh đạo bắt tay vào việc thì toàn Đảng toàn dân phát huy tinh thần làm chủ, tích cực chủ động tiến hành xem xét lại mối quan hệ đó, đặc biệt là các bậc lão thành, các nhân chứng lịch sử cần nghiêm túc chấp hành chủ trương “Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật” mà Đảng khởi xướng từ đại hội 6, nói cho toàn Đảng toàn dân biết những sự thật bấy lâu bị bưng bít như lão thành cách mạng Hoàng Tùng đã nói (nhưng cũng chỉ mới nói được một phần nhỏ).

3- Vận động toàn Đảng toàn dân yêu cầu cơ quan lãnh đạo Đảng tiến hành rà soát lại công tác tổ chức công tác cán bộ, công tác bảo vệ chính trị nội bộ từ sau cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức đến nay, tập trung làm rõ những sai lầm chiến lược đã dẫn đến chỗ Đảng rơi vào tình trạng tự làm sa sút, làm mất dần và có nguy cơ mất hẳn tư cách một Đảng yêu nước, vì dân.

Trên cơ sở đó mà tiến hành chỉnh đốn Đảng, đổi mới công tác tổ chức, công tác cán bộ theo đúng tiêu chí TỔ QUỐC TRÊN HẾT, QUYỀN DÂN TRÊN HẾT. Trước mắt vận động thực hiện nguyên tắc mà các nguyên tổng bí thư Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu đã nêu: không nhất thiết phải là đảng viên mới được làm bộ trưởng, theo đó có thể tiến hành thực hiện lựa chọn người gánh vác việc dân việc nước chỉ căn cứ vào đức tài bất kể những người đó có là đảng viên hay không, làm được như vậy chắc chắn rằng những phần tử cơ hội chui vào Đảng để làm quan sẽ sớm tự động bỏ Đảng, việc chỉnh đốn Đảng sẽ sớm đạt hiệu quả cao.

4- Vận động toàn Đảng toàn dân yêu cầu cơ quan lãnh đạo Đảng tiến hành xác định lại tính chất của Đảng, chuyển từ Đảng của giai cấp thành Đảng của dân tộc – Đảng là tập hợp tinh hoa trí tuệ và đạo đức từ mọi giai cấp và tầng lớp của dân tộc, chỉ có như thế Đảng mới xứng đáng với vị trí cầm ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc. Trước mắt cần:

- Tổ chức học tập trong toàn Đảng “tự xem lại mình” về thái độ yêu nước thụ động rất xa lạ với truyền thống dân tộc làm sa sút nghiêm trọng tư cách yêu nước của Đảng, đồng thời làm rõ trách nhiệm cá nhân về chủ trương đàn áp những người biểu thị lòng yêu nước trên đường phố vừa qua, trả tự do ngay cho những người đang bị giam cầm.

- Vận động toàn Đảng toàn dân đề nghị không nên treo cờ Đảng ngang với cờ Tổ Quốc vì trái với khẩu hiệu TÔ QUỐC TRÊN HẾT mà Hồ chủ tịch đã nêu ra từ Cách mạng Tháng Tám 1945.

- Vận động toàn Đảng toàn dân đề nghị giữ đúng lời thề của lực lượng vũ trang nhân dân mà Hồ chủ tịch đã nêu “Trung với nước, hiếu với dân”, không nên tùy tiện thêm mệnh đề “Trung với Đảng” vì như thế binh sĩ sẽ mất tinh thần chiến đấu khi nhìn vào tình trạng Đảng đang sa sút tư cách yêu nước, tình trạng chạy chức chạy quyền diễn ra phổ biến trong Đảng, công tác chính trị tư tưởng trong lực lượng vũ trang sẽ bế tắc, và chung cục sẽ rơi vào bẫy của chủ nghĩa Mao, những thế lực thẻ-đỏ-tim-đen nhân danh Đảng nắm quân đội sẽ thực hiện mưu đồ chính quyền trên đầu súng, súng chỉ huy Đảng. Trong khi chờ đợi sự thay đổi ở cấp vĩ mô thì toàn Đảng toàn dân tích cực chủ động vận động giáo dục thanh niên Việt Nam nắm vững quyên công dân, mỗi thanh niên làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ Quốc, bảo vệ trật tự trị an cho đời sống nhân dân hoàn toàn có quyền chỉ hô “Trung với nước, hiếu với dân”, và người nào thực lòng không thuận với sự thêm thắt mấy tiếng “trung với Đảng”, người ấy hoàn toàn có quyền nói thẳng với cấp trên rằng nếu ép buộc phải hô cả mấy tiếng ấy thì đó chỉ là hô gượng gạo ngoài miệng mà thôi.

5- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục bồi dưỡng lòng yêu nước, ý chí bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, làm cho toàn Đảng toàn dân, các thế hệ hôm nay và mai sau, ý thức sâu sắc về mối họa bành trướng, về nhiệm vụ chống chủ nghĩa bành trướng hiện đại Trung Quốc. Cụ thể là:

- Sớm biên sọan để đưa vào sách giáo khoa các cấp bài học về địa lý, lịch sử hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa - những phần lãnh thổ thiêng liêng của đất nước Việt Nam mà tổ tiên để lại cho con cháu có nhiệm vụ gìn gữ hiện đang bị Trung Quốc xâm chiếm.

- Các báo đài sớm công bố các hiệp định về ranh giới trên đất liền và trên biển (có kèm bản đồ cụ thể) giữa nước ta và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, đồng thời mở mục thường xuyên về đề tài chống bành trướng, giữ nước, vận động toàn Đảng toàn dân tham gia viết bài, trước mắt đề nghị Quốc Hội, Chính phủ cần có các tuyên bố ngang cấp với các tuyên bố của Trung Quốc về vấn đề Hoàng Sa Trường Sa.

- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về vấn đề chống bành trướng, về chiến lược chiến thuật ứng xử trong quan hệ giữa nước ta với Trung Quốc, giải quyết tốt quan hệ giữa thái độ cương nhu trên bàn đàm phán với việc biểu thị lòng yêu nước của toàn Đảng toàn dân, chú ý phê phán lập luận ngụy biện nhân danh sự mềm dẻo trong đối ngoại để che dấu thái độ bạc nhược chư hầu làm suy yếu sức mạnh nghìn đời của dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại mà vị trí mới của Việt Nam trên trường quốc tế là nhân tố rất quan trọng. Trước mắt cần cho công bố ngay những công trình đã có và tái bản những gì đã được xuất bản trước đây về đề tài này. Biên soạn những cuốn sách mỏng về Hoàng Sa Trường Sa phát hành đến tận thôn cùng xóm vắng và dịch ra tiếng Trung Quốc để nhân dân Trung Quốc biết rõ thực chất tình hình.

- Đẩy mạnh sáng tác văn học nghệ thuật và các hoạt động văn hóa khác về đề tài cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, về cuộc chiến đấu giúp nước bạn Cam-pu-chia chống bọn diệt chủng Pôn-pốt tay sai của thế lực bành trướng, cuộc chiến đấu chống bọn bành trướng Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa năm 1974, xâm lấn các tỉnh biên giới phía Bắc năm 1979, một số đảo ở Trường Sa năm 1988. Cần chú ý có những bài thơ, bài hát về Hoàng Sa Trường Sa cho thiếu nhi từ tuổi mẫu giáo trở lên.

- Biểu dương những cá nhân và tổ chức có thái độ tích cực chủ động trong việc biểu thị tinh thần giữ nước, chống bành trướng, đặc biệt chú ý biểu dương Đoàn luật sư TP HCM đã chủ động ra tuyên bố chính thức khẳng định chủ quyền của nước ta trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa với sự biểu quyết nhất trí của hàng ngàn thành viên, phát động các hội đoàn trong cả nước học tập tinh thần và phương pháp công tác của Đoàn luật sư TP HCM.

Chung qui lại, công việc chống “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa bành trướng hiện đại Trung Quốc phải do toàn Đảng toàn dân thực hiện theo đúng nguyên tắc tư tưởng Hồ Chí Minh TỔ QUỐC TRÊN HẾT, QUYỀN DÂN TRÊN HẾT, nghĩa là tất cả những người Việt Nam yêu nước phải kiên quyết nắm lấy quyền làm chủ của mình, đảng viên làm chủ Đảng, công dân làm chủ các hội đoàn mà mình tham gia, trước hết phải kiên quyết và sáng suốt làm chủ diễn đàn, làm chủ từng lời phát biểu, làm chủ từng lá phiếu để giành lại quyền làm chủ công tác cán bộ từ tay “một người hoặc một nhóm người” về tay toàn Đảng toàn dân; làm chủ là lẽ sống, là nếp sống, là niềm vui sống hàng ngày của mỗi con người, của mọi người.

Đà Lạt 30.12.2008 – BÙI MINH QUỐC
Nguồn: Viet-studies


Re:Cái nhìn mới : Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc

Đã gửi: Bảy T2 07, 2009 1:11 am
Viết bởi Nguyễn Tuấn Anh
Đây là 1 sự kiện cũ,nhưng chắc nhiều người chưa biết,xin được giới thiệu tới các bạn:
Không được loan tin hàng TQ kém chất lượng ?

Vụ việc xảy ra bắt đầu bởi những bài báo và các bản tin được phổ biến trên các đài truyền hình ở Việt Nam, liên quan đến sự kiện cả thế giới đều biết là nhiều mặt hàng kém chất lượng và gây nguy hiểm đến tính mạng của người tiêu dùng do Trung Quốc sản xuất đang là chủ đích mà nhiều quốc gia nhắm đến, đặc biệt là những nước ở Âu Châu và Mỹ.

Hầu hết những bài báo, hình ảnh được phổ biến ở Việt Nam liên quan đến vấn đề vừa nói đều được trích dẫn từ những nguồn tin nước ngoài, nhưng vẫn là cái đích mà Trung Quốc dùng để nhằm phản ứng đối với Việt Nam.

Dẫn chứng đang được giới ngoại giao làm việc ở Hà Nội nói đến là Bắc Kinh đã gọi Ðại Sứ Trần Văn Luật của Việt Nam lên để chất vấn, đặt câu hỏi tại saotruyền thông Việt Nam lại phổ biến những tin tức mà theo luận điệu của nhà nước Hoa Lục là “hoàn toàn sai lạc, không đúng với sự thật”.

Giới thạo tin ở Hà Nội cho Ban Việt Ngữ chúng tôi biết Ðại Sứ Việt Nam đã đưa ra những lời giải thích nghiêm chỉnh, quyết liệt, cho rằng những bài viết, hình ảnh được giới truyền thông loan tải liên quan đến hàng hóa của Trung Quốc gặp khó khăn ở một số thị trường là những thông tin khách quan và chính xác, nhằm vào các mục tiêu: hàng hóa phải có tiêu chuẩn, bảo vệ được sức khỏe của người tiêu dùng và hướng đến thương mại lành mạnh.
Các biện pháp trả đũa của Bắc Kinh

Lời giải thích mà nhà ngoại giao cao cấp nhất của Việt Nam tại Trung Quốc đưa ra vẫn không ngăn cản được phản ứng đến từ Trung Quốc: Bắc Kinh bắt đầu chận hàng hóa của Việt Nam tại cửa khẩu để kiểm dịch gắt gao hơn trước, và hiện giờ nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam bị ách lại.

Bác tài Nguyễn Văn Thành, một người thường lãnh phần chuyên chở cho các các bạn hàng qua lại trên tuyến đường Lạng Sơn cho Ðài chúng tôi biết chuyện đang xảy ra.

“Bây giờ nó cứ đưa lý do là có nhu cầu phải đảm bảo chất lượng hàng hóa từ các nước trong đó có Việt Nam, thì chúng tôi phải tăng cường kiểm tra vệ sinh dịch tễ. Anh bảo nó kiểm tra theo kiểu bới bèo ra bọ thì làm sao mà tránh được.

Ðã kiểm tra thì cái gì chẳng chết, nhưng ví dụ như trước đây hàng có một chú dư lượng kháng sinh thì cho đi, nhưng lúc đó tình hình không có vấn đề, còn bây giờ có vấn đề thì khác, nó bảo “không được”, dưa của anh trồng ở chỗ, thí dụ như nghe nói trồng ở khu vực có chất độc da cam của Mỹ chưa tẩy rửa, thì có khả năng đưa ô nhiễm mà chưa có bằng chứng khẳng định là hàng của Việt Nam bị nhiễm hay chưa bị nhiễm.”

Qua sự giúp đỡ của một số bạn hàng , Ðài chúng tôi cũng đã liên hệ được với một viên chức hải quan xin được tạm gọi là anh Hòa, hiện đang công tác ngay tại cửa khẩu Hữu Nghị.

Nguyễn Khanh: Chào anh, tôi là Nguyễn Khanh của Ban Việt Ngữ Ðài Á Châu Tự Do ở bên Mỹ gọi về. Chúng tôi nghe được tin là hàng Việt Nam đang bị ách lại ở cửa khẩu Hữu Nghị vì bên Trung Quốc làm khó, chuyện đó thế nào hả anh?

Viên chức hải quan Việt Nam tên Hòa: Em không thể nói gì về chuyện ấy được. Cái điều ấy là có nhưng em không thể nói gì về cái chuyện ấy được.

Trong khi đó, một bạn hàng sinh sống bằng nghề chuyên xuất khẩu rau tươi và trái cây từ Việt Nam sang Trung Quốc than thở.

“Chỉ dăm ba ngày là đủ khổ, rau cải chỉ hai ba ngày là hỏng hết.”

Mới chiều nay, giới thạo tin tại Hà Nội còn nói thêm là ông Ðại Sứ Việt Nam ở Bắc Kinh vẫn tiếp tục chịu sức ép của phía Trung Quốc. Có tin cho biết có lúc nửa đêm về sáng, Bộ Ngoại Giao Trung Quốc cho triệu ông Ðại Sứ Việt Nam đến để nêu thắc mắc về những vấn đề có thể gây ảnh hưởng xấu cho mối quan hệ song phương.

Một viên chức ngoại giao Tây Phương đang làm việc ở Hà Nội cũng tiết lộ ông nghe kể rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam đều nghĩ phải có phản ứng trước những việc đang xảy ra, nhưng “ngay chính Việt Nam cũng phải cân nhắc rất kỹ xem phản ứng như thế nào để tránh chuyện lợi bất cập hại”.

Một trong những điểm bắt đầu được nói đến là đừng quên, Việt Nam đang muốn xin vào ghế thành viên không thường trực của Hội Ðồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, và với tư cách 1 trong 5 quốc gia có quyền phủ quyết, Bắc Kinh đang ở kèo trên và chính Hà Nội cũng biết đang nằm ở kèo dưới.

Trong thời gian chờ đợi, hàng hóa của Việt Nam sẽ tiếp tục gặp khó khăn khi trên đường sang thị trường Trung Quốc, và người dân Việt Nam, nhất là những nông dân cả năm mới trồng được ít dưa, ít hoa quả”, bây giờ thấy công lao của mình đang “ứ đọng ở cửa khẩu” mang tên “Cửa Khẩu Hữu Nghị”.

Khi mà đã ghét nhau thì… Yêu nhau thì cái gì chả tròn, ghét nhau thì tròn cũng thành méo.

Nguyễn Khanh tường trình từ Washington.


Re:Cái nhìn mới : Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc

Đã gửi: Chủ nhật T2 22, 2009 1:39 am
Viết bởi Nguyễn Tuấn Anh
Vì sao người Việt Nam không thân thiện với người Trung Quốc?
(Cư dân mạng Trung Quốc phân tích) ( 2/20/2009 11:37:44 AM )

Hôm nay (17 tháng 2) là một ngày nhân dân hai nước Trung Quốc, Việt Nam đều không thể nào quên. Ngày này 30 năm trước, quân đội Trung Quốc phát động “Cuộc chiến tự vệ phản kích” Việt Nam trên biên giới Trung Việt. Cuộc chiến tranh này đã trở thành vết thương khó có thể hàn gắn giữa nhân dân hai nước. Nếu bỏ qua cuộc chiến đó để xem xét “Mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam” hiện nay, dù là quan hệ nhà nước hay nhân dân, thì sẽ là què quặt, cũng là phiến diện không hoàn chỉnh.  

Ba quốc gia có liên quan trực tiếp nhiều nhất tới cuộc chiến đó là Trung Quốc, Việt Nam và Căm-pu-chia có cách nhìn khác hẳn nhau đối với cuộc chiến tranh Trung Quốc-Việt Nam 30 năm trước. Phía Trung Quốc cho rằng phía Việt Nam quấy rối biên cương Trung Quốc, cho nên Trung Quốc phát động “Cuộc chiến tự vệ phản kích”. Phía Việt Nam cho rằng chính phủ Trung Quốc vì để ủng hộ chính quyền Khơ-me Đỏ mà phát động bành trướng xâm lược Việt Nam, thể hiện chiến tranh bá quyền. Phía Căm-pu-chia tuy không tỏ thái độ rõ ràng đối với cuộc chiến Trung Quốc-Việt Nam nhưng ngày 7 tháng 1 năm nay đã tổ chức một cuộc mít tinh quy mô chưa từng có tại Pnông-pênh chúc mừng 30 năm ngày nhân dân Căm-pu-chia thoát khỏi ách thống trị của Khơ-me Đỏ. Tại cuộc mit tinh, Chủ tịch Thượng viện Căm-pu-chia Chia-xin cảm ơn Việt Nam “đã cứu Căm-pu-chia”, đánh giá cao bộ đội tình nguyện Việt Nam đã hy sinh to lớn để tiêu diệt chính quyền Khơ-me Đỏ tàn sát nhân dân, và đã kịp thời ngăn chặn được số phận bất hạnh nhân dân Căm-pu-chia tiếp tục bị tàn sát.

Giờ đây chính phủ Trung Quốc đang ra sức làm mờ nhạt cuộc chiến 30 năm trước ấy, không tổ chức bất kỳ bất kỳ hoạt động kỷ niệm chính thức nào. Tại Việt Nam, chính phủ và nhân dân đều tổ chức hoạt động tưởng niệm với quy mô lớn (?) những người Việt Nam đã chết trong cuộc chiến đó, giáo dục người Việt Nam chớ quên cuộc chiến này. Rốt cục trong cuộc chiến tranh ấy ai phải ai trái, ở đây tác giả không muốn bàn thảo. Bao giờ các tài liệu mật được dần dần công khai, sau khi nhìn thấy chân tướng, tự nhiên người ta sẽ hiểu rõ.

Tác giả muốn nhân dịp hôm nay ngày đặc biệt này để nói qua về một số cảm nhận của mình tại Việt Nam, hy vọng qua đó người trong nước sẽ hiểu được tại sao đa số người Việt Nam có thái độ không hữu hảo với Trung Quốc. Để nhìn nhận Việt Nam một cách khách quan, chúng ta nên xuất phát nhiều hơn từ góc độ của mình mà suy nghĩ. Ngoài việc cuộc chiến đó cần thời gian để hàn gắn vết thương giữa nhân dân hai nước ra, hiện nay vấn đề người Việt Nam không hữu hảo với người Trung Quốc chủ yếu có mấy mặt sau đây đáng để người nước ta cảnh giác và suy nghĩ.

Trước hết, người Trung Quốc chưa hiểu tình hình Việt Nam – đây là một nguyên nhân khiến người Việt Nam ghét người Trung Quốc. Hai nước tuy là láng giềng gần nhau, truyền thống văn hóa và tập quán giống nhau nhưng tuyệt đại đa số người Trung Quốc lại chưa hiểu Việt Nam. Việt Nam là quốc gia nhược tiểu, chính phủ không đủ tài lực, thậm chí việc vận hành của chính phủ hàng năm phải cần đến viện trợ quốc tế. Thế nhưng sự nghèo khó của chính phủ không đại diện cho sự bần cùng của dân chúng. Người Trung Quốc có quan niệm là chỉ cần thấy nước này chỗ nào cũng rách nát, thiết bị hạ tầng cơ sở chưa hoàn thiện, đường phố không rộng rãi tráng lệ thì cho rằng nước này hỏng rồi. Thực ra nhìn bên ngoài không bằng nhìn thực chất. Việt Nam luôn ltheo đường lối giấu ngầm sự giàu có vào dân chúng. Chỉ cần đến thăm nhà thường dân Việt Nam để cảm nhận một chút, bạn sẽ thay đổi ấn tượng về Việt Nam. Hầu như gia đình Việt Nam nào cũng có một căn lầu nhỏ kiểu Pháp của riêng họ, các loại đồ điện gia đình và thiết bị trong nhà không hề ít hơn dân Trung Quốc. Nghèo nữa thì cũng có một chiếc xe máy. Gia đình dân chúng Việt Nam chưa thể coi là giàu có nhưng cũng tuyệt nhiên không nghèo. Tuyệt đại đa số người Trung Quốc từng đến Việt Nam phần lớn chỉ nhìn thấy hiện tượng bên ngoài chứ không phải đời sống thực chất của người Việt Nam bình thường, do đó có sự hiểu lầm về Việt Nam. Ngược lại, người Việt Nam cũng từ xương cốt coi thường một bộ phận người Trung Quốc.

Thứ hai, tâm trạng ưu việt cao ngạo của người Trung Quốc đã làm cho người Việt Nam không hữu hảo với người Trung Quốc. Người nước ta tự cho rằng thực lực Trung Quốc mạnh hơn Việt Nam, phần lớn người Trung Quốc khi đến Việt Nam thì có thái độ thiếu thân mật và khiêm tốn với người Việt Nam. Thường xuyên có bạn hỏi tôi: Việt Nam chẳng phải là rất nghèo đấy ư, có phải là ở Việt Nam đi mua hàng phải vác cả bọc tiền to tướng, có phải Việt Nam thừa phụ nữ, có thể lấy mấy vợ cũng được phải không?  ... đều là những câu hỏi làm người ta cười gượng. Thực tế Việt Nam khác xa những gì chúng ta tưởng tượng. Chính quyền Việt Nam nghèo, thậm chí rất tham nhũng, song dân chúng Việt Nam không nghèo. Đồng bạc Việt Nam giá trị cao nhất là 500 nghìn đồng, tương đương 200 Nhân Dân Tệ Trung Quốc, ra phố mua hàng đâu có cần vác rất nhiều tiền, thậm chí còn ít một nửa so với người Trung Quốc đi mua hàng. Phụ nữ Việt Nam không nhiều, tỷ lệ nam nữ cơ bản bằng nhau, thậm chí tỷ lệ nam cao một chút, chớ có sang Việt Nam làm giấc mộng lấy mấy cô vợ. Người Việt Nam coi người Trung Quốc không ra gì không phải không có nguyên cớ.

Thứ ba, nhà đầu tư Trung Quốc đến Việt Nam rất bị nghi ngờ về chữ tín. Cuối thập niên 90, rất nhiều người Trung Quốc đến Việt Nam đầu tư, tưởng là ở đấy có thể dễ kiếm được tiền. Khi phát hiện đầu tư trên toàn thế giới đều có cùng một nguyên tắc là “không có đầu tư vào thì không có sản phẩm ra”, kiếm tiền đâu có dễ như tưởng tượng. Thế là người Trung Quốc ào sang như một đàn ong rồi lại ào ào đại rút lui như một đàn ong, rút vốn về nước một cách bất hợp pháp, để lại một đống tạp chứng khó chữa như nợ lương, nợ thuế, nợ vốn với đối tác hợp tác, khiến chính quyền Việt Nam rất đau đầu. Sự thành thật giữ chữ tín của thương nhân Trung Quốc phổ biến bị người Việt Nam nghi ngờ.  Cùng sang Việt Nam kiếm tiền, người Nhật, người Hàn Quốc trước lúc đi đã xem xét coi đây là vấn đề khá  phức tạp, khi gặp phải các vấn đề tồn tại trong xã hội Việt Nam họ giải quyết dễ hơn người Trung Quốc. Tâm lý quá ư đầu cơ của nhà đầu tư Trung Quốc, thái độ oán trách mỗi khi gặp khó khăn đã gây ra hậu quả người Việt Nam cho rằng người Trung Quốc có độ tin cậy thương mại không cao. Trung Quốc khi đưa vốn ra nước ngoài cũng đem theo những bệnh bất trị vốn có trong xã hội thương mại của mình sang nước ngoài. Điều này không những các nhà đầu tư chúng ta phải suy ngẫm mà chính phủ Trung Quốc cũng nên cảnh giác.

Thứ tư, việc các thương gia Trung Quốc phán đoán sai lầm về thị trường tiêu dùng Việt Nam đã không những làm cho sản phẩm Trung Quốc khó tiêu thụ ở Việt Nam mà cũng tổn hại nghiêm trọng tới hình ảnh và thanh danh của người Trung Quốc. Do hiểu biết lệch lạc về tình hình nội bộ và thói quen tiêu dùng của Việt Nam, cho rằng người Việt không tiêu dùng nổi những sản phẩm chất lượng tốt cấp cao, mà người Trung Quốc chuyển sang Việt Nam những dây chuyền sản xuất lạc hậu bị đào thải trong nước, kết quả thế nào có thể suy ra mà thấy. Nhà sản xuất xe máy Trùng Khánh huênh hoang ở Trung Quốc là đã chiếm được bao nhiêu thị phần thị trường Việt Nam. Đáng tiếc là người viết bài này ở Việt Nam cho tới nay chưa hề phát hiện thấy một chiếc xe máy Trùng Khánh nào chạy trên đất nước này, dù ở vùng nông thôn tương đối nghèo hay đô thị phồn hoa đều khó mà thấy bóng dáng nó. Trong lòng người tiêu dùng Việt Nam thì hàng Trung Quốc là đại danh từ của “chất lượng xấu”. So với người Trung Quốc, rõ ràng người Nhật Bản, Hàn Quốc, kể cả người Âu Mỹ đánh giá quan niệm tiêu dùng của người Việt Nam chính xác hơn nhiều; ngay từ đầu họ đã đưa hàng chất lượng tốt sang thị trường Việt Nam, giành được sự ủng hộ của người tiêu dùng nước này. Đây cũng là nguyên nhân hàng hóa Trung Quốc ở Việt Nam đại bại trước hàng hóa Nhật Bản, Hàn Quốc và cũng là một nhân tố lớn làm cho người Việt Nam khinh thường (bỉ thị) người Trung Quốc.

Trung Quốc và Việt Nam núi liền núi sông liền sông, có hơn 2000 năm tiếp xúc văn hóa, thế nhưng sự hiểu biết của chúng ta về Việt Nam lại dừng ở hồi ức trong quá khứ, thiếu con mắt tỉnh táo và thận trọng để nhìn nhận người hàng xóm này, khiến cho giữa nhân dân hai nước hình thành một vết thương khó có thể vượt qua. Đồng thời với việc mất tín nhiệm của dân chúng Việt Nam, chúng ta cũng dần dần chắp tay nhường cho Nhật Bản, Hàn Quốc lợi ích thị trường to lớn ở Việt Nam mà người Trung Quốc vốn dĩ nắm được.

Người Việt Nam không hữu hảo với người Trung Quốc tuyệt nhiên không chỉ là do cuộc chiến tranh 30 năm trước mà còn nhiều cái nữa đáng để tất cả người Trung Quốc suy ngẫm!

Nguồn: “越南人为何对中国人不友好” bài đăng trên website Phượng Hoàng (Trung Quốc) ngày 17-2-2009    Link:  http://blog.ifeng.com/article/2206238.html
Nguyễn Hải Hoành lược dịch và giới thiệu

http://hnv.vn/News.asp?cat=13&scat=&id=966


Re:Cái nhìn mới : Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc

Đã gửi: Hai T2 23, 2009 12:14 am
Viết bởi Ansamurai
Cảm ơn whoami, một bài khá thú vị. Mặc dù mình nghĩ rằng tác giả là một người viết bài theo kiểu " Người Trung Quốc xấu xí". hihi

Không biết hàng hóa Việt Nam qua Campuchia được người ta đánh giá như thế nào nhỉ!!



Re:Cái nhìn mới : Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc

Đã gửi: Sáu T2 27, 2009 4:53 am
Viết bởi Nguyễn Tuấn Anh
Hôm nay, 23-2, Trung Quốc và Việt Nam sẽ làm lễ hoàn tất công trình Phân giới cắm mốc, kết thúc 8 năm triển khai trên thực địa, kết thúc những tranh cãi căng thẳng, kéo dài. Nhưng, những tranh chấp không chỉ diễn ra trong vòng 8 năm ấy. Biết bao câu chuyện xứng đáng ghi vào lịch sử kể từ khi hai nước ký Hiệp định tạm thời, 07-11-1991.
Gió Chi Ma

Cho đến tận hôm nay, đường lên cửa khẩu Chi Ma, huyện Lộc Bình, Lạng Sơn, vẫn phải ngưng lại dở dang trước đường Biên 63m. Năm 1993, khi tỉnh Lạng Sơn cho rải đá, lực lượng vũ trang từ phía Ái Điểm, Trung Quốc, tràn sang ngăn cản, “ bạn ” cho rằng đấy là phần đất thuộc về Trung Quốc cho dù cột mốc 44 vẫn còn. Từ ngày 28-5 cho đến 11-6-1993, hàng trăm binh sĩ có vũ trang từ Ái Điểm tới, theo sau là 15 xe chở đá. Trong khi phía Việt Nam chưa kịp phản ứng, 2 xe “ vượt biên ” sang đổ đá chồng lên đoạn công nhân Việt Nam đang thi công. Ngay lập tức bộ đội Biên phòng, Hải quan, công nhân, đặc biệt là bà con nông dân Chi Ma xuất hiện. Họ rút.

Kể từ hôm đó, tổ cột mốc 44 được thành lập, 7 cán bộ Biên phòng có nhiệm vụ canh giữ cho mốc 44 trụ vững ở đúng vị trí mà nó đã đứng, kể từ sau Công ước Pháp-Thanh 1887 và 1895. Các anh phải túc trực 24/24, trong gió Chi Ma thổi bạc mặt; trong rét Chi Ma có khi xuống dưới độ Không; dưới một túp lều dựng bằng 6 cọc tre và những thùng giấy carton nằm sâu bên lãnh thổ Việt Nam 5m (vì bị ngăn cản không thể dựng nhà).

“ Nhật ký ” của tổ ghi nhận 32 sự kiện tiêu biểu xảy ra xung quanh mốc 44 : một lần biên phòng Ái Điểm, Trung Quốc, cho dựng một nhà tạm lấn sang đất Việt Nam 2m ; 22 lần lực lượng vũ trang Trung Quốc xâm nhập sâu vào đất Việt Nam từ 5-35m ; 7 lần xâm canh ; 1 lần lén chôn một bia đá sang đất Việt Nam 20m… Chiều 6-2-2009, chúng tôi có mặt ở Chi Ma, phía bên kia mốc 44 là một bức tường đá dày 1m cao 3m, bao bọc đồn Ái Điểm. Trên bức tường đó, sâu hoắm những lỗ châu mai, nhìn sang.

Thiếu tá Lục Văn Moong, người từng là đồn phó Chi Ma 4 năm, nói : “ Có rất nhiều chuyện không được ghi chép, đó là những cục đá được ném sang từ phía bên kia lúc nửa đêm. Trận ‘đá kích’ cuối cùng xảy ra là vào năm 2003 ”. Theo thượng tá Nguyễn Anh Tuấn, phó chủ nhiệm chính trị Biên phòng tỉnh Lạng Sơn : “ Anh em đã bám trụ trong điều kiện như thế suốt 15 năm, từ tháng 6-1993 đến tháng 1-2009. Khi viết đề nghị tặng huân chương Chiến công (hạng Ba) cho tổ cột mốc 44, có nhiều câu chuyện đã làm tôi khóc ”.
Bản Giốc

Thác BẢN GIỐC nhìn từ cánh đồng chân thác (phia Việt Nam) : bên trái là phần thác phụ (thuộc Việt Nam), ở giữa là mỏm cồn Pò Thoong (thuộc 1/4 cồn của Việt Nam), bên phải là phần chính của thác (chia đôi). (ảnh và chú thích của Diễn Đàn)
Mãi cho tới ngày 14-1-2009, mốc 836 mới được cắm bên triền Bản Giốc. Thác Bản Giốc và cửa Bắc Luân cùng nằm chung trong một “gói đàm phán”, được phân giới sau cùng. Sông Quây Sơn chảy vào đất Việt ở cột mốc 67 (cũ) vòng qua các ngọn núi ở Trùng Khánh, Cao Bằng, khoảng 20km rồi chạy ra mốc 53 (cũ), thành con sông Biên giới dài 15km trước khi chảy sang Trung Quốc ở cột mốc 49 (cũ).

Giờ này, cánh đồng dưới chân Bản Giốc trơ rạ. Chưa tới mùa nước, thác chưa đầy như bức ảnh mà Võ An Ninh đã chụp. Nhưng, cảm giác về một Bản Giốc trọn vẹn vẫn nghèn nghẹn. Theo thứ trưởng Ngoại giao Vũ Dũng : “ Ta và Trung Quốc đã thoả thuận đường biên giới đi từ mốc 53 cũ, qua cồn Pò Thoong, đến điểm giữa của mặt thác chính ”.

Trong khoảng thời gian “ gói Bản Giốc- Bắc Luân ” đang đàm phán, Trung Quốc mấy lần định làm đường trên cồn Pò Thoong, mấy lần bị người dân Đàm Thủy đứng ra ngăn cản. Xưa nay, Pò Thoong vẫn nằm trong vùng quản lý của Biên phòng Việt Nam, người dân vẫn canh tác và lấy đá cát quanh đó. Trận “đá kích” sau cùng mà các cán bộ Biên phòng ghi nhận xảy ra là vào ngày 24-7-2007. Giờ đây, mốc đôi 835 đã được cắm thay thế cho mốc 53: 835/1 nằm bên bờ Trung Quốc của sông Quây Sơn; 835/2 nằm trên cồn, “ phần thuộc về Việt Nam bây giờ là ¼ cồn Pò Thoong ”.

Thác BẢN GIỐC nhìn từ phía Trung Quốc : ỏ giữa là mỏm cực đông của cồn Pù Thoong, bên phải là phần chính của thác (biên giới ở giữa phần chính) (ảnh và chú thích của Diễn Đàn)
Theo ông Vũ Dũng : “ Ta và Trung Quốc nhất trí sẽ cùng hợp tác để phát triển tiềm năng du lịch, kinh tế tại khu vực thác Bản Giốc ”. Cũng theo thỏa thuận ấy, thuyền du lịch có thể chở khách từ hai phía sang sát bờ của nhau ngắm thác, miễn là khách của bên này không lên bờ của phía bên kia. Từ xa, có cảm giác, Bản Giốc vẫn quay mặt về. Bên bờ Nam, một thung lũng mênh mông vừa có thể cấy cày vừa có chỗ cho khách tham quan hạ trại. Bên Trung Quốc, bờ sông dốc. Nhưng, nếu như phía Việt Nam chỉ có những lều lán tạm thì phía Trung Quốc, có nhà nghỉ Sơn Trang được xây khá hoành tráng trên một ngọn đồi. Có thể ngồi ở Sơn Trang mà ngắm cùng lúc cả thác cao và thác thấp. Nghe nói trong mấy ngày Tết, khách Việt Nam thăm thác cũng đông nhưng so với Trung Quốc thì không đáng kể. Hôm chúng tôi tới Bản Giốc, ngày 10 tháng Giêng, phía bờ Việt Nam vắng lặng trong khi phía Trung Quốc khách vẫn phải chờ để lên thuyền.
Biên Giới

Ngày 13-12-2008, hai nhóm phân giới Việt Nam và Trung Quốc đã đặt mốc 1224 vào đúng vị trí mốc 44. Nước mắt không thể cầm được trên gương mặt của các chiến sĩ Biên phòng Chi Ma. Các anh đã góp phần giữ được đường biên Hiệp ước 1999 đi cách nơi mà “ Trung Quốc muốn ” 63m. Tuy nhiên, đường phân giới mới vẫn cắt đi một phần thung ruộng cũ của 3 gia đình ở Chi Ma. Tại Hà Giang, 54 gia đình ở Lũng Cú cũng giao lại cho Trung Quốc 188 ha và nhận từ phía Trung Quốc 66 ha ở một khu vực khác. Trung tá đồn phó Lũng Cú Nông Minh Thạch nói : “ Tất nhiên là bà con tâm tư nhưng chúng tôi động viên bà con tin vào Đảng và Nhà nước ”. Đường biên giới mới cũng cắt ngang khu 13 nóc nhà của người dân Trung Quốc ở gần Lạng Sơn. Có tới 164 khu vực “ có tranh chấp, hoặc có nhận thức khác nhau về hướng đi ” như trường hợp của Lũng Cú và Chi Ma, rộng khoảng 227 km2. Sau đàm phán, “ quy thuộc khoảng 114,9 km2 cho Việt Nam và khoảng 117,2 km2 cho Trung Quốc ”. Phó thủ tướng phụ trách ngoại giao thời kỳ đàm phán Hiệp ước Biên giới, ông Nguyễn Mạnh Cầm, cho rằng : “ Kết quả đó là thỏa đáng ”.
Nhiều nước trên thế giới cho đến nay vẫn còn những đường biên tranh chấp, thậm chí tranh chấp biên giới vẫn xảy ra với cả những nước như Mỹ và Canada. Không phải chính quyền nào cũng đủ dũng cảm đương đầu với sự phán xét của lịch sử để đặt bút ký vào bản phân chia từng tấc đất của tiền nhân, bởi thương lượng thì phải có đi có lại. Tất nhiên, cho dù có một đường biên chưa phân, nhiều nước vẫn có thể giữ nguyên hiện trạng mà hòa bình chung sống. Họ không phải đối phó với một con sông bị nắn dòng chảy xói vào đất mình; Họ không có một đoạn đường ray, một con đường “vô tư” vòng sang rồi trở thành nơi tranh chấp; họ không gặp những chiến dịch mua râu ngô, mua móng trâu, mua mèo… Biên giới của họ, cả sông núi và lòng người, không gặp phải quá nhiều hiểm trở.

Biên giới đất liền Việt - Trung dài 1.406 km, nhưng: “ thời Pháp-Thanh cắm mốc rất thưa ; lời văn Công ước mô tả thì đơn giản, bản đồ tỷ lệ nhỏ, nhiều địa danh không thể hiện như bãi Tục Lãm, Tài Xẹc, Dậu Gót…”. Đường Biên giới Hiệp ước 1999, thay vì chỉ cắm 341 cột mốc như thời Pháp- Thanh, có hơn 1500 cột mốc chính và hơn 400 cột mốc phụ (tổng cộng 1971 cột mốc). Nơi nào đường Biên đi qua giữa sông thì mốc được cắm ở hai bờ; nơi nào đường phân giới có những khúc quanh thì cắm thêm mốc phụ.

Tại khu vực Cô Muông, Đàm Thủy, Cao Bằng, đôi bên cắm tới 26 mốc cho một đoạn núi dài chưa tới 2km. So với cột mốc thời Pháp-Thanh, cột mốc hiện nay làm bằng đá granit, có mốc nặng tới gần 1 tấn. Khi chúng tôi tới, mốc 836/2 ở thác Bản Giốc vẫn đang làm dở dang, nhờ thế mà nhìn thấy dàn móng bê tông mới được đổ vô cùng kiên cố.

Nhưng, sở dĩ qua bao nhiêu trắc trở Biên giới Công ước Pháp Thanh vẫn là nền tảng cho công trình đàm phán, phân giới, cắm mốc kéo dài suốt 17 năm qua ; bởi, ngoài những cột mốc thấp bé, vẹt mòn theo năm tháng, còn có những ngôi mộ của cha ông, những nương khoai, nương sắn của người dân hai nước (*). Cũng tại khu vực Đàm Thủy, ở thôn Lũng Phiăc, đồng tiền mà bà con người Tày, người Nùng vẫn dùng ở đây là Nhân Dân Tệ. Lừa ngựa từ Trung Quốc được dắt sang để thu mua quặng. Lũng Phiăc với hơn 1000 khẩu, có hơn 100 phụ nữ lấy chồng bên Trung Quốc. Dọc theo Biên giới, từ Phong Thổ tới Móng Cái, nhiều gia đình ở bên này có bà con, hoặc bạn bè thâm giao ở bên kia. “ Đường biên ” ấy không thể nào rành mạch phân chia như đá và bê tông cốt thép.

Tất bật bên nồi thắng cố, mặt Mừng Thìn Pín đỏ au. Phiên “ chợ cột mốc ” mùng 8 Tết rất đông: người từ hương Giàng Vản, tỉnh Vân Nam sang; người từ xã Bạch Đích, huyện Yên Minh, Hà Giang, đến. Mốc 358 vừa mới cắm, nhà chợ xây chửa xong, giao thương đã bắt đầu nhộn nhịp. Theo thượng tá Dương Văn Thịnh, đồn trưởng Biên phòng Bạch Đích : “ Trước phân giới cắm mốc, đôi bên vẫn căng thẳng ”. Nay thì bà con đã có thể tới chợ. Nay, những nông dân như Mừng Thìn Pín đã có thể xây nhà và bưng nồi thắng cố lên đặt sát đường Biên. Một đường Biên giới mà cho tới năm 1991 vẫn phải rào dậu bằng mìn ; một Biên giới mà cho tới trước tháng 1-2009, nhiều nơi bộ đội Biên phòng vẫn còn phải đứng canh cho người dân cày cấy... Khi đang ngồi viết những dòng này, tôi nhận được điện thoại từ Hà Giang, trung tá Thạch cho biết, những cây đào Lũng Cú đã đâm hoa, cho dù, ở Biên giới mùa này vẫn chưa hết những đợt gió lạnh tràn về từ phương Bắc.
Huy Đức


NGUỒN : Blog Ôsin ngày 23.2.2009


(*) Tại Diên An, giữa thập niên 1930, Mao Trạch Đông nói với nhà báo Mĩ Edgar Snow (xem cuốn Red Star over China) : không bao giờ Trung Quốc chấp nhận đường biên giới đã bị các nước đế quốc áp đặt đối với triều đình Mãn Thanh trong thế kỉ XIX. Với Hiệp định biên giới Việt-Trung 1999, với tất cả những bảo lưu có thể về chi tiết, đây là lần đầu tiên Bắc Kinh chấp nhận đường biên giới được quy định qua các hiệp ước 1887 và 1895 giữa chính quyền Pháp và triều đình nhà Thanh (chú thích của Diễn Đàn).

(http://www.diendan.org/viet-nam/bien-gioi-cung-bien-gioi-mem)

Re:Cái nhìn mới : Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc

Đã gửi: Sáu T2 27, 2009 5:17 pm
Viết bởi Nguyễn Tuấn Anh
Xung đột 1979 là trách nhiệm của ai?

Tiến sĩ Hoàng Kim Phúc
Đại học Oxford, Anh Quốc
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/indepth/story/2009/02/090211_sino_viet_reflection.shtml


Năm tôi lên chín, Trung Quốc tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc.

Yếu tố chính trị trực tiếp nào đưa đến cuộc chiến năm 1979? Có phải là xu hướng “ly khai” của cộng đồng Hoa kiều phía Nam khi đòi giữ ngoại tịch và chối bỏ quốc tịch Việt Nam vào nửa cuối thập niên 70?

Hay là chính sách bài trừ tư bản mà cộng đồng Hoa kiều bị ảnh hưởng nhiều nhất? Hay đó là câu trả lời cho cuộc chiến của Việt Nam với Cambodia nhằm trừ khử Khme Đỏ, khi đó đang được Trung Quốc đỡ đầu?

Phải chăng Trung Quốc gây chiến để dằn mặt khi Việt Nam đang giao hảo chặt chẽ với Liên Xô và mở rộng ảnh hưởng tới Lào và Cambodia? Hay để Trung Quốc lấy điểm với Mỹ vì lúc đó chiến tranh lạnh vẫn đang căng thẳng?

Hay nó đơn thuần để giải quyết những xung đột nội bộ Trung Quốc để lại từ thời kì Tứ Nhân Bang ? Tất cả những khả năng trên các sử gia phương Tây cho tới nay vẫn chưa ai có số liệu thật đầy đủ và thuyết phục.

Vết thương khó lành

Nhưng cho dù với bất cứ lí do gì thì đây cũng là một cuộc chiến hết sức man rợ và vô nhân đạo, vì chưa đầy 30 ngày mà gần một trăm ngàn người (60-100 ngàn theo các số liệu khác nhau) của cả hai phía đã thương vong.

Chừng nào những ẩn số lịch sử về nguyên nhân cuộc chiến chưa được sáng tỏ trước cộng luận và lịch sử thế giới thì chừng đó nguy cơ để xảy ra những tranh chấp tương tự giữa Trung Quốc và các nước láng giềng còn có cơ hội tái diễn, đặc biệt khi nền chính trị tại quốc gia khổng lồ này còn dựa trên nền tảng độc tài toàn trị.

Mặc dù cuộc chiến đẫm máu chính thức diễn ra khá ngắn ngủi nhưng những đợt pháo kích dai dẳng dọc tuyến biên giới, kéo dài nhiều năm sau đó mới để lại những “vết thương” khó lành trong kí ức đương đại của dân chúng Việt Nam, đặc biệt là dân miền Bắc.

Làng tôi sống khi ấy gồm ba xóm, nay thuộc quận Ba Đình, vậy mà cũng có tới hai anh đi bộ đội bị pháo chết trên “chốt”.

Từ “lên chốt” đã có lúc được nhiều thanh niên nhắc tới như “ác mộng”. Dù mục tiêu chiến lược của việc tấn công Việt Nam vẫn còn nhiều uẩn khúc lịch sử nhưng về mặt nào đó Trung Quốc đã thành công trong việc gây nên một tâm lý lo lắng bất ổn, pha sự sợ hãi trong các thành phần dân chúng Việt Nam.

     
Tuy nhiên điều Trung Quốc không lường hết là cuộc chiến 79 giống như một nhát cuốc tàn bạo, lật thẳng “tấm ván thiên” chôn nỗi căm thù sâu thẳm và âm ỷ của các dân tộc Việt với kẻ xâm lược ngàn năm từ phương Bắc.

Sự căm thù tưởng đã có lúc bị vùi lấp đi bởi “tấm tình đồng chí” môi hở răng lạnh, hay bởi những luận điệu tuyên truyền “Núi liền núi, sông liền sông” hữu hảo.

Xâm lăng 1979 đã đánh mạnh vào lòng tự hào của các dân tộc Việt, cái mà ở chừng mực nào đó đã giúp họ tồn tại anh dũng bên cạnh “đế quốc” Trung Hoa trong ngàn năm không bị đồng hóa, kể từ chiến thắng Bạch Đằng.

Mục đích Trung Quốc dạy cho Việt Nam một bài học bằng cuộc chiến 1979 có lẽ cũng man dại và phản tác dụng không khác gì việc trước đó quân đội Mỹ ném bom rải thảm nhằm đưa Hà Nội quay lại “thời kì đồ đá”.

Về mặt lịch sử, chiến tranh 79 là một mũi tiêm chủng tái khởi động ý thức đề kháng mãnh liệt chống lại dã tâm tạo ảnh hưởng và “kiểm soát” của Trung Quốc với Việt Nam ở hiện tại và tương lai.

Với những kí ức và thông tin của riêng mình có được, tôi không hề nghĩ rằng cuộc chiến tranh 1979 chỉ dừng lại ở khẩu hiệu của Đặng là “dạy cho Việt Nam một bài học”.

Cuộc chiến kéo dài

Cuộc chiến đã không thực sự kết thúc sau năm 1979. Hơn thế, nó là một tính toán lâu dài, thậm chí nó là một phần trong cả một chính sách lớn của Trung Quốc với Việt Nam mà hành động phát lộ đầu tiên là đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974. Mặc dù trước đó lính Trung Quốc đã lấn chiếm bằng cách di dời cột mốc biên giới khi giúp chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà làm đường.

Sự ngẫu nhiên của số phận và nghề nghiệp đã cho tôi thêm tư liệu và thông tin để nhìn nhận chi tiết mối quan hệ “vừa là đồng chí vừa là anh em” rất mai mỉa này.

Với quyết tâm tìm cho ra mối quan hệ của một số loài muỗi sốt rét chính ở Việt Nam và mối tương quan dẫn truyền của nó qua biên giới Việt-Trung, tôi đã đi hàng chục chuyến công tác tại dọc tuyến biên giới Việt Trung.

Ở nhiều nơi khi tôi đến, danh nghĩa là cuộc chiến đã qua 20 năm, ký ức về sự man rợ của cuộc chiến như vừa mới hôm qua. Lần đầu đến Hà Giang, ngồi cạnh bác lái già chạy xe Hà Giang-Vị Xuyên, ông kể. “Năm 79 nó sang, dân bên mình hoàn toàn bị bất ngờ, vì thế thiệt hại là vô kể.

''Nó rút đi đặt mìn giật sập bất cứ cái gì gọi là do tay con người tạo nên. Mìn nó còn gài lại vô số trong các khu dân cư, tỉnh lộ. Mà nào có yên, pháo nó còn “củng” sang đây liên tục tới năm 88-89.

''Thằng con tôi đi củi với hai thằng bé cùng lớp bị trúng mìn. Hai đứa chết, một đứa cụt hai chân, mù mắt”. Phía Việt Nam đã hoàn toàn bị bất ngờ trong cuộc chiến 79.

''Khu vực “Hữu nghị Quan”, dân các xã xung quanh kể lại là chiều hôm trước lính Tàu còn sang đá bóng với thanh niên địa phương và lính biên phòng Việt Nam. Tối hôm đó có chiếu bóng ngoài bãi, bọn lính Tàu còn sang chơi đầy, thế mà sáng hôm sau nó tấn công.''

Nhóm nghiên cứu của tôi đã “nằm” ở Cà Liểng, nơi có hẻm núi hẹp, độc đạo, mà xe tăng Trung Quốc đã vào Việt Nam ở ngả Cao Bằng. Một cô giáo bản, dân tộc Mèo “đen” sáng hôm đó chở ông bố xuống huyện khám bệnh.

Tự dưng thấy rất nhiều xe tăng với “bộ đội” ngồi trên ở phía sau tiến tới. Ông cụ giơ tay chào nhưng sau thấy xe tăng cứ tiến sát như muốn nghiến lên chiếc xe đạp, ông kêu ầm lên để các chú “bộ đội” nghe thấy.

Đột nhiên thằng ôn vật ngồi trên tháp pháo rút súng làm đánh đùng một cái vào đầu ông cụ.

Ông cụ lăn xuống chết tức khắc, cô con gái sợ quá quăng xe đạp lao vào rừng, chạy tắt xuống huyện đội. Lúc đó người ta mới ngã ngửa ra là Tàu đánh”. Dân Thạch An, Cao Bằng mạnh ai nấy chạy, giạt hết lên núi.

Vào sâu trong rừng, người đồng bào sau đó tìm thấy những vạt rừng phủ kín quần áo, võng, bạt, vỏ đồ hộp và phân…của bọn lính sơn cước Tàu. Chúng đã ém quân từ khá lâu trước đó. Từ đỉnh núi đồng bào địa phương nhìn ngay xuống bản, thậm chí sân nhà mình. Nhiều người phải liều mạng lẻn về để lấy muối, lấy dao, quần áo…


Chiều đến họ thấy hàng chục thằng lính Tàu “vật nhau” với những chiếc xe đạp của dân bỏ lại.

Bọn lính này được tuyển mộ từ những vùng cực kì nghèo đói và lạc hậu của Hoa lục nên không biết ngay cả đi xe đạp.

Không ngạc nhiên rằng chúng hết sức tàn bạo và hung hãn. Đối với người dân tộc sống dọc các tỉnh biên giới phía Bắc, căn nhà và các vật dụng thiết thân như con dao, cái cối đá, ngọn đèn dầu là những vật vô cùng quí giá.

Nắm được tâm lí này, bọn lính Tàu được lệnh tàn phá mọi thứ dù là nhỏ nhất, trước khi rút đi.

Người dân các vùng từ Cao Bằng, Hà Giang, Lao Cai… đều kể cho tôi nghe những chi tiết khá tương tự rằng khi về lại nhà cũ, tất cả bị thiêu trụi. Những chiếc đèn dầu hỏa, vại dưa, chum nước, cối đá… đều bị đập vỡ, ngay cả những con dao bài giắt ở vách bếp cũng bị chặt vào nhau cho nát lưỡi dao, giếng nước bị sâp vì lựu đạn tống xuống.

Năm 1986, trong một chuyến thực tập hè ở Lương Sơn, Hòa Bình, tôi ở cùng những trung đoàn lính Việt nam đang tập đạn thật vì địa hình Lương Sơn tương tự Vị Xuyên, Hà Giang.

Sau một tháng họ sẽ đi Vị Xuyên. Những người lính trẻ âu lo vì những tin tức ác liệt từ Vị Xuyên và các điểm nóng khác vẫn truyền về trong suốt nhiều năm sau 1979.

Đầu năm 1988, Trung Quốc tấn công Trường Sa, 74 bộ đội Việt Nam đã bị thiệt mạng.

Năm 1995, theo anh bạn học làm kiểm dịch sinh vật, tôi lên cửa khẩu Chi Ma. Mặc dù hai nước lúc đó đã “bình thường hóa” và thông thương buôn bán nhưng những dãy đồi trùng điệp liền kề với cửa ải này vẫn dày đặc các trận địa mìn.

Xung đột lẻ tẻ trên đường biên vẫn liên tiếp xảy ra. Ban đêm, các cột mốc bị di dời vào đất Việt Nam như cơm bữa. Nhiều năm trở lại đây, trên biên giới bộ cột mốc vẫn bị di chuyển.

Trên biển, Trung Quốc nhiều lần dùng tàu chiến tấn công thuyền đánh cá và giết hại ngư dân Việt nam. Sự leo thang đã trắng trợn tới mức báo động khi Trung Quốc tuyên bố Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc huyện Tam Sa của Hải Nam cuối năm 2007, xua đuổi các công ty liên doanh thăm dò dầu khí ở vùng Nam Côn Sơn của Việt nam và vừa rồi quyết định đầu tư 29 tỷ đôla để khai thác dầu trong hải phận Việt Nam.

Tiền Việt Nam giả được in bằng những kỹ thuật tinh vi từ Trung Quốc, tràn ngập qua các ngả biên giới vào Việt Nam. In bạc giả là một loại tội phạm nghiêm trọng ở mọi quốc gia. Sản xuất tiền giả để tung vào quốc gia khác là vi phạm luật pháp và công ước quốc tế.

Chính quyền Trung Quốc hoàn toàn im lặng trước những hoạt động tội phạm quy mô lớn này. Rõ ràng sự tấn công Việt Nam bằng quân sự trên biển và đất liền, tấn công chính trị và ngoại giao, tấn công phá hoại kinh tế… kéo dài hàng chục năm sau cuộc chiến, qua nhiều đời Tổng bí thư của Trung Quốc ắt phải là mưu đồ làm cho nước láng giềng nhỏ bé phải “chảy máu” tới chết.

Người Mỹ từ lâu đã có trách nhiệm hỗ trợ rà gỡ bom mìn trong chiến tranh, sao tới nay người Trung Quốc vẫn tảng lờ những trận địa mìn nằm trên đất Việt?

Theo tính toán của Bộ Quốc Phòng Việt Nam, sẽ còn mất hàng chục năm nữa để giải phóng các trận địa mìn nằm trên đất Việt, dọc biên giới phía Bắc.

Những trái mìn Made in China đang nằm trên đất Việt chính là những bằng chứng hiển nhiên để mỗi người dân Việt nam có cơ hội để đánh giá sự thành thật, thiện chí theo phương châm “16 chữ vàng” từ phía nước láng giềng khổng lồ phía Bắc này.

Re:Cái nhìn mới : Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc

Đã gửi: Hai T3 09, 2009 9:51 am
Viết bởi Nguyễn Tuấn Anh
CHIẾN DỊCH THẬP VẠN ĐẠI SƠN
-------------------------------------
Cách đây 60 năm, bộ đội Việt Nam
giúp Trung Quốc giải phóng Ung Long Khâm
-------------------------------------
Từ đầu kháng chiến toàn quốc, chúng ta đã có quan hệ mật thiết với Nam lộ Bát lộ quân Trung Quốc ở Hoa Nam và Bộ tư lệnh Quân khu Điền Quế.

Đầu năm 1948, đồng chí Trang Điền được chỉ thị của đồng chí Chu Ân Lai, sang Việt Bắc gặp các đồng chí lãnh đạo ta. Bác và Thường vụ tiếp phái viên ở Lục Giã. Đồng chí Trang Điền thông báo tình hình chiến tranh giải phóng ở Trung Quốc. Quân Tưởng tăng cường càn quét những lực lượng vũ trang cách mạng ở Hoa Nam để củng cố hậu phương. Những đơn vị du kích của ban đang gặp khó khăn và thiếu lương thực. Bác và chúng tôi bàn với phái viên của bạn về sự phối hợp chiến đấu, giúp dỡ lẫn nhau giữa hai quân đội cách mạng.

Đầu tháng Ba, quân Tưởng ở Quảng Tây tấn công hai khu Trấn Biên, Tĩnh Tây dữ dội. Một bộ phận bộ đội du kích và cơ quan hậu phương của hai khu này tạm thời chuyển qua biên giới Việt Nam.

Bộ tư lệnh biên khu Điền Quế và đảng uỷ biên khu Việt Quế thường xuyên có quan hệ với chúng ta (1). Tháng 4 năm 1949, lãnh đạo phong trào du kích ở Quảng Tây giáp biên giới Đông Bắc nước ta, đề nghị quân đội Việt Nam phối hợp chiến đấu, giúp đỡ đánh quân Tưởng để giải phóng khu Ung-Long-Khâm. Sau khi có sự đồng ý của Trung ương, ngày 23 tháng 4 năm 1949, Bộ Tổng tư lệnh ra mệnh lệnh giao nhiệm vụ cho Bộ tư lệnh Liên khu 1 « giúp Quân giải phóng xây dựng một khu giải phóng ở vùng Ung-Long-Khâm liền với biên giới Đông Bắc của ta ». « đồng thời hoạt động ở Đông Bắc để mở rộng khu tự do Đông Bắc ra tận biên giới và thông ra biển, liền với khu giải phóng Việt Quế của bạn ».

Mệnh lệnh nói rõ phải giáo dục chính trị cho bộ độii trước khi lên đường, phải xây dựng tình đoàn kết giữa hai nước Trung Hoa mới và Việt Nam mới, giữa Quân giải phóng Trung Quốc và bộ đội ta. Cán bộ, chiến sĩ ta cần thấy rõ những diều kiện thuận lợi và nhất là những khó khăn ; phải tôn trọng phong tục tập quán của nhân dân địa phương, nêu cao kỉ luật chính trị, chú trọng công tác dân vận. Cần đứng trên lập trường đoàn kết giữa hai dân tộc, căn cứ vào lợi ích cách mạng của hai nước mà giải quyết các vấn đề, tuyệt đối tránh« bản vị chủ nghĩa ».

Bộ chỉ huy chiến dịch chung được chỉ định : anh Lê Quảng Ba, phó tư lệnh Liên khu 1 là tư lệnh chiến dịch ; đồng chí Trần Minh Giang, cán bộ của bạn, là chính trị uỷ viên. Bộ chỉ huy chiến dịch lấy danh hiệu là Bộ tư lệnh khu Thập Vạn Đại Sơn.

Chiến dịch chia làm hai mặt trận : mặt trận Điền Quế do anh Nam Long làm chỉ huy trưởng, đồng chí Hoàng Bình, cán bộ của bạn, làm chỉ huy phó, anh Đỗ Trình làm chính trị viên ; mặt trận Long Châu do anh Thanh Phong làn chỉ huy trưởng, anh Chu Huy Mân và anh Long Xuyên làm chỉ huy phó.

Bộ Tổng tham mưu cử một đoàn cán bộ tác chiến giúp Bộ tư lệnh khu Thập Vạn Đại Sơn về công tác tham mưu, theo dõi diễn biến của chiến dịch, thường xuyên báo cáo với Bộ Tổng tư lệnh.

Đầu tháng 6, bộ đội ta xuất phát theo hai hướng : Long Châu và Khâm Châu - Phòng Thành.

Ngày 12 tháng 6, mặt trận Long Châu nổ súng diệt vị trí Thuỷ Khẩu và Hạ Đống, trong khi hướng phối hợp tiến công địch từ Bằng Tường xuống Nam Quan. Quân Tưởng co lại, biến Long Châu thành một cụm cứ điểm mạnh. Bộ chỉ huy chỉ thị cho bộ đội chuyển sang vây hãm Long Châu, đánh viện, chặn đường tiếp tế, tiến công Ninh Minh và Thượng Kim, giúp bạn mở rộng vfa củng cố vùng mới giải phóng quanh Long Châu.

Hướng Điền Quế và Thập Vạn Đại Sơn, đường đi khó khăn hơn. Bộ đội ta phải hành quân trèo đèom lội suối mất gần một tháng dưới nắng hè gay gắt mới đến nơi. Phát hiện bộ đội ta, quân Tưởng rút bỏ nhiều vị trí, co về các thị trấn lớn như Nà Lường, Phòng Thành, Đông Hưng. Đàu tháng 7, bộ đội ta tiến công Trúc Sơn, một thị trấn có 4 đại đội quân Tưởng bảo vệ. Bộ đội ta phối hợp với bạn củng cố vùng giải phóng đã mở rộng ở khu Thập Vạn Đại Sơn, đánh địch càn quét, tiễu phỉ ở vùng Khâm Châu. Ta tiêu diệt hơn một trung đoàn địch, diệt và bức địch rút 10 vị trí trong số 12 vị trí ở huyện Phòng Thành, làm cho các khu căn cứ nối liền một dảim thu hẹp phạm vi chiếm đóng của quân địch ở huyện Khâm Châu.

Tháng 10 năm 1949, khi lực lượng vũ trang của bạn ở hai biên khu Điền Quế và Việt Quế đã liên lạc được với chủ lực Quân giải phóng, bộ đội ta được lệnh rút về nước. Ta để lại một đại đội tiếp tục phối hợp với lực lượng của bạn để xây dựng cơ sở, củng cố và mở rộng vùng giải phóng. Ta trao lại cho bạn những vũ khí thu được của quân Tưởng gồm hơn 500 khẩu súng các loại.

Bộ tư lệnh khu Thập Vạn Đại Sơn nhận định "thắng lợi về quân sự đã quan trọng, nhưng thắng lợi về chính trị còn lớn hơn nhiều". Bộ đội ta đã để lại ấn tượng tốt đẹp trong nhân dân địa phương về tinh thần quốc tế của một quân đội cách mạng.

Một số cán bộ, chiến sĩ Việt Nam đã vĩnh viễn nằm lại trên đất Trung Quốc trong thời gian làm nhiệm vụ quốc tế này. Nhà văn quân đội Trần Đăng, một cây bút rất nhiều triển vọng, sau khi từ chiến dịch Sông Thao trở về, hăng hái đi tiếp lên đường số 4 cùng bộ đội qua biên giới làm nhiệm vụ, đã hy sinh trong một trận đụng độ với quân Tưởng.
Võ Nguyên Giáp

NGUỒN : Chiến đấu trong vòng vây (Hữu Mai thể hiện)

bản in trong Tổng tập Hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp,

Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2006, tr. 564-566.
------------------------------------
(1) Biên khu Điền Quế là khu biên giới Vân Nam - Quảng Tây. Biên khu Việt Quế là khu biên giới Quảng Đông - Quảng Tây.

nguồn: http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/chien-dich-thap-van-111ai-son/

Re:Cái nhìn mới : Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc

Đã gửi: Tư T5 13, 2009 6:54 pm
Viết bởi Nguyễn Tuấn Anh
Như vậy, có thể nói, đây thực chất là một trang tin, nhằm chuyển tải chủ trương, đường lối, và thông tin đối nội, đối ngoại của Trung Quốc bằng tiếng Việt, gắn liền và thông qua – mà nếu nói nặng hơn, là ngụy trang bằng – kênh thông tin hợp tác kinh tế. Nghiêm trọng hơn, nó được dùng để khẳng định chủ quyền Trung Hoa đối với lãnh thổ trên biển của Việt Nam mà Trung Quốc đã dùng vũ lực để chiếm đoạt và tiếp tục hăm he chiếm đoạt, cũng như khẳng định chủ quyền của họ đối với vùng biển phía nam mà họ đòi vơ gần như kỳ hết về mình.


Để đọc toàn bài xin vào link: http://blog.360.yahoo.com/blog-bfvqsbM9frIQmHcPB6d2QS4LkA--?cq=1&p=895

Re:Cái nhìn mới : Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc

Đã gửi: Tư T5 20, 2009 5:56 pm
Viết bởi Nguyễn Tuấn Anh
Nguồn : http://www.blogosin.org/?p=898

Cho đến chiều ngày 14-5-2009, trang web “Hợp tác kinh tế thương mại Việt Nam – Trung Quốc” có địa chỉ: www.vietnamchina.gov.vn, vẫn còn lưu những bản tin để cho người Trung Quốc tuyên bố chủ quyền về hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam (xem Con Ngựa Thành Troy).

Việc Trung Quốc có những tuyên bố ngang ngược về quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa không phải là điều mới xảy ra. Tuy nhiên, khi tuyên bố này được đăng trên một website có tên miền “gov.vn” chỉ cấp cho các cơ quan chính chính phủ Việt Nam; chủ quản cũng bao gồm một cơ quan Việt Nam: Bộ Thương mại, thì, vấn đề không còn là chuyện của người Trung Quốc.

Sáng 13-5, chúng tôi đã thông báo tới các cơ quan quản lý nhà nước. Tuy nhiên, cho đến cuối ngày 14-5, những thông tin sai trái nói trên vẫn chưa được đưa ra khỏi trang web “Hợp tác kinh tế thương mại Việt Nam – Trung Quốc”.Vào lúc 10 giờ 30 sáng 14-5, chúng tôi liên lạc trực tiếp với ông Nguyễn Thanh Hưng, cục trưởng cục Thương mại Điện tử và Công nghệ Thông tin, bộ Công Thương, cơ quan chịu trách nhiệm về trang web này. Lúc đầu, ông Hưng cho rằng, “Tôi nghĩ là không có gì quá ghê ghớm cả. Anh phải vào thực tế trang web thì thấy có nhiều thông tin về hợp tác thương mại, kinh tế  có nhiều điểm rất là tốt”.

Khi chúng tôi hỏi về việc phần tiếng Việt của website đăng tuyên bố của bà Khương Du thì ông Nguyễn Thành Hưng cho rằng: “Đó là trang web của Tung Quốc chứ có phải của mình đâu”. Chúng tôi hỏi: “Trang web có đuôi .gov.vn thì người ta phải hiểu là của Việt Nam, thưa ông?” Ông Hưng giải thích: “Của mình nhưng mà là phía Trung Quốc phụ trách. Tiếng Việt do phía Trung Quốc phụ trách để họ đăng trực tiếp bằng tiếng Việt giúp doanh nghiệp Việt Nam”.

Theo giới thiệu của ông Nguyễn Thanh Hưng, chúng tôi liên hệ với người trực tiếp phụ trách trang Web, ông Trần Hữu Linh, phó cục trưởng cục Thương mại điện tử và công nghệ thông tin, bộ Công thương. Ông Linh xác nhận trang Web tiếng Trung do phía Việt Nam phụ trách, Vietnamchina.gov.vn, vẫn hoạt động bình thường. Tuy nhiên, bên cạnh trang web này, chúng tôi còn tìm thấy một trang web khác, cũng gọi là “Mạng thông tin hợp tác kinh tế- thương mại Việt Nam Trung Quốc” bằng tiếng Trung, nhưng có tên là chinavietnam.gov.cn/ (đuôi “vn” đựơc thay bằng “cn”) và nội dung thì tương tự như website tiếng Việt, thể hiện quan điểm của chính quyền Trung Quốc về các vấn đề quốc tế và đặc biệt là về Biển Đông.

Như vậy, trên thực tế, các nhà doanh nghiệp Trung Quốc thay vì tiếp cận được với website do Bộ Công thương phụ trách lại nhận được thông tin do phía Trung Quốc đưa ra. Về phía các nhà doanh nghiệp Việt Nam, khi website “Hợp tác” đã được “khoán trắng” cho Trung Quốc, họ không những không được cung cấp đầy đủ thông tin về thương mại mà còn phải đọc những thông tin về các vấn đề đối ngoại và chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam theo quan điểm của chính quyền Trung Quốc.

Cũng trong buổi sáng 14-5, ông Trần Hữu Linh cho biết: “Cục Quản lý báo chí, bộ Thông tin Truyền thông vừa đề nghị có mấy bài phải bỏ xuống. Tôi cũng đang báo cáo với lãnh đạo bộ để xử lý”. Nhưng, theo ông Linh thì vì, “Theo thỏa thuận phía Trung Quốc lo phần tiếng Việt. Phía Việt Nam lo phần nội dung bằng tiếng Trung”; cho nên Bộ sẽ phải “gửi công hàm sang bộ Thương mại Trung Quốc đề nghị bỏ những nội dung không dành cho kinh tế và thương mại”.

Theo thông tin của Trung tâm Internet Việt Nam (Vnnic) thì trang web này do Bộ Thương mại (nay là bộ Công thương) đăng ký tên miền. Về nguyên tắc, khi đã đăng ký tên miền Việt Nam, thì server phải đặt tại Việt Nam. Nhưng, theo Vnnic, trang web www.vietnamchina.gov.vn đang hoạt động với một server ở Trung Quốc. Căn cứ Nghị định về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet thì từ nội dung đăng tải trên website, đến phương thức hoạt động của trang web “Hợp tác kinh tế thương mại Việt Nam – Trung Quốc” đều có nhiều sai phạm. Tên miền “gov.vn”, được coi như chủ quyền quốc gia trên internet, khi “khoán trắng” nó cho một quốc gia khác thì việc họ dùng “gov.vn” để “xâm phạm” chủ quyền lãnh thổ của mình là điều chẳng đáng ngạc nhiên.

Cám ơn dịch giả Nguyễn Lệ Chi đã giúp kiểm tra các thông tin bằng tiếng Trung Quốc
Huy Đức- Mạnh Quân