Đăng bài 5/6/2012

Gửi bài trả lời

Mã xác nhận
Nhập vào đoạn mã xác nhận mà bạn thực sự nhìn thấy trong hình. Tất cả chữ cái đều được phân biệt với chữ số và không có số O.

Nếu bạn muốn đính kèm một hay nhiều tập tin trong bài viết, hãy sử dụng công cụ bên dưới.

Kích thước tệp tối đa cho mỗi tệp đính kèm: 1 MiB.

Xem toàn bộ Xem lại chủ đề: Đăng bài 5/6/2012

Re:Đăng bài 5/6/2012

Viết bởi Nguyễn Tuấn Anh » Tư T6 06, 2012 4:36 pm

Done !!!
Bài hay

Re:Đăng bài 5/6/2012

Viết bởi Nguyen Tuan Nam » Ba T6 05, 2012 4:39 pm

5, Mục tri thức:

Tinh Thần Võ Sĩ Đạo - Samurai
Văn hóa Nhật Bản - Văn hóa Nhật Bản

Đất nước Phù Tang không chỉ được biết đến với vẻ đẹp thanh nhã của những cánh hoa anh đào, những bông tuyết tung bay trang hoàng cho ngọn núi Phú Sĩ hay nét e ấp của những cô gái trong trang phục Kimono truyền thống… Đất nước phương Đông ấy còn được biết đến bởi sự dũng mãnh của tinh thần võ sĩ đạo – Samurai !


Samurai trong tiếng Nhật, chữ Thị được đọc là Samurai. Chữ Thị là chữ được ghép bởi chữ Nhân đứng trước mặt chữ Tự. Nhân có nghĩa là người, Tự có nghĩa là đền, là chùa, là dinh quan ở. Nhân đứng trước trước cửatitle dinh quan, cửa chùa nên có ý ám chỉ là người đầy tớ, người hầu. Trong danh từ quân sự, chúng ta có thể gọi Samurai là người thị vệ, cận vệ. Hiểu như thế thì có lẽ chúng ta mới dễ dàng phân biệt được hai chữ Samurai và Bushido (võ sĩ đạo). Hai chữ này tuy hai mà một và tuy một nhưng lại là hai.

Trở về thời xa xưa, khi mà gạo được xem là lương thực chủ yếu trên những hòn đảo ở phía đông châu Á, khoảng 5000 năm trước. Người ta đã bắt đầu sinh sống bằng nghề nông qua trồng trọt, săn bắn, nuôi gia súc, từng bước làm chủ đất đai, vườn tược. Tập họp lại thành nhóm, con người lập nên những cộng đồng để chia sẻ, trao đổi, và tự bảo vệ lẫn nhau, chống lại những áp lực bên ngoài. Theo sự phát triển của cuộc sống, việc bảo vệ lãnh thổ, đất đai đã là chuyện tất yếu và chiến tranh trở thành mối đe doạ khủng khiếp mà con người phải gánh chịu. Ngược lại dòng lịch sử Nhật Bản, Samurai là một giai cấp chiến binh thị vệ đầu tiên do triều đại Mạc Phủ Đằng Nguyên (thế kỷ 12) thiết lập nhằm tạo ra một giai cấp chiến binh trung thành để bảo vệ ngôi vị Shogun (Tướng Quân) của dòng họ Đằng Nguyên. Người nào muốn trở thành Samurai thì phải hội đủ ba yếu tố: trung thành – can đảm – danh dự. Để gìn giữ các yếu tố này một cách tuyệt đối, có trách nhiệm, các samurai phải qua những chuẩn bị cần thiết để có thể đương đầu với kẻ thù. Họ được tập luyện kiếm cung từ nhỏ, thực hành trà đạo, thi ca và hội họa. Từ đó, tinh thần Thần Đạo, Võ sĩ đạo đã dần dần thấm nhuần vào tư tưởng hành động của các samurai. Cũng vào thời gian trước đó ít thế kỷ, tư tưởng Phật giáo, nhất là tinh thần an nhiên của Phật giáo Thiền tông vốn chuộng sự đơn giản và tĩnh lặng cũng ảnh hưởng mạnh đến xã hội Nhật đương thời. Sự an nhiên tạo cho các samurai sự bình tĩnh và bình thản trước mọi tình huống. Sự đơn giản giúp cho samurai nhìn nhận ngay cả sự sống chết cũng là một sự đơn giản, một sự nhẹ nhàng tựa như đời sống của hoa Anh Đào. Anh Đào là loại cây thường nở hoa vào cuối tháng 3 hàng năm. Hoa Anh Đào chỉ nở khi tiết trời đã ấm lên.


Khi trời trở lạnh đúng vào dịp nụ đã căng thì cũng sẽ giữ hoa lại không nở cho đến khi trời ấm lên lại. Hoa nở bung ra ít ngày, rồi một trận gió thổi qua hay một trận mưa xuân nhẹ đến, từng cánh anh đào mỏng manh nương theo làn gió lìa hoa, lìa cành. Đời sống của những đóa hoa Anh Đào thật ngắn ngủi, nhưng có hai lần trở thành tuyệt đẹp: khi hoa nở rực rỡ dưới ánh nắng xuân vtitleà khi hoa bay theo làn gió lìa cành. Samurai tự ví đời sống mình đẹp như đời sống của đóa hoa anh đào. Ở đó, sự sống và sự chết đều có nét đẹp khác nhau. Sự can đảm đã tạo dựng cho các samurai xem cái chết như là một điều vinh dự, một cái đẹp của cánh hoa đào rơi. Kẻ mạnh bao giờ cũng được tôn sùng bởi kẻ yếu, nhờ chiến đấu giỏi họ bảo vệ được quyền lợi của kẻ yếu. Những biệt tài đó nâng kẻ mạnh thành người hùng, thành những chiến sĩ, kiếm sĩ lỗi lạc. Phát triển từ thế kỷ thứ 3 cho đến thế kỷ thứ 12, võ sĩ đạo bắt đầu hình thành, lớn mạnh trong xã hội Nhật và đến triều đại Tokugawa (1603-1867) đã đóng một vai trò quan trọng dưới trướng hai thế lực lớn ở Nhật là Taira và Minamoto. Để có được lực lượng tuỳ tùng giỏi, các lãnh chúa đã tổ chức những kiếm sĩ, những võ sĩ đạo xuất sắc thành một đạo quân được gọi là shogun. Trong tiếng Nhật, ý nghĩa của Samurai gần như có liên hệ đến từ “phục vụ“, nghĩa là người võ sĩ đạo là người phục vụ, phục tùng các lãnh chúa (daimyo). Theo lịch sử Nhật thì hầu hết các cuộc tranh quyền đoạt vị của các lãnh chúa daimyo đều bắt nguồn từ tranh chấp về lãnh thổ. Võ sĩ đạo Nhật đã được huấn luyện đặc biệt về quân sự để giúp các lãnh chúa trông coi nhiều vùng đất rộng, đông dân. Bên cạnh đó có những võ sĩ đạo không trực thuộc một đạo quân nào cả gọi là ronin, tức những võ sĩ đạo không có người lãnh đạo, không có lãnh chúa hoặc người cầm đầu. Điều này có thể xảy ra khi lãnh chúa của họ qua đời, những người ronin trung thành, không còn ai phục vụ sau đó trở về làm ruộng, đi tu, hoặc đánh thuê giết mướn hay trở thành kẻ cướp, côn đồ.


Người võ sĩ đạo có nhiều đặc quyền, họ được phép mang hai thanh kiếm khác nhau ở bên trái, một dài (katana hoặc tachi) một ngắn (wakisashi) và có thể thêm một con dao nhỏ được gọi là tanto, thông thường dùng để mổ bụng tự sát (hara-kiri hoặc seppuki). Tất cả những vũ khí này đã được sử dụng vào cuối thời Kamakura (1185-1333), trước đó cung tên là vũ khí chính. Người dân bình thường không được phép mang các loại vũ khí đó và có thể bị chém nếu có ý định chống đối võ sĩ đạo. Về trang phục, giới võ sĩ đạo cũng khác. Thường thì họ mặc kimono. Ở giữa thế kỷ thứ 12 và 17 dưới triều đại Edo, bộ 2 mảnh hitatare rất phổ biến mà chúng ta thường thấy trong nhiều bộ phim như Ktitleagemusha, Ran, Throne of Blood, Heaven and Earth... Bên cạnh đó, trên ngực áo của họ còn có mang phù hiệu tương tự như cờ xí của đạo quân shogun mà họ trực thuộc. Sau một thời gian, hitatare mở đường cho bộ kamishimo mà các võ sĩ đạo hay mặc bên ngoài chiếc kimono của mình, phần trên được gọi là kataginu tương tự như một chiếc áo khoác ngoài, phần dưới gọi là hakama, hai ống quần rộng rãi và thoải mái hơn. Kiểu tóc của võ sĩ đạo có truyền thống theo lãnh chúa. Người Nhật vẫn có thói quen buộc một chùm tóc ở ngay trên đỉnh đầu, có lẽ ảnh hưởng từ Trung Quốc dưới triều Asuka-Nara và Heian. Kiểu Mitsu-ori, futatsu-yori cũng là những kiểu tóc rất phổ thông ở thế kỷ thứ 16. Kiểu cạo đầu ở trước trán cũng là thời trang của những năm đầu triều đại Edo, rất được các võ sĩ đạo hưởng ứng. Kiểu tóc này phù hợp với các võ sĩ đạo khi mang eboshi, được làm bằng vải đen và được buộc bằng những tua chỉ gấm. Qua kiểu ăn mặc này người chung quanh có thể nhận ra ai là võ sĩ đạo. Ngoài eboshi dùng trong những lúc bình thường, người võ sĩ đạo trong thời chiến còn được trang bị áo giáp (kikou) rất nặng nề (như Tom Cruise trong bộ phim The Last Samurai), khác biệt tuỳ theo cấp bậc trong giới võ sĩ đạo. Những loại áo giáp chiến đấu và những chiếc mũ (kabuto), mặt nạ (mempo) được làm bằng tre, vải, da, và kim loại đặc biệt để che chở toàn thân.

Cuối thế kỷ thứ 15, đạo quân Ashikaga mất quyền kiểm soát lãnh thổ, các lãnh chúa tranh chấp liên miên và nội chiến kéo dài gần 100 năm. Khi Toyotomi Hideyoshi cuối cùng thống nhất được lãnh thổ, ông đã đưa ra một loạt những thay đổi mới cho võ sĩ đạo. Ông tổ chức cho người võ sĩ đạo có một cuộc sống ổn định hơn trong những dinh thự, lâu đài (tenshu), từ đó họ có thể tự qtitleuản lý và phòng chống kẻ thù từ bên ngoài. Đây là bước chuyển biến căn bản thay đổi võ sĩ đạo thành đội ngũ quân sự chuyên nghiệp. Để thực hiện công việc đó, Toyotomi Hideyoshi đã áp dụng phương pháp đánh thuế trên lúa gạo nhằm xác định cấp bậc võ sĩ đạo để quản lý và phát triển. Những nguyên tắc bao gồm qui luật, lời tâm niệm và phong cách của người kiếm sĩ, võ sĩ đạo được gọi là bushido (Luật chiến binh). Điểm chủ yếu là trung thành với lãnh chúa daimyo, tự quản, nói thật và không bộc lộ tình cảm của mình cho người khác biết. Mỗi một đạo quân shogun đều có nguyên tắc danh dự và hành xử riêng của mình, chẳng hạn trong thời Chosokabe Motochika (khoảng 1596), người võ sĩ đạo say sưa quá độ, làm ảnh hưởng đến người khác có thể bị chém đầu. Hoặc thời Takeda Shingen (1547), lấy vợ lấy chồng ngoài lãnh thổ cai trị của lãnh chúa là cấm kỵ. Hầu hết những nguyên tắc của người võ sĩ đạo đều dựa trên căn bản triết lý của đạo Khổng, đạo Phật và Thần đạo. Sau khi triều đại Meiji phục hưng (Minh hoàng Thiên trị, 1868-1912), những nguyên tắc của người võ sĩ đạo được duy trì và rèn luyện trong quân đội Nhật hoàng cho đến năm 1945. Ảnh hưởng này đã khống chế nhiều binh sĩ Nhật. Áp dụng nguyên tắc của người võ sĩ đạo trong Thế Chiến thứ II, không phản bội Tổ quốc, trung thành với Nhật hoàng nên họ đã tự sát trong danh dự để không bị bắt, đầu hàng hoặc trở thành tù nhân.


Cái chết đối với người võ sĩ đạo nhẹ như bông, nhưng chết trong danh dự hay chết trong ô nhục mới là vấn đề then chốt. Seppuku là một hình thức tự sát được xem là danh dự, đây là một phần truyền thống võ sĩ đạo, một phần mà những kiếm sĩ không thể từ chối. Hara-kiri cũng là một hình thức tự sát tương tự, đúng nghĩa của nó là mổ bụng. Septitlepuku được tiến hành ở ngoài chiến trường, bằng một nghi lễ đặc biệt, tất cả mọi người đều có thể tham dự và chứng kiến. Một khi người võ sĩ đạo đã tự mổ bụng mình, liền tiếp theo đó là đầu rơi. Chết như vậy đối với các võ sĩ đạo là một vinh quang, họ chết vì lãnh chúa để chứng minh lòng trung thành với chủ. Truyền thống này sau đó đã không được các quan cao cấp trong nhiều triều đại của Nhật ủng hộ. Kể từ năm 1603, và một lần nữa vào năm 1663 thực hiện Seppuku đã bị cấm. Tuy vậy, hiện tượng tự sát vẫn không dứt hẳn… Ý nghĩ tự sát trong danh dự là cách giải thoát lý tưởng của nhiều người Nhật trong xã hội hiện đại. Nhật Bản là một trong những quốc gia trên thế giới có nhiều vụ tự sát. Họ tự sát có thể vì thất bại công việc làm ăn trên thương trường hoặc chỉ vì thi rớt.


Trong triều đại Edo và Tokugawa (1600-1867) nước Nhật sống trong cảnh thanh bình. Tokugawa Ieyasu chọn Edo làm bộ tổng chỉ huy (bakufu) của đạo quân shogun. Đến đầu thế kỷ thứ 19 thì triều đại Tokugawa đình đốn và suy sập, hệ thống võ sĩ đạo yếu đuối. Tàu nước ngoài đổ bộ, giao thương và du nhập văn hoá phương Tây đã trở thành mối lo ngại của triều đình Tokugawa. Thất bại trước người nước ngoài và bất lực trong việc phát triển đất nước, Hoàng đế Keiki từ chức, đạo quân samurai cuối cùng tan rã. Meiji Mutsuhito lên ngôi nắm tất cả quyền lực. Năm 1871 giới võ sĩ đạo hoàn toàn bị bãi bỏ. Các lãnh chúa daimyo mất hết quyền hành và khả năng kiểm soát nên đã giao lại lãnh thổ cho Thiên hoàng. Meiji thống nhất đất nước mặt trời, đặt Edo làm thủ đô, bây giờ gọi là Tokyo. Nhưng mọi chuyện vẫn chưa chấm dứt. Các võ sĩ đạo nhóm lại dưới sự lãnh đạo của Saigo Takamori (1827-1877), một nhân vật đầy quyền lực ở miền nam bán đảo Kyushu có tham vọng phục hồi lại triều đại cũ cùng đạo quân Tokugawa. Ttitleiếc thay, chỉ khoảng 9 năm sau - năm1877 - cuộc chiến xảy ra, Saigo Takamori, lãnh tụ đạo quân phiến loạn Satsuma đã hoàn toàn thất trận trước lực lượng quân đội hiện đại của Nhật hoàng. Hơn 40 ngàn võ sĩ đạo đã bị đẩy lui bởi 60 ngàn lính của Thiên hoàng. Một cuộc hỗn chiến đẫm máu. Cuối cùng Saigo Takamori đã bị thương và phải tự sát theo truyền thống võ sĩ đạo. Dù Nhật hoàng đã chiến thắng vang dội, Saigo Takamori vẫn được xem là người anh hùng có tinh thần và truyền thống võ sĩ đạo bất khuất. Ngày nay tại Nhật Bản, tuy võ sĩ đạo không còn vai trò chủ đạo trong xã hội nhưng nó vẫn sáng ngời và hiện diện như một niềm tin kiêu hãnh trong những gia đình còn mang đậm phong cách truyền thống Nhật. Giờ đây, thế hệ trẻ Nhật Bản đang bị ảnh hưởng mạnh vì văn minh Âu Mỹ đang xâm lấn vào trong nếp sống của người Nhật. Chúng ta đang có cơ hội nhìn xem con thuyền Nhật Bản sẽ như thế nào trong những thập niên tới. Giai cấp samurai cuối cùng đã tan rã hơn 130 năm nay, nhưng tinh thần võ sĩ đạo của samurai vẫn mãi còn tiềm tàng trong tinh thần Nhật Bản. Yukio Mishima, một nhà văn lỗi lạc của Nhật đã chọn cách tự sát theo cung cách samurai vào năm 1970 để cảnh tỉnh người Nhật về nguy cơ xâm chiếm của văn minh Âu Mỹ. Người Nhật vẫn là một dân tộc có những đặc điểm kỷ luật mà các dân tộc khác khó có thể sống như họ được. Họ vẫn có được môt tinh thần trách nhiệm cao đối với xã hội. Có lẽ đây là một giá trị tinh thần không phải một sớm một chiều mà một dân tộc nào cũng đạt được như họ. Một cây Anh Đào cho dù có nở rộ cả cây nhưng quả thật một cây Anh Đào cũng không có gì hấp dẫn lắm cho người thưởng ngoạn. Nhưng một vườn Anh Đào nở rộ bên chùa, một rừng Anh Đào nở rộ trên núi thì người ta mới thấy được cái vẻ đẹp thật lạ lùng của xứ Phù Tang.

http://www.duhocnhatban.edu.vn/component/content/article/55-van-hoa-nhat-ban/114-tinh-than-vo-si-dao-samurai.html

Re:Đăng bài 5/6/2012

Viết bởi Nguyen Tuan Nam » Ba T6 05, 2012 3:59 pm

4, Mục tri thức:

Kiếm Nhật Bản (Nihonto)

Hình ảnh những chàng võ sĩ samurai tả xung hữu đột đã rất đỗi quen thuộc với nhiều người. Và thanh kiếm Nhật trong tay các samurai cũng nổi tiếng trên toàn thế giới, bởi nó không chỉ là vũ khí hữu hiệu mà còn là những tác phẩm nghệ thuật đích thực.

Sách sử ghi lại, thanh kiếm Nhật Bản, tiếng Nhật gọi là nihonto, có nguồn gốc từ thế kỷ 8. Những thanh kiếm Nhật Bản đặc biệt gây ấn tượng và được chú ý vì nghề luyện thép của Nhật Bản sớm đạt kỹ thuật điêu luyện và vì kiếm Nhật có hình dáng thanh nhã, những đường gờ, vân và nước thép tuyệt vời. Trong suốt hơn 12 thế kỷ, thanh kiếm có ý nghĩa tinh thần vô cùng to lớn đối với người Nhật. Cùng với gương và bảo ngọc, nó là một trong 3 biểu tượng của Hoàng gia.

Để làm ra thanh kiếm vừa là vũ khí, vừa là một hình thức nghệ thuật, cần có 2 điều kiện: thứ nhất, phải có thời gian ổn định đủ để các thợ rèn kiếm chuyên tâm vào công việc của mình; thứ hai, phải tồn tại sự bất ổn đủ để tạo ra nhu cầu về kiếm. 500 năm đầu tiên trong lịch sử thanh kiếm Nhật Bản hội tụ cả hai điều kiện này. Hầu hết những trận chiến huyền thoại xảy ra vào thời gian đó.


Võ sĩ samurai và kiếm Nh�t

Truyền thuyết Nhật Bản kể rằng người thợ rèn kiếm tài ba Amakuni vào khoảng năm 720 sau công nguyên chính là người đã sáng tạo ra thanh kiếm đặc thù Nhật Bản: kiếm dài, 1 cạnh sắc, cong, và cầm bằng hai tay. Trước đó, các thanh kiếm ở Nhật đều là bắt chước kiếm của Trung Quốc và Triều Tiên: cũng là loại cầm bằng hai tay nhưng thẳng và có 1 hoặc 2 cạnh sắc.

Nghề rèn kiếm của Nhật Bản rất được kính trọng. Xưa kia, những thợ rèn kiếm thường là yamabushi, tức là thành viên của giáo phái Shugendo theo lối sống khắc kỷ và hoàn toàn thờ phụng tôn giáo. Có gần 200 trường dạy nghệ nhân rèn kiếm trên toàn Nhật Bản, mỗi trường có lịch sử và những đặc điểm riêng rõ rệt.

Kỹ thuật luyện thép được đưa vào Nhật Bản khoảng thế kỷ 3 đến thế kỷ 5 sau công nguyên, và ngay từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 10, Nhật Bản đã làm ra những lưỡi kiếm cực kỳ sắc bén. Sau khi luyện, thép kawagane được quai búa nhiều lần thành các tấm thép mỏng, sau đó làm cho cứng lại, đập thành những miếng nhỏ như đồng xu, rồi được rèn thành loại thép shingane không bị giòn nên khó bị gãy hơn. Quy trình rèn nhiều lần như vậy tạo ra lưỡi kiếm Nhật Bản có chất lượng độc đáo với những đường vân giống như gỗ.

Nước thép của lưỡi kiếm sau khi tôi (hamon) là một trong những đặc điểm đẹp nhất và dễ nhận thấy nhất của thanh kiếm, đồng thời cũng là phần quan trọng để xác định nguồn gốc thanh kiếm. Nói chung mỗi trường hoặc mỗi người thợ rèn áp dụng một kiểu tôi kiếm riêng.

Lưỡi kiếm Nhật Bản được phân loại theo độ dài. Đơn vị đo là shaku, tương đương 30cm. Taito (trường kiếm, tức kiếm tachi hoặc katana) có độ dài hơn 2 shaku. Shoto (đoản kiếm, tức kiếm wakizashi) có lưỡi dài trong khoảng từ 1 đến 2 shaku. Lưỡi kiếm tanto thường ngắn hơn 1 shaku.

Có thể tóm lược quá trình lịch sử của kiếm Nhật Bản như sau:

Kiếm cổ koto được phát hiện trong các ngôi mộ cổ từ thời kỳ Kofun (năm 300-710) và đều bị rỉ sét. Các thanh kiếm cổ này nói chung có lưỡi gần như thẳng với mũi kiếm nhỏ vát nhọn. Kiếm của thời Nara (710-794) và đầu thời Heian (794-1185) cũng tương tự những kiếm tìm thấy trong các ngôi mộ kể trên, nhưng các thanh kiếm này ngắn hơn và nhẹ nên có lẽ dùng để đâm chứ không phải để chém. Từ khoảng thế kỷ 9 và thế kỷ 10, các lưỡi kiếm được làm dài hơn với hình hơi cong và có đường gờ ở hai bên, trở thành vũ khí hiệu quả cho các chiến binh cưỡi ngựa.

Chất lượng kiếm được cải thiện rất nhiều vào giữa thời Heian và đầu thời Kamakura, tức là khoảng thế kỷ 10 đến đầu thế kỷ 13, khi kiếm được sử dụng nhiều hơn. Kiếm thời Kamakura (tachi) là loại có chất lượng cao nhất, cả về tính nghệ thuật và kỹ thuật, với những thợ rèn tên tuổi như Muramasa và Masamune. Hầu hết các thanh kiếm bảo vật quốc gia của Nhật Bản đều là những thanh kiếm của thời kỳ này. Do những cải tiến về áo giáp, kiếm phải dài hơn và nặng hơn. Những thanh kiếm cuối thời Kamakura thường dài từ 1m đến 1,5m, và thường chỉ do những võ sĩ cưỡi ngựa sử dụng. Sau đó người ta làm nhiều thanh kiếm ngắn hơn để đánh giáp lá cà.


Kiếm Nh�t

Trong thời Muromachi (1333-1568), vì xung đột kéo dài và chiến tranh liên miên, sản xuất kiếm tăng lên về số lượng nhưng chất lượng lại giảm sút, kiếm trở nên nặng hơn, to bản hơn, ít cong và ngắn đi rất nhiều, với mục đích có thể chém được các loại giáp dày. Loại lưỡi kiếm mới này gọi là katana và dài chừng 60cm. Tiếp đến xuất hiện loại lưỡi ngắn hơn gọi là wakizashi.

Trong thời Azuchi-Momoyama (1568-1600) và thời Edo (1600-1868), nhiều thợ rèn mở trường mới và người ta chú ý đến những kỹ thuật rèn kiếm thời Kamakura đã thất truyền rất nhiều. Họ cố gắng bắt chước những thanh kiếm đó nhưng bị hạn chế bởi chỉ có nhu cầu về kiếm đánh giáp lá cà. Nhiều chiếc kiếm thời kỳ này có nước thép tôi tuyệt vời, thép rèn kỹ, lại được chạm khắc đẹp. Bao kiếm, chuôi và dây đeo cũng được trang trí cầu kỳ.

Những năm từ 1800 đến cuối thời Edo được gọi là thời kỳ Shinshinto (tân tân kiếm) trong lịch sử thanh kiếm Nhật Bản. Đây là thời kỳ phục hưng ngắn, được đánh dấu bằng nỗ lực cuối cùng nhằm hồi sinh vẻ đẹp và chất lượng của kiếm cổ.

Năm 1868, Nhật Hoàng Minh Trị ban hành quy định cấm sản xuất hoặc mang kiếm, nhưng cho phép một nhóm nhỏ thợ rèn tiếp tục công việc để duy trì nghệ thuật này. Việc sử dụng kiếm tăng lên trong thời gian chiến tranh Nga-Nhật năm 1904-1905 và trước thế chiến 2, khi các sĩ quan buộc phải đeo kiếm như một phần trong quân phục và nhằm khơi dậy tinh thần võ sĩ đạo. Tuy nhiên kiếm dùng trong quân đội không phải là những thanh kiếm nghệ thuật thực sự mà làm từ thép sản xuất bằng máy, và khi sản xuất hàng loạt thì đương nhiên chất lượng là yếu tố đầu tiên bị giảm sút.

Sau Thế chiến 2, lực lượng chiếm đóng ra lệnh hủy tất cả các loại kiếm, nhưng rồi lệnh này được sửa đổi nhằm để lại những thanh kiếm mang ý nghĩa tôn giáo, tinh thần hoặc nghệ thuật, thuộc về các bảo tàng, đền chùa hoặc các bộ sưu tập cá nhân. Song một số lượng rất lớn các thanh kiếm tốt đã bị hủy và nhiều thanh kiếm khác bị đưa ra nước ngoài dưới hình thức quà tặng.

Tuy nhiên, mối quan tâm đến nghệ thuật rèn kiếm cổ dần dần tăng trở lại và nhiều thợ rèn đang cố khôi phục lại những kỹ thuật xa xưa. 5 trung tâm dạy rèn kiếm nổi tiếng nhất của Nhật Bản là Bizen, Sagami, Yamato, Yamashiro và Mino. Kể từ năm 1954, các cuộc thi kỹ thuật rèn kiếm hàng năm cũng góp phần quan trọng trong việc nâng chất lượng kiếm.

Hiện tại có một số quy định như sau về kiếm Nhật Bản và nghề rèn kiếm:

1) Chỉ các thợ rèn kiếm có bằng cấp được sản xuất kiếm Nhật (những dụng cụ cắt dài từ khoảng 15cm trở xuống không thuộc đối tượng của quy định này). Muốn được cấp bằng phải học việc từ một thợ rèn kiếm có bằng cấp trong thời gian tối thiểu là 5 năm.
2) Một thợ rèn kiếm có bằng cấp chỉ được sản xuất tối đa mỗi tháng 2 trường kiếm và 3 đoản kiếm.
3) Tất cả các thanh kiếm đều phải đăng ký với Cục văn hóa.

Nhật Bản là đất nước nổi tiếng về gìn giữ những truyền thống xa xưa. Qua hàng trăm, hàng ngàn năm lịch sử, nhiều môn nghệ thuật vẫn được duy trì cho đến tận ngày nay, trong đó có thanh kiếm Nhật. Bởi đã trở thành nghệ thuật chứ không chỉ đơn thuần là một vũ khí, thanh kiếm Nhật mới có thể truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ, thậm chí làm cho nhiều người trên thế giới say mê./.

http://toiyeunhatban.wordpress.com/2007/12/25/ki%E1%BA%BFm-nh%E1%BA%ADt-b%E1%BA%A3n-nihonto/

Re:Đăng bài 5/6/2012

Viết bởi Nguyen Tuan Nam » Ba T6 05, 2012 3:46 pm

3, Mục giải trí:

Kiếm Nhật cực đẹp



























http://vothuat.co/kiem-nhat-cuc-dep.html

Re:Đăng bài 5/6/2012

Viết bởi Nguyen Tuan Nam » Ba T6 05, 2012 3:37 pm

2, Mục giải trí:

10 bí ẩn về các ninja
(Dân trí) - "Ninja" từng xuất hiện trong các bộ phim và truyện tranh của Nhật Bản. Nhưng không nhiều người biết về ninja và trường phái võ thuật Ninjutsu.




1) Ninja là những thần thoại

Trên thực tế, ninja và môn võ thuật mà họ theo học xuất hiện cách đây 800 năm. Các lò luyện ninja phát triển kỹ năng võ thuật để bảo vệ bản thân họ khỏi những chiến binh như Samurai. Nguyên tắc của trường phái võ thuật Ninjutsu là: Tẩu thoát khi có thể; nếu không thể đánh bài… chuồn, hẵng ra tay hạ sát. Không có gì là trái với đạo lý đối với ninja: họ có thể ném cát vào mắt của kẻ thù, giẫm đạp lên kẻ thù khi quỵ ngã… bất cứ việc gì có thể bảo vệ mạng sống của họ. Trải qua quá trình phát triển, ngày nay, ninja thường được thuê làm gián điệp, vệ sĩ tư hoặc ám sát thuê.

2) Bí mật những thanh kiếm

Sự thật của bí ẩn này nằm ở truyền thuyết đồn đại về việc ninja bắt kiếm bằng tay không. Nhưng trên thực tế, một ninja siêu đẳng cũng không thể ngăn cản một thanh gươm sắc bén chỉ bằng tay không. Họ sử dụng những thứ vũ khí bí mật và rất hiệu quả để chặn đường chém của thanh gươm.

3) Mặt nạ ninja

Ninja sử dụng mặt nạ và trang phục đen khi hành sự không hẳn được xem là đồng phục của họ. Ngày nay, hầu hết các ninja được thuê làm vệ sĩ đều ăn vận rất hiện đại. Cách đây 800 năm, việc đeo mặt nạ như một phần của đồng phục và ẩn nấp trong các lùm cây là cách thức giấu mình của ninja. Tuy nhiên, việc này cũng phụ thuộc vào môi trường và hoàn cảnh.

4) Sự biến mất của ninja

Sự biến mất đầy bí ẩn của ninja thực ra là vì nguyên tắc đầu tiên bất di bất dịch của họ: luôn luôn tìm cách… chuồn. Nếu một ninja có thể tránh được việc chém giết, họ sẽ tránh đến cùng. Để làm được điều này, họ cần trang bị một số vũ khí như phi tiêu (chỉ ném ra để hù dọa), bom khói, cát khô (để ném vào mắt đối phương)… Sau khi vận dụng các loại vũ khí chỉ mang tính chất cảnh cáo này, ninja có thể biến mất lẹ làng. Quả thực cũng không có gì thần bí ở đây cả!

5) Ninja và thuật điểm huyệt

Vô số huyệt đạo trên cơ thể người mà khi bị điểm đúng có thể dẫn đến tử vong. Tuy nhiên, ninja không sử dụng cách này để giết người mà chỉ điểm những huyệt giúp họ tự vệ hoặc kéo dài thời gian.

6) Tên của trường phái võ thuật Ninjutsu

Ninjutsu có nghĩa là nghệ thuật của sự rón rén và kiên nhẫn - đó là chiến lược và chiến thuật của chiến đấu. Có 18 quy tắc chính của việc luyện tập môn võ này, bao gồm: sự thanh lọc tinh thần; sử dụng cơ thể người khác làm vũ khí; chiến đấu bằng gươm; gậy và quyền trượng; phi tiêu; sử dụng lê; thuật hóa trang; thuật lặn dưới nước; thuật cưỡi ngựa; thuật tẩu thoát…

7) Shuriken - phi tiêu sát thương

Trên thực tế, phi tiêu chỉ là vũ khí thứ yếu mà ninja sử dụng. Có 2 loại chính: Hira có hình ngôi sao và Bo ở dạng thanh dài khoảng 21cm. Bên cạnh đó, ninja cũng sử dụng những vật dụng quen thuộc hơn như tăm tre hay kẹp tóc.

8) Vũ khí của ninja

Ninja chỉ sử dụng những vũ khí cổ đại của Nhật Bản nhưng họ cũng được huấn luyện dùng những vũ khí hiện đại như súng ống, bom mìn…

9) Sức mạnh của ninja

Điểm mấu chốt của trường phái võ Ninjutsu là sử dụng cơ thể một cách hiệu quả, cho dù cơ thể đó béo hay gầy, thấp hay cao. Sức mạnh của ninja không nằm ở tốc độ mà ở chỗ họ có thể đoán được chuyển động và đọc được suy nghĩ của đối phương. Bằng những động tác bình tĩnh và vững chãi, ninja có thể điều khiển được kẻ thù và giành chiến thắng. Trường phái võ thuật Ninjutsu chú trọng đến sự chuyển động của bàn chân và tư thế cân bằng tự nhiên.

10) Cướp biển và ninja
Mọi người thường hay so sánh ninja và cướp biển, ‘thế lực’ nào tốt hơn? Nhưng đây chỉ là một đề tài vui trên mạng Internet mà thôi. Thực tế, nếu so sánh ninja và cướp biển thì theo một góc nhìn nào đó, ninja tỏ ra ‘lương thiện’ hơn nhiều. Cướp biển có thể chiến đấu tới cùng vì lợi ích của họ, bất chấp mọi giá; còn ninja, họ có thể bỏ tàu và ‘bay’ trên mặt nước tìm nơi bảo toàn tính mạng.

Anh Nguyễn
Theo Listverse

http://dantri.com.vn/c132/s132-341221/10-bi-an-ve-cac-nina.htm

Đăng bài 5/6/2012

Viết bởi Nguyen Tuan Nam » Ba T6 05, 2012 3:21 pm

1, Mục tin tức:

Nhật Bản: Tài trợ cho Việt Nam 5 dự án không hoàn lại về y tế, giáo dục

Hôm 12.3, Tổng lãnh sự quán nhật bản tại TP.HCM, đã ký kết năm dự án viện trợ không hoàn lại với tổng trị giá 478.690 USD, trong đó có 2 dự án viện trợ xây dựng trường tiểu học tại khu vực Nam Trung Bộ; 2 dự án trang bị thiết bị y tế ở ĐBSCL; và 1 dự án xây dựng hệ thống cống đập tại tỉnh Long An. Ông Ikuo Mizuki, Tổng lãnh sự Nhật Bản tại TP.HCM cho biết: "Mặc dù tổng số tiền ODA tài trợ cho các dự án không hoàn lại tại các nước châu Á và ASEAN trong năm 2009 giảm, nhưng khoản tiền viện trợ dành cho Việt Nam tăng. Nhật Bản xác định trong kế hoạch tăng cường quan hệ với các nước ASEAN, Việt Nam là một đối tác quan trong trong năm 2009. Việt Nam nhận các dự án tài trợ ODA không hoàn lại của chính phủ Nhật Bản có tổng trị giá khoảng 855.971 USD, nhiều nhất kể từ khi chương trình bắt đầu từ năm 1995. Trong 15 năm qua, tổng số tiền tài trợ cho dự án trong chương trình này đã đạt 7,8 triệu USD".

Năm dự án nhận tài trợ

Dự án trang bị trang thiết bị y tế cho Bệnh viện đa khoa Hàm Long tại huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre (97.000 USD); dự án trang bị trang thiết bị y tế cho Phòng khám đa khoa khu vực Vĩnh Viễn, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang (90.838 USD); dự án xây dựng trường tiểu học Phước Bình C, huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận (96.871 USD); dự án xây dựng trường tiểu học Sơn Mỹ 2, huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận (97.029 USD); dự án xây dựng hệ thống cống đập tại xã Long Phụng, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An (96.952 USD).

http://www.baomoi.com/Nhat-Ban-Tai-tro-cho-Viet-Nam-5-du-an-khong-hoan-lai-ve-y-te-giao-duc/45/3977626.epi