Vướng mắc trong phát triển CNTT

Gửi bài trả lời

Mã xác nhận
Nhập vào đoạn mã xác nhận mà bạn thực sự nhìn thấy trong hình. Tất cả chữ cái đều được phân biệt với chữ số và không có số O.

Nếu bạn muốn đính kèm một hay nhiều tập tin trong bài viết, hãy sử dụng công cụ bên dưới.

Kích thước tệp tối đa cho mỗi tệp đính kèm: 1 MiB.

Xem toàn bộ Xem lại chủ đề: Vướng mắc trong phát triển CNTT

Vướng mắc trong phát triển CNTT

Viết bởi chung » Tư T9 03, 2003 7:50 am

Từ kinh nghiệm thực tế ứng dụng và phát triển CNTT ở các địa phương Bình Thuận, Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Phước, Tây Ninh, Bến Tre, Lào cai, Phú Yên,... trong khoảng thời gian từ 1996 đến 2003, chúng tôi nhận thấy các địa phương thường gặp nhiều khó khăn, vướng mắc vì thực chất đây không chỉ là một quá trình ứng dụng công nghệ mới mà còn cao hơn thế nhiều: đây là một quá trình làm thay đổi căn bản cách nhận thức và hành xử bắt đầu từ việc tổ chức lại các hoạt động thông tin trong xã hội. Dưới đây, chúng tôi xin tổng hợp lại 10 vướng mắc thường gặp nhất.

  1. Ứng dụng và phát triển CNTT ở địa phương cần bắt đầu từ đâu? Tại sao?

     Đây là câu hỏi đầu tiên và thường là rất khó trả lời. Bắt đầu từ việc mua sắm máy móc, thiết bị? Thật dễ dàng, nhưng sẽ mất ngay ít nhất 30% tổng giá trị sau 3 tháng không dùng vào việc gì cả. Bắt đầu từ việc đào tạo cán bộ? Chắc chắn là việc phải làm, vấn đề là đào tạo nội dung gì và họ sẽ sử dụng kiến thức học được vào việc gì và bao giờ? Nếu không, họ còn quên nhanh hơn cả tốc độ mất giá của thiết bị khi không được sử dụng đúng cách. Trong thực tiễn, Bình Thuận (1996), Đà Nẵng (2000), Thừa Thiên Huế, Bến Tre (2001), Bình Phước, Tây Ninh (2002) bắt đầu từ việc nâng cao nhận thức về CNTT đồng loạt cho tất cả các cán bộ của mình từ cán bộ quản lý đến các chuyên viên. Những câu hỏi như: CNTT thật sự là gì? Vì sao CNTT có thể trở thành động lực phát triển xã hội? Những điều kiện cần và đủ để phát triển CNTT một cách chủ động và mạnh mẽ là gì? Trong điều kiện riêng của địa phương thì nên chọn cách tiếp cận nào? chọn điểm nhấn nào?... Sau những lớp nâng cao nhận thức như vậy, các địa phương này, ở các mức độ khác nhau, đã tìm được câu trả lời thực hiện Chỉ thị 58 nên bắt đầu từ đâu. Họ dựa trên lập luận rất logic rằng nếu CNTT có thể trở thành động lực chính phát triển xã hội thì cần phải xác định chiến lược phát triển kinh tế xã hội của địa phương mình là gì trong giai đoạn từ nay đến 2020? Một khi đã có chiến lược phát triển kinh tế xã hội thì sẽ có điểm tựa để xây dựng chiến lược phát triển CNTT - động lực thực hiện chiến lược kinh tế xã hội đó. Vậy, xây dựng chiến lược phát triển CNTT là điều cần làm trước tiên bởi nếu không có nó thì tất cả sẽ rơi vào tản mạn, rời rạc, mò mẫm, cảm tính và chắc chắn là không hiệu quả.
  2. Cách tiếp cận nào là thích hợp, phát triển ngay phần mềm ứng dụng hay môi trường thông tin?

     Khi đã xác định được chiến lược phát triển CNTT rồi thì lại phát sinh một câu hỏi tiếp theo là triển khai như thế nào là hợp lý. Ai cũng biết là cần phải tin học hoá quản lý hành chính nhà nước, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, hiện đại hoá các hoạt động văn hoá, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng... nhưng tiếp cận như thế nào thì không đơn giản. Nhiều công ty tin học quan niệm một sở cũng giống như một... doanh nghiệp nên chọn cách tiếp cận tin học hoá y hệt như tin học hoá doanh nghiệp, nghĩa là đi thẳng vào phân tích, thiết kế ứng dụng cho các bài toán quản lý nhân sự, kế toán, xử lý công văn đi - đến,... và càng đi sâu càng rối. Sự khác nhau là ở chỗ các mục tiêu cần phải đạt của một doanh nghiệp luôn luôn rõ ràng bởi sức ép lợi nhuận, còn của sở thì chưa vì còn trong quá trình cải cách hành chính. Đưa CNTT vào hoạt động của một sở thực chất là quá trình hiện đại hoá toàn bộ hệ thống thông tin phục vụ hoạt động thường nhật của sở. Tất cả các sở, ngành đều giống nhau ở một điểm: đó là các cơ quan chức năng trong bộ máy quản lý hành chính nhà nước địa phương mà công việc hàng ngày là xử lý thông tin để phục vụ ra quyết định. Hiệu quả quản lý nhà nước gắn với chất lượng xử lý thông tin và ra quyết định. Khi phát triển CNTT toàn bộ cấu trúc thông tin, phương pháp tổ chức, xử lý, diễn đạt thông tin chuyển dần từ dạng tương tự (analog) sang số hoá (digital) nên nó kéo theo sự thay đổi thói quen làm việc của con người vốn nhiều năm tiếp xúc với các tập tài liệu, sổ sách, báo cáo nay chuyển dần sang sử dụng bàn phím, con chuột và màn hình, phối hợp với nhau trên mạng máy tính. Những ưu việt mà hệ thống thông tin số hoá mang lại là tuyệt đối nhưng thay đổi thói quen cần một quá trình. Từ đây, cách tiếp cận thích hợp là đi từ thấp lên cao, từ tổng thể đến chi tiết, từ môi trường thông tin đến môi trường làm việc chuyên nghiệp. Tuỳ điều kiện riêng ở mỗi địa phương, quá trình này diễn ra từ một vài năm đến năm bẩy năm hoặc lâu hơn. Mỗi năm kinh phí tin học hoá dành cho một sở trung bình chỉ vài chục triệu, vậy mà kéo dài nhiều năm thì các công ty tin học không đủ kiên nhẫn theo đuổi. Qua đây chúng ta thấy rõ đây là quá trình này phải có tính tự thân hơn là nhập cảng. Thực tiễn cho thấy, bắt đầu từ môi trường thông tin thân thiện để từng bước làm quen là cách tiếp cận mềm dẻo nhất. Cách tiếp cận này còn có tên khác là phương pháp "thang cuốn".
  3. Tổ chức quản lý phát triển CNTT như thế nào là hợp lý?

     Hiểu theo đúng tinh thần của Chỉ thị 58 thì ứng dụng và phát triển CNTT là nhằm "giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá...”. Điều này khẳng định một nhiệm vụ chính trị đặc biệt hơn là ứng dụng một công nghệ. Như vậy, việc tổ chức quản lý phát triển CNTT có tầm quan trọng quyết định sự thành bại của chương trình. Ở một số ít địa phương (như Thừa Thiên Huế chẳng hạn) việc chủ tịch UBND tỉnh trực tiếp làm trưởng Ban Chỉ đạo phát triển CNTT mang lại nhiều lợi thế trong tổ chức triển khai, đặc biệt là trong việc thông qua các chính sách và điều động các nguồn lực. Chúng ta có thể so sánh quá trình xây dựng và phát triển website ở các tỉnh làm ví dụ. Ở những địa phương nào lãnh đạo UBND tỉnh trực tiếp chủ trì thì nội dung website phong phú hơn, khả năng "sống" cao hơn vì các sở, ngành, địa phương tham gia rộng hơn, trực tiếp hơn và có trách nhiệm hơn.

     Thực tiễn cũng cho thấy, một Ban Chỉ đạo phát triển CNTT có cơ cấu “mặt trận” trong thành phần không phát huy được tác dụng tốt bằng cơ cấu “thạo việc”, một Ban Chỉ đạo “thiên về kỹ thuật” cũng hoạt động kém hiệu quả hơn là "thiên về quản lý". Lúc đầu, ai cũng có ý nghĩ rằng ứng dụng và phát triển CNTT vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá chỉ có các nhà kỹ thuật làm được. Về sau mới rõ là ngược lại, vận mệnh này nằm trong tay các nhà quản lý, nhà kỹ thuật chỉ cung cấp phương tiện mà thôi.
  4. Về tổ chức lực lượng CNTT trong tỉnh và hướng phát triển

     Kết quả và trạng thái phát triển CNTT ở các địa phương cho thấy nơi nào có lực lượng CNTT mạnh thì phát triển nhanh, chủ động và ngược lại. Người ta thấy trong sự phát triển khá vững vàng về CNTT ở Đà Nẵng và Thừa Thiên Huế có sự đóng góp to lớn của Trung tâm Công nghệ Phần mềm (Softech), Trung tâm Tin học VP UBND thành phố Đà Nẵng và Trung tâm Công nghệ Phần mềm (Huesoft), Công viên phần mềm Thừa Thiên Huế. Những nơi không có lực lượng phát triển CNTT của riêng mình thường rơi vào trạng thái thụ động vì phụ thuộc vào lực lượng bên ngoài và do đó, tiến độ sẽ rất chậm.

     Phương pháp phát triển lực lượng CNTT nội tại nhanh nhất là tiếp nhận chuyển giao công nghệ. Tổ chức một lực lượng gồm những người am hiểu nhất về CNTT từ các sở, ngành, địa phương rồi tổ chức học tập, nắm bắt những giải pháp công nghệ được chọn lọc từ các ứng dụng thành công ở nơi khác là cách tiết kiệm nhất. Trong tin học hoá quản lý hành chính nhà nước, chúng tôi cho rằng việc nghiên cứu kinh nghiệm của sở Kế hoạch - Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh để rút ra bài học cho mình, từ đó tìm ra lộ trình tin học hoá là con đường ngắn hơn là tự làm từ đầu đến cuối. Nhiều người ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng trong quá trình tin học hoá từ năm 1996 đến nay tại sở này, 70% khối lượng công việc tập trung vào vấn đề tổ chức, chỉ có 30% là dành cho tin học! Tất nhiên, việc đào tạo cơ bản cho lực lượng CNTT của tỉnh luôn luôn là cần thiết để đảm bảo sự phát triển lâu dài và bền vững. Một nhân tố quan trọng là địa phương nên tìm và mời chuyên gia tư vấn có kinh nghiệm để chọn được lộ trình phát triển hợp lý cho mình.
  5. Kinh nghiệm đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở một số địa phương, cách nào hiệu quả?

     Trước tiên cần xác định rõ đối tượng cần đào tạo là ai? Nhiều nơi quan niệm rằng đào tạo về CNTT thì đối tượng là các cán bộ chuyên trách tin học của các sở ngành, địa phương. Thực ra thì đó chỉ là một trong bốn đối tượng cần đào tạo và mỗi đối tượng thì nội dung và yêu cầu đào tạo lại khác nhau.

     Cán bộ quản lý: là đối tượng đào tạo đầu tiên và quan trọng nhất vì họ có hiểu thì mới quyết được. Nội dung chính phục vụ đối tượng này là nâng cao nhận thức, cụ thể là CNTT sẽ giúp ích gì cho họ trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình. Nếu tường trình được một cách thuyết phục CNTT có thể trở thành động lực phát triển ngành mà họ quản lý (hay cả xã hội) như thế nào thì họ sẽ nhận ra rằng CNTT là phương tiện giúp họ quản lý tốt nhất, là cái dành cho họ. Lúc đó họ sẽ chủ động nắm lấy.

     Cán bộ nghiệp vụ: là đối tượng quyết định sự thành bại của ứng dụng CNTT vào thực tiễn vì họ là những người trực tiếp sử dụng những công cụ và phương tiện mà CNTT mang lại vào công việc hàng ngày. Đây là lực lượng đông đảo nhất, có chuyên môn đa dạng và phong phú nhất. Việc đào tạo CNTT cho đối tượng này không nhằm trang bị cho họ một chuyên môn mới mà là bồi dưỡng cho họ những kỹ năng CNTT thích hợp phục vụ họ như phương tiện để thực hiện tốt hơn nghiệp vụ của mình.

     Đối tượng thứ ba là lực lượng phát triển CNTT chuyên trách của địa phương mà chúng ta vừa đề cập ở trên.

     Đối tượng cuối cùng là cả xã hội. Trình độ CNTT phổ cập trong xã hội quyết định trình độ CNTT của quốc gia (hay địa phương). Phương pháp xã hội hoá các tri thức CNTT cơ bản nhanh nhất là việc phổ cập sử dụng thư điện tử (email) và cao hơn là khai thác Internet. Các bài học phổ cập kiến thức CNTT qua truyền hình thực sự mang lại kết quả tốt. Nếu các bài này được ghi hình hay điện tử hoá trên CD-ROM để phổ bến rộng rãi đến các trung tâm học tập cộng đồng thì sẽ hữu ích hơn nữa.
  6. Xây dựng và áp dụng quy chế như thế nào trong phát triển CNTT? Trách nhiệm, quyền hạn, quyền lợi của các cá nhân tham gia.

     Nhiều địa phương có chính sách thu hút nhân tài về CNTT nhằm tăng tốc việc ứng dụng CNTT của mình. Tuy thế, chính sách đãi ngộ mỗi nơi một khác, vậy thế nào và phù hợp? Đa phần các cán bộ tham gia quản lý hay thực hiện các dự án CNTT ở địa phương là bán chuyên trách, vậy chế độ bồi dưỡng thế nào là hợp lý?

     Đối với việc thu hút nhân tài: các tỉnh, thành phố như Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương... đều áp dụng chính sách này. Mức hưởng thụ mỗi nơi một khác (mức lương, thưởng, nhà ở, phương tiện...) vì dựa vào điều kiện riêng của mình. Ở đây, tính cân đối giữa thu nhập của người được hưởng ưu đãi với cán bộ cùng cấp ở địa phương và hiệu quả làm việc so với mức ưu đãi luôn luôn là thước đo chính để thiết lập quy chế riêng của mỗi địa phương. Trong số những người được mời về làm cho địa phương, nhân vật “đầu tầu” có vai trò đặc biệt quan trọng. Chính nhân vật này sẽ dần dần tìm ra các cộng sự tốt nhất cho mình. Phẩm chất quý nhất của nhân vật "đầu tầu" này là khả năng tổ chức và quan hệ chứ không hẳn là trình độ chuyên môn. Theo chúng tôi biết, Đà Nẵng và Thừa Thiên Huế là hai nơi gặt hái được thành công trong việc lựa chọn này.

     Đối với các cán bộ bán chuyên trách: Các cán bộ quản lý được bồi dưỡng từ chi phí quản lý trích từ tổng giá trị đầu tư cho dự án. Các cán bộ tham gia thực hiện dự án được hưởng bồi dưỡng từ chính chi phí triển khai thực hiện dự án theo dự toán được duyệt. Những địa phương phát huy tốt việc huy động lực lượng triển khai thường giải quyết tốt yêu cầu xây dựng bảng phân công trách nhiệm, quyền hạn, quyền lợi của một tập thể và cá nhân tham gia thực hiện các dự án CNTT của địa phương. Ở Đà Nẵng và Thừa Thiên Huế, các nội dung ứng dụng và phát triển CNTT được giao cho lực lượng nòng cốt về CNTT của mình thực hiện trong sự phối hợp với các đối tác chọn lọc bằng những yêu cầu rất chặt chẽ chứ không phải mọi thứ đều đấu thầu. Điều này có lợi là tạo điều kiện cho nền công nghiệp CNTT của địa phương có điều kiện nảy chồi, phát triển bên cạnh việc đảm bảo chất lượng nội dung và tính chủ động cho các dự án của địa phương.
  7. Kinh nghiệm xây dựng website ở địa phương? Cái gì khó, cái gì dễ, về nội dung, về cập nhật, về hosting,... vì sao?

     Website thông tin của một là giao diện điện tử của một địa phương với trong nước và quốc tế vì vậy nó đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Một website thành công của một địa phương phải phản ánh được tất cả các thông tin cần diễn đạt của mình, thường xuyên được cập nhật, có tốc độ truy cập cao. Để có một website chuyên nghiệp thì không phải dễ và theo chúng tôi thì cũng không nên bắt buộc phải đạt được ngay từ đầu (vì bất khả thi). Điều quan trọng là mọi người thấy được vị trí của website nằm ở đâu trong tổng thể chung ứng dụng và phát triển CNTT của địa phương. Ai có trách nhiệm cung cấp thông tin để cập nhật, phát triển và cập nhật website bằng công cụ gì, cài đặt và bảo vệ an toàn như thế nào. Chất lượng website phụ thuộc vào ban biên tập. Vì website là một dạng xuất bản điện tử nên cần chú trọng đến kỹ năng biên tập nhiều hơn là kỹ thuật web. Ở nước ta, www.binhthuan.gov.vn là website thông tin của tỉnh Bình Thuận ra đời sớm nhất (1999). Những website cùng loại của các địa phương khác được nhiều người đánh giá có ấn tượng là www.danang.gov.vn, www.thuathienhue.gov.vn, www.tayninh.gov.vn. Về cài đặt, chúng tôi nghĩ rằng Nhà nước nên ưu tiên một hành lang riêng trên cổng Internet quốc gia để đặt tất cả các website họ “.gov.vn” vì đó là các website chính phủ. Như vậy sẽ hiệu quả hơn về nhiều mặt. Trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và thông tin tuyên truyền đối ngoại, tất cả các website của các tỉnh, thành phố trong cả nước đều chưa đáp ứng. Những gì hiện có là một bức tranh chưa hoàn chỉnh và mới chỉ là bước đầu.
  8. Sự khác nhau, giống nhau giữa website của UBND Tỉnh và của Tỉnh uỷ là gì? Giữa hai website này có mối quan hệ tương tác như thế nào?

     Hai website này về mục đích, yêu cầu và nội dung khác hẳn nhau tuy cùng sử dụng chung nhiều nguồn thông tin. Website của UBND tỉnh, thành phố là cổng hành chính điện tử của địa phương, là giao diện thông tin điện tử với trong nước và quốc tế giới thiệu về mọi mặt phát triển kinh tế văn hóa xã hội, hợp tác quốc tế... Website của Đảng bộ địa phương là một thành phần của hệ thống thông tin của Đảng phản ánh sự lãnh đạo của Đảng đối với mọi mặt phát triển của xã hội thông qua các nghị quyết và hoạt động của các cấp uỷ. Nếu không phân biệt rõ thì website này dễ rơi vào tình trạng na ná giống website của chính quyền hoặc khô khan vì toàn các văn kiện. Thực tế cho thấy yêu cầu biên tập tin, bài cho website của Đảng bộ địa phương khó hơn, sâu hơn vì cùng một sự kiện, sự việc diễn ra ở địa phương, bài viết trên website của Đảng bộ phải thể hiện được chất lãnh đạo, hướng dẫn dư luận theo quan điểm của Đảng chứ không thuần tuý đưa lại tin đã công bố trên báo chí. Hơn nữa, do tính tư tưởng, yêu cầu chính trị, cách dùng co chữ, kiểu chữ, phông nền, gam màu... cũng đòi hỏi chặt chẽ hơn. Thực thế cho thấy khi các ban Đảng và cấp uỷ tham gia đều đặn việc cung cấp thông tin thì website của Đảng bộ có khả năng cập nhật tốt hơn.

     Hai website này gắn kết với nhau, tương tác và thống nhất với nhau vì cùng chung một đối tượng phục vụ là xã hội. Tốt nhất là cài đặt cùng một không gian điều khiển có tốc độ truy cập cao và thuận tiện.
  9. Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế địa phương bằng CNTT thật sự là gì?

   Mục đích nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế địa phương là nhằm hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Trước mắt và trực tiếp là AFTA. 6 nước trong khu vực là Singapore, Brunei, Malaysia, Thái Lan, Indonesia và Philippines đã bắt đầu khởi động thị trường AFTA vào đầu 2003 (từ 1/1/2003 các nước này đã hạ thuế nhập khẩu xuống còn 0 – 5%, riêng Singapore là 0%. Việt Nam còn đến 10.523 dòng thuế phải cắt giảm đến mức đó vào 1/1/2006). Họ là các đối thủ và cũng là đối tác của chúng ta. Cần phải biết năng lực cạnh tranh của họ để qua đó xác định điểm mạnh, điểm yếu của mình mà có biện pháp chuẩn bị nếu không thì chúng ta sẽ "thua ngay trên sân nhà". Các sự kiện tranh chấp thương hiệu về thuốc là Vinataba, cà phê Trung Nguyên, võng xếp Duy Lợi... và nổi bật hơn cả là vụ kiện về cá basa là những bài học về thông tin hội nhập. Thiếu thông tin là bức xúc lớn nhất. Tuy nhiên, đây lại là lĩnh vực ứng dụng CNTT đơn giản nhất vì thật ra phần lớn chúng có mặt trên Internet.

   Chúng tôi cho rằng, ứng dụng CNTT nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế địa phương nên tập trung vào 3 vấn đề lần lượt là:

   * Phát triển thông tin hội nhập kinh tế quốc tế: Thu hút đầu tư nước ngoài, thu hút du lịch, tiếp nhận chuyển giao công nghệ, xác định sản phẩm đặc trưng, đăng ký và bảo vệ thương hiệu, chủ động hội nhập khu vực và quốc tế, khai thác triệt để môi trường thông tin điện tử Internet trong tuyên truyền và chủ động hội nhập.
   * Hiện đại hoá sản xuất , cung cấp dịch vụ và nâng cao trình độ quản lý: Ứng dụng các hệ thống CNTT trong điều khiển quá trình sản xuất, quản lý sản xuất kinh doanh (mô hình ERP được xem là triệt để nhất).
   * Tiếp cận kinh tế điện tử: Từng bước tiếp cận nền kinh tế tri thức, nhanh chóng khai thác những khả năng trong khả năng như thực hiện thương mại điện tử qua Internet. Trong lĩnh vực này, các nhà nghỉ cao cấp (resorts) ở Mũi Né, Bình Thuận tỏ ra là những người nhanh nhạy nhất. Các website
     www.saigonmuineresort.com, www.victoria.com,... đã trở thành giao diện trực tiếp với khách hàng trên khắp thế giới. Du khách có thể chọn dịch vụ, đặt phòng, mặc cả và thanh toán qua Internet.

 10. Hiện đại hoá giáo dục ở địa phương cách nào nhanh?

   Có thể nói, giáo dục là lĩnh vực chịu ảnh hưởng nhanh nhất và gặt hái được nhiều nhất các thành tựu của CNTT. Với CNTT, thông tin giáo dục được chuyển tải dưới dạng số hoá, được tổ chức trong các cơ sở dữ liệu như nguồn tài nguyên thông tin giáo dục mới và dược diễn đạt sinh động bằng công nghệ đa phương tiện (multimedia), tất nhiên là với vai trò chủ động của giảng viên. Từ đây, ứng dụng và phát triển CNTT trong giáo dục là động lực để tiến tới nền giáo dục điện tử (e-education). Khả năng chuyển tải và diễn đạt thông tin số hoá dẫn đến sự thay đổi về lượng (ví dụ, sách điện tử có thể “dầy” hàng triệu trang, còn sách in thì không). Tuy vậy, điều đáng nói là sự thay đổi về lượng đó đã làm thay đổi phương pháp giáo dục, cụ thể là làm thay đổi về chất. Hiệu quả của phương pháp giáo dục truyền thống chủ yếu dựa vào sự hiểu biết của người thầy theo nghĩa thầy truyền sự hiểu biết của mình cho trò. Với phương pháp giáo dục điện tử, thông tin – tri thức giáo dục nhiều đến mức thầy không thể nào nắm bắt và hiểu rõ hết được, nhưng thầy lại có thể hướng dẫn cho trò cách tiếp thu các tri thức đó. Vai trò của thầy giáo chuyển dịch sang vị trí người hướng dẫn hay huấn luyện viên.

   Khi đã đạt đến trình độ giáo dục điện tử thì môi trường thông tin giáo dục đã được tích hợp trong môi trường thông tin xã hội. Bởi thế, học sinh không chỉ có các thầy, cô giáo ở trường trực tiếp hướng dẫn mà còn có một số lượng "thầy ảo" vô cùng đông đảo trên mạng thông tin. Họ có thể làm việc trong lĩnh vực giáo dục, cũng có thể ở các ngành khác. Đây là tính chất "xã hội học tập" mà chỉ nền giáo dục điện tử mới có.

   Cách tiếp cận nền giáo dục điện tử nhanh nhất là phổ cập sử dụng Internet trong giáo dục, nhanh chóng ứng dụng các phần mềm giáo dục, đưa vào tay học sinh những gì thật đơn giản như sử dụng thư điện tử, truy cập Internet, tra cứu thông tin trên mạng, đọc sách ở các thư viện điện tử,... Bồi dưỡng CNTT cho đội ngũ giáo viên, xây dựng intranet giáo dục, xây dựng hệ thống website giáo dục, kết nối và khai thác Internet, ứng dụng các phần mềm giáo dục... là những công việc trước mắt của ácc địa phương.

   Nguyễn Tuấn Hoa
   Viện Công nghệ Viễn thông, Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ quốc gia.